Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Kinh nghiệm nâng cao hiệu quả học tập cho học sinh thông qua hướng dẫn giải quyết các tình huống có vấn đề trong giờ học vật lý ở trường THPT quảng xương 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.07 KB, 20 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT QUẢNG XƯƠNG 4

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

KINH NGHIỆM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HỌC TẬP CHO
HỌC SINH THÔNG QUA HƯỚNG DẪN GIẢI QUYẾT CÁC
TÌNH HUỐNG CÓ VẤN ĐỀ TRONG GIỜ HỌC VẬT LÝ Ở
TRƯỜNG THPT QUẢNG XƯƠNG 4

Người thực hiện: Bùi Thị Quỳnh Hương
Chức vụ: Tổ trưởng chuyên môn
SKKN thuộc lĩnh vực: Vật lý

THANH HÓA, NĂM 2017


MỤC LỤC
A.
I.
II.
III.
IV.
B.
I.
II.
III.
1.
2.
3.
4.


5.
C.

Phần mở dầu………………………………………………………………2
Lý do chọn đề tài………………………………………………………2
Đối tượng nghiên cứu………………………………………………....2
Phạm vi nghiên cứu………………………………………………........2
Phương pháp nghiên cứu…………………………………………........2
Phần nội dung………………………………………………………….….2
Cơ sở lí luận……………………………………………………….…..2
Thực trạng vấn đề……………………………………………………..3
Các giải pháp…………………………………………………………..4
Tổ chức tình huống học tập có vấn đề……………………………………4
Tổ chức học tập theo nhóm……………………………………………….6
Các cách hướng dẫn học sinh giải quyết tình huống có vấn đề…………..7
Vận dụng dạy một bài học cụ thể……………………………………….10
Kết quả…………………………………………………………………..16
Kết luận………………………………………………………………….16

Tài liệu tham khảo………………………………………….…………………..18

A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Điều 28.2 của Luật giáo dục đã ghi “Phương pháp giáo dục phổ thông phải
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc
2


điểm của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm
việc theo nhóm, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động

đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”.
Trong năm học 2016 – 2017 qua thực tế giảng dạy tôi thấy khả năng giải
quyết vấn đề, làm việc theo nhóm của học sinh chưa tốt, chưa thực sự hiệu quả
trong các giờ học.
“Nâng cao hiệu quả học Vật Lý cho học sinh trường THPT Quảng Xương 4
thông qua việc hướng dẫn học sinh giải quyết vấn đề trong các giờ học” nhằm
đưa ra các giải pháp giúp học sinh học tập một cách hiệu quả trong các giờ học
góp phần nâng cao chất lượng học Vật Lý cho học sinh.
II. Đối tượng nghiên cứu
Việc học Vật Lý của học sinh trường THPT Quảng Xương 4.
III. Phạm vi nghiên cứu
Học sinh trường THPT Quảng Xương 4
IV. Phương pháp nghiên cứu
1.
2.
3.

Đọc tài liệu xây dựng cơ sở lí luận của đề tài
So sánh đối chiếu kết quả
Tạo tình huống có vấn đề, phối hợp các phương pháp nhận thức trực
quan, phân tích, thảo luận nhóm, trình chiếu, tổ chức thi đua giữa các
nhóm,… nhằm phát huy tối đa tính tích cực chủ động của học sinh
trong quá trình học tập
B. PHẦN NỘI DUNG

I. Cơ sở lí luận
Tâm lí học đã khẳng định: Năng lực nhận thức của con người được hình
thành qua chính hoạt động nhận thức. Các nhà khoa học cũng đã khẳng định:
Dạy khoa học nào thì cách tốt nhất là sử dụng chính các phương pháp nhận thức
của khoa học đó. Từ đó có thể khẳng định: dạy học hướng tới hình thành năng

lực nhận thức cần phải thông qua hoạt động nhận thức cho học sinh. Tổ chức
hoạt động nhận thức cho học sinh cần phải tôn trọng những bước đi cơ bản trong
3


