MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ở thế kỷ XX, với sự phát triển của khoa học – công nghệ, một mặt
làm cho của cải xã hội ngày càng dồi dào, nhưng mặt khác lại làm suy đồi
giá trị đạo đức của con người, con người chỉ được xem là một “lực lượng
vật chất đơn thuần”, con người đánh mất nhân vị của mình, họ cảm lấy
bất lực và cô đơn trong bộ máy kỹ thuật khủng lồ của xã hội phương Tây
hiện đại, họ lo lắng và sợ hãi, họ đánh mất niềm tin vào mọi thứ, chỉ còn
lại bản thân mình, một cá nhân ích kỹ. Chính lúc này chủ nghĩa hiện sinh
ra đời, đã miêu tả đúng tâm trạng con người lúc bấy giờ, chính vì vậy nó
được mọi người đón nhận một cách nồng nhiệt, đặc biệt là giới trẻ. Chủ
nghĩa hiện sinh đã đi vào đời sống của xã hội phương Tây trở thành một
phong cách sống, một “một mốt thời thượng”. Ngoài ra chủ nghĩa hiện
sinh còn có ảnh hưởng to lớn đến nhiều khuynh hướng triết học, văn học,
nghệ thuật của các nước phương Tây.
Nói đến chủ nghĩa hiện sinh không thể không nhắc đến hiện tượng
học, một khuynh hướng học thuật do Husserl khởi xướng, bởi chính nhờ
hiện tượng học mà chủ nghĩa hiện sinh mới trở thành một trào lưu triết
học phổ biến ở các nước phương Tây. Hiện tượng học của Edmund
Husserl đặt cơ sở lý luận về phương pháp, có ảnh hưởng trực tiếp đến hầu
hết các trào lưu triết học phi duy lý xuyên suốt thế kỷ XX ở phương Tây,
trong đó, đáng kể nhất là vai trò quyết định của hiện tượng học đối với sự
hình thành và phát triển của chủ nghĩa hiện sinh. Có thể nói nếu thiếu
hiện tượng học thì chủ nghĩa hiện sinh không thể có cơ sở lý luận và
phương pháp luận để trở thành một trào lưu triết học, cho nên ở đâu chủ
nghĩa hiện sinh tồn tại thì ở đó có sự biểu hiện của hiện tượng học.
Chủ nghĩa hiện sinh được thịnh hành và ưa chuộng không chỉ ở
những nước phương Tây mà còn lan sang các nền văn hóa khác trên thế
1
giới, trong đó có Việt Nam. Ở Việt Nam, chủ nghĩa hiện sinh du nhập
trước hết vào miền Nam từ cuối những năm 50 của thế kỷ trước, và trên
thực tế nó đã tạo ra những ảnh hưởng nhất định đối với đời sống tinh thần
của các tầng lớp dân cư trong xã hội, đồng thời thu hút được sự quan tâm
nghiên cứu của giới học thuật.
Chủ nghĩa hiện sinh tồn tại và trở nên phổ biến ở miền Nam khi nó
hiện diện khá thường xuyên trên sách báo như: Sáng tạo, Văn nghệ, Văn
học, đặc biệt tạp chí Bách khoa. Chủ nghĩa hiện sinh biểu hiện trong
nhiều hình thức khác nhau như sân khấu, điện ảnh, cải lương, nghệ thuật,
đặc biệt là văn học (chủ yếu là tiểu thuyết), vì nó phù hợp với thiên
hướng miêu tả trạng huống hiện hữu của con người mà chủ nghĩa hiện
sinh chủ trương. Văn học hiện sinh ở miền Nam Việt Nam trước năm
1975 thực sự đã góp phần quan trọng trong việc phản ánh bối cảnh lịch sử
đầy bế tắc, khủng hoảng và chiến tranh ác liệt ở nước ta. Hơn nữa, nghiên
cứu về văn học hiện sinh miền Nam Việt Nam trước năm 1975 để một
phần nào thấy được cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta
là cuộc chiến đầy đau thương và mất mát nhưng rất đỗi anh hùng và đáng
tự hào. Đây là cuộc chiến tranh toàn diện, diễn ra trên tất cả các mặt,
trong đó cuộc đấu tranh trên lĩnh vực ý thức hệ cũng là cuộc chiến hết sức
phức tạp, cam go không kém cuộc đấu tranh trên lĩnh vực quân sự.
Ngày nay chiến tranh đã kết thúc nhưng những di hại do nó để lại
trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng vẫn còn chưa khắc phục hết thì với xu thế
toàn cầu hóa, Việt Nam mở cửa giao lưu với nền văn hóa các nước trên
thế giới, trong đó có những ảnh hưởng tích cực và cũng có những ảnh
hưởng tiêu cực. Chính vì vậy, cuộc đấu tranh chống lại ảnh hưởng tiêu
cực của văn hóa nước ngoài cùng sự có mặt của chủ nghĩa hiện sinh cũng
như hiện tượng học trên bình diện mới trở nên hết sức phức tạp. Đòi hỏi
chúng ta phải có sự quan tâm nhiều hơn nữa đến chủ nghĩa hiện sinh cũng
giống như hiện tượng học.
