Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Quá trình công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu của Hàn Quốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.92 KB, 22 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC...........................................................................................................................1
I.BỐI CẢNH TRƯỚC KHI THỰC HIỆN CÔNG NGHIỆP HÓA.....................................1
1.Tình hình chính trị kinh tế xã hội..................................................................................1
1.1 Tình hình chính trị.................................................................................................1
1.2 Tình hình kinh tế xã hội.........................................................................................2
2.Các nhân tố thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa..........................................................3
2.1 Trong nước.............................................................................................................3
2.2 Ngoài nước.............................................................................................................4
II. NỘI DUNG CHIẾN LƯỢC CÔNG NGHIỆP HÓA CỦA HÀN QUỐC.......................5
1.Chiến lược công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu..........................................................5
1.1Nội dung..................................................................................................................5
1.2 Ưu và khuyết điểm.................................................................................................8
2.1 Nội dung.................................................................................................................9
2.2 Ưu và khuyết điểm...............................................................................................10
3. Chiến lược công nghiệp hoá hỗn hợp........................................................................12
3.1 Nội dung...............................................................................................................12
3.2 Ưu, nhược điểm...................................................................................................13
III LIÊN HỆ QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA CỦA VIỆT NAM,
BÀI HỌC KINH NGHIỆM...............................................................................................14
1.Quan điểm về công nghiệp hóa của Đảng:.................................................................14
2.Mục tiêu:.....................................................................................................................15
3.Quá trình CNH, HĐH của Việt Nam..........................................................................15
4.Những thành tựu đạt được trong quá trình CNH, HĐH ở nước ta trong những năm
qua:.................................................................................................................................18
5.Những mặt hạn chế và yếu kém trong quá trình CHN, HĐH của nước ta:................19
6.Nhận xét:.....................................................................................................................20
7.Bài học kinh nghiệm:..................................................................................................21

I.BỐI CẢNH TRƯỚC KHI THỰC HIỆN CÔNG NGHIỆP HÓA
1.Tình hình chính trị kinh tế xã hội


1.1 Tình hình chính trị
Vào những năm 1950 tình trạng căng thẳng của các nước mà tiêu biểu là sự
đối đầu giữa các nước thuộc khối Xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa. Trong đó
Mỹ là chủ nghĩa đế quốc biến những cuộc đối đầu thành những cuộc xung đột có
tính chất quốc tế. Tình hình trên có thể thấy rõ quan hệ Đông Bắc Á trong thời
gian diễn ra cuộc chiến tranh trên đất nước Korea.

1


Sau khi hai nhà nước cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên ở phía bắc vĩ
tuyến 38 và Đại Hàn Dân Quốc ở phía nam vĩ tuyến 38, thì tình hình Korea vô
cùng căng thẳng. chính quyền phía nam không ngừng thi hành những chính sách
thù địch với bắc Triều Tiên kể cả âm mưu thống nhất Korea bằng vũ lực. Về phía
Mỹ, Mỹ muốn tạo một bàn đạp chiến lược ở bắn đảo Korea nhằm bao vây hệ
thống xã hội chủ nghĩa. Trên quan điểm này cả Mỹ và nam Triều Tiên đều mong
muốn tiêu diệt chính quyền dân chủ nhân dân Bắc Korea, đó cũng là nguyên nhân
gây ra sự bùng nổ cuộc chiến tranh Korea sau này.
Vào 21 tháng 1 năm 1950 Mỹ và Nam Korea đã ký hiệp ước về “ phòng thủ
hỗ trợ và giúp đỡ, tương trợ lẫn nhau”. Từ hiệp ước này Mỹ hoàn toàn kiểm soát
chính sách đối ngoại của nam Korea. Nhờ sự giúp đỡ của Mỹ nam korea đã tiến
hành nhiều cuộc tấn công bắc Korea. Hai bên chiến đấu căng thẳng nhưng không
phân thắng bại. Trong thời gian này Liên Xô không trực tiếp tham chiến nhưng sự
giúp đỡ to lớn của Liên Xô và Trung Quốc vô cùng có ý nghĩa đối với bắc Korea.
Liên Xô vẫn chủ trương giải quyết vấn đề Triều Tiên bằng con đường hoà bình và
được nhiều nước ủng hộ. Trước tình hình đó Mỹ phải chấp nhận đề nghị của Liên
Xô về việc đàm phán. Kết quả của cuộc đàm phán là kí hiệp ước Bàn môn Điếm
ngày 27 tháng 7 năm 1953. Hiệp ước này quy định lấy vĩ tuyến 38 làm ranh giới
phân chia hai miền Nam Bắc triều tiên. Từ đây hai miền Nam Bắc trở thành hai
thực thể đối lập về chính trị, độc lập về kinh tế.

1.2 Tình hình kinh tế xã hội
Sau chiến tranh cả hai miền nam bắc đều phải chịu cảnh bị tàn phá dữ dội.
Ngoài việc mất mấy triệu sinh mạng cả hai bên đều phải chịu cảnh cơ sở hạ tầng
kinh tế bị phá hoại, hàn triệu người bị sa thải, hàng trăm trẻ mồ côi sau chiến
tranh. Nam korea dù được hỗ trợ nhiều từ Mỹ và các nước phương tây nhưng khả
năng phát triển vẫn rất thấp.
Bối cảnh kinh tế trước đây quá lệ thuộc vào Nhật vì vậy sự đoạn tuyệt với
Nhật sau khi Nhật bị thất bại, tạo ra một nguy cơ cho nền kinh tế korea. Trước đây
2


có sự liên hệ mật thiết giữa miền bắc phát triển công nghiệp nặng và miền nam
phát triển công nghiệp nhẹ, giờ đây hai miền tách biệt hoàn toàn. Miền nam thiếu
các chuyên viên kĩ thuật có trình độ, sự mất giá đồng won đưa đất nước vào tình
trạng lạm phát nghiêm trọng nguồn tài nguyên đã bị Nhật khai thác một cách thô
bạo còn bị tàn phá bởi chiến tranh. Trong tột đỉnh sự nghèo đói đó dân số lại gia
tăng 3% mỗi năm, nạn thất nghiệp hoành hành, lúc này nền kinh tế nam korea
không có những mặt hàng xuất khẩu đáng kể ngược lại còn phải nhập khẩu cả về
nguyên liệu lẫn các mặt hàng sản xuất quan trọng. Nèn kinh tế trong nước lúc này
đang bị rối loạn nghiêm trọng.
2.Các nhân tố thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa.
2.1 Trong nước
Sau chiến tranh thế giới lần II, và đặc biệt là sau nội chiến Nam – Bắc, Hàn
Quốc không còn gì hết ngoài đống đổ nát. Trong những năm đầu sau chiến tranh
thế giới thứ II Hàn Quốc vốn đã phải đối đầu với nền kinh tế manh mún và èo ọt.
Giờ đây khi chiến tranh thế giới thứ II kết thúc những gì còn lại chỉ là một đống
tro tàn. Chiến tranh đã hủy hoại thủ đô Seoul và nhiều thành phố khác. Nhiều nhà
máy, hầm mỏ, đoàn tàu đánh cá, hệ thống tưới tiêu, nhà cửa, làng mạc bị tàn phá
nặng nề, người dân rơi vào cảnh túng đói.
Vào những năm 1950, tốc độ tăng trưởng GDP của Hàn Quốc chỉ đạt mức