hoạt động nhận thức khoa học Vật lý, phải sử dụng các phương pháp phổ biến
của khoa học Vật lý.
Hoạt động nhận thức của con người chỉ thực sự bắt đầu khi con người gặp
phải mâu thuẫn: một bên là trình độ hiểu biết đang có, bên kia là một nhiệm vụ
mới phải giải quyết một vấn đề mà những kiến thức, kỹ năng đã có không đủ.
Để giải quyết được nhiệm vụ nhận thức mới, khắc phục được mâu thuẫn trên thì
phải xây dựng được kiến thức mới, phương pháp mới, kỹ năng mới.Như vậy
hoạt động nhận thức của học sinh trong học tập thực chất là hoạt động giảiquyết
vấn đề nhận thức.
Có một số phương pháp nhận thức được dùng phổ biến trong dạy học Vật
lý như phương pháp thực nghiệm, phương pháp thí nghiệm lý tưởng, phương
pháp tương tự, phương pháp mô hình…mỗi phương pháp nhận thức đó thích
hợp cho một số trường hợp cụ thể và chúng luôn luôn được sử dụng hỗ trợ, phối
hợp lẫn nhau. Tuy nhiên, để cho việc sử dụng các phương pháp dạy học Vật lý
đạt hiệu quả chúng ta cần nghiên cứu quá trình tổ chức hướng dẫn học sinh giải
quyết vấn đề. Quá trình học tập là quá trình liên tiếp giải quyết các vấn đề học
tập.
II. Thực trạng vấn đề
Trường THPT Quảng Xương IV là trường thuộc vùng bãi ngang ven biển
đặc biệt khó khăn, đầu vào của học sinh thấp,học sinh không thể hoàn toàn tự
lực xây dựng kiến thức khoa học các em cần có sự giúp đỡ của giáo viên, sự
giúp đỡ không phải là giảng giải, cung cấp cho học sinh những kiến thức có sẵn
mà tạo điều kiện để học sinh có thể trải qua những giai đoạn chính của quá trình
giải quyết vấn đề, tự lực thực hiện một số khâu trong tiến trình đó, động viên
khuyến khích học sinh kịp thời. Như vậy quá trình học tập của học sinh thực

chất là quá trình hoạt động tự lực trong sự phối hợp của tập thể lớp và sự giúp
đỡ của giáo viên liên tiếp giải quyết những vấn đề do nhiệm vụ học tập đề ra.
Kết quả của quá trình giải quyết vấn đề là học sinh chiếm lĩnh được kiến thức và
phát triển được năng lực của mình.
4


Làm thế nào để tạo ra các tình huống có vấn đề trong giờ học Vật lý?
Làm thế nào để giúp học sinh giải quyết tốt các tình huống tạo ra để giờ học
thực sự hiệu quả theo đúng mục tiêu giáo dục?
III. Các giải pháp
1. Tổ chức tình huống học tập có vấn đề
Tổ chức tình huống học tập thực chất là tạo ra hoàn cảnh để học sinh tự
nhận thức được vấn đề cần giải quyết, có nhu cầu, hứng thú giải quyết vấn đề,
biết được mình cần phải làm gì và sơ bộ xác định được làm như thế nào
Giáo viên cần thiết kế bài học thành chuỗi những tình huống học tập liên
tiếp, được xắp xếp theo một trình tự hợp lí của sự phát triển vấn đề cần nghiên
cứu nhằm đưa học sinh tiến dần từ chỗ chưa biết đến biết, từ biết chưa đầy đủ
đến biết đầy đủ nhằm nâng cao dần năng lực hiểu biết của học sinh
Quy trình tổ chức tỉnh huống học tập trong lớp có thể gồm các giai đoạn
chính sau đây:
Giáo viên mô tả một hoàn cảnh cụ thể mà học sinh có thể cảm nhận được
bằng kinh nghiệm thực tế, biểu diễn một thí nghiệm hoặc yêu cầu học sinh làm
một thí nghiệm đơn giản để làm xuất hiện vấn đề cần nghiên cứu.
Giáo viên yêu cẩu học sinh mô tả lại hoàn cảnh hoăc hiện tượng bằng
chính lời lẽ của mình theo ngôn ngữ vật lí.
Giáo viên yêu cầu học sinh dự đoán sơ bộ hiện tượng xảy ra trong hoàn
cảnh đã mô tả hoặc giải thích hiện tượng đã quan sát được dựa trên những kiến
thức và phương pháp đã có từ trước.
Như vậy, tình huống học tập xuất hiện khi học sinh nhận thức được rõ ràng

nội dung, yêu cầu của vấn đề cần giải quyết và bước đầu nhận thấy mình có khả
năng giải quyết vấn đề nếu cố gắng suy nghĩ và tích cực hoạt động.
Một số loại tình huống học tập có vấn đề:
a. Tình huống lựa chọn: làm cho học sinh ở tình thế phải lựa chọn một
trong nhiều phương án khác nhau mà thoạt nhìn, phương án nào cũng có tính
hợp lý nhất định nhưng trong đó chỉ có một là phương án đúng. Tình huống này
5


