Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Vận dụng lý thuyết liên văn bản vào giờ đọc hiểu tác phẩm đây thôn vĩ dạ của hàn mặc tử để đạt hiệu quả cao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (409.97 KB, 17 trang )

MỤC LỤC

Trang


1. MỞ ĐẦU
1.1.Lý do chọn đề tài.
Thực tiễn giảng dạy văn học trong nhà trường đòi hỏi người đọc ngày càng
tự giác đối với cách cảm thụ và lý giải tác phẩm văn học. Đứng trước một tác
phẩm văn học người đọc bao giờ cũng đối diện với một câu hỏi: Tác phẩm nói
gì? Truyền tải đến thông điệp gì? Phản ánh hiện thực cuộc sống và thế giới tâm
trạng ra sao?Thể hiện cảm xúc, và những nỗi niềm kí thác như thế nào? Bằng
những hình thức nào?... Nhất là đối với những tác phẩm thơ trữ tình. Tiếp nhận
thơ trữ tình không chỉ dựa trên mặt cốt lõi là văn bản ngôn từ mà còn phải lý giải
thông qua hệ thống các yếu tố ngoài văn bản khác như tiểu sử tác giả, bút pháp,
trào lưu, hệ thống các biểu tượng... Đó chính là các yếu tố của một chuỗi liên
văn bản.
Văn học và nghệ thuật luôn vận động phát triển không ngừng theo dòng
chảy của lịch sử. Ở mỗi thời đại, người đọc, người học lại có những con đường
riêng để khám phá giá trị của tác phẩm văn học. Trong những năm gần đây, việc
nghiên cứu lý thuyết văn học phương Tây ở Việt Nam đã đạt được nhiều thành
tựu đáng kể. Các vấn đề lý luận mà trước thời kì Đổi mới bị lãng quên nay được
các nhà nghiên cứu xem xét lại một cách khách quan và khoa học. Tuy nhiên,
những thành tựu đó lại chưa thật sự được vận dụng phổ biến vào dạy học ngữ
văn trong nhà trường. Với Sáng kiến kinh nghiệm nhỏ này, tôi muốn thử mạnh
dạn áp dụng lý thuyết Liên văn bản vào giờ đọc – hiểu cụ thể một tác phẩm văn
học trong chương trình Ngữ văn lớp 11 mà tôi đã thực hiện trong năm học vừa
qua.
Trong chương trình trung học phổ thông, thơ của thi sĩ Hàn trích học không
nhiều. nhưng cũng đủ làm xáo động cả một cuốn sách – ngữ văn 11, tập 2.
Chương trình Ngữ văn 11, tập 2, cùng với “Vội vàng” của Xuân Diệu, “Tràng


giang” của Huy Cận,…., “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử đã đưa phong trào
Thơ mới ra mắt bạn đọc thay vì lời giới thiệu của người viết sách. Hàn Mặc Tử
(1912 – 1940) là một tài năng độc đáo, một cuộc đời dị biệt, đầy “hương thơm
và mật đắng” đến nay đã được khẳng định và tôn vinh là nhà thơ lớn của thơ ca
Việt Nam hiện đại. Những năm trước đây, các sáng tác của thi sĩ luôn là tâm
điểm của mọi sự tranh cãi không có hồi kết. Tuy nhiên, sự đổi mới của đất nước,
đời sống, văn hóa, văn học nghệ thuật trong thời gian gần đây đã đưa thơ Hàn
Mặc Tử trở thành một đối tượng nghiên cứu, trân trọng và mến yêu của đông
đảo bạn đọc. Nếu nói “Đây thôn Vĩ Dạ” là bài thơ hay nhất trong đời thơ Hàn
Mặc Tử thì e có phần cứng nhắc và hơi khiên cưỡng, võ đoán nhưng chắc chắn
đây là bài thơ nổi tiếng nhất, được đông đảo bạn đọc biết đến nhất. Đã có nhiều,
rất nhiều các nhà nghiên cứu, phê bình văn học kiến giải về Đây thôn Vĩ Dạ.
Mọi kiến giải dều chưa ngã ngũ. Điều đó thôi thúc tôi trong qua trình giảng dạy
đã luôn trăn trở tìm ra một hưóng lý giải khã dĩ nhất cho bài thơ này.
1


Vì những lẽ trên tôi quyết định đi sâu vào đề tài Vận dụng lý thuyết liên
văn bản vào giờ Đọc – hiểu tác phẩm “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử để
đạt hiệu quả cao.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Nghiên cứu đề tài Vận dụng thuyết liên văn bản vào giờ Đọc – hiểu tác
phẩm “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử sẽ phần nào đóng góp thêm một
phương pháp mới kết hợp với văn bản học và kí hiệu học giúp cho việc giải mã
bài thơ vốn còn nhiều bí ẩn này được thấu đáo hơn, thuyết phục hơn. Tránh việc
khai thác bài thơ này một cách hời hợt hoặc võ đoán, phiến diện khi tách rời các
yếu tố liên văn bản khỏi văn bản ngôn từ.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
- Đề tài này sẽ nghiên cứu việc vận dụng thuết liên văn bản trong tác phẩm”Đây
thôn Vĩ Dạ” và cho thấy hiệu quả của phương pháp đó.

1.4.Phương pháp nghiên cứu.
- Để triển khai đề tài này, tôi sẽ sử dụng nhiều phương pháp. Cụ thể, đó là các
phương pháp nêu vấn đề, phân tích, tổng hợp, so sánh…
- Phương pháp thực nghiệm và đối chứng
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1. Vài nét về lý thuyết Liên văn bản
Liên văn bản là một khái niệm được sử dụng rộng rãi nhất trong giới phê
bình văn học thế giới nửa cuối thể kỉ XX và những năm đầu thế kỉ XXI. Có thể
nói việc phát hiện ra liên văn bản đã tạo nên một cuộc “cách mạng” trong tư duy
văn học, thay đổi một cách mạnh mẽ các quan niệm về văn chương.Với tầm ảnh
hưởng như vậy, liên văn bản được xem là hướng tiếp cận khả quan không chỉ
trong văn học mà còn có thể vận dụng vào phê bình các lĩnh vực nghệ thuật khác
nhau như: điện ảnh, âm nhạc...
Cho đến nay, văn bản được dùng với nhiều phạm vi, góc độ khác nhau.
Với nghĩa thông thường, văn bản là tên gọi chỉ những tài liệu, bài viết được in
ấn, lưu hành hàng ngày trong giao tiếp (một bài báo, một công văn, một tập tài
liệu, một quyết định,…). Với nghĩa là một thuật ngữ ngôn ngữ học, văn bản là
một trong những đơn vị phức tạp, có nhiều cách hiểu và định nghĩa khác nhau.
Tuy nhiên có thể dẫn giải theo một định nghĩa như sau:
Khái niệm liên văn bản về cơ bản có thể hiểu: Chiều ngang (chủ thể người nhận) và chiều dọc (văn bản – văn cảnh) cùng hiện diện làm sáng tỏ một
thực tế quan trọng: mỗi từ (văn bản) là một giao tuyến của từ (các văn bản) nơi
mà ít nhất một từ khác (văn bản khác) có thể đọc được. Kristeva quy cho văn
bản trong giới hạn của hai trục: một trục ngang kết nối giữa tác giả và người đọc
văn bản, và một trục dọc được kết nối giữa văn bản với các văn bản khác. Liên
văn bản là liên kết các văn bản trong một văn bản qua sự sáng tạo và tiếp nhận
của người đọc với tính đối thoại một cách ý thức hay vô thức [8].
2