bình quân 3.7%, thu nhập bình quân đầu người còn ở mức hạn chế hơn chỉ 0.7%.
tỷ lệ xuất khẩu không đáng kể chỉ đạt mức 1% tổng thu nhập quốc dân. Thu nhập
trong công nghiệp, nông nghiệp, và các ngành khác không lớn cùng với việc chưa
phát triển chính sách huy động tiết kiệm trong nước nên tích lũy hầu như không
có. Vốn dùng cho việc phục hồi và phát triển ngành công nghiệp mới tạo sản phẩm
thay thế nhập khẩu chủ yếu dựa vào viện trợ nước ngoài.
Sau chiến tranh thế giới thứ II kết thúc, các công ty Mỹ đã đến và mở văn
phòng chi nhánh tại Hàn Quốc thế nhưng năm 1950 khi chiến tranh thế giới thứ II
bùng nổ, hầu hết các công ty đều rút khỏi thị trường Hàn Quốc. Chiến tranh kết
thúc Hàn Quốc gặp rất nhiều khó khăn về kinh tế, chính trị, xã hội. Chiến tranh và
3


hậu quả tàn khốc của nó đã buộc Hàn Quốc phải đối mặt với hàng loạt vấn đề
nghiêm trọng. Trong 20 triệu người Hàn Quốc sau khi chiến tranh chấm dứt, có
khoảng ¼ là không có nhà cửa, phiêu tán, không có của cải. Trên một triệu dân
thường và khoảng 320000 binh sĩ ở miền Nam đã hi sinh đa số những người này ở
trong độ tuổi lao động. Trong lúc đó vào thời điểm này Hàn Quốc có cơ sở công
nghiệp rất èo ọt. Vào năm 1930 Nhật xây dựng nhà máy thủy điện cung cấp 90%
lượng điện cho Triều Tiên đồng thời lập ra nhiều xí nghiệp hóa chất lớn để sản
xuất phân bón, đạn dược… Nhưng sau khi đất nước chia cắt tất cả những phương
tiện này đã thuộc về Bắc Triều Tiên.
Bức tranh kinh tế quá ảm đạm, tình hình chính trị bất ổn thường xuyên
khiến các nhà đầu tư trên thế giới không giám đầu tư mạo hiểm vào Hàn Quốc.
Cho đến 1961 hầu như không có môt doanh nghiệp nào của Mỹ đầu tư trực tiếp
vào Hàn Quốc. Vắng đầu tư môi trường kinh doanh của Hàn Quốc ảm đạm, không
có triển vọng phát triển kinh tế tại đây.
2.2 Ngoài nước
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Mỹ trở thành nước giàu mạnh nhất, chiếm
ưu thế tuyệt đối về mọi mặt trong thế giới chủ nghĩa tư bản, riêng về mặc kinh tế

chiếm ưu thế vì một nền công nghiệp và nông nghiệp phát triển cao, sản lượng
công nghiệp Mỹ chiếm quá nữa tổng sản lượng công nghiệp của thế giới tư bản,
56.4% năm 1948. Sản lượng nông nghiệp gấp hai lần Pháp, Anh, cộng hòa liên
bang Đức, Ý, Nhật cộng lại. Với thực lực của mình Mỹ đã đề ra ‘chiến lược toàn
cầu’ nhằm thống trị toàn thế giới. Để đạt được mục đích của mình, Mỹ ráo riết
chạy đua vũ trang, phát triển lực lượng hạt nhân, lập các khối quân sự và ký kết
với nhiều nước những hiệp ước quân sự tay đôi cho phép Mỹ đóng quân và xây
dựng các căn cứ quân sự trên lãnh thổ các nước. Mỹ can thiệp sâu vào công việc
nội bộ của các nước, dựng nên chính quyền thân Mỹ ở một số nơi mà Mỹ thấy cần
thiết. Mỹ sẵn sang dùng các biện pháp như đồng Dolla, viện trợ, kinh tế và quân
sự để thực hiện mục đích của mình.

4


Trong ‘chiến lược toàn cầu’, Hàn Quốc là một trong những vị trí then chốt
có ý nghĩa sống còn đối với chính sách nhằm ngăn chặn và kiềm chế chủ nghĩa
cộng sản của Mỹ. Chính vì vậy,bằng mọi thủ đoạn, Mỹ đã triển khai một lực lượng
tại đây. Song lực lượng quân sự của Mỹ không thể tồn tại và phát huy hết khả năng
của mình khi đóng trên một đất nước quá nghèo nàn về kiinh tế và bất ổn về chính
trị để tạo ra một đồng minh đủ mạnh, có môi trường chính trị tốt cho sự có mặt lâu
dài của lực lượng quân sự, Mỹ buộc phải tìm cách phục hồi và tạo điều kiện cho
kinh tế Hàn Quốc phát triển. Vì vậy, Mỹ đã xây dựng nhiều chương trình viện trợ
kinh tế cho Hàn Quốc, đồng thời vận động các nước khác trong liên hiệp quốc
giúp đỡ nước này.
Lúc này, phía Hàn Quốc lo ngại về tình hình chính trị luôn bất ổn và mối
hoài nghi về một Bắc Triều Tiên đối lập luôn có sự hậu thuẫn của Liên xô, nên
Hàn Quốc đã dựa vào Mỹ như một nên tảng vững chắc để phục hồi và phát triển
kinh tế. Từ năm 1945 đến 1960 tổng số tiền mà Mỹ viện trợ cho Hàn Quốc lên tới
2.4 tỷ USD. Riêng năm 1954-1961 Mỹ viện trợ 2 tỷ USD theo hình thức không

hoàn lại.
Mặt khác trong thời kỳ Nhật Bản chiếm đóng, tuy Hàn Quốc phải đối đầu
với sự bóc lột và tàn phá nặng nề. Nhưng cũng chính trong thời gian này, những
kỹ thuật mới, hiện đại đã được đem đến Hàn Quốc. Người Nhật đã đem tới những
kỹ thuật, công nghệ của phương Tây và có những ý tưởng mới mẻ để phát triển đất
nước này.
II. NỘI DUNG CHIẾN LƯỢC CÔNG NGHIỆP HÓA CỦA HÀN
QUỐC
1.Chiến lược công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu
1.1Nội dung
Công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu là một đường lối công nghiệp hóa theo đó
quốc gia tiến hành công nghiệp hóa nỗ lực thành lập và nuôi dưỡng các ngành
công nghiệp trong nước để sản xuất ra các sản phẩm thay thế hàng nhập khẩu.
5