học sinh phải sử dụng nhiều nhất trong khi làm bài thi vì các em thi theo hình
thức trắc nghiệm khách quan.
b. Tình huống bất ngờ: làm cho học sinh không ngờ rằng các sự kiện lại
xảy ra trái với những suy nghĩ, những dự đoán “thông thường” của mình. Từ đó
nảy sinh nhu cầu tìm hiểu, giải thích vấn đề.Tình huống này thường dẫn đến
việc xây dựng hình thành các kiến thức mới.
Ví dụ: Tại sao có thể sản xuất thuốc viên bằng cách nghiền nhỏ dược phẩm
rồi cho vào khuôn nén mạnh? Nếu bẻ đôi viên thuốc rồi dùng tay ép sát hai
mảnh lại thì 2 mảnh không thể dính liền với nhau?Tại sao? Kết quả đặt học sinh
vào tình huống bất ngờ không lường trước được,vì vậy phải tìm cách giải quyết.
c. Tình huống bế tắc: Làm cho học sinh lúng túng, bế tắc, không biết dùng
kiến thức nào, cách nào đã biết để giải quyết vấn đề nên cần phải tìm những cái
mới để giải quyết. Tình huống này thường dẫn đến việc xây dựng kiến thức,
phương pháp mới.
Ví dụ: Cho học sinh tính công của lực F = 100 N khi kéo một vật đi được
quãng đường S = 10m khi hướng của lực trùng với hướng của đường đi. Saukhi
có kết quả, cho học sinh tính tiếp công của lực này khi nó hợp với hướngcủa
đường đi một góc 300 Tình huống này làm học sinh lúng túng vì kiến thức cũ chỉ
ứng với trường hợp đặc biệt mà học sinh đã biết ở lớp dưới. Cần phải mở rộng
kiến thức cũ để xây dựng kiến thức mới tổng quát hơn.
d. Tình huống không phù hợp: làm cho học sinh băn khoăn, nghi ngờ

những sự kiện gặp phải vì chúng trái với những tiêu chuẩn, những qui tắc đã
được rút ra từ một điều khẳng định nào đó trước đấy. Do đó cần phải tìm hiểu cả
những sự kiện mới lẫn những tiêu chuẩn đã có để tìm chân lý. Tình huống này
thường dẫn đến việc lựa chọn, hoàn thiện hoặc phải xây dựng kiến thức mới.
Ví dụ: Dùng một lực kế kéo một khúc gỗ theo phương nằm ngang nhưng
không làm khúc gỗ chuyển động. Số chỉ của lực kế cho biết khúc gỗ chịu tác
dụng của lực nhưng không thu gia tốc. Điều này trái với định luật II Niutơn đã
học. Tình huống này dẫn đến việc khảo sát kiến thức về lực ma sát nghỉ.
6


e. Tình huống phán xét: Làm cho học sinh thấy cần thiết phải xem xét,
kiểm tra lại các cơ sở làm căn cứ giải thích một sự kiện nào đó. Tình huống này
thường dẫn đến việc hợp thức hóa các kiến thức đang xây dựng.
Ví dụ: Trong các trường hợp nào sau đây, khái niệm công có nội dung đúng
như đã học:
- Khi ô tô đang chạy động cơ ô tô sinh công
- Ngày công của 1 lái xe là 50.000đồng
- Có công mài sắt, có ngày nên kim
- Công thành danh toại
Tình huống này đặt vấn đề cho việc tìm hiểu định nghĩa công
f. Tình huống bác bỏ: Làm cho học sinh thấy rằng cơ sở để giải thích một
sự kiện nào đó có những vấn đề sai lầm, có những mâu thuẫn nội tại… và do đó
cần phải bác bỏ nó để tìm một cơ sở khác có những lôgic chặt chẽ hơn. Tình
huống này thường dẫn đến việc bác bỏ kiến thức không hợp thức, xây dựng kiến
thức thay thế.
Ví dụ: Xét trường hợp con ngựa kéo xe. Theo định luật III Niutơn khi đó xe
cũng tác dụng vào con ngựa một lực bằng độ lớn và ngược chiều. Tại sao con
ngựa không bị xe kéo ngược lại mà chỉ có xe chuyển động theo con ngựa. Tình
huống này dẫn đến việc cần bổ sung kiến thức về lực ma sát nghỉ để có thể giải

thích đầy đủ về hiện tượng này.
2. Tổ chức học tập theo nhóm
Để phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong việc chiếm lĩnh tri
thức chúng ta có thể phối hợp phương pháp hoạt động nhóm trong kiểu dạy học
giải quyết vấn đề.
Các bước tiến hành tổ chức học tập theo nhóm có thể như sau:
Làm việc chung cả lớp: GV nêu vấn đề, xác định nhiệm vụ nhận thức, chia
lớp thành các nhóm, giao nhiệm vụ cho từng nhóm và hướng dẫn gợi ý cho mỗi
nhóm các vấn đề cần lưu ý khi trả lời câu hỏi, hoàn thành bài tập.