Việc dạy văn của Việt Nam từ xưa đã có sử dụng lý thuyết này nhưng đó
là sự sử dụng không ý thức và chỉ dừng ở một cấp độ nào đó. Trong các cấp độ
của Liên văn bản có yếu tố trích dẫn và người dạy khi làm một thao tác so sánh
hay mượn ý của một bài bình giảng là đã ít nhiều thực hiện thao tác Liên văn
bản. Nhưng như vậy là còn quá ít ỏi so với tầm vóc của lý thuyết này. Hạn chế ở
đây chính là người dạy vẫn quan niệm về văn bản theo lối cũ coi tác phẩm là
một thể độc lập. khi Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trương lấy người học làm trung
tâm là đã đánh giá cao vai trò của người học cũng như người đọc. Có lẽ, điều
này xuất phát điểm chính là từ tuyên bố: “Tác giả đã chết” của R.Bather – một
trong những nhà nghiên cứu thành công trong tìm hiểu Liên văn bản. Tuy nhiên
để làm sao người đọc trở thành trung tâm thì chúng ta vẫn chưa thực hiện được
một cách triệt để. Thậm chí vẫn áp đặt cách hiểu, cảm nhận văn chương cho
người học. Lý thuyết về Liên văn bản phải chăng sẽ giải quyết được vấn đề này?
Hơn nữa, việc áp dụng công nghệ thông tin với những tranh ảnh, clip trong dạy
học văn ở Việt Nam được cho là không hiệu quả bởi chúng ta quan niệm nó là
phương tiện. Điều này khiến cho việc sử dụng nó chưa hiệu quả. Nhưng theo
quan điểm của các nhà Liên văn bản, một bức tranh, một đoạn phim…đều được
coi là một văn bản. Thống nhất được vấn đề này, chúng ta có thể thấy việc ứng
dụng công nghệ thông tin vào quá trình dạy học sẽ hiệu quả hơn.
2.2. Thực trạng vấn đề.
Trong số các thi nhân thời Thơ mới (1932-1945)
có lẽ không mấy người có số phận ai oán, nghiệt
ngã như Hàn Mặc Tử. Vận mệnh cay đắng của
thi sĩ như được tiên báo trước qua ý nghĩa từng
bút danh mà người con gần cả cuộc đời gắn bó
với vùng đất Quy Nhơn đầy nắng và gió đã mang
trước đó: Phong Trần (gió bụi), Lệ Thanh (tiếng
của nước mắt), Hàn Mặc Tử (người đi trong màn
lạnh). Người thơ ấy với nỗi lòng quặn thắt “trải
niềm đau trên giấy mong manh” ấy để lại cho đời

nhiều thi phẩm bất hủ, trong đó có Đây thôn Vĩ
Dạ.[2]
"Đây thôn Vĩ Dạ" là một bài thơ nổi tiếng của
Hàn Mặc Tử đã từng có nhiều cách hiểu, cách
tiếp cận khác nhau. Đành rằng ngôn ngữ thơ ca
thường hàm súc, cô đọng, đa nghĩa do đó có thể
có nhiều cách tiếp cận tác phẩm.
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Nhưng vấn đề là, dù tiếp cận từ góc độ nào cũng không thể phá vỡ chất
thơ, hiểu và cảm sai ý thơ, tình thơ mà cần phải cảm nhận cho được hồn thơ toát
lên từ câu chữ và vần điệu. Bởi đọc thơ là đi tìm tiếng nói đồng cảm. Mỗi bài
3


thơ là một tiếng lòng mà nhà thơ muốn giãi bày, thổ lộ, kí thác mà sâu xa là
mong ước được gặp tiếng lòng tri âm, tri kỉ. Tình trong thơ là tình riêng của một
người nhưng cũng chính là tình chung của bao người. Chính cái tính chất vừa cụ
thể vừa có sức khái quát rộng lớn ấy là đặc trưng của ngôn ngữ nghệ thuật nói
chung, ngôn ngữ thơ ca nói riêng. Vì vậy, đọc bài thơ phải cảm nhận cho được
cái tình sâu xa và kín đáo mà nhà thơ kí thác. Đó mới là điều chủ yếu.
Bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" đã từng có nhiều bài viết trình bày nhiều cách
hiểu, cách tiếp cận khác nhau gây nhiều tranh luận trên báo chí. Điều đáng sợ
nhất là cách tiếp cận bài thơ theo quan điểm xã hội học dung tục - lấy hiện thực
khách quan (hoàn cảnh xã hội lúc bài thơ ra đời) để đối chiếu, suy diễn về cuộc
sống, con nguời, nội dung của bài thơ. Còn nhớ bài viết của một nhà giáo trên
báo Giáo dục và Thời đại cách đây khá lâu, tiêu biểu cho cách tiếp cận này. Theo
tác giả bài viết đó, bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là một bài thơ viết về cuộc sống, thân
phận của một cô gái giang hồ trên sông Hương trước Cách mạng tháng Tám.
Dòng Hương thơ mộng biến thành dòng sông ô trọc mà "khách đường xa" - một
nhân vật trữ tình của bài thơ - biến thành khách làng chơi! Tất cả chỉ vì một cách

tiếp cận văn chương rất sai lạc theo kiểu quy chiếu, giản lược ngôn ngữ thơ ca.
Có một cách tiếp cận khác tuy không hiểu sai tác phẩm nhưng vẫn là cách tiếp
cận còn sơ lược, đơn giản - chỉ mới tiếp cận vẻ ngoài, bề nổi của bài thơ mà
chưa đi sâu vào bên trong - cái hồn của bài thơ. Sách giáo viên (SGV) của Nhà
xuất bản Giáo dục hướng dẫn giáo viên và học sinh phân tích theo định hướng:
(bài thơ có 3 khổ)
- Khổ 1 và thôn Vĩ Dạ
- Khổ 2 và dòng sông Hương
- Khổ 3 và người xưa nơi thôn Vĩ hay cô gái Huế.
Tác giả bài viết trong sách trên xác nhận cách tiếp cận bài thơ "Đối với sự
tiếp nhận của người đọc, nổi bật trước hết là trong khổ thơ này (khổ 3) cũng như
toàn bộ bài thơ vẫn là hình ảnh thơ mộng và đáng yêu của cảnh và người xứ
Huế" [4].
Bài thơ là tiếng lòng của thi nhân chứa đựng một nỗi niềm riêng tư từ
một cảnh đời cụ thể: một tình yêu đơn phương, vô vọng. Nhưng tiếng lòng ấy sẽ
bắt gặp tiếng lòng những ai trong cuộc đời còn khát khao yêu thương. Đồng
thanh tương ứng. Vì thế "Đây thôn Vĩ Dạ" không chỉ là bài thơ của một người,
một thời mà là thơ của mọi người, muôn đời!