Chiến lược này đòi hỏi các biện pháp bảo hộ với những ngành công nghiệp trong
nước bằng cách dựng lên các hàng rào mậu dịch chống lại hàng nhập khẩu và bằng
các khoản trợ cấp.
Sau chiến tranh, Hàn Quốc hoạch định chính sách kích thích tăng trưởng
kinh tế bằng cách thúc đẩy các công ty công nghiệp bản địa, làm theo tấm gương
của nhiều nước sau Thế chiến thứ hai. Chính phủ lựa chọn các công ty trong ngành
công nghiệp ban cho họ đặc quyền để mua ngoại tệ và vay tiền từ ngân hàng ở
mức giá ưu đãi. Chính phủ cũng được dựng lên các rào cản thuế quan và áp đặt
một lệnh cấm nhập khẩu sản xuất, hy vọng rằng việc bảo vệ sẽ cung cấp cho
doanh nghiệp trong nước một cơ hội để cải thiện năng suất. Theo chính sách này,
được gọi là công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu (ISI).
Hàn Quốc bắt đầu công nghiệp hoá với một căn bản kỹ thuật và một mức
sống cực kỳ thấp kém. Bởi có ít kỹ nghệ ngoại trừ ngành dệt ở miền Nam trước
chiến tranh Triều Tiên, nên Hàn Quốc đã thiếu những kỹ sư và những nhà quản trị

có kinh nghiệm để giúp cho việc tái thiết. Quyết tâm tiến bước với tốc độ nhanh
nhất có thể được, chính phủ Hàn Quốc đã vay của nước ngoài rất nhiều. Người
Hàn Quốc lao vào các dự án ngay khi các kế hoạch hoặc kỹ thuật học cần thiết đều
chưa sẵn sàng hẳn đâu vào đó và rồi ứng biến, làm việc đến hết sức chịu đựng để
giải quyết bất kỳ vấn nạn nào phát sinh. Đôi khi sự hành động mau chóng là cần
thiết và trong những tình huống như thế Hàn Quốc đã được lợi từ đẳng cấp tập
quyền của mình và một vị tổng thống tích cực, một con người hành động dứt
khoát và đã thi hành các kế hoạch mà không hề trì hoãn.
Đường lối tiếp cận của Hàn Quốc bắt đầu bằng cuộc hiện đại hoá bằng cách
củng cố nông nghiệp và cơ sở hạ tầng rồi chuyển sang sản xuất nông nghiệp. Vào
đầu thập niên 1960 Hàn Quốc đã nhanh chóng chuyển sang sản xuất phân bón
nhằm thay thế nguồn cung cấp mà trước kia lấy từ miền Bắc hay từ nước ngoài.
Họ cũng bắt đầu sản xuất ra máy móc nông nghiệp và tăng cường các cơ sở hạ
tầng bằng cách canh tân các xa lộ, các cảng và phương tiện giao thông. Với công

6


cuộc đô thị hoá, đất nước đã bắt đầu phát triển một cơ sở hạ tầng đô thị, và khi sản
lượng công nghiệp đã vượt qua sản lượng nông nghiệp, họ đã hướng đến trong các
thập niên 60 và 70, việc tổ chức các cộng đồng nông thôn để khuyến khích phát
triển nông thôn mà không đè nặng lên ngân sách quốc gia. Trong lĩnh vực hàng
tiêu dùng Hàn Quốc đã cố gắng nhanh chóng sản xuất hàng hóa của chính mình
cho tiêu dùng thường nhật hơn là dựa vào nhập khẩu, và trước năm 1961 họ đã đạt
được sự tiến bộ lớn trong việc giảm bớt tỷ lệ hàng tiêu dùng nhập khẩu và tăng tỷ
lệ những hàng được dùng để mở rộng năng suất công nghiệp. Họ đã khuyến khích
sản xuất vải vóc, quần áo, giày thể thao và về sau là hàng điện tử để xuất khẩu.
Với một nền kinh tế nhỏ bé hơn của Nhật Bản, Hàn Quốc không thể dựa vào thị
trường quốc nội, và đã trở nên phụ thuộc khá nhiều vào xuất khẩu so với Nhật. Họ
đã cố gắng nâng cấp công nghệ để vừa mở rộng quy mô xuất khẩu lẫn để cải tiến

năng suất, nhằm kiếm cách giữ được sức cạnh tranh quốc tế đồng thời tăng được
mức lương lên.
Từ buổi đầu của nỗ lực công nghiệp hoá, người Triều Tiên đã e ngại về sức
chi phối của người Nhật lên nền kinh tế của mình, và với sự miễn cưỡng của các
công ty Nhật trong việc chia sẻ các kỹ thuật học của họ. Hàn Quốc cũng giống như
Nhật vào thập niên 1960 khi âu lo về sức chi phối của người Mỹ, đã duy trì kiểm
soát khắt khe đối với đầu tư trực tiếp của người Nhật, vốn của ngưòi Nhật, và các
sản phẩm của người Nhật, Hàn Quốc cũng đã bảo hộ các kỹ nghệ non trẻ của mình
cho đến khi chúng đã có một tầm cỡ cực vững và thậm chí lúc đó vẫn chống
chuyện mở cửa thị trường của mình cho các sản phẩm nước ngoài. Ví dụ :Hàn
Quốc vẫn là một trong vài nước hoàn toàn không nhập xe hơi của Nhật, một chính
sách mà Nhật đã trả đũa lại khi Hàn Quốc bắt đầu sản xuất ra xe hơi có sức cạnh
tranh trong các thị trường quốc tế thông qua sự cảnh giác thường xuyên ở mọi cấp
độ, các quan chức và các nhà lãnh đạo doanh nghiệp Triều Tiên đã thành công
trong việc kìm hãm mức độ đầu tư trực tiếp của người Nhật và ngăn chặn được sự
chi phối về tài chính của Nhật Bản. Kinh nghiệm của Triều Tiên, dĩ nhiên trái
ngược hẳn với hoàn cảnh tại Hoa Kỳ và Đông Nam Á, những nơi mà sự đầu tư
7