7


Làm việc theo nhóm: Phân công trong nhóm (cử nhóm trưởng, thư kí, phân
việc cho các thành viên trong nhóm). Từng cá nhân làm việc độc lập, sau đó
thảo luận trong nhóm và cùng nhau hoàn thành nhiệm vụ của nhóm. Mỗi nhóm
cử đại diện trình bày kết quả làm việc của nhóm (không nhất thiết phải là nhóm
trưởng hay thư kí mà có thể là một thành viên bất kì của nhóm).
Làm việc chung cả lớp: (thảo luận tổng kết trước toàn lớp) Các nhóm lần
lượt báo cáo kết quả và thảo luận chung (các nhóm nhận xét, đóng góp ý kiến và
bổ sung cho nhau). GV tổng kết và chuẩn xác kiến thức.
Tổ chức cho HS học tập theo nhóm ngay tại lớp bị hạn chế bởi không gian
chật hẹp của lớp học, bởi thời gian hạn định của tiết học nên GV phải biết tổ
chức hợp lí mới có hiệu quả. Không nên lạm dụng các hoạt động nhóm và cần
đề phòng xu hướng hình thức. Ở trường THPT mỗi tiết học chỉ nên tổ chức từ 1
đến 2 hoạt động nhóm đối với những câu hỏi, vấn đề đặt ra khó và phức tạp, đòi
hỏi phải có sự hợp tác giữa các cá nhân mới hoàn thành nhiệm vụ. Trong hoạt
động nhóm, tư duy tích cực của HS phải được phát huy và ý nghĩa quan trọng
của nó là rèn luyện năng lực hợp tác giữa các thành viên trong tổ chức lao động.
3. Các cách hướng dẫn học sinh giải quyết tình huống có vấn đề

a. Hướng dẫn tìm tòi quy về kiến thức, phương pháp đã biết
Khi học sinh mới tiếp xúc với vấn đề cần giải quyết, không thấy ngay mối
quan hệ của nó với những cái đã biết, không thể áp dụng ngay một quy tắc, một
định luật hay một cách làm đã biết, mà phải tìm tòi bằng phương pháp phân tích,
tổng hợp, so sánh để tìm ra những dấu hiệu tương tự với cái đã biết.
Nhiều hiện tượng vật lý được nêu ra với ngôn ngữ đời sống hàng ngày.
Phải hướng dẫn học sinh biết chuyển từ ngôn ngữ đời sống sang ngôn ngữ vật lý
thì mới có thể áp dụng được các kiến thức vật lý đã biết
Ví dụ: Giải thích hiện tượng khi người ngồi trên xe đang chạy, đột nhiên
tài xếhãm phanh đột ngột thì người ngồi trên xe lại bị ngã về phía trước.Giáo
viên hướng dẫn học sinh chuyển sang ngôn ngữ vật lý. Người và xe chuyển

8


động với cùng tốc độ, khi xe giảm tốc độ đột ngột thì người vẫn tiếp tục chuyển
động về phía trước.
Từ cách hiểu theo ngôn ngữ vật lý, học sinh có thể sử dụng kiến thức về
quán tính để giải thích hiện tượng trên.
Hướng dẫn học sinh phân tích một hiện tượng vật lý phức tạp bị chi phối
bởi nhiều nguyên nhân thành những hiện tượng đơn giản, chỉ bị chi phối bởi một
nguyên nhân, một định luật đã biết.
Ví dụ: Một hòn bi được thả không vận tốc đầu trên một máng nghiêng tại
vị trí có độ cao h so với mặt phẳng ngang, đến cuối máng nghiêng, hòn bi tiếp
tục đi lên một máng hình tròn có bán kính r nằm trong mặt phẳng thẳng đứng.
Tìm độ cao h tối thiểu để hòn bị có thể đi qua vị trí cao nhất của vòng tròn mà
không chạm vào vòng, coi ma sát không đáng kể.
Hướng dẫn học sinh: Cần giúp học sinh đi đến nhận định viên bi có thể đi
đến vị trí cao nhất của vòng tròn khi có vận tốc v cần thiết ở độ cao 2r và có
lực hướng tâm đủ để hòn bi chuyển động tròn.

Giáo viên đặt hệ thống câu hỏi sau:
Bi muốn chuyển động trên quỹ đạo tròn với vận tốc v thì phài có điều kiện
gì câu hỏi này giúp học sinh nhớ lại kiến thức chuyển động tròn và công thức độ
lớn lực hướng tâm.
Ở điểm cao nhất của vòng tròn có những lực nào tác dụng lên bi và lực
hướng tâm tại điểm này tính thế nào?
Tại điểm cao nhất có hai lực tác dụng lên hòn bi là trọng lực của viên bi
và phản lực của vòng tròn
Vận tốc v của viên bi do đâu mà có?
Do hòn bi được thả từ độ cao h sau đó tiếp tục đi lên
Định luật nào chi phối sự biến đổi vận tốc viên bi khi thay đổi độ cao h?
Định luật bảo toàn cơ năng chi phối chi phối sự biến đổi vận tốc viên bi
theo độ cao h . Áp dụng định luật bảo toàn cơ năng cho vị trí bắt đầu thả vật và
vị trí cao nhất của vòng tròn: mgh= mg2r + ( 1)
9