4


2.3. Các giải pháp đã thực hiện.
Trong địa hạt thơ tình, có những thi phẩm tự cổ chí kim kích thích, khơi
gợi sự tìm tòi, giải mã - thậm chí, dường như không có điểm dừng. Bài thơ tình
nổi tiếng của thi sĩ Hàn Mặc Tử, có lẽ cũng nằm trong số những thi phẩm kiệt
xuất ấy.
Trong Sách giáo khoa Văn lớp 11 THPT, đã từ lâu Đây thôn vĩ Dạ đã gây
nhiều tranh cãi, luận bàn. Lí do thì nhiều… Song, hình như các thầy giáo, các
nhà thơ, các nhà nghiên cứu phê bình vẫn chưa quan tâm đầy đủ đến một vấn đề

mà theo tôi là căn nguyên - gốc rễ. Đấy phải chăng là văn bản - nghệ thuật và
phong cách thi nhân. Đến tập Thơ điên (1938), Hàn Mặc Tử mới thực sự khẳng
định vị thế riêng, Cõi – Thơ – Riêng của mình. Tất nhiên thơ Hàn, cũng như
nhiều nhà thơ trong phong trào Thơ mới chịu ảnh hưởng và tương giao, tác hợp
bởi cả hai luồng văn hoá: thơ phương Đông và phương Tây; dân gian và bác học
[1].
5


Thơ Hàn Mặc Tử trong Thơ Điên là một kiểu cách trữ tình - hướng nội –
Riêng. Đấy là cái chất độc đáo với vô vàn khát vọng thánh thiện vươn cao, vươn
xa và đồng hiện với một trái tim rớm máu bởi những mất mát, giằng xé…
Đã có một thời chưa xa, trong cuốn sách có tên Soạn văn (dành cho cả giáo
viên và học sinh), người ta đã hướng dẫn phân tích Đây thôn vĩ Dạ theo 3 luận
điểm tương ứng với ba khổ thơ của tác phẩm:
- Cảnh vườn tược thôn Vĩ
- Cảnh sông nước Hương giang
- Cảnh những cô gái Huế
Thử hỏi nếu chỉ dừng lại ở cảnh (đương nhiên trong thơ cảnh nào chả
chứa tình!) thì hướng tiếp cận và khai thác ấy làm sao nhận diện được mạch
chìm thấm thía và sâu xa chất chứa điệu hồn – phong cách thơ Hàn Mặc Tử? Lại
một hướng khác, thoát li văn bản nghệ thuật và phong cách tác giả mà khơi vào
cuộc tình đơn phương ngoài đời của nhà thơ. Hướng khai thác vừa “thật thà” lại
vừa giản đơn, đã phạm vào luật định riêng của sáng tạo nghệ thuật. Mà, sự sáng
tạo nghệ thuật trong thơ đâu chỉ dừng lại ở hiện thực khách quan - trải nghiệm
của nhà thơ. Thơ của thi sĩ Hàn Mặc Tử luôn “bay” và kiếm tìm trong khát vọng
và day dứt khôn nguôi. Cũng bởi thế, thơ Hàn luôn thường trực ba hình ảnh:
trăng, hồn và máu [3]. Và Đây thôn vĩ Dạ cũng thực sự ứa máu tâm tư của nhà
thơ.
2.3.1. Một chiều hướng tiếp nhận và giải mã Đây thôn Vĩ Dạ

Nếu có sự quan tâm cần và đủ cho văn bản nghệ thuật Đây thôn vĩ Dạ và
ý thức về sự nắm bắt phong cách nghệ thuật của Hàn Mặc Tử (không hề dễ!) thì,
theo tôi hướng tiếp nhận hồn thơ hướng nội đầy chất dị biệt và siêu thực của
Hàn có thể theo ba luận điểm sau – tương ứng với ba khổ thơ của Đây thôn vĩ
Dạ:
Đây thôn vĩ Dạ- một hoài vọng đẹp và buồn vọng chứ không phải hoài
niệm. Bởi nhiều duyên cớ. Hoài vọng chính là hướng vọng về kỉ niệm đã qua, đã
xa mà không thể tìm lại miền đất và con người Vĩ Dạ. Kỉ niệm về Vĩ Dạ cũng
chính bởi thế lọc qua nhớ thương cùng day dứt khôn nguôi của thi nhân:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Câu thơ thứ nhất của Hàn, thực sự quẫy lên cảm xúc – tâm tình đa chiều về văn phạm hình thức là một câu hỏi – Mà, hỏi ai? Hướng tới một đối tượng
nào đó hay tự chất vấn chính lòng mình!? Nếu xét về phương diện ngữ nghĩa và
sắc thái, câu thơ này hàm chứa và giao thoa cả 3 trường nghĩa: câu hỏi, lời chào
mời, vẫy gọi và cũng cả lời trách cứ thiết tha!
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Câu thơ của Hàn hiện lên trong thế sóng đôi bởi hai vế: vế một là hình
ảnh thanh thoát (lá trúc che ngang); vế hai gợi ấn tượng về vẻ đẹp đầy đặn, phúc
hậu (mặt chữ điền). Hai vẻ đẹp trong câu thơ Hàn Mặc Tử, phải chăng là gương
6


- mặt- Vĩ Dạ trong nỗi ám ảnh đầy yêu thương của nhà thơ! Yêu thương và tiếc
nuối!
2.3.2. Đây thôn vĩ Dạ - một nỗi buồn đau và chia lìa (khổ 2
Có người bàn về lối kết cấu “nhảy cóc”, đứt đoạn mạch trong Đây thôn vĩ
Dạ. Thực ra, đấy chỉ là hiện tượng bề mặt, căn nguyên sâu xa chính là ở chỗ: thơ
Hàn từ ý tưởng cho tới cấu tứ luôn mang vẻ đẹp riêng của nỗi - niềm- chìmlắng! Luôn ngợp lặn trong nội tâm không bình yên.
Nếu xét trên bề mặt câu chữ, thì ở khổ thơ thứ hai này, hình ảnh và diện
mạo ngoại giới còn dày hơn ở khổ thơ đầu. Diện mạo ấy phới mở ra theo không
gian cao của gió, mây, trăng; diện mạo ấy trải dài theo dòng nước Hương giang.