trực tiếp của người Nhật tăng lên nhanh chóng vào hậu thập niên 1980. Người
Triều Tiên hăm hở tìm kiếm kỹ thuật học nơi người Nhật, nhưng họ đã chiến đấu,
như người Nhật đã từng chiến đấu trước kia, để giữ quyền kiểm soát trong đôi tay
của mình.
1.2 Ưu và khuyết điểm
a. Ưu điểm
- Độc lập kinh tế
- Thoát khỏi vị thế làm nước cung cấp nguyên liệu, nông sản
- Học tập thông qua thực tiễn: gây dựng kinh nghiệm kinh doanh cho doanh
nghiệp trong nước thông qua môi trường cạnh tranh không quá khắc nghiệt khi

không có hàng nhập khẩu.
- Tính kinh tế nhờ quy mô được cho là cần thiết cho phát triển doanh nghiệp trong
thời kỳ công nghiệp hóa. Dành thị trường trong nước chỉ cho doanh nghiệp trong
nước được tin rằng sẽ giúp đạt được tính kinh tế nhờ quy mô.
- Các mối liên kết liên ngành: các ngành thay thế nhập khẩu phát triển có thể tạo
cơ hội cho các ngành khác cung cấp đầu vào cho chúng hay sử dụng đầu ra của
chúng phát triển theo.
b. Nhược điểm
- Mất cân đối trong cơ cấu ngành: những ngành thay thế nhập khẩu được bảo hộ
và hỗ trợ nên phát triển mạnh trong khi những ngành khác thì lại có thể không có
cơ hội phát triển.
- Thâm hụt cán cân thanh toán: các ngành thay thế nhập khẩu phát triển đã kéo
theo nhu cầu nhập khẩu máy móc và nguyên liệu đầu vào tăng lên, nhưng ngoại tệ
lại chỉ có thể kiếm được thông qua xuất khẩu (mà nhiều khi khu vực này lại không
phát triển). Để giải quyết khó khăn về ngoại tệ, quốc gia có thể phải đi vay nước
ngoài, dẫn tới vấn đề nợ nước ngoài (một dạng phụ thuộc kinh tế khác)

8


- Sự ỷ lại của các doanh nghiệp trong nước vào sự bảo hộ và hỗ trợ của chính phủ
đã khiến cho các doanh nghiệp này không trưởng thành được.
- Thiếu kinh nghiệm cạnh tranh quốc tế đã khiến các doanh nghiệp không thể
vươn ra thị trường thế giới.
- Hàng rào mậu dịch có thể áp dụng với cả nhập khẩu các đầu vào cần thiết cho
sản xuất hàng xuất khẩu dẫn tới sự yếu kém của khu vực xuất khẩu. Đến lượt nó,
xuất khẩu yếu kém khiến cho khu vực thay thế nhập khẩu không có ngoại tệ để
nhập khẩu máy móc sản xuất.
-Và những vấn đề khác như méo mó trong phân bổ nguồn lực, tệ tham nhũng gắn
với nạn cấp phép nhập khẩu.

2.1 Nội dung
Công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu là một đường lối công nghiệp hóa theo
đó quốc gia tiến hành công nghiệp hóa nỗ lực thành lập và nuôi dưỡng các ngành
công nghiệp trong nước để sản xuất ra các sản phẩm thay thế hàng nhập khẩu.
Chiến lược này đòi hỏi các biện pháp bảo hộ với những ngành công nghiệp trong
nước bằng cách dựng lên các hàng rào mậu dịch chống lại hàng nhập khẩu và bằng
các khoản trợ cấp.
Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961- 1965) Hàn Quốc lựa chọn chiến lược
công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu.
Sau chiến tranh, Hàn Quốc hoạch định chính sách kích thích tăng trưởng
kinh tế bằng cách thúc đẩy các công ty công nghiệp bản địa, làm theo tấm gương
của nhiều nước sau Thế chiến thứ hai. Chính phủ lựa chọn các công ty trong ngành
công nghiệp ban cho họ đặc quyền để mua ngoại tệ và vay tiền từ ngân hàng ở
mức giá ưu đãi. Chính phủ cũng được dựng lên các rào cản thuế quan và áp đặt
một lệnh cấm nhập khẩu sản xuất, hy vọng rằng việc bảo vệ sẽ cung cấp cho
doanh nghiệp trong nước một cơ hội để cải thiện năng suất.

9


Hàn Quốc bắt đầu công nghiệp hoá với một căn bản kỹ thuật và một mức
sống cực kỳ thấp kém. Bởi có ít kỹ nghệ ngoại trừ ngành dệt ở miền Nam trước
chiến tranh Triều Tiên, nên Hàn Quốc đã thiếu những kỹ sư và những nhà quản trị
có kinh nghiệm để giúp cho việc tái thiết. Quyết tâm tiến bước với tốc độ nhanh
nhất có thể được, chính phủ Hàn Quốc đã vay của nước ngoài rất nhiều. Người
Hàn Quốc lao vào các dự án ngay khi các kế hoạch hoặc kỹ thuật học cần thiết đều
chưa sẵn sàng hẳn đâu vào đó và rồi ứng biến, làm việc đến hết sức chịu đựng để
giải quyết bất kỳ vấn nạn nào phát sinh. Đôi khi sự hành động mau chóng là cần
thiết và trong những tình huống như thế Hàn Quốc đã được lợi từ đẳng cấp tập
quyền của mình và một vị tổng thống tích cực, một con người hành động dứt

khoát và đã thi hành các kế hoạch mà không hề trì hoãn.
Đường lối tiếp cận của Hàn Quốc bắt đầu bằng cuộc hiện đại hoá bằng cách
củng cố nông nghiệp và cơ sở hạ tầng rồi chuyển sang sản xuất nông nghiệp. Vào
đầu thập niên 1960 Hàn Quốc đã nhanh chóng chuyển sang sản xuất phân bón
nhằm thay thế nguồn cung cấp mà trước kia lấy từ miền Bắc hay từ nước ngoài.
Họ cũng bắt đầu sản xuất ra máy móc nông nghiệp và tăng cường các cơ sở hạ
tầng bằng cách canh tân các xa lộ, các cảng và phương tiện giao thông. Với công
cuộc đô thị hoá, đất nước đã bắt đầu phát triển một cơ sở hạ tầng đô thị, và khi sản
lượng công nghiệp đã vượt qua sản lượng nông nghiệp, họ đã hướng đến trong các
thập niên 60 và 70, việc tổ chức các cộng đồng nông thôn để khuyến khích phát
triển nông thôn mà không đè nặng lên ngân sách quốc gia. Trong lĩnh vực hàng
tiêu dùng Hàn Quốc đã cố gắng nhanh chóng sản xuất hàng hóa của chính mình
cho tiêu dùng thường nhật hơn là dựa vào nhập khẩu, và trước năm 1961 họ đã đạt
được sự tiến bộ lớn trong việc giảm bớt tỷ lệ hàng tiêu dùng nhập khẩu và tăng tỷ
lệ những hàng được dùng để mở rộng năng suất công nghiệp. Họ đã khuyến khích
sản xuất vải vóc, quần áo, giày thể thao và về sau là hàng điện tử để xuất khẩu.
2.2 Ưu và khuyết điểm
a.Ưu điểm
10