2
Từ những lý do trên, chúng tôi chọn “Một số biểu hiện của hiện
tượng học trong văn học hiện sinh miền Nam Việt Nam trước năm
1975” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp cử nhân triết học.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chủ nghĩa hiện sinh và hiện tượng học từ khi mới ra đời đã thu hút
được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu trên thế giới và trong nước. Ở
Việt Nam, các công trình nghiên cứu về chủ nghĩa hiện sinh và hiện
tượng học đã xuất hiện ngày càng nhiều và thường xuyên trên các tạp chí
chuyên ngành và xuất bản thành sách.
Trước hết phải kể đến các công trình nghiên cứu về chủ nghĩa hiện sinh
và văn học hiện sinh ở miền Nam trước 1975 từ góc nhìn phê phán. Một
số công trình tiêu biểu thuộc khuynh hướng này bao gồm:
Tác giả Đỗ Đức Hiểu trong công trình Phê phán văn học hiện sinh
chủ nghĩa (1989) đã phê phán chủ nghĩa hiện sinh và văn học hiện sinh
chủ nghĩa đã coi rẻ, chà đạp con người, xem con người chỉ là một hữu thể
tiêu cực “sợ hãi và run rẩy”, cô đơn và bất lực, phiêu lưu và tuyệt vọng.
Tác giả kết luận: một trong những di hại cần “phê phán nghiêm khắc” cái
gọi là văn học hiện sinh ở Sài Gòn và vấn đề cần kết luận ở đây là phải
khẳng định tính chất phản động của bộ phận văn học tự nhận mình là hiện
sinh này.
Trong thời gian trước 1975, tác giả Phạm Văn Sĩ phê phán tư tưởng
hiện sinh trong tiểu thuyết Yêu của Chu Tử. Nhưng trong tác phẩm Về tư
tưởng và văn học phương Tây hiện đại (1986), ông lại có những chuyển
biến về lập trường nghiên cứu với những nhận định khách quan hơn về
chủ nghĩa hiện sinh và văn học hiện sinh phương Tây khi trình bày những
quan niệm mỹ học của các nhà hiện sinh chủ nghĩa để thấy rõ “nó là cái
gì”. Tuy nhiên ông vẫn giữ thái độ phê phán khá quyết liệt đối với một số
phạm trù của chủ nghĩa hiện sinh như lo âu, dấn thân ... Tác giả thừa nhận
một số giá trị trong văn học hiện sinh phương Tây tuy nhiên đối với văn
3
học Sài Gòn thì ông lại phê phán: “Văn học hiện sinh ở Sài Gòn ít có cái
vẻ cao đạo, cái dáng siêu thoát như đã có trong một số truyện ở phương
Tây, cũng ít có những băn khoăn dây dứt về thân phận con người như ở
châu Âu” [21, 360-361].
Cũng trong chiều hướng nghiên cứu phê phán này còn có thể kể tên các
công trình tiêu biểu khác như Triết học và cuộc đấu tranh ý thức hệ
(1984) của Phạm Như Cương (chủ biên), Triết học tư sản phương Tây
hôm nay (1986) của Vũ Khiêu (chủ biên), Mấy trào lưu triết học triết học
phương Tây (1988) của Phạm Minh Lăng.
Có thể nhận định chung rằng, trong các công trình kể trên, triết học
phương Tây hiện đại nói chung, hiện tượng học nói riêng được trình bày
còn khá sơ lược, và được tiếp cận từ góc nhìn “phê phán triết học tư sản
hiện đại”. Điều đó phần nào đã ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu.
Trong những thập niên cuối thế kỷ XX, cùng hòa nhịp với bầu
không khí đổi mới thì lập trường nghiên cứu của các học giả về triết học
phương Tây hiện đại có những chuyển biến tích cực với những lời nhận
định, đánh giá cởi mở và toàn diện hơn, thể hiện khá rõ nét trong các
công trình sau:
Văn học hiện đại, văn học Việt Nam giao lưu và gặp gỡ (1994) của tác giả
Trần Thị Mai Nhi là công trình đã đề cập một cách hệ thống về sự giao
lưu và gặp gỡ giữa chủ nghĩa hiện đại nói chung và chủ nghĩa hiện sinh
nói riêng và văn học Việt Nam.
Tác giả Nguyễn Tiến Dũng trong chuyên khảo Chủ nghĩa hiện
sinh: Lịch sử, sự hiện diện ở miền Nam Việt Nam (1999) đã cho rằng chủ
nghĩa hiện sinh Sài Gòn đã đánh mất bộ mặt chống duy lý một cách nhất
quán như ở phương Tây, không phủ nhận đối với xã hội tiêu thụ mà lựa
chọn hiện sinh trong bội thực khoái lạc. Tác giả khẳng định chủ nghĩa
hiện sinh Sài Gòn vẫn giữ được cái lõi của nó là một chủ nghĩa hiện sinh
bi quan đến cùng cực. Có thể thấy rằng, đây là một trong số những công
4
trình đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu về chủ nghĩa hiện sinh từ quan điểm
khách quan và biện chứng.
Triết học phương Tây hiện đại (2002) của hai nhà nghiên cứu Bùi
Đăng Duy và Nguyễn Tiến Dũng cũng là một công trình nghiên cứu khá
công phu về triết học phương Tây hiện đại. Công trình đã đưa ra các nhìn
khách quan và đúng đắn về vai trò, vị trí của hiện tượng học và chủ nghĩa
hiện sinh trong dòng chảy triết học phương Tây hiện đại.