Và diện mạo ấy động lay theo hoa bắp, bến bờ dòng Hương…
Buồn đau trong cõi thực đã đành. Thơ Hàn Mặc Tử như còn chấp chới
trong cõi ảo. Ảo bởi bến sông trăng (chứ không phải bến sông); Ảo bởi con
thuyền chở trăng, chở mộng cũng chẳng biết là thuyền ai. Những lời thơ như gấp
gáp. Như nỗi khát khao cùng niềm thảng thốt bởi định mệnh, bởi thời gian[5].
Chữ “kịp” mà Tử dùng nghe thương, nghe đau thấm thía gan ruột - nỗi đau
muôn thuở của Người thơ phong vận như thơ ấy (Xuân đầu tiên - Hàn Mặc Tử):
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Đấy là tiếng lòng hay là tiếng kêu cứu từ một trái tim rớm máu đau thương?
2.3.4. Đây thôn vĩ Dạ- một niềm day dứt và khát khao
Khổ thơ kết này của Đây thôn vĩ Dạ là nỗi niềm day dứt khôn nguôi? Nếu
khổ thơ thứ hai, Hàn Mặc Tử đã bước chân – nghệ thuật vào cõi ảo. Thì, ở
những dòng thơ cuối này, thi nhân đã thực sự đắm hồn mình vào cõi mơ, cõi ảo:
Nỗi day dứt của Hàn Mặc Tử đâu chỉ dừng lại ở sắc áo (trắng). Mà đầy
vơi bởi một lẽ nhân sinh: biết nhìn thế nào cho thiếu sắc – lòng - người giữa cõi
nhân sinh! Tử từng viết:
Trăng dẫu sáng, còn thua đôi mắt ngọc
Trời tuy xa…lòng thiếu nữ xa hơn
(Dấu tích - Hàn Mặc Tử)
Nỗi day dứt luôn đi liền với niềm khát khao cháy bỏng. Ai biết tình ai
có đậm đà? Vẫn hình thức – câu hỏi; vẫn sử dụng lối phiếm chỉ, không xác định
(ai), thi sĩ Hàn Mặc Tử thực sự kí thác khát vọng không chỉ trong tình yêu mà
còn mở ra khao khát lớn về nhân tình thế thái, về tình đời, tình người.Phải
chăng, vì thế thi phẩm kiệt xuất của Hàn Mặc Tử sẽ tồn tại bất chấp thời gian[7].
Đây thôn Vĩ Dạ là bài thơ tình của mọi thời đại. Và sự độc đáo mang tính “độc
nhất vô nhị” trong cả nội dung và hình thức nghệ thuật của thi phẩm này sẽ còn
hấp dẫn bởi vẻ riêng quen mà lạ của nó; sẽ còn thách thức sự kiếm tìm và thẩm
định.


7


2.4. Hiệu quả của việc vận dụng thuyết liên văn bản trong hoạt động dạy
học bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử.
2.4.1. Vận dụng thuyết liên văn bản vào việc giải mã bài thơ, người dạy trước
hết không thể bỏ qua những chi tiết nói về cuộc đời Hàn Mặc Tử.
Hồi kí của Nguyễn Bá Tín và kim Cúc có câu chuyện nhỏ như sau:
“Những năm 1938-1939, nhất là năm 1939, anh đau dữ dội hơn hết. Tâm trạng
anh biến đổi nhiều qua thơ anh. Giai đoạn này anh sống nửa mơ nửa thực,
thường hay xuất thần không biết gì. “Trong túp lều tranh xơ xác, dưới cây
phượng vĩ tàn tạ, bên bờ biển hoang vắng mà hai trạng thái tâm hồn hoàn toàn
khác biệt nhau tùy theo cảm hứng. Tâm trí anh từ ngày đau nặng, vẫn mơ ước
thoát khỏi thân tàn ma dại, khỏi không gian và thời gian”, chàng nhận được
bức bưu ảnh của người xưa: “thay vì viết thư thăm, tôi gửi bức ảnh phong cảnh
vừa bằng cái carte visite. Trong ảnh có mây, có nước, có chiếc đò ngang với cô
gái chèo đò, có mấy khóm tre, có cả ánh trăng hay ánh mặt trời chiếu xuống
nước. Tôi viết sau tấm ảnh mấy lời hỏi thăm sức khỏe Tử rồi nhờ Ngâm trao
lại. Sau đó một thời gian, tôi nhận được bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ và một bài khác
nữa do Ngâm gửi về…” [9].
Câu chuyện giúp ta hiểu thêm hoàn cảnh sáng tác, nhưng bài thơ không
phải là minh họa cho tấm bưu ảnh. Điều đặc biệt là không khí trong sáng, dịu
dàng của tác phẩm hoàn toàn tương phản với căn bệnh ngặt nghèo đang vào
thời kỳ cuối của tác giả, lúc đó. Vậy thì, Vĩ Dạ kia vừa là một địa chỉ cụ thể,
đồng thời cũng là một biến ảnh của cuộc đời “ngoài kia” mà Hàn luôn hướng tới
Theo nhiều tài liệu, Vĩ Dạ là một xóm làng trù mật, dòng họ nhà vua có nhiều
gia đình ở đây. Người Huế hay gọi là phủ Tùng Thiện, phủ Tuy Lí của hai ông
hoàng tước vương là Miên Thẩm, Miên Trinh có tiếng ở làng này. Vĩ Dạ khá tiêu
biểu cho đất đế đô. Nó nằm sát bờ sông Hương, nhìn qua Cồn Tiên, cù lao giữa
sông, cách có mấy con sào, từ đầu cầu Trường Tiền đi theo con đường xuống

cửa Thuận chỉ mấy trăm thước. Vườn tược đúng là xanh mướt những thanh trà
(một thứ bưởi rất ngon và rất thanh), những đào tiên (tức roi ở Bắc và mận ở
Nam), những cam, chanh, quýt, và cau vút cao, tạo thế cân bằng hội hoạ cho bức
tranh um tùm nơi mặt đất. Đặc biệt không vườn nào, dù nghèo nhất lại thiếu một
mảnh cây kiểng (cây cảnh) trước sân, khách đến là thay chủ đón cười với khách
trước khi khách được tiếp bằng hớp trà uống trong cái chung (cái chén) nhỏ xíu
mà chủ nhân vừa chùi tro, lòng chung trắng muốt. Nhỏ nhẹ thanh trong, kín đáo,
lịch sự từ giọng nói trở đi, từ cô hàng thanh trà đến các bậc cao sang… Đó là
Huế, đó cũng là Vĩ Dạ[6].
- Hàn Mặc Tử (1912 1945). Ông cũng là nhà thơ có số phận bất hạnh
hiếm −trào Thơ mới (1932 có. Hàn Mặc Tử là một tài năng độc đáo, một tiếng
thơ lạ, thể hiện rõ tấn bi kịch của một con người bất hạnh. Mắc phải căn bệnh
phong quái ác, phải sống trong sự cách li khi đang tràn trề nhựa sống đã khiến
thơ ông nhiều khi như điên loạn với một thế giới hình ảnh thơ đầy ma quái. Thơ
8