- Độc lập kinh tế
- Thoát khỏi vị thế làm nước cung cấp nguyên liệu, nông sản
- Học tập thông qua thực tiễn: gây dựng kinh nghiệm kinh doanh cho doanh
nghiệp trong nước thông qua môi trường cạnh tranh không quá khắc nghiệt khi
không có hàng nhập khẩu.
- Tính kinh tế nhờ quy mô được cho là cần thiết cho phát triển doanh
nghiệp trong thời kỳ công nghiệp hóa. Dành thị trường trong nước chỉ cho doanh
nghiệp trong nước được tin rằng sẽ giúp đạt được tính kinh tế nhờ quy mô.
- Các mối liên kết liên ngành: các ngành thay thế nhập khẩu phát triển có

thể tạo cơ hội cho các ngành khác cung cấp đầu vào cho chúng hay sử dụng đầu ra
của chúng phát triển theo.
b.Nhược điểm
- Mất cân đối trong cơ cấu ngành: những ngành thay thế nhập khẩu được bảo hộ
và hỗ trợ nên phát triển mạnh trong khi những ngành khác thì lại có thể không có
cơ hội phát triển.
- Thâm hụt cán cân thanh toán: các ngành thay thế nhập khẩu phát triển đã kéo
theo nhu cầu nhập khẩu máy móc và nguyên liệu đầu vào tăng lên, nhưng ngoại tệ
lại chỉ có thể kiếm được thông qua xuất khẩu (mà nhiều khi khu vực này lại không
phát triển). Để giải quyết khó khăn về ngoại tệ, quốc gia có thể phải đi vay nước
ngoài, dẫn tới vấn đề nợ nước ngoài (một dạng phụ thuộc kinh tế khác)
- Sự ỷ lại của các doanh nghiệp trong nước vào sự bảo hộ và hỗ trợ của chính phủ
đã khiến cho các doanh nghiệp này không trưởng thành được.

11


- Thiếu kinh nghiệm cạnh tranh quốc tế đã khiến các doanh nghiệp không thể
vươn ra thị trường thế giới.
- Hàng rào mậu dịch có thể áp dụng với cả nhập khẩu các đầu vào cần thiết cho
sản xuất hàng xuất khẩu dẫn tới sự yếu kém của khu vực xuất khẩu. Đến lượt nó,
xuất khẩu yếu kém khiến cho khu vực thay thế nhập khẩu không có ngoại tệ để
nhập khẩu máy móc sản xuất.
-Và những vấn đề khác như méo mó trong phân bổ nguồn lực, tệ tham nhũng gắn
với nạn cấp phép nhập khẩu
3. Chiến lược công nghiệp hoá hỗn hợp
3.1 Nội dung
Bước sang những năm 80, Hàn Quốc đã bắt đầu có kế hoạch sản xuất các
sản phẩm kỹ thuật cao. Lúc này, tình hình kinh tế thế giới đã có nhiều thay đổi và
đang bước vào một cuộc khủng hoảng mới nên thường không ổn định, hơn nữa

chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch có xu hướng gia tăng, nhất là từ các nước tư bản phát
triển đã gây khó khăn cho việc xuất khẩu hàng hoá của Hàn Quốc, do đó trong
thời kỳ này, Hàn Quốc đã thực hiện chiến lược công nghiệp hoá hỗn hợp, tức là
kết hợp giữa chiến lược công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu với chiến lược công
nghiệp hoá hướng về xuất khẩu.
Thời kỳ này các ngành được lựa chọn là những ngành thâm dụng công nghệ
như chế tạo máy chính xác, hóa chất, chế tạo ô tô, v.v...Từ năm 1982, chính phủ
xây dựng bộ khung công nghiệp gồm các ngành then chốt và kết cấu hạ tầng, thời
kỳ này các kế hoạch chỉ tập trung vào kinh tế mà ít chú ý đến các vấn đề xã hội.
Giai đoạn 1982-1986, các kế hoạch đều mang đầy đủ cả hai nội dung: kinh
tế và xã hội, tập trung vào các mục tiêu:

12


-

Đảm bảo tăng trưởng ổn định.
Tăng đầu tư cho ngành chế tạo và nghiên cứu phát triển.
Tạo ra những sản phẩm có giá trị cao, làm tăng khả năng cạnh tranh quốc

-

tế.
Đẩy mạnh xuất khẩu.
Ổn định giá cả.
Tăng lương trên cơ sở tăng năng suất lao động.
Kiểm soát độc quyền.
Tích cực hỗ trợ cho các công ty vừa và nhỏ.
Khắc phục tình trạng mất cân đối giữa các ngành và các vùng trong cả nước


-

bằng việc đẩy mạnh phát triển nông ngư.
Trợ cấp về nhà ở, giáo dục cho các tầng lớp có thu nhập thấp.
Từ cuối những năm 80 đến nay, nền kinh tế Hàn Quốc đã có nhiều thay đổi

đòi hỏi công tác kế hoạch hoá phải được hoàn thiện liên tục.
3.2 Ưu, nhược điểm
a. Ưu điểm
Nhờ vào chiến lược kinh tế hỗn hợp mà nền kinh tế Hàn Quốc đã đạt nhiều
thành tựu đáng kể. Vào năm 1970, Hàn Quốc đã xuất khẩu 1 tỷ USD giá trị hàng
hoá, và vào những năm 1981 là 21 tỷ USD gần như hoàn toàn là hàng chế tạo.
Hàn Quốc, từng được biết đến như một trong những nước nông nghiệp
nghèo nhất thế giới, đã nghiêm túc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế từ năm
1962. Sau chưa đầy bốn thập kỷ, đất nước đã đạt được những thành tựu kinh tế
được cả thế giới biết đến như “Kỳ tích trên sông Hàn”. Đó là một quá trình phi
thường đã nhanh chóng giúp cải tạo nền kinh tế Hàn Quốc, đánh dấu một bước
ngoặt trong lịch sử của đất nước.
Với lịch sử là một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh của thế giới,
Hàn Quốc đang phấn đấu trở thành đầu mối của khối kinh tế hùng mạnh châu Á
trong thế kỷ 21. Khu vực Đông Bắc Á làm chủ những nguồn lực chủ yếu to lớn
mà đó lại chính là những thành phần cần thiết cho sự phát triển kinh tế.
b. Nhược điểm