Ở điểm cao nhất để bi không chạm vào vòng cần điều kiện gì?
Phản lực của mặt tiếp xúc bằng 0 (N=0) khi đó chỉ có trọng lực của viên bi
đóng vai trò lực hướng tâm: P= Fht
Từ (1) và (2) ta có:

(2)

h =

b. Hướng dẫn học sinh tìm tòi sáng tạo từng phần
Cách hướng dẫn này thường được sử dụng khi nghiên cứu tài liệu mới, học
sinh được giao nhiệm vụ phát hiện những tính chất mới, những mối liên hệ có
tính quy luật mà trước đây học sinh chưa biết hoặc chưa biết đầy đủ.Thông

thường, trong khi tìm tòi giải quyết một vấn đề mới, học sinh không phải hoàn
toàn bế tắc ngay từ đầu hoặc bế tắc trong toàn bộ tiến trình giải quyết vấn đề.
Trong khi lập luận để giải quyết vấn đề có nhiều phần sử dụng những kiến thức
cũ, phương pháp cũ thành công, chỉ đến phần nào đó mới bế tắc, đòi hỏi phải
tìm cái mới thực sự.
Ví dụ: Khi nghiên cứu định luật bào toàn cơ năng ở lớp 10, học sinh đã
biết cách tính động năng và thế năng trong trọng trường và nhận ra rằng: khi
vật rơi tự do thì thế năng giảm và động năng tăng. Vấn đề đặt ra là động năng
và thế năng cùng biến đổi, vậy liệu có đại lượng nào được bảo toàn hay không?
Học sinh đã biết quy luật rơi tự do như vậy có thể tự tính toán động năng
và thế năng của vật tại hai thời điểm khác nhau và chứng minh tổng động năng
và thế năng tại hai thời điểm đó bằng nhau.
c. Hướng dẫn tìm tòi sáng tạo khái quát
Giáo viên chỉ hướng dẫn học sinh xây dựng phương hướng chung giải
quyết vấn đề, còn việc vạch kế hoạch chi tiết và thực hiện kế hoạch đó học sinh
tự làm. Cách hướng dẫn này đòi hỏi ở học sinh không những tính tự lực cao mà
10


còn phải có vốn kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo vững vàng và có một số kinh nghiệm
hoạt động sáng tạo. Nói cách khác cách hướng dẫn này áp dụng cho đối tượng
học sinh khá và giỏi
Ví dụ: khi nghiên cứu kính hiển vi, học sinh đã biết có thể dùng kính lúp để
quan sát ảnh ảo của những vật có kích thước nhỏ, nhưng vấn đề ở đây là số bội
giác của kính lúp có giới hạn, vậy làm thế nào để đạt được số phóng đại lớn
hơn nữa để quan sát được những vật rất nhỏ?
Đến đây học sinh nhận ra rằng phải dùng một dụng cụ mới, dụng cụ này
phải phóng đại ảnh nhiều lần hơn nửa. Để có thể làm được điều này thì dụng cụ
mới có thể phải dùng nhiều hơn một kính lúp.
Giáo viên hướng dẫn học sinh nhớ lại những cách khác nhau để phóng đại

ảnh bằng thấu kính và yêu cầu học sinh đề xuất giải pháp. Học sinh có thể đề
xuất 2 giải pháp sau:
Dùng kính thứ nhất là kính lúp cho ảnh ảo phóng đại rồi tiếp tục dùng kính
lúp thứ hai phóng đại ảnh này lên một lần nữa.
Dùng kính thứ nhất là kính hội tụ cho ảnh thật lớn hơn vật rồi tiếp tục
dùng kính lúp thứ hai phóng đại ảnh này lên một lần nữa.
Giáo viên yêu cầu học sinh tự lực dùng cách vẽ hình để tạo ảnh qua hệ
thống hai kính nói trên, phân tích ưu, nhược điểm của hai giải pháp và chọn
giải pháp có lới hơn.
4. Vận dụng dạy một bài học cụ thể: Sự rơi tự do (vật lí 10 cơ bản)
a. Xác định vấn đề cần giải quyết
Sách giáo khoa đưa bài rơi tự do ngay sau bài chuyển động thẳng biến đổi
đều để chúng ta có thể áp dụng ngay các kiến thức đã học trong bài trước vào
bài mới như một cách khắc sâu và vận dụng kiến thức cũ linh hoạt, đồng thời
trong bài mới chúng ta cũng cần cung cấp cho các em thêm những kiến thức mới
về sự rơi tự do và loại bỏ một số suy nghĩ sai lầm từ trước đối với sự rơi của các
vật trong không khí.
b. Nội dung của bài
11