Hàn Mặc Tử vừa gợi cho người ta nỗi sợ hãi, vừa đem đến niềm say mê. Chế
Lan Viên từng quả quyết rằng : “Tôi xin hứa hẹn với các người rằng, mai sau,
những cái tầm thường, mực thước kia sẽ biến tan đi, và còn lại của cái thời kì
này chút gì đáng kể đó là Hàn Mặc Tử. Bên cạnh thơ điên, Hàn Mặc Tử còn có
những vần thơ trữ tình rất dịu dàng và duyên dáng. Trong số đó có Đây thôn Vĩ
Dạ”.
- Tác phẩm được sáng tác khi nhà thơ đã lâm bệnh nặng và không còn cơ hội để
trở lại với cuộc sống đời thường. Bài thơ mang vẻ đẹp huyền ảo và trong sáng.
Thực và hư hoà quyện tạo nên vẻ riêng cho cảm xúc. Bài thơ thể hiện tình yêu
tha thiết của tác giả đối với xứ Huế, nơi nhà thơ đã từng có nhiều kỉ niệm ngọt
ngào, đồng thời thể hiện khát khao được sống, được yêu. Đây cũng là những cố
gắng cuối cùng của thi sĩ để níu lại trong mình những giây phút ngọt ngào của
cuộc sống trần thế. Cảnh thì đẹp mà tình thì buồn là sự thể hiện đầy đủ nhất tình

yêu cuộc sống của thi sĩ bất hạnh mà đầy tài năng này.
2.4.2. Gợi khả năng liên tưởng đến những hình ảnh trong các văn bản khác.
Biểu tượng cách điệu khuôn mặt chữ điền “Lá trúc che ngang mặt chữ
điền”
Câu thơ viết theo hướng cách điệu hoá. Cách điệu từ đường nét “lá trúc che
ngang” đến hình ảnh “mặt chữ điền”. Mặt chữ điền từng xuất hiện trong những
câu ca dao xứ Huế :
Mặt em vuông tựa chữ điền,
Da em thì trắng, áo đen mặc ngoài.
Lòng em có đất có trời,
Có câu nhân nghĩa, có lời thuỷ chung
Hình ảnh dòng nước đã được nhà thơ nhân hóa trở thành một sinh thể có
tâm trạng nhằm giãi bày tâm tư của chính mình. Bởi dòng sông xứ Huế không
thể tự buồn mà chính thi nhân đã bỏ buồn vào dòng sông ấy. Thêm vào đó là
động thái “lay” của hoa bắp, nó càng gợi lên sự hiu hắt, thưa vắng vì bản thân nó
làm sao có thể tự biết vui, biết buồn. Có chăng, nó chỉ là nét phụ họa với nỗi
buồn của gió, mây, sông nước hay ngược lại? Ca dao có câu: “Ai về Giồng Dứa
qua truông/ Gió lay bông sậy bỏ buồn cho em?” hay câu thơ của Trúc
Thông “Lá ngô lay ở bờ sông/ Bờ sông thấy gió người không thấy về”. Chúng
ta hãy làm một cuộc so sánh nhỏ về hai chữ trong thơ Nguyễn Du và thi sĩ Hàn.
Nếu như chữ “hiu hiu” trong câu thơ “Trông ra ngọn cỏ lá cây/ Thấy hiu hiu gió
thì hay chị về” là tín hiệu nhằm báo sự hiện hữu thì chữ “lay” trong câu thơ Hàn
Mặc Tử là để tác giả kịp nhận ra sự phiêu tán, chia xa. Tất cả tạo nên nhịp thơ
chậm rãi. Phải chăng, đấy chính là hồn Huế, nhịp điệu quen thuộc của xứ Huế
ngàn đời nay? Thực là một bức tranh thiên nhiên toát lên vẻ ảm đạm, nhốm màu
chia lìa, sự sống mệt mỏi và yếu ớt. Gắn với cảnh là một nỗi buồn hiu hắt mang

9



dự cảm về hạnh phúc chia lìa. Đúng là “tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này”.
Khác với ban ngày, thiên nhiên xứ Huế về đêm ngập tràn ánh trăng “Thuyền ai
đậu bến sông trăng đó”. Có phải chính cuộc sống trần giới với bao vẻ đẹp trong
sáng ấy càng ngày càng tuột khỏi tầm tay nên thi sĩ mới quay về với trăng,
nguồn an ủi, động viên, sự bám víu cuối cùng cho cuộc đời mình.
Hình ảnh sông trăng khiến người đọc có cảm tưởng như mình đang đứng
trước dòng sông được dát bạc bởi sự lộng lẫy, lung linh của nó. Có thể nói, đây
là một trong những câu thơ hay nhất của tác giả trong bài thơ này. Hình ảnh
thuyền ai gợi lên bao ngỡ ngàng, bang khuâng, vừa quen, vừa lạ, man mác như
điệu hò xứ Huế được đặt cùng với hình tượng sông trăng nên thơ càng nổi bật
thần thái, vẻ đẹp thân thương của thiên nhiên Vĩ Dạ. Không phải đến Hàn Mặc
Tử, hình ảnh sông trăng mới được ra đời, mà trước đó, thi ca cũng đã ghi nhận
những ý thơ tuyệt mĩ về hình ảnh này. Đó là hình ảnh “Thuyền ai đậu bến Cô
Tô” (Trương Kế đời Đường), “Sông xuân sao chẳng sáng ngời trăng”
(Xuân giang hoa nguyệt dạ, Trương Nhược Hư), rồi thơ ca Việt Nam cũng có
hình ảnh “gió trăng chứa một thuyền đầy” (Nguyễn Công Trứ) hay “Trăng sông
Trà – như tấm gương soi dòng nước bạc” ( Cao Bá Quát). Cho nên, đây là một
sự kế thừa, sáng tạo nhưng cũng là đóng góp mới mẻ vào kho tàng thơ ca viết về
đề tài ‘trăng”.
Trong thơ từ xưa đến nay, các hình ảnh thuyền, bến, trăng thường được
dùng để trỏ vể người con trai, con gái và hạnh phúc lứa đôi. Có thể dẫn ra rất
nhiều những ví dụ để minh chứng cho điều này. Từ ca dao: “Đêm trăng thanh
anh mới hỏi nàng/ tre non đủ lá đan sàng nên chăng?/ Chàng hỏi thì thiếp xin
vâng/ Tre non đủ lá nên chăng hỡi chàng?”. Đến Truyện Kiều, thiên tài Nguyễn
Du đã dành cho cặp tình nhân Kim – Kiều khu vườn ngập đầy ánh trăng để đêm
giao ước, thề nguyền càng trở nên lung lình, tình tứ và lãng mạn hơn. Quay lại
với ý thơ trên, hình ảnh con thuyền chở trăng là gì nếu không chính là chở tình
yêu và bến sông trăng chính là đến với bến bờ hạnh phúc. Nhưng tại sao tác giải
lại nói “Có chở trăng về kịp tối nay?” Có lí do nào khiến cho con thuyền không
thể về kịp bến sông trăng ấy? Nếu khổ thơ thứ nhất là cảnh đẹp buổi sáng trong