Tác giả Nguyễn Hào Hải trong Một số học thuyết triết học phương
Tây hiện đại (2001) cũng đã giới thiệu những nét khái quát về quan điểm
và mối quan hệ giữa hiện tượng học Husserl và chủ nghĩa hiện sinh. Ông
viết: “Có thể nói không nhờ vào hiện tượng luận của Husserl như một
phương pháp quan trọng thì chủ nghĩa hiện sinh không thể phát triển
mạnh mẽ như chúng ta đã biết” [13, 110].
Trong năm 2010, các tác giả Nguyễn Chí Hiếu, Đỗ Minh Hợp, và
Phạm Quỳnh Trang đã cho ra mắt bạn đọc công trình chuyên khảo Hiện
tượng học của Husserl. Có thể nói, so với các công trình nghiên cứu về
hiện tượng học của Husserl từ trước đến nay thì đây là công trình mang
tính chuyên sâu.
Các tài liệu nghiên cứu về triết học phương Tây hiện đại và hiện tượng
học cũng đã được chuyển ngữ sang tiếng Việt như Triết học phương Tây
hiện đại (1994) của Lưu Phóng Đồng; Triết học phương Tây hiện đại –
Từ điển (1996); Các con đường của triết học phương Tây hiện đại (1997)
của J.K. Melvil; Hiện tượng học và chủ nghĩa duy vật biện chứng (2004)
của Trần Đức Thảo; Hiện tượng học Husserl (2005) của Diêu Trị Hoa...
Trong các công trình này, hiện tượng học của Husserl và nhiều học thuyết
triết học hiện đại khác ở phương Tây được nghiên cứu một cách vừa tổng
quát vừa chuyên sâu tương ứng với đối tượng và mục đích nghiên cứu.
Ngoài ra, còn rất nhiều bài viết về chủ nghĩa hiện sinh, văn học
hiện sinh và hiện tượng học được đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành
5
như Triết học hiện sinh và văn học (Tạp chí Văn học nước ngoài, số 3,
2004); Dấu ấn phương Tây trong văn học Việt Nam hiện đại – vài nhận
xét tổng quát của Trần Văn Dân (Tạp chí Văn học, số 2, 1997); Hiện
tượng học: thực chất và ý nghĩa của Nguyễn Tiến Dũng (Tạp chí Triết
học, số 4, 1996); Phương pháp hiện tượng học của E.Huxéc của Nguyễn
Trọng Nghĩa (Tạp chí Triết học, số 4, 2006)… đã đưa đến cho chúng ta
các trắc diện về chủ nghĩa hiện sinh, văn học hiện sinh và hiện tượng học
Husserl.
Từ tổng quan tình hình nghiên cứu cho thấy, hướng nghiên cứu của
đề tài nhận được sự quan tâm chú ý của giới nghiên cứu và trên thực tế,
các công trình nghiên cứu đi trước cũng đã đạt được những kết quả đáng
chú ý. Đó sẽ là cơ sở để tác giả khóa luận kế thừa và hệ thống hóa những
kiến thức đã học trong quá trình triển khai đề tài nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Mục đích của khóa luận là nghiên cứu làm rõ một số biểu hiện của
hiện tượng học trong văn học hiện sinh ở miền nam Việt Nam trước năm
1975.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn có các nhiệm vụ sau :
- Luận giải về hiện tượng học với tư cách là quy chế triết học của chủ
nghĩa hiện sinh.
- Chỉ ra một số chủ đề của văn học hiện sinh miền Nam Việt Nam trước
năm 1975 từ góc nhìn hiện tượng học.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của khóa luận là chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử; các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
về văn hóa và tư tưởng.
6
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận quán triệt hai nguyên tắc mang tính phương pháp luận là
quan điểm khách quan và quan điểm biện chứng. Ngoài ra khóa luận còn
sử dụng nhất quán một số phương pháp nghiên cứu như lôgic và lịch sử,
phân tích và tổng hợp, khái quát hóa và hệ thống hóa, so sánh...
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là một số biểu hiện của hiện tượng
học trong văn học hiện sinh ở miền Nam trước 1975.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Cùng với sự du nhập của chủ
nghĩa hiện sinh, hiện tượng học cũng biểu hiện khá phong phú trong
nhiều lĩnh vực như tâm lý học, xã hội học, sử học... Trong khi khóa luận,
tác giả chỉ tập trung làm rõ một số biểu hiện của hiện tượng học trong văn
học và xem đó là phạm vi nghiên cứu của đề tài này.
6. Đóng góp của đề tài
Là một luận văn tốt nghiệp bậc cử nhân, công trình nghiên cứu này
chỉ là sự khái quát những kết quả của các thế hệ đi trước đã đạt được và là
sự hệ thống hóa những kiến thức đã học. Vì vậy khóa luận có thể bổ sung,
làm phong phú thêm những kiến thức về văn học hiện sinh và hiện tượng
học, đồng thời là tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm đến vấn đề
này. Khóa luận cũng góp phần giúp cho người đọc có cái nhìn đúng đắn
về văn học hiện sinh ở Sài Gòn trước 1975. Từ đó có thể chủ động trong
việc tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới.