Tìm hiểu sự rơi của các vật trong không khí. Loại bỏ sai lầm vật nặng luôn
rơi nhanh hơn vật nhẹ.
Tìm hiểu sự rơi của các vật trong chân không: nhận xét đặc điểm sự rơi của
cácvật, nguyên nhân rơi và gia tốc rơi tự do.
Giải được một số bài tập đơn giản về sự rơi tự do.
c. Tổ chức các tình huống học tập và hướng dẫn học sinh giải quết vấn đề học
tập trong 2 tiết học của bài rơi tự do
Tình huống 1:
Trong không khí các vật rơi như thế nào? Yếu tố nào ảnh hưởng đến quá

trình rơi của các vật trong không khí? Khi các vật rơi trong không khí, thông
thường vật nặng rơi nhanh hơn vật nhẹ nhưng trong nhiều trường hợp vật nhẹ lại
có thể rơi nhanh hơn vật nặng, tại sao? (Sử dụng phương pháp thực nghiệm)
GV yêu cầu lớp phân ra thành các nhóm và làm 4 thí nghiệm như trong
SGK rồi trình bày kết quả mà các nhóm tìm được.
Lần TN

Vật làm TN

Kết quả

TN1

Tờ giấy (phẳng) và hòn sỏi

Hòn sỏi rơi nhanh hơn

TN2

Tờ giấy (vo tròn) và hòn sỏi

Rơi nhanh như nhau

TN3

Tờ giấy (vo tròn) tờ giấy (phẳng)

TN4

Viên bi, tấm bìa phẳng đặt nằm ngang




Giấy (vo tròn) rơi
nhanh
Viên bi rơi nhanh

KL: Quá trình rơi phụ thuộc vào sức cản của không khí. Loại bỏ sai lầm
vật nặng luôn rơi nhanh hơn vật nhẹ.

Tình huống 2: Nếu loại bỏ được sức cản của không khí thì các vật rơi
nhanh chậm thế nào? Kiểm chứng bằng cách gì? Môi trường nào thỏa mãn điều
kiện đó? (Giáo viên hướng dẫn tìm tòi sáng tạo từng phần sử dụng phương pháp
thực nghiệm).
12


HS có thể tiên đoán: các vật rơi như nhau nếu loại bỏ được sức cản không
khí. Các em có thể thảo luận tìm ra môi trường lí tưởng mà tại đó không có sức
cản không khí, môi trường “không có không khí” đó chính là chân không.
HS làm thí nghiệm theo nhóm sự rơi trong chân không bằng ống Niu-tơn
và rút ra kết luận.
+ Thả viên bi chì và lông chim cùng rơi trong ống hút hết không khí
(chân không);
+ GV nhận xét kết quả của các nhóm, đồng thời cho các em xem việc các
nhà bác học kiểm chứng việc rơi tự do trong phòng thí nghiệm.
Tình huống 3: Đưa ra định nghĩa về sự rơi tự do. Trong thực tế có thể xem
những vật nào là vật rơi tự do? Tại sao? (Giáo viên hướng dẫn tìm tòi quy về
phương pháp đã biết).
Để hình thành định nghĩa rơi tự do học sinh suy luận khi đã loại bỏ được

sức cản không khí thì vật rơi dưới tác dụng của
lực nào?
Học sinh có thể suy luận rằng vật rơi vì có
lực trái đất hút nó, lực này lớp 8 các em đã
được biết đó là trọng lực. Dẫn đến hình thành
được định nghĩa của sự rơi tự do.
Trong thực tế, để loại bỏ hoàn toàn sức cản
không khí là rất khó, nên những vật rơi mà sức
cản không khí tác dụng lên vật nhỏ hơn trọng
lực của vật rất nhiều lần thì có thể xem là rơi tự
do. Từ kết luận này học sinh cũng dễ dàng chấp
nhận thí ngiệm của Ga-li-lê tại tháp nghiêng
thành Pi-da có thể xem là thí nghiệm rơi tự do.
Tình huống 4: Giáo viên nêu ra tình huống có vấn đề yêu cầu các nhóm
tìm hiểu phương rơi và chiều rơi của sự rơi tự do và trình bày cách lập luận hoặc

13


cách kiểm chứng các kết luận (GV hướng dẫn tìm tòi quy về phương pháp đã
biết).
HS sẽ dễ dàng nhận ra theo cảm tính chiều rơi hướng xuống và phương rơi
thẳng đứng, nhưng phải dùng một cách gì đó chứng minh được điều nhận định
của mình là đúng.
Các em có thể dùng kiến thức đã biết về dây dọi có phương thẳng đứng
Vậy muốn chứng minh phương rơi là thẳng đứng thì cần so sánh phương rơi tự
do với phương của dây dọi.
Học sinh tiến hành treo dây dọi lên, rồi thả một vật rơi tự do thì nhận thấy
vật rơi theo phương của dây dọi. Điều đó giúp ta kết luận phương của vật rơi tự
do là phương thẳng đứng.