hoài niệm, trong khao khát trở về thì khổ hai là cảnh đẹp ban đêm của thôn Vĩ ,
nhưng ở đây đay đã chuyển sang thì hiện tại, nhuốm màu đau đớn bởi sự tuyệt
vọng, chia lìa. Cho nên mới có cái ý nguyện níu kéo, khắc khoải chơi vơi. Phải
chăng chỉ là sự tưởng tượng của nhà thơ bởi vì khát vọng, khát vọng yêu, khát
vọng được hòa nhập và chiếm lĩnh tình yêu, cuộc sống của một cái tôi đau
thương quá lớn? Kịp để sống chạy đua với thời gian. Kịp để được hưởng tối đa
hạnh phúc nơi trần giới bởi đời quá ngắn và cái chết sẽ chờ đợi tất cả ở cuối con
đường. Với Hàn Mặc Tử nó càng quan trọng hơn nữa bởi lưỡi hái tử thần đã kề
cạnh sau lưng chàng. Người ta nói “Thơ là sự lên tiếng của thân phận’ hẳn
không sai với Hàn chút nào. Như vậy, có thể nói sang khổ thơ thứ hai này một
ước ao vô cùng khẩn thiết lại biến thành một hoài vọng chới với đến nghẹn
ngào.
10


Hình ảnh “sương khói mờ nhân ảnh” nhằm chỉ cho cảnh vật và con
người hư ảo, xa xôi. Hiện thực hư ảo, mờ nhòe càng lúc càng chìm vào cõi
mộng. giường như, tác giả càng cảm nhận rõ hơn cái xa xôi, hư ảo của hạnh
phúc và tình yêu. Cuộc đời ngoài kia vẫn cứ diệu kì nhưng vẫn cách xa nghìn
thế giới vời Hàn. Chỉ còn lại chút tình là sợi dây duy nhất níu giữ cuộc đời ông
với Ngoài kia nhưng sao cũng mong manh, xa vời quá. “Ai biết tình ai có đậm
đà?” …..Câu hỏi cuối cùng khép lại bài thơ như một tiếng thở dài hay là lời cầu
mong:
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
“Ở đây” là ở đâu ? Dù ở đâu thì cũng đã bị bao phủ bởi sương khói của thời
gian. Ai là một đại từ phiếm chỉ. Một đại từ phiếm chỉ được sử dụng hai lần
trong một câu thơ, gợi lên bao ý nghĩa. Câu thơ tha thiết một khát khao, một ước

nguyện muốn có người hiểu được tâm sự của mình. Đồng thời thể hiện tâm
trạng hoài nghi. Trong bài thơ có tới bốn lần tác giả sử dụng đại từ ai, và “anh”
và “em” đã hoà nhập trong từ ai ấy, hoà nhập trong tâm tưởng của thi nhân. Câu
thơ cuối cùng thoáng chút hoài nghi ấy xuất phát từ lòng khát khao sống, khát
khao giao tiếp với cuộc đời ; xuất phát từ niềm khao khát thuỷ chung. Vượt lên
nỗi đau riêng, thơ Hàn Mặc Tử nói lên tâm trạng chung của bao lứa đôi xa
cách…
Như vậy, ba khổ thơ là ba bức tranh khác nhau. Cảnh từ tươi sáng, giàu
sức sống đến ảm đạm, uể oải rồi sang hư ảo, mờ nhòe. Tâm trạng thi nhân đang
từ hi vọng sang dự cảm chia lìa, thất vọng rồi tuyệt vọng. Các đại từ phiếm chỉ
“ai” lặp lại đều đặn ở ba khổ: vườn ai, thuyền ai, ai biết tình ai kết hợp với sự
lặp lại của các câu hỏi tu từ trong các khổ: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ”,
“Có chở trăng về kịp tối nay?”, “Ai biết tình ai có đậm đà?” góp phần thể hiện
sự mơ hồ, khắc khoải, khát khao tình yêu, hạnh phúc của chủ thể trữ tình. Có
người cho rằng bài thơ là sự chắp nối vụng về, rời rạc giữa ba đoạn. Nhưng
những bước nhảy về ý, ý nọ cách ý kia một khoảng lớn ấy chỉ là hình thức để
bên trong để chuyển tải một sợi dây tư tưởng xuyên suốt toàn bài. Cho nên, khi
tiếp cận thơ Hàn Mặc Tử, không nên đọc theo đề tài, sự việc mà phải tìm ra diễn
biến tâm trạng của thi nhân, cái “mạng vi mạch” của ‘cơ thể” tác phẩm. Chu
Văn Sơn đã từng bình thật hay: “Khép lại bài thơ, người đọc có thể thấy rõ
mạch liên tưởng “cóc nhảy” đứt đoạn, bất định trong ba khổ thơ. Khổ đầu: một
ước ao thầm kín ngấm ngầm bên trong lại cất lên như một lời mời mọc từ bên
ngoài, nỗi hoài niệm âm u lại mang gương mặt sáng sủa của khát khao rực rỡ.
Khổ hai: một ước mong khẩn thiết dâng lên thoắt trở thành một hoài vọng chới
với nghẹn ngào. Khổ ba: một niềm mong ngóng vừa ló dạng hướng ra thế giới