7. Kết cấu
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, khóa luận gồm
2 chương (4 tiết).
Chương I
HIỆN TƯỢNG HỌC: QUY CHẾ CỦA CHỦ NGHĨA HIỆN SINH
7
1.1. Vài nét về sự hình thành của chủ nghĩa hiện sinh
1.1.1. Điều kiện lịch sử - xã hội
Chiến tranh thế giới lần thứ II kết thúc để lại những hậu quả rất nặng nề.
Châu Âu tuy là phe thắng trận nhưng cũng chịu nhiều thiệt hại, xã hội
Châu Âu trở nên điêu tàn và đổ nát, con người rơi vào tình trạng chán
nản, bế tắc, mất niềm tin vào cuộc sống, con người hoài nghi tất thẩy, chỉ
còn bản thân mình – một cá nhân cô độc, xa lạ với mọi thứ, cuộc sống
không có gì đảm bảo. Chính vì vậy họ tìm đến với chủ nghĩa hiện sinh để
thích nghi với hoàn cảnh, đồng thời tìm ở đó một chổ dựa tinh thần, một
niềm an ủi nào đó.
Vì vậy có người cho rằng, chiến tranh thế giới tàn khốc là nguồn
gốc của chủ nghĩa hiện sinh. Thực tế không phải vậy, chiến tranh chỉ là
một điều kiện. Thực chất, nguồn gốc của chủ nghĩa hiện sinh và các hình
thức khác của chủ nghĩa nghĩa phi duy lý hiện đại là sự khủng hoảng, sự
bại hoại tinh thần do chủ nghĩa duy lý gây nên trong xã hội phương Tây
hiện đại.
Chủ nghĩa duy lý ở phương Tây xuất hiện từ khi chủ nghĩa công
nghiệp ra đời ở thế kỷ XVII. Đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản phương
Tây bỏ lại phía sau thời kỳ cổ điển để bước sang thời kỳ hiện đại. Cuộc
cách mạng công nghiệp và sau đó là cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ đã làm biến đổi tận gốc nền sản xuất của xã hội.
Bước vào thời kỳ hiện đại, công nghiệp cơ khí phát triển, quy mô
sản xuất tăng lên mạnh mẽ dẫn tới việc tích tụ sản xuất ở các xí nghiệp
lớn, sản phẩm của xã hội như tuôn trào khắp nơi. Người ta nhận đó là nhờ
những thành tựu của khoa học tự nhiên. Những kỳ tích đó của khoa học
tự nhiên được ý thức hệ phương Tây miêu tả như thành quả của chủ nghĩa
duy lý.
Không dừng lại ở cuộc cách mạng công nghiệp, vào giữa thế kỷ
XX, ở Châu Âu bùng nổ cuộc cách mạng công nghệ, gây nên những biến
8
đổi chưa từng thấy, Châu Âu dấn sâu vào sùng bái kỹ thuật, và xuất hiện
ý kiến cho rằng, sự phát triển của khoa học – kỹ thuật có thể cứu chủ
nghĩa công nghiệp khỏi cuộc khủng hoảng loại trừ mọi ung nhọt và
những mâu thuẩn xã hội vốn có của xã hội đó. Sự phát triển kinh tế mạnh
mẽ, cuộc “bùng nổ kinh tế” vào những năm 50,60 của thế kỷ này đã hình
thành một xu hướng duy lý cao gọi là chủ nghĩa kỹ trị. Những quan niệm
kỹ trị được bộc lộ rõ ràng trong những mô hình xã hội, chính trị, kinh tế...
Trong đó có thể nói đến chủ nghĩa duy lý về nhà nước và thị trường, cái
mà J. Habermas cho là hai trụ cột của xã hội phương Tây hiện đại.
Với chủ nghĩa duy lý, phương Tây đã đạt được giai đoạn tột cùng trong
sự phát triển của nó. Nhưng chính ở đỉnh điểm của sự phồn vinh đó, nó
đã xa vào cuộc khủng hoảng. Các nhà triết học phi duy lý như Spengler,
Nietzsche đã nói tới sự suy tàn, suy đồi của phương Tây chính ở chủ
nghĩa duy lý kỹ thuật của nó.
Điều quan trọng nhất trong sự khủng hoảng của chủ nghĩa duy lý là nó đã
nhân vị hóa con người, con người chỉ còn là “một lực lượng vật chất đơn
thuần”. Một khi con người trở thành bần cùng và kiệt quệ trong bộ máy
kỹ thuật khổng lồ của xã hội hiện đại thì sự suy sụp cá nhân là một điều
hiển nhiên. Thân phận con người đã như thế thì thành tựu mà loài người
giành được tất không bằng giá trị người của loài người mà bằng “giá trị
suy đồi của đạo đức”.
Chủ nghĩa hiện sinh là một sự phản ứng lại, đối lập lại của chủ nghĩa duy
lý thống trị trong xã hội phương Tây hiện đại. Nó là một trào lưu triết
học phi duy lý quan trọng rất thịnh hành ở phương Tây những năm 50-60
của thế kỷ XX. Chủ nghĩa hiện sinh muốn giải thích về cuộc khủng hoảng
trong đời sống phương Tây theo cách của riêng mình. Vấn đề trung tâm
của chủ nghĩa hiện sinh là giành lại nhân vị cho con người.