Tình huống 5: Làm cách nào để tìm hiểu tính chất chuyển động rơi tự do?
(GV hướng dẫn tìm tòi quy về phương pháp đã biết: Chứng minh được rơi tự do
là một chuyển động thẳng nhanh dần đều).
Đây là một tình huống khó, học sinh khó có thể tự tìm hiểu mà không có
sự trợ giúp của giáo viên và sự làm việc tích cực của cả tập thể.
Giáo viên nhắc lại một đặc điểm của chuyển động thẳng biến đổi đều là
hiệu quãng đường đi được trong hai khoảng thời gian liên tiếp bằng nhau là một
số không đồi để hướng dẫn học sinh giải quyết vần đề này.
Vậy làm thế nào để có thể ghi lại được hình ảnh rơi tự do? Cho học sinh
xem clip kèm theo để có thể hiểu các nhà bác học đã làm thí nghiệm rơi tự do
như thế nào và hiểu phương pháp chụp ảnh hoạt nghiệm.
Giới thiệu với học sinh phương pháp mà các nhà bác học sử dụng là chụp
ảnh hoạt nghiệm.

14


Nêu kết quả của việc chụp ảnh hoạt nghiệm hình 4.3 sgk
Học sinh làm việc nhóm và xử lí kết quả hình 4.3 sgk (phóng lớn) để đi đến
kết luận rơi tự do là một chuyển động thẳng nhanh dần đều.
Vấn đề đặt ra tiếp theo là: làm cách nào để xác định quãng đươc vật rơi
trong hai khoảng thời gian liên tiếp. Nếu lấy một vạch chia nhỏ nhất trên thước
là 0,5 cm, Ta lấy 5 vị trí cuối vì chúng ở khá xa nhau, học sinh có thể dễ dàng
hơn trong việc đo khoảng cách giữa hai vị trí.
Học sinh đo 4 quãng đường đi được liên tiếp trong 1/31s. Ghi nhận vào
bảng:
Quảng đường vật đi được sau 1/31s liên tiếp

Kết quả (cm)


L1
L2
L3
L4
Hiệu quãng đưởng đi được sau những khoảng thời gian bằng nhau là như
nhau chứng tỏ rơi tự do là chuyển động thằng nhanh dần đều.
Tình huống 6: Xây dựng các công thức rơi tự do
Chuyển động rơi tự do là một trường hợp riêng của chuyển động thẳng biến
đổi đều ta cần đi xây dựng những công thức xác định vận tốc, đường đi dùng

15


riêng cho trường hợp rơi tự do (GV hướng dẫn tìm tòi quy về phương pháp đã
biết).
Ở tình huống này học sinh có thể tự lực giải quyết dựa trên nền tảng kiến
thức cũ có chú ý đền đặc điểm của sự rơi tự do:
Chuyển động thẳng
biến đổi đều

Rơi tự do

Vận tốc đầu,

t0 = 0 lúc vật có

t0 = 0 lúc vật có

gốc thời gian


vận tốc đầu v0

vận tốc đầu v0 = 0

S= +

S=

Gia tốc
Vận tốc tại thời điểm t
Quãng đường vật đi được
trong thời gian t
Mối liên hệ giữa vận tốc
và gia tốc

= 2aS

Tình huống 7: Làm cách nào để đo được gia tốc rơi tự do? (GV hướng dẫn
tìm tòi quy về phương pháp đã biết).
Dưa trên những kiến thức đã biết về chuyển động thẳng biến đổi đều, kết
hợp với những kiến thức đã xây dựng được trong bài học sinh có thể nêu các
phương án đo gia tốc rơi tự do.
Một số phương án học sinh đưa ra:


Phương án 1: Ở ảnh hoạt nghiệm 4.3 ta tính được l = 1cm, và biết



thời gian t=s ta tính được gia tốc rơi tự do theo công thức l =

Phương án 2: Nếu đo được quãng đường vật rơi tự do và thời gian
rơi ta có thể tính gia tốc rơi tự do theo công thức S =

Từ phương án 1 học sinh có thể tính ra g = 9,61m/s2

16


Giáo viên giới thiệu bộ thí nghiệm trong bài thực hành để học sinh bước
đầu làm quen và chuẩn bị cho tiết thực hành sau.
5. Kết quả
Bài

Lớp đối chứng

Sự rơi tự do

70% HS hiểu bài

Định luật I Niu-tơn

65% HS hiểu bài

Định luật III Niu-tơn

75% HS hiểu bài

Lực ma sát

70% HS hiểu bài


Lớp thực nghiệm
100% HS hiểu bài,
vận dụng tốt kiến thức
95% HS hiểu bài,
vận dụng tốt kiến thức
95% HS hiểu bài,
vận dụng tốt kiến thức
90% HS hiểu bài,
vận dụng tốt kiến thức