11


bên ngoài đã vội biến thành mối hoài nghi hướng vào nơi đang tồn tại. Mối u

hoài nối ba khổ thơ tách biệt ấy còn được thể hiện bằng một “sợi dây” liên kết
khác nữa: Ba khổ thơ đều ngầm chứa ba câu hỏi với bốn chữ ai dãi đều trong
lòng bài thơ (Vườn ai? Thuyền ai? Ai biết tình ai?) khiến chúng vang lên thành
giọng điệu da diết khắc khoải. Vậy là, nếu lối liên tưởng “cóc nhảy” tạo ra một
văn bản hình tượng đầu Ngô mình Sở, thì dòng lưu chuyển cảm xúc đau thương
dưới dạng u hoài khắc khoải kia lại tạo ra một âm điệu nhất quán, liền mạch.
Phi logic ở bề mặt, nguyên phiến, nguyên điệu ở bề sâu, đó chính là siêu logic,
đây là nét thi pháp điển hình của “ Đây thôn Vĩ Dạ”[9]
“Đây thôn Vĩ Dạ” được coi là một trong những bài thơ tình hay nhất của
Hàn Mặc Tử. Bài thơ được viết theo thể cách, thành những khổ chỉnh tề, vuông
vức. Mỗi khổ tựa một bài thơ tứ tuyệt nhỏ nhắn, xinh xinh. Toàn bài thơ là tình
yêu thiết tha man mác đượm vẻ u buồn ẩn hiện giữa khung cảnh thiên nhiên hòa
với lòng người, cái thực là cái mộng, huyền ảo và cụ thể hòa vào nhau. Phải
bằng tri giác và trí tưởng tượng mới có thể cảm nhận hết được cái hay, đặc sắc
của thi phẩm này.
Trần Tái Phùng đã không ngần ngại phô bày vẻ đẹp tuyệt mỹ của thơ ca
Hàn Mặc Tử : “Nghệ thuật chàng tựa một con sông dài đi xuyên qua thế kỷ
chúng ta và hai bờ sông dàn bày không biết bao nhiêu cảnh sắc khác nhau đẹp
đẽ đến say ngợp, đến tê liệt cả lòng người”. Với “Đây thôn Vĩ Dạ”, Hàn Mặc Tử
vẫn là một khúc sông thiêng lãng mạn đứng giữa dòng sông dài của thi ca Việt
Nam. Vượt qua mọi định luật của sự băng hoại, bài thơ “vẫn là một sức đồng
cảm mãnh liệt và quảng đại. Nó ra đời giữa những vui buồn của loài người và
nó sẽ kết bạn với loài người cho đến ngày tận thế.” (Hoài Thanh)[8]

12


3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận.
Hàn Mặc Tử là một hiện tượng thơ kì lạ vào bậc nhất của phong trào Thơ

mới. Đọc thơ Hàn thi sĩ ta bắt gặp một tâm hồn thiết tha yêu cuộc sống, yêu
thiên cảnh, yêu con người đến khát khao, cháy bỏng; một khát vọng sống mãnh
liệt đến đau đớn tột cùng. Trong thơ Hàn, nhiều bài thơ mang khuynh hướng
siêu thoát vào thế giới siêu nhiên, tôn giáo…nhưng đó là hình chiếu ngược của
khát vọng sống, khát vọng giao cảm với đời. Một số bài thơ cuối đời của thi sĩ
họ Hàn còn đan xen những hình ảnh ma quái- dấu ấn của sự đau đớn, giày vò về
thể xác lẫn tâm hồn. Đó là sự khủng hoảng tinh thần, bế tắc và tuyệt vọng trước
cuộc đời. Nhưng dù được viết theo khuynh hướng nào, thơ Hàn Mặc Tử vẫn là
những vần thơ trong sáng, lung linh, huyền ảo, có một ma lực với sức cuốn
“Đây thôn Vĩ Dạ” được coi là một trong những bài thơ tình hay nhất của Hàn
Mặc Tử. Bài thơ được viết theo thể cách, thành những khổ chỉnh tề, vuông vức.
Mỗi khổ tựa một bài thơ tứ tuyệt nhỏ nhắn, xinh xinh. Toàn bài thơ là tình yêu
thiết tha man mác đượm vẻ u buồn ẩn hiện giữa khung cảnh thiên nhiên hòa với
lòng người, cái thực là cái mộng, huyền ảo và cụ thể hòa vào nhau. Phải bằng tri
giác và trí tưởng tượng mới có thể cảm nhận hết được cái hay, đặc sắc của thi
phẩm này.
Bằng kiến thức còn hạn chế của bản thân, người viết đã đi vào góp thêm
một cách tiếp cận một thi phẩm vốn rất bí ẩn, đọc đáo, đa dạng và còn tồn tại rất
nhiều tranh cãi này. Việc vận dụng lý thuyết liên văn bản sẽ giúp cho giờ đoc –
hiểu “ Đây thôn Vĩ Dạ” được sâu sắc hơn, thấu đáo hơn.
Với “Đây thôn Vĩ Dạ”, Hàn Mặc Tử vẫn đứng giữa mảnh đất của thi ca
lãng mạn. Nhà phê bình Hoài Thanh đã mạnh dạn lên tiếng: Bài thơ vẫn là một
sức đồng cảm mãnh liệt và quảng đại. Nó ra đời giữa những vui buồn của loài
người và nó sẽ kết bạn với loài người cho đến ngày tận thế.
Trên đây chỉ là nghiên cứu bước đầu về việc ứng dụng của lý thuyết liên
văn bản vào quá trình dạy học Ngữ văn trong nhà trường vận dụng trong một
btác phẩm thơ cụ thể. Chúng tôi rất mong sự đóng góp, trao đổi ý kiến của các
nhà nghiên cứu và độc giả để có thể hiểu sâu sắc hơn và vận dụng hiệu quả hơn
vấn đề này trong quá trình dạy học Ngữ văn trong nhà trường Phổ thông hiện
nay.

3.2. Kiến nghị.
Từ việc nghiên cứu đề tài Sáng kiến kinh nghiệm trên, tôi xin đề xuất một
vài kiến nghị như sau:
Thứ nhất, với việc trích dẫn, so sánh, liên hệ trong dạy học Ngữ văn cần
thực hiện theo phương pháp Liên văn bản một cách có ý thức và khoa học hơn.
Liên văn bản khẳng định: mỗi văn bản khi đi vào tiếp nhận sẽ kéo theo hàng loạt
những văn bản khác tùy thuộc vào hiểu biết và văn hóa của người đọc. Trong
việc dạy học ngữ văn ở Việt Nam, người dạy thường liên hệ, so sánh với các tác
13