9
Tóm lại những hậu quả của chủ nghĩa duy lý gây ra trong xã hội phương
Tây hiện đại là nguyên nhân làm xuất hiện chủ nghĩa hiện sinh và các
hình thức khác của chủ nghĩa phi duy lý.
1.1.2. Nguồn gốc tư tưởng của chủ nghĩa hiện sinh
Bất kỳ một tư tưởng, một học thuyết nào ra đời đều là sự kế thừa và chịu
ảnh hưởng của những sản phẩm tư tưởng đã tồn tại trước đó. Đồng thời
nó cũng phản ánh các mối quan hệ xã hội đương thời. Chủ nghĩa hiện
sinh cũng vậy. Nó hình thành và phổ biến ở thế kỷ XX, cho nên có ý kiến
cho rằng chủ nghĩa hiện sinh là một “phong cách mới trong triết học” mà
trước kia chưa từng có. Nhưng khi tìm đến tận cùng nguồn gốc tư tưởng
của chủ nghĩa hiện sinh thì các nhà hiện sinh lại ngược về tận thời kỳ Hy
Lạp cổ đại với những mảnh tư tưởng hiện sinh còn đọng lại trong văn hóa
Hy Lạp, đặc biệt ở Socrates, trong đạo Kitô, với những nhân vật trong
Cựu ước và Tân ước, trong các nhà tư tưởng như thánh Augustine,
B.Pascal. Tuy vậy, họ vẫn chưa được xem là những người có ảnh hưởng
trực tiếp mà chỉ là những người đặt nền móng cho sự hình thành của chủ
nghĩa hiện sinh. Về nguồn gốc tư tưởng đích thực của chủ nghĩa hiện sinh
phải nói đến triết học đời sống của Nietzche, hiện tượng học của Husserl
làm tiền đề lý luận. Kierkegaard, người mở đường lập chủ nghĩa hiện sinh
đã kế thừa những di sản tư tưởng cần thiết của triết học Đức để đặt nền
móng cho học thuyết của mình. Cho nên có thể nói chủ nghĩa hiện sinh là
Kierkegaard cộng với hiện tượng học Đức.
1.2. Hiện tượng học như là phương pháp cơ bản của chủ nghĩa hiện
sinh
Hiện tượng học của Husserl được xem xét như một phương pháp triết
học, là công cụ nhận thức cơ bản để trang bị cho các nhà hiện sinh. Các
phương pháp đó được gọi là phương pháp hiện tượng học. Husserl gọi
những phương pháp này là những phương cách quy giản. Những phương
cách quy giản trong hiện tượng học của ông không nên hiểu như một
10
phương pháp, một công cụ để nhận thức mà là để miêu tả thật chính xác
những hiện tượng đã xảy ra trong ý thức. Quy giản là loại trừ tất cả những
gì đã được giả định trước để chỉ còn lại cái gì làm đối tượng cho ý thức.
Có ba phương cách quy gản triết học là: quy giản triết học, quy giản bản
chất, và quy giản hiện tượng học.
a) Quy giản triết học
Quy giản này buộc ta phải xem xét lại các triết học đã có, nó yêu cầu đặt
trong ngoặc mọi lý thuyết của tiền nhân, nghĩa là “làm bàn trắng” vì nhà
hiện tượng học không bận tâm đến những quan điểm của người khác, mà
nắm lấy ngay bản thân sự vật. Trong văn nghệ cũng giống như trong tư
tưởng, đây là bước tiến đầu tiên, chúng ta phải tránh những con đường
mòn, phải đặt lại tất cả mọi vấn đề .
b) Quy giản bản chất
Quy giản bản chất là “tạm đặt thế giới thiên nhiên vào trong ngoặc đơn”,
câu nói này của Husserl có nghĩa là tôi không hoài nghi và không chối sự
hiện hữu của thiên nhiên, chỉ là không để tâm, không chú ý tới sự hiện
hữu của nó trong lúc này. Nói cách khác, quy giản bản chất làm cho đối
tượng bỏ mất tính chất hiện hữu của nó, để chỉ giữ lại bản chất của nó,
khi đó mỗi đối tượng, và nói chung là tất cả thế giới chỉ là một eidos.
Eidos, bản chất chính là cái mà tôi thực sự đã ý thức. Cái mà tôi tư duy đó
không phải là một tư tưởng, một ý tưởng và cũng không phải là một sự
vật hiện hữu trong thiên nhiên mà thuộc tâm thức, tức lĩnh vực ý thức tâm
thức. Như vậy, khi tôi chú ý đến cái mà tôi tư duy thì vũ trụ bị tạm bỏ ra
ngoài phạm vi của ý thức, đó chính là “tạm đặt thế giới thiên nhiên vào
trong ngoặc đơn”. Eidos như vậy là trực giác, vì vậy Husserl gọi là “trực
giác Eidos”, ngọn nguồn nhận thức, đi trước nhận thức lý tính.