13


Trong giai đoạn đầu thực hiện chiến lược thì chiến lược này chỉ tập trung
vào kinh tế mà ít chú ý đến các vấn đề xã hội nên dẫn đến tình trạng phát triển

không đồng đều, mất cân đối giữa các ngành trong cơ cấu của nền kinh tế, đời
sống của nhân dân nghèo chưa có những chính sách hỗ trợ thích hợp. Tuy nhiên
trong giai đoạn sau của quá trình thực hiện chiến lược, chính phủ Hàn Quốc đã
dần cải thiện và khắc phục các nhược điểm đó bằng nhiều chính sách thích hợp.
III LIÊN HỆ QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA
CỦA VIỆT NAM, BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Định nghĩa công nghiệp hóa ở Việt Nam là gì?
Theo văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 10, công nghiệp hóa là
quá trình chuyển đổi cơ bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, quản lý
kinh tế, quản lý xã hội từ dựa vào lao động thủ công là chính sang dựa vào lao
động kết hợp cùng với phương tiện, phương pháp công nghệ, kỹ thuật, tiên tiến
hiện đại để tạo ra năng suất lao động cao.
1.Quan điểm về công nghiệp hóa của Đảng:
- Giữ vững độc lập tự chủ, đi đôi với hợp tác, mở rộng, hợp tác quốc tế, đa
phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế quốc tế. Dựa vào nguồn lực trong nước
là chính, đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực từ bên ngoài, xây dựng một nền kinh
tế mở cửa hội nhập hướng mạnh về sản xuất cho xuất khẩu, đồng thời thay thế sản
phẩm nhập khẩu cho có hiệu quả.
- CNH-HĐH là sự nghiệp của toàn dân, được mọi thành phần kinh tế tham
gia, trong đó nền kinh tế nhà nước là chủ đạo.
- Lấy việc phát huy yếu tố con người làm chủ đạo, tăng trưởng kinh tế gắn
liền với cải thiện đời sống người dân, tăng cường dân chủ, thực hiện tiến bộ công
bằng xã hội.
- Khoa học công nghệ là động lực của CNH-HĐH, kết hợp công nghệ
truyền thống và công nghệ hiện đại, tranh thủ đi nhanh vào công nghệ hiện đại ở
những khâu có tính chất quyết định.

14



- Lấy hiệu quả kinh tế - xã hội tổng thể là tiêu chuẩn cơ bản để xây dựng
phương án phát triển, lựa chọn dự án đầu tư phát triển và công nghệ, đầu tư có
chiều sâu để khai thác tối đa nguồn lực hiện có, trong phát triển mới ưu tiên phát
triển quy mô vừa và nhỏ, công nghệ tiên tiến, tạo nhiều việc làm, thu hồi vốn
nhanh, đồng thời xây dựng một số công trình qui mô lớn thật cần thiết và có hiệu
quả.
- Kết hợp chặt chẽ toàn diện, phát triển kinh tế quốc phòng.
2.Mục tiêu:
• Mục tiêu tổng quát:
Là mục tiêu lâu dài, xây dựng nước Việt Nam trở thành nước công nghiệp có
cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, quan hệ cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất
tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản suất, đời sống vật chất
tinh thần cao, an ninh quốc phòng vững chắc, dân giàu, nước mạnh xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh. Ra sức phấn đấu để đến năm 2020 nước Việt Nam cơ
bản trở thành nước công nghiệp, với tỷ trọng ngành công nghiệp vượt trội hơn các
ngành khác).
• Mục tiêu cụ thể:
Đến năm 2010, Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp với tỉ trọng
trong GDP của nông nghiệp chiếm 16-17%, công nghiệp khoảng 40-41%, dịch vụ
chiếm 42-43%, tỷ trọng lao động trong tổng lao động xã hội, lao động công nghiệp
và dịch vụ là 50%, nông nghiệp là 50%.
3.Quá trình CNH, HĐH của Việt Nam
Được chia làm 3 giai đoạn:
*Giai đoạn 1:
Từ năm 2000 đến năm 2010 là giai đoạn bắt đầu đẩy mạnh CNH, HĐH sau
khi đã kết thúc thời gian chuẩn bị (xác định đường lối, mục tiêu, giải pháp chung)
vào năm 2000. Mục tiêu năm 2010 là đặt nền tảng để 10 năm sau nước ta cơ bản
trở thành một nước công nghiệp. Những chỉ tiêu đề ra cho năm 2010 mặc nhiên là

15



minh họa cho yêu cầu “đặt nền tảng” cho một nước công nghiệp (về cơ bản) vào
năm 2020.
Tuy nhiên, muốn cho thành quả phát triển năm 2010 thực sự bảo đảm làm
nền tảng cho giai đoạn CNH, HĐH sau và đồng thời vừa tiến hành CNH, HĐH
vừa hoàn chình các điều kiện tiền đề cần thiết, nên chú ý phối hợp đồng bộ về mấy
mặt sau:
Về cơ cấu kinh tế, công nghiệp và dịch vụ chiếm đa số tuyệt đối trong cơ
cấu GDP (trên 85%), đóng góp cùa khoa học, công nghệ trên 40% trong tăng
trưởng GDP (hiện nay tạm ước tính trên 20%).
Vế phát triển khoa học, công nghệ, hình thành ban đầu thể chế quản lý mới
và hoàn chỉnh mạng lưới tổ chức nghiên cứu và triển khai khoa học, công nghệ,
hình thành và vận hành thị trường công nghệ, có cơ chế cụ thể khuyến khích lao
động khoa học.
Về thị trường, hình thành và định hình nền kinh tế thị trường định hướng
Xã hội Chủ nghĩa, hình thành và vận hành các dạng thị trường dịch vụ, tài chính
ngân hàng, bất động sản, công nghệ, bảo đảm thể chế hoàn chỉnh, hội nhập kinh tế
thuận lợi.
Các yêu cầu về giáo dục đào tạo, về đời sống vật chất và tinh thần vừa bảo
đảm các đòi hỏi về phát triển kinh tế, công nghệ, thị trường, vừa đạt các chỉ tiêu
tương đương trong khu vực.
*Giai đoạn 2:
Đến năm 2020 là giai đoạn cơ bản trong tiến trình CNH, HĐH, đạt mục
tiêu cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo các tiêu chí đã đề xuất trong các
phần trên. Yêu cầu “cơ bản” trở thành một nước công nghiệp không nên hiểu là
các chỉ tiêu đều đạt “cơ bản”, ví dụ: 75% hay 85% mà nên quan tâm nhiều hơn
đến những tiêu chí chủ yếu, có ảnh hưởng và tác động đến các tiêu chí khác, nhất
là về cơ cấu kinh tế, phát triển khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo, hoàn thiện
thị trường, phát triển tương ứng các khía cạnh xã hội.