phẩm khác nhằm nâng cao tính hấp dẫn của bài giảng cũng như khắc sâu tri thức
cho người học. Nhưng sự mở rộng ấy chỉ nằm ở một vài câu hay chi tiết của tác
phẩm được dạy mà chưa có sự hệ thống trên cơ sở khảo sát những văn bản một
cách kĩ lưỡng.
Thứ hai, để người học thực sự trở thành trung tâm, tích cực chủ động trong
học tập thì không phải chỉ đơn giản là coi nhẹ vai trò của người dạy. Theo điều
tra thực tế thì đa phần các giáo viên, giảng viên hiện nay thực hiện chủ trương
của Bộ Giáo dục và Đào tạo bằng việc cho học sinh, sinh viên thảo luận mà
công việc này cũng chưa thực hiện được một cách hiệu quả. Lý thuyết liên văn
bản cho thấy việc “khai sinh ra người đọc” là để tạo nên tính đối thoại giữa tác
giả - người đọc. Mỗi người đọc sẽ tạo ra cho mình một văn bản phái sinh. Thực
tế cho thấy chúng ta chưa tôn trọng quy tắc này. Người dạy vẫn bình giảng, phân
tích rồi đưa ra cho người học một cách hiểu. Người học thuộc từng ý rồi viết vào
bài thi. Giám khảo lại đếm ý chấm điểm. Vậy “sáng tạo đã chết” mà không có
dấu vết của đối thoại hay tính tích cực chủ động. Việc tôn trọng người học hơn
thay vì áp đặt cảm thụ suy nghĩ mới chính là chìa khóa cho chủ trương lấy người
học làm trung tâm.
Thứ ba, vấn đề sử dụng công nghệ thông tin trong dạy học hiện này đối với
ngành văn cũng chưa thật sự hiệu quả bởi quan niệm coi nó là phương tiện khoa

học chứ không phải một văn bản. Như đã nói ở trên, lý thuyết liên văn bản đã
mở rộng nội hàm của khái niệm văn bản. Văn bản không chỉ là một trang giấy,
một cuốn sách mà có thể là một bản nhạc, một bức tranh, thậm chí một
wedside…Quan niệm về văn bản thực sự trở nên linh hoạt hơn với sự ra đời của
internet. Với internet, văn bản của chúng ta sẽ được phân chia thành các đơn vị
với những đường kết nối, hoặc có thể chứa đựng một dãy các văn bản nối với nó
qua các đường dẫn. Người đọc có thể nhanh chóng đọc tác phẩm chỉ thông qua
một thao tác bấm vào đường dẫn ấy, có thể đọc bất cứ đoạn nào của tác phẩm
một cách dễ dàng. Để giải quyết vấn đề này chúng ta nên thay đổi cách nghĩ về
nó. Xem nó là một văn bản trong chuỗi liên văn bản với tác phẩm đang giảng
dạy sẽ góp phần mở rộng ý nghĩa cũng như cảm thụ cho người học. Thực tế
cũng cho thấy, nghiên cứu các lĩnh vực hiện nay đều theo xu thế tích hợp. Văn
học không còn chỉ đóng khung trong phạm vi của nó mà được liên kết với âm
nhạc, hội họa, điện ảnh, kiến trúc… Chưa nói đến vấn đề có tăng thêm nhiều ý
nghĩa cho tác phẩm hay không nhưng chắc chắn sẽ hấp dẫn hơn nhiều so với
trước kia.

14


XÁC NHẬN CỦA HIỆU
TRƯỞNG

Thanh Hóa, ngày 20 tháng 05 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
(Ký và ghi rõ họ tên)

Phạm Thị Tâm


15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
Ghi chú
-

Ở mục 2.1.1, đoạn từ “Khái niệm liên kết văn bản... hay vô thức” tác giả tham khảo
nguyên văn từ TLTK số 9, phần tiếp theo do tác giả viết ra.
Ở mục 2.2, đoạn từ “Người thơ ấy... Đây thôn Vĩ Dạ” tác giả tham khảo nguyên văn từ
TLTK số 2, phần tiếp theo do tác giả viết ra.
Ở mục 2.2, đoạn từ “Đối với sự tiếp nhận... người xứ Huế” tác giả tham khảo nguyên
văn từ TLTK số 4, phần tiếp theo do tác giả viết ra.
Ở mục 2.3, đoạn từ “Đến tập Thơ Điên... bác học” tác giả tham khảo nguyên văn từ
TLTK số 1, phần tiếp theo do tác giả viết ra.
Ở mục 2.3.1, đoạn từ “Thơ của thi sĩ... hồn và máu” tác giả tham khảo nguyên văn từ
TLTK số 3, phần tiếp theo do tác giả viết ra.
Ở mục 2.3.2, đoạn từ “Buồn đau trong cõi thực... bởi thời gian” tác giả tham khảo
nguyên văn từ TLTK số 5, phần tiếp theo do tác giả viết ra.
Ở mục 2.3.4, đoạn từ “Nỗi day dứt... bất chấp thời gian” tác giả tham khảo nguyên văn
từ TLTK số 7, phần tiếp theo do tác giả viết ra.
Ở mục 2.4.1, đoạn từ “Hồi kí của Nguyễn Bá Tín... Ngâm gửi về” tác giả tham khảo
nguyên văn từ TLTK số 9, phần tiếp theo do tác giả viết ra.
Ở mục 2.4.1, đoạn từ “Vĩ Dạ vừa là một địa chỉ cụ thểt... cũng là Vĩ Dạ” tác giả tham
khảo nguyên văn từ TLTK số 6, phần tiếp theo do tác giả viết ra.
Ở mục 2.4.2, đoạn từ “Khép lại bài thơ... Đây thôn Vĩ Dạ” tác giả tham khảo nguyên
văn từ TLTK số 9, phần tiếp theo do tác giả viết ra.
Ở mục 2.4.2, đoạn từ “Trần Tái Phùng... cho đến ngày tận thế” tác giả tham khảo
nguyên văn từ TLTK số 8.


*******************
[1]. Nguyễn Duy Bình, (1983), Dạy văn dạy cái hay cái đẹp,Nxb GD.
[2]. Dzũ Kha (Sưu tầm và biên soạn) (2006), Hành trình đến với Hàn Mặc Tử,
Nxb Hội nhà văn, Quy Nhơn.
[3]. Phan Cự Đệ, Nguyễn Toàn Thắng (Tuyển chọn và giới thiệu) (2007), Hàn
Mặc Tử về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Huế.
[4]. Nguyễn Văn Đường (2009), Thiết kế bài giảng Ngữ văn 11, tập 2, Nxb Hà
Nội,
[5]. Mã Giang Lân (Tuyển chọn và biên soạn) (2000), Thơ Hàn Mặc Tử và
những
[6.] Nhiều tác giả (2005), Giảng văn văn học Việt Nam, Nxb Giáo dục, Thanh
Hóa.
[6]. Chu Văn Sơn (2006), Ba đỉnh cao thơ mới, Nxb Giáo dục, Hà Nội
[7].Tạp chí văn nghệ Quân đội ,Tháng 8 năm 2012, Giấc mơ về cuộc đời Hàn
mặc Tử.
[8]. Hoài Thanh – Hoài Chân (2000), Thi nhân Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội
[9]. Tham khảo một số tài liệu trên mạng in tở nét
- Nguồn:
+ http//phebinhvanhoc.com.vn/danluanvelythuyetlienvanban.
+ Text123.doc.org



×