Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

HỒ SƠ TÌNH HUỐNG Dùng cho các lớp đào tạo nghiệp vụ Luật sư Phần 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (223.92 KB, 33 trang )

HỌC VIỆN TƯ PHÁP

HỒ SƠ TÌNH HUỐNG
(Dùng cho các lớp đào tạo nghiệp vụ Luật sư )

LS.LS&NLS

02
B2

- Hồ sơ chỉ dùng để giảng dạy và học tập trong
các lớp đào tạo nguồn Luật sư của Học viện Tư
pháp;
- Người nào sử dụng vào mục đích khác phải
hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Hà Nội- 2014


TIỂU HỒ SƠ
2.1

2


ĐOÀN LUẬT SƯ TP B

CÔNG VĂN ĐẾN
SỐ: 238
Ngày, tháng: 16.03.09


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
-------------------

ĐƠN KHIẾU NẠI

Kính gửi: Ban chủ nhiệm Đoàn luật sư TP B
Tên tôi là: Tạ Thị Đặng
Sinh năm: 1943
Thường trú tại: 316 Nguyễn Trãi, thành phố B.
CMTND số: 010081856, do Công an thành phố B cấp ngày 25/5/2001
Tôi làm đơn này khiếu nại đến Ban chủ nhiệm Đoàn luật sư TP B xem xét giải
quyết cho tôi một trường hợp sau đây:
Gia đình tôi có yêu cầu nhờ luật sư bảo vệ đòi lại căn nhà 316 đường Nguyễn Trãi,
thành phố B. Con trai tôi là Trần Hiếu có nhờ chị Lương Thị Thúy trú tại Tân Thạch Tây
làm cùng với công ty với con trai tôi. Thông qua chị Thúy ngày 16/4/2007, tôi đã ký
“Hợp đồng dịch vụ khoán việc số 02” với Văn phòng luật sư C do ông Nguyễn Văn A –
Trưởng văn phòng làm đại diện ký.
Nội dung hai bên thỏa thuận là: trong thời gian 3 tháng kể từ ngày ký hợp đồng nếu
ông A đòi được quyền cho tôi thì tôi trả thù lao ông A là 100 cây vàng bốn số 9. Ông A
được tạm ứng trước 20 cây vàng bốn số 9. Sau 3 tháng ông A, nếu ông A không đòi được
thì ông A phải hoàn trả lại cho tôi số vàng (20 cây) đã nhận.
Ngày 8/5/2007 tôi dã giao đủ cho ông A 20 cây vàng (có giấy biên nhận kèm theo).
Tòa án hai cấp đã xét xử nhưng ông