C. KẾT LUẬN
Ngay từ đầu năm học tôi đã vận dụng các giải pháp trên vào một số nội
dung, một số bài học cụ thể và thu được những thành quả đáng khích lệ. Phương
pháp này giúp học sinh nắm vững, đào sâu, mở rộng kiến thức, nhờ vậy mà chất
lượng học tập môn Vật lý được nâng lên, kết quả các lớp tôi giảng dạy sau một
học kì đạt chỉ tiêu mà tôi đã đề ra từ đầu năm học. Các em thực sự yêu thích
môn học, thích tìm tòi khám phá những điều mới mẻ trong từng bài học, việc
học Vật lý trở thành niềm đam mê. Tôi nghĩ rằng "tạo tình huống có vấn đề" là
một nội dung mới phù hợp với triết lý về khoa học và giáo dục hiện đại, có khả
năng rèn luyện tư duy sáng tạo và năng lực tìm kiếm cho người học, đáp ứng
yêu cầu đổi mới giáo dục.
Muốn vận dụng được tốt phương pháp này:
Đối với giáo viên

17





Cần hiểu rõ học sinh, đặc biệt là trình độ phát triển trí tuệ của học
sinh để đưa ra tình huống vừa sức, phù hợp giúp học sinh vừa học



vừa phát triển nhận thức
Cần nghiên cứu kĩ nội dung bài, đưa ra tình huống hấp dẫn, kịch



tính, kích thích sự chú ý của học sinh;
Tổ chức, điều khiển, dẫn dắt, uốn nắn hoạt động nhận thức của tập
thể HS, giúp mọi học sinh trong lớp theo kịp nhịp độ chung, vượt



qua các trở ngại, phối hợp tốt với tập thể để hoạt động nhận thức;
Đánh giá được sư phát triển trí tuê, sự hình thành các kĩ năng thông
qua hoạt động nhận thức để hướng tới sự phát triển cao hơn trong
các giai đoạn học tập tiếp theo của HS.

Đối với học sinh: Cần đọc kĩ nội dung bài học trước ở nhà; ôn lại kiến thức
cũ có liên quan; rèn luyện những kĩ năng, tự điểu chỉnh, tự đánh giá bản thân
trong sự hỗ trợ của bạn bè, của giáo viên và phải tích cực tham gia thảo luận để
giải quyết các tình huống có vấn đề.
Trong quá trinh thực hiện và viết sáng kiến kinh nghiệm này không tránh
khỏi những hạn chế và thiếu sót. Tôi xin chân thành lắng nghe sự đóng góp ý
kiến quý báu của hội đồng khoa học nhà trường, của ngành, của đồng nghiệp.

Thanh Hóa ngày 20 tháng 5 năm 2017

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Tôi xin cam đoan đây là SKKN
của mình, không sao chép nội
dung của người khác.

Bùi Quỳnh Hương

TÀI LIỆU THAM KHẢO
18


1.
2.

SGK và Sách giáo viên vật lí lớp 10 ban cơ bản và ban KHTN, NXB GD
Chuẩn kiến thức kĩ năng Vật lý

3. Tổ chức hoạt động nhận thức cho học sinh trong dạy học vật lý ở trường
phổ thong, Nguyễn Đức Thâm-Nguyễn Ngọc Hưng, NXB ĐH quốc gia Hà
Nội
4. Giáo trình phương pháp dạy học vật lý ĐHSP TP.HCM
5. Cách triển khai phương pháp hoạt động nhóm hiệu quả, nguồn internet

19


DANH MỤC CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG ĐÁNH GIÁ, XẾP LOẠI
Họ và tên tác giả: Bùi Thị Quỳnh Hương

Chức vụ và đơn vị công tác: Tổ trưởng CM Lý – Trường THPT Quảng Xương 4

TT

Tên đề tài SKKN

Kết quả

Năm học

đánh giá,

đánh giá,

xếp loại

xếp loại

Sở GD&ĐT

B

2011-2012

Sở GD&ĐT

C

2012-2013


Sở GD&ĐT

B

2014-2015

Cấp đánh giá,
xếp loại

Phương pháp xử lí các tình
huống sư phạm trong công
1

tác chủ nhiệm lớp nhằm
nâng cao hiệu quả giáo dục
ở trường THPT Quảng
Xương IV
Nâng cao hiệu quả giáo

2

dục kĩ năng sống cho học
sinh lớp 10 trường THPT
Quảng Xương IV
Nâng cao hiệu quả học và
làm bài thi trắc nghiệm

3

môn Vật lý cho học sinh

yếu kém lớp 12 trường
THPT Quảng Xương IV

20



×