16


Về cơ cấu kinh tế, điều khó khăn là đạt mục tiêu tỷ trọng nông nghiệp trong
GDP thế nào là hợp lý. Có nhất thiết phải đưa tỷ trọng đó xuống mức 3-4% như ở
các nước công nghiệp phát triển hay không? Ở đây, điều quan trọng hơn là phải
đưa được phương pháp công nghiệp và công nghệ mới, công nghệ cao vào nông
nghiệp, đưa năng suất nông nghiệp trên đơn vị diện tích khai thác và trên một lao
động trực tiếp lên mức cao, để cho người lao động nông nghiệp và hộ sản xuất
nông thôn có thu nhập xấp xỉ hoặc ngang bằng mức thu nhập chung của xã hội.
Trên cơ sở đó, có thể hình dung, nếu năm 2010 tỷ trọng nông nghiệp chiếm trên
dưới15% GDP thì năm 2020 tỷ trọng đó sẽ xuống dưới 10%.
Về khoa học – công nghệ, đến lúc kết thúc giai đoạn 2 chúng ta đã có một
nền khoa học và công nghệ Việt Nam có tính tự chủ, tự giải quyết được những vấn
đề khoa học – công nghệ do thực tiễn phát triển đặt ra và có đóng góp vào sự phát
triển khoa học – công nghệ quốc tế, nghĩa là đủ sức tiếp thu và vận dụng thành
tựu, kinh nghiệm khoa học công nghệ nước ngoài vào Việt Nam, tự nghiên cứu
phát triển những công nghệ mới thích hợp ở Việt Nam và có thành tích nghiên cứu
một số vấn đề đặc thù để đóng góp với quốc tế, nhất là những vấn đề liên quan đến
môi trường thiên nhiên trong vùng và quá trình phát triển kinh tế, xã hội, nhân văn
của đất nước. Thời kì này, kinh tế tri thức đã bắt đầu có vị thế quan trọng trong
quá trình phát triển.
Về thị trường, giai đoạn 2 là giai đoạn hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng Xã hội Chủ nghĩa, cuối giai đoạn có thể làm chủ thị trường đã phát
triển hoàn thiện trong nước, đồng thời có thể hội nhập và cạnh tranh bình đẳng
trên thị trường quốc tế, không lệ thuộc một cách thua thiệt vào các lực lượng thị
trường bên ngoài.
*Giai đoạn 3:
Là từ sau năm 2020 trở đi, thời hạn không xác định, nhiệm vụ chủ yếu là

hoàn thiện quá trình CNH, HĐH và đặt nền tảng cho giai đoạn tiếp theo, giai đoạn
hậu công nghiệp và kinh tế tri thức. Vì mục tiêu giai đoạn 2 mới là đưa nước ta cơ
bản trở thành một nước công nghiệp thoe hướng hiện đại nên chưa thể coi là
17


nhiệm vụ CNH, HĐH đã hoàn thành. Hơn nữa, sự phát triển kinh tế và khoa học
công nghệ của thế giới còn nhiều vấn đề chưa lường trước được nên việc hoàn
thiện CNH, HĐH chắc chắn là còn đặt ra nhiều bài toán mới mà phải qua từng
chặng đường mới có thể nắm bắt, nhận diện và đề xuất giải pháp. Vì vậy, những
vấn đề mục tiêu, phương châm, giải pháp v.v... phải giành cho giai đoạn sau xác
định.
4.Những thành tựu đạt được trong quá trình CNH, HĐH ở nước ta
trong những năm qua:
Ngành nông, lâm, ngư nghiệp: nước ta từ chỗ chưa tự cung tự cấp được
lương thực phải nhập khẩu nay không những đáp ứng đủ mà còn đứng thứ 2 thế
giới về xuất khẩu. Sản xuất cây công nghiệp tăng nhanh theo hướng xuất khẩu
thay thế nhập khẩu hình thành vùng sản xuất gắn với chế biến nông sản. Nghề
nuôi trồng đánh bắt thủy sản tăng khá. Công tác trồng và bảo vệ rừng có nhiều tiến
bộ: xây dựng xong căn bản hệ thống kênh mương để có thể tưới tiêu cho nông
nghiệp, bước đầu đưa máy móc hiện đại vào trong sản xuất nông nghiệp làm tăng
năng suất.
Ngành công nghiệp và xây dựng: cơ cấu công nghiệp chuyển dịch theo
hướng phù hợp với nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa.
Chúng ta đã tiếp nhận công nghệ mới, trang bị thêm nhiều thiết bị hiện đại đáp
ứng nhu cầu phát triển trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng. Có thể đảm đương
việc thi công những công trình thi công lớn hiện đại về công nghệ, năng lực đấu
thầu các công trình xây dựng kể cả trong và ngoài nước được tăng cường.
Ngành dịch vụ: du lịch phát triển đa dạng và phong phú. Dịch vụ vận tải
đáp ứng nhu cầu giao lưu hàng hóa và đi lại của nhân dân. Các dịch vụ tài chình

ngân hàng được mở rộng.
Văn hóa – xã hội: quy mô giáo dục và đào tạo có bước phát triển cả về quy
mô lẫn hình thức đào tạo và cơ sở vật chất. Nước ta đạt chuẩn quốc gia về xóa mù
chữ và phổ cập tiểu học. một số tỉnh thành phố đã bặt đầu thực hiện phổ cập trung

18


học cơ sở. Loại mô hình đào tạo, mạng lưới các trường đại học, cao đẳng, trung
cấp nghề được mở rộng và sắp xếp lại.
Khoa học công nghệ có những bước chuyển tích cực, công tác nghiên cứu
khoa học được đẩy mạnh nên đã có nhiều đề tài có tác dụng lớn trong việc phát
triển kinh tế, xã hội. Số lượng đội ngũ các nhà khoa học gia tăng nhanh.
Các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, báo chí, xuất bản phát triển.
Tạo ra nhiều việc làm mới cho người lao động, công tác xóa đói giảm
nghèo đạt được kết quả nổi bật, quốc phòng và an ninh được tăng cường.
Quan hệ đối ngoại được mở rộng: chúng ta đã chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế, gia nhập khối các nước Đông Nam Á – Asean, diễn đàn hợp tác kinh tế
Thái Bình Dương – Apec, trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế
giới WTO. Tăng cường quan hệ với các nước đang phát triển, các tổ chức quốc tế
và khu vực, có quan hệ thương mại với hơn 140 quốc gia trên thế giới, có quan hệ
đầu tư với 70 quốc gia và vùng lãnh thổ. Thu hút được nhiều vốn đầu tư vào nước
ta.
Bộ mặt nông thôn có sự thay đổi rõ rệt, thành thị ngày càng mở rộng và rất
hiện đại.
5.Những mặt hạn chế và yếu kém trong quá trình CHN, HĐH của nước
ta:
Bên cạnh những thành tựu đã đang được qúa trình CHN, HĐH của nước ta
cũng không tránh khỏi những mặt hạn chế và yếu kém.
Thứ nhất: Đánh giá chung nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả

và sức cạnh tranh thấp. Năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm chưa tốt, giá
thành cao. Nhiều sản phẩm nông, công nghiệp thiếu thị trường tiêu thụ cả trong và
ngoài nước.
Ngành nông, lâm, ngư nghiệp: nhìn chung mặt yếu kém nhất là chưa ứng
dụng được nhiều thành tựu khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất, sản xuất vẫn
mang tính thủ công là chính, máy móc vẫn chưa thay thế được cơ bản sức lao
động. Rừng bị tàn phá nặng nề, đánh cá thì còn trên quy mô nhỏ, nuôi trồng thủy
19


hải sản vẫn mang tính tự phát, chưa liên kết được thị trường – nhà chế biến – nhà
sản xuất – nhà nghiên cứu.
Công nghiệp đầu tư: dàn trải, nhà máy công nghiệp phân bố chưa tập trung,
công nghệ chưa đổi mới, chưa có mối liên hệ vững chắc giữ các nhà máy và xí
nghiệp. Hơn nữa các ngành công nghiệp chưa phát triển bền vững, chưa gắn kết
được tiến bộ của khoa học kỹ thuật với sản xuất.
Ngành dịch vụ: phát triển chậm và thiếu lành mạnh, nạn buôn lậu hàng giả,
gian lận thương mại gây nhiều tác động xấu đến nền kinh tế, xã hội. Hệ thống
phân phối sản phẩm chưa mạnh, trong nước chủ yếu là hệ thống bán lẻ hộ gia
đình, ngoài nước vẫn chưa phát triển rõ ràng. Hệ thống tài chính ngân hàng còn
yếu kém và thiếu lành mạnh.
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm. Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, còn gây phân
tán, lãng phí và thất thoát nhiều. Nhịp độ đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm, công
tác điều hành quản lý lĩnh vực này còn nhiều vướng mắc, thiếu sót.
Thứ hai: Một số vấn đề về văn hóa – xã hội gây bức xúc và gay gắt chậm
giải quyết.
Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn còn ở mức cao,
đang là một trong những vấn đề nổi cộm nhất của xã hội. Chất lượng giáo dục và
đào tạo thấp so với yêu cầu. Nội dung, mục tiêu, chương trình, phương pháp dạy
và học, sách gaío khoa, thi cử, cơ cấu đào tạo, có những hiện tượng tiêu cực đáng

lo ngại, gây lãng phí. Chí phí học tập cao so với khả năng thu nhập của người dân,
nhất là người nghèo. Giáo dục và đào tạo ở miền núi, vùng sâu vùng xa còn thiếu
thốn, gặp nhiều khó khăn. Các hoạt động khoa học và công nghệ chưa đáp ứng tốt
yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
6.Nhận xét:
Việc chuyển sang quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong nền kinh tế
thị trường mới là bước khởi đầu. Song một mô hình công nghiệp hoá theo hướng
mới vẫn chưa được xác định thực một cách rõ ràng. Việt Nam mới chỉ đi những
bước chập chững trong những chặng đường đầu của quá trình công nghiệp hoá,
20


hiện đại hoá đất nước. Tuy quá trình này đã được triển khai thực hiện một cách
tích cực ở nhiều hướng khác nhau, có một số mặt thuận lợi do công cuộc đổi mới
và tình hình quốc tế và khu vực đem lại, song so với nhiều nước đang phát triển
khác thì Việt Nam vẫn còn rất hạn chế như việc huy động và sử dụng các nguồn
vốn còn kém, khu vực kinh tế nhà nước chưa mang lại hiệu quả cao, kinh doanh tư
nhân chưa lớn mạnh, luật pháp còn thiếu, bộ máy quản lý quan liêu, cồng kềnh,
tham nhũng cao, hiệu quả thấp, cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội còn yếu kém, nói
chung chưa có một cơ chế quản lý năng động đủ đáp ứng nhu cầu của quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá và tăng trưởng nhanh.
Phải chăng Việt Nam cần thực hiện một chiến lược công nghiệp hoá mới
không phải theo một nguyên tắc tĩnh và cứng nhắc lấy công nghiệp nặng làm then
chốt như trước đây, mà dựa trên nguyên lý động, linh hoạt của sự thay đổi về lợi
thế so sánh? Để trả lời câu hỏi này, không những cần nghiên cứu lợi thế so sánh
của Việt Nam, mà còn cần nghiên cứu kinh nghiệm của nhiều nước nhất là những
bài học kinh nghiệm thành công của Hàn Quốc.
7.Bài học kinh nghiệm:
- Công nghiệp hóa phải gắn với khoa học kỹ thuật, thành tự khoa học kỹ thuật.
Phải tận dụng những thành tựu đó một cách nhanh chóng. Thúc đẩy nghiên cứu

khoa học, và đào tạo đội ngũ những người nghiên cứu.
- Xây dựng CHN phải tuân thủ những nguyên tắc từ thấp đến cao, từ công
nghiệp nhẹ đến công nghiệp nặng. Nhưng tùy thuộc vào những điều kiện cụ thể
mà có thể rút ngắn hoặc nhảy vọt một số bước.
- CNH phải dựa trên những chiến lước lâu dài, trên toàn quốc gia, phải đảm
bảo cân đối giữa công nghiệp nhẹ và công nghiệp nặng, giữa công nghiệp và nông
nghiệp, giữa thành thị và nông thôn
- Phải xây dựng và mở rộng hệ thống giao thông trên cả nước để có thể khai
thác tài nguyên ở tất cả các vùng, tận dụng được những thuận lợi của từng vùng,
để phát triển cân đối ở các vùng miền, thúc đẩy trao đổi hàng hóa trong và ngoài
nước.
21


- Cần có những giải pháp để huy động vốn hiệu quả, cả trong và ngoài nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
(nguồn trích “ Giáo Trình Kinh Tế Các Nước Châu Á- Thái Bình Dương”
GS.TS Hoàng Thị Chỉnh. Nhà Xuất Bản Thống Kê)

“Hàn Quốc trong trào lưu công nghiệp hóa ở Đông
Á”
http:// google.com/ “chiến lược phát triển kinh tế của Hàn Quốc”

22



×