Quy giản bản chất giúp ta vượt ra khỏi thế giới vật chất và như vậy đưa ta
vào thế giới tâm linh là thế giới của những gặp gỡ trực tiếp giữa ý thức và
đối tượng. Và đó cũng là một bước đưa ta đến những hiển nhiên, vì
11
Husserl vẫn coi hiện tượng học là khoa học chính xác. Đây là bước chuẩn
bị để đi vào đối diện giữa ý thức, giữa idos và thế giới hiện tượng.
c) Quy giản hiện tượng học
Quy giản hiện tượng học thực sự đã mở ra cánh cửa để ta đi đến
thế giới hiện tượng học. Quy giản hiện tượng nhằm làm cho thế giới xuất
hiện đúng như nó đã xuất hiện trong kinh nghiệm sống của ta, cho ta thấy
thế giới xuất hiện dưới ý thức của ta như thế nào trong mỗi cái nhìn của
ta. Quy giản hiện tượng học bỏ vào ngoặc “cái tôi”, tức gạt “cái tôi” tự
nhiên hiện hữu giữa thế giới chằng chịt những ràng buộc sang một bên.
Nhờ quy giản này, ta gỡ được ý thức ra khỏi vướng mắt của cái tự nhiên
và có được “cái tôi thuần túy”, “ý thức thuần túy”. Nhờ “ý thức thuần
túy” mà chủ tri ý thức “liên hệ với” “bản chất thuần túy”, đến với thế giới
hiện tượng học.
Quy giản hiện tượng học đưa ta vào trung tâm, nơi mà hiện tượng là mối
liên lạc mật thiết giữa ý thức và đối tượng vì ý thức nhất thiết hướng về
đối tượng, và đối tượng chỉ có nghĩa khi đối diện với một ý thức.
Husserl xem triết học của mình là” khoa học chính xác” ở chổ nó đã giải
quyết được mối quan hệ giữa ý thức và đối tượng được ý thức và rút ra
rằng để nhận thức rõ chân tướng của sự vật với những trắc diện muôn
màu, muôn vẽ, chúng ta không phân tích, không giải thích mà chỉ nói rõ,
tả lại thế giới ta đã đích thực sống, đã nghiệm sinh. Và quả thật ở phương
diện này, hiện tượng học đã giúp ích rất nhiều cho văn học hiện đại và
được xem là một phần không thể thiếu cho sự hình thành của chủ nghĩa
hiện sinh. Hiện tượng học và chủ nghĩa hiện sinh vẫn luôn song hành
cùng nhau, nương tựa và bổ sung cho nhau. Ở đâu có chủ nghĩa hiện sinh
thì ở đó hiện tượng học sẽ phát huy được vai trò của nó bởi lẽ hiện tượng
học được xem là quy chế triết học của chủ nghĩa hiện sinh.
Kết luận chương I
12
Sự ra đời của chủ nghĩa hiện sinh cùng với phương pháp hiện tượng học
được xem như “ngọn đèn soi đường” để dẫn dắt con người ra khỏi “màn
sương mù ảo tưởng” do chủ nghĩa duy lý gây nên trong xã hội phương
Tây hiện đại. Xã hội mà ở đó thân phận con người chỉ được xem như
“một lực lượng vật chất đơn thuần”, nơi con người cảm thấy chới với
trước thế giới bao la rộng lớn, “giống như những con người mò mẫm
trong bóng tối để tìm lối ra”, con người cảm thấy tuyệt vọng. Đúng lúc đó
thì chủ nghĩa hiện sinh xuất hiện, nó không bàn đến thế giới mông lung,
rộng lớn đó, thế giới quá xa vời với con người hiện sinh. Chủ nghĩa hiện
sinh chỉ quan tâm tới thế giới thực sự có ý nghĩa đối với con người mà
thôi. Đó là thế giới con người đã đích thân sống và nghiệm sinh, thế giới
ấy không phải cái gì xa lạ mà chỉ là thế giới hiện ra trước mắt con người,
con người chỉ việc mô tả đúng những gì mình cảm nhận được. Và như
vậy chủ nghĩa hiện sinh được phương Tây nồng nhiệt đón nhận. Chủ
nghĩa hiện sinh sở dĩ làm được điều đó vì nhờ có phương pháp hiện tượng
học. Có thể nói, nếu không có hiện tượng học thì cũng không có chủ
nghĩa hiện sinh trong tư cách là một trào lưu triết học. Hiện tượng học đã
cung cấp cho chủ nghĩa hiện sinh một phương pháp nền tảng để cảm nhận
thế giới, đặc biệt là nhận thức con người hiện sinh.
Chương 2
NHẬN DIỆN VĂN HỌC HIỆN SINH MIỀN NAM VIỆT NAM
TRƯỚC 1975 QUA NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA HIỆN TƯỢNG HỌC
2.1. Văn học - phương thức thể hiện chủ yếu của chủ nghĩa hiện sinh
Chủ nghĩa hiện sinh ra đời và chọn văn học làm công cụ truyền tải
tư tưởng của mình. Các phạm trù của chủ nghĩa hiện sinh như: hư vô, lo
âu, sợ hãi, buồn nôn… đều được truyền tải một cách hiệu quả và dễ dàng
được mọi người tiếp nhận thông qua các hình thức như: truyện ngắn, tiểu
thuyết, kịch. Sở dĩ như vậy vì trước hết cả văn học và chủ nghĩa hiện sinh
13
đều có chung một đối tượng phản ánh, đó là con người. Nếu như có người
cho rằng, cái gì xa lạ với con người thì cũng xa lạ với văn học, thì điều đó
cũng đúng với chủ nghĩa hiện sinh. Chủ nghĩa hiện sinh luôn gắn liền với
đời sống thiết thực của con người. Chủ nghĩa hiện sinh là thứ triết học về
con người, về cuộc sống trung thực của con người.
Chủ nghĩa hiện sinh kế thừa nhiều quan niệm của hiện tượng học, cho
rằng không hề có gì bên dưới “hiện tượng” cả. Triết học chỉ có việc mô tả
hiện tượng, không nên đặt vấn đề lý giải khái quát. Vì vậy để nhận thức
được bản chất của đối tượng, phương pháp mà các nhà hiện sinh dùng
không phải là phân tích hay giải thích, mà là phương pháp mô tả. Văn học
cũng vậy. Vì vậy giữa văn học và chủ nghĩa hiện sinh có mối quan hệ mật
thiết với nhau.
Chủ nghĩa hiện sinh gắn liền với văn học được bắt đầu từ những “ông tổ
hiện sinh” như Kierkegaard, Nietzche đến những Jaspers, Husserl, Pascal,
Heidegger. Tuy không phải là những nhà văn thuần túy song lại họ rất
chú ý đến văn học, và đặc biệt văn của họ cũng rất đặc sắc. Đến thế hệ
các nhà hiện sinh Pháp như Jean-Paul Sartre, Simone de Beauvoir, Albert
Camus… thì hiện tượng “hai trong một” lại càng thể hiện một cách rõ
nét hơn.
2.2. Những khía cạnh của hiện tượng học thể hiện trong văn học hiện
sinh miền Nam Việt Nam trước 1975
Văn học hiện sinh không chỉ miêu tả những phạm trù của chủ nghĩa hiện
sinh, mà trong văn học hiện sinh luôn luôn có sự góp mặt của hiện tượng
học, vì hiện tượng học đã dùng phương pháp giản lược, hoài nghi khoa
học để khám phá cái bản chất của nhận thức, đó là “ý thức ý hướng”,
“ego tiên nghiệm”. Hiện tượng học bắt gặp chủ nghĩa hiện sinh ở lập
trường phi duy lý đó.
Chủ nghĩa hiện sinh đã mượn lý luận “trở về với chính sự vật” của hiện
tượng học để thực hiện cuộc hành hương trở về với con người cụ thể. Để
14
trả lời cho câu hỏi “con người là ai?”, chủ nghĩa hiện sinh đã mượn
phương pháp “bỏ vào ngoặc” những quan niệm duy lý, trừu tượng của
hiện tượng học.
Chủ nghĩa hiện sinh du nhập vào Việt Nam trước hết ở miền Nam. Tuy
nhiên, chủ nghĩa hiện sinh ở miền Nam đã bị lai căn, cho nên bộ phận văn
học hiện sinh ở Việt Nam có rất nhiều dị biệt so với văn học phương Tây.
Nhưng do khoác lên mình những danh từ của triết học hiện sinh, chủ
nghĩa hiện sinh ở miền Nam Việt Nam cũng đòi hỏi cần phải có phương
pháp hiện tượng học để “trở về với chính mình”, cũng “bỏ vào ngoặc”
mọi diễn biến của hiện thực xã hội, nhưng lại tìm đến những cái trống
rỗng tâm hồn của những con người hưởng thụ, xa rời thực tế đấu tranh
của đồng bào miền Nam.
Chỉ trong một thời gian ngắn mà các nhà văn ở Sài Gòn đã tạo ra một
khối lượng các tác phẩm văn học hiện sinh khổng lồ mang hơi hướng của
hiện tượng học như :Vở kịch Biển tối của Lữ Hồ, Vở kịch Ngộ nhận của
Vũ Khắc Khoan, Cát lầy của Thanh Tâm Tuyền, Vòng tay học trò, Về
trong sương mù, Cho đến khi chiều xuống, Tiếng chuông gọi người tình
trở về… của Nguyễn Thị Hoàng, Cơn hồng thủy và bông hoa quỳ, Vừa
đi vừa ngước nhìn, Mưa không ướt đất…của Trùng Dương.
Kết luận chương 2
Chủ nghĩa hiện sinh du nhập vào miền Nam Việt Nam trước 1975 đã ảnh
hưởng đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là văn học, tạo
thành một trào lưu văn học là văn học hiện sinh. Giới sáng tác văn học
lúc bấy giờ đã rất quan tâm khai thác hiện tượng học Husserl với mục
đích nhằm thay đổi phương pháp sáng tác của các nhà văn trước đó bằng
phương pháp mô tả của hiện tượng học. Và không thể phủ nhận phương
pháp sáng tác mới đã khơi nguồn cho nhiều tác phẩm hay, tuy nhiên nó
không giúp ích cho việc thức tỉnh, động viên ý chí chiến đấu giành độc
15
lập dân tộc, ngược lại còn làm cho giới trẻ quay lưng với thời cuộc. Đây
quả thực là một điều đáng tiếc.
16
KẾT LUẬN
Chiến tranh thế giới thứ II cộng với sự phát triển đến mức cực đoan của
chủ nghĩa duy lý trong xã hội phương Tây thế kỷ XX đã tạo ra mảnh đất
màu mỡ để những hạt giống của chủ nghĩa hiện sinh nảy nở. Ngay từ khi
ra đời, chủ nghĩa hiện sinh đã chúng tỏ là ngọn cờ tiên phong của chủ
nghĩa nhân bản phi duy lý hiện đại trong cuộc chiến chống lại chủ nghĩa
duy lý. Nếu như chủ nghĩa duy lý từng bước tước mất nhân vị của con
người trên nấc thang phát triển của nó, thì chủ nghĩa hiện sinh lại thể hiện
khát vọng tự do mãnh liệt của con người, là ước muốn cháy bỏng được
đảm nhiệm lấy cuộc sống của chính mình, là nỗi đam mê làm người một
cách trung thực trong xã hội phương Tây hiện đại. Để làm được điều ấy,
chủ nghĩa hiện sinh không thể không viện đến hiện tượng học như là một
quy chế triết học, một phương pháp để soi vào hiện sinh. Phương pháp
mà hiện tượng học đưa ra để nhận thức thế giới không phải bằng phân
tích hay giải thích, mà bằng phương pháp mô tả, tức là chỉ nói rõ, tả lại
thế giới ta đã đích thực sống, đã nghiệm sinh. Vì vậy nó rất gần gũi với
chủ nghĩa hiện sinh, một trào lưu triết học phi duy lý điển hình. Ngoài
việc cung cấp phương pháp thì hiện tượng học còn cung cấp cho chủ
nghĩa hiện sinh một lý thuyết để trở thành một trào lưu triết học. Có thể
nói rằng nếu không có hiện tượng học thì chủ nghĩa hiện sinh chỉ là một
trào lưu, một lối sống mà thôi.
Chủ nghĩa hiện sinh ra đời và được giới trẻ phương Tây đón nhận
nồng nhiệt, chủ nghĩa hiện sinh đi vào đời sống thường nhật của họ một
cách dễ dàng thông qua các hình thức văn học như truyện ngắn, kịch và
đặc biệt là tiểu thuyết. Văn học hiện sinh phương Tây đã tái hiện lại một
số luận điểm chính của triết học hiện sinh với những triết lý về nhân sinh
mới mẽ, buộc con người phải đối mặt và giải quyết những vấn đề mới
trong xã hội.
17
Chủ nghĩa hiện sinh du nhập vào Việt Nam trước hết ở miền Nam
và cũng được thể hiện khá sinh động trong văn học miền Nam Việt Nam
trước 1975 với số lượng tác phẩm đồ sộ đi cùng với một loạt các tác giả
như : Nguyễn Thị Hoàng, Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, Túy Hồng …Từ
góc nhìn hiện tượng học, các tác giả miền Nam đã đưa ra cái nhìn về thời
cuộc, về cuộc đời, về chính bản thân mình thông qua các tác phẩm hiện
sinh của họ. Song đáng tiếc thông điệp mà họ muốn gửi gắm qua các tác
phẩm này lại không mang ý nghĩa khích lệ, động viên ý chí chiến đấu của
cho tầng lớp thanh niên và trí thức, ngược lại còn mô tả đúng tâm trạng lo
âu, sợ hãi của họ, và khuyên họ hãy “bỏ mặc tất cả” để trở về sống với
chính mình. Nó kích động cho lối sống tự do, không có giới hạn, sống
gấp, một sự khinh miệt đời sống.
Những tưởng sau ngày miền Nam giải phóng, đất nước hoàn toàn
độc lập thì chủ nghĩa hiện sinh không còn đất để sinh sôi, nảy nở thì sau
những năm đổi mới, bên cạnh sự phát triển vượt trội về kinh tế thì những
vấn đề tiêu cực của cơ chế thị trường đã gây ra một áp lực ghê gớm đối
với con người cá nhân, tạo điều kiện cho ý thức về con người cá nhân
phát triển và tư tưởng hiện sinh có cơ hội bộc lộ.
Nước ta đang trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tuy
nhiên duy lý hóa nhưng đồng thời phải làm giàu đẹp thêm nền văn hóa
Việt Nam lấy con người làm trung tâm. Hiện đại hóa về mặt kỹ thuật, về
nhà nước, thị trường không làm mất nhân vị của con người như đã diễn ra
ở các nước tư bản, mà trái lại phải nỗ lực ở mức cao “nhân hóa kỹ thuật”
nhằm giúp cho con người có cuộc sống ấm no và hạnh phúc hơn. Phải
loại bỏ những mặt tiêu cực của chủ nghĩa hiện sinh, không để cho nó có
cơ hội thâm nhập vào Việt Nam với sự nỗi loạn, kích động, ly khai như đã
từng xảy ra ở Pháp hay trong phản văn hóa Mỹ.
Với tham vọng xây dựng một triết học vì con người, dựa trên
phương pháp hiện tượng học. Chủ nghĩa hiện sinh và hiện tượng học vẫn
18
gửi một thông điệp tới thế hệ hôm nay. Hiện tượng học gửi tới cho chúng
ta cái nhìn lấy chủ thể và thế giới đời sống làm gốc trong mọi nỗ lực tìm
hiểu con người và thế giới trước những cách tân của nền văn minh hậu
hiện đại. Còn chủ nghĩa hiện sinh buộc chúng ta phải sẵn sàng đối thoại
với nó một cách thẳng thắn và khoa học trên lập trường thế giới quan
cách mạng và phương pháp luận khoa học của triết học Mác – Lênin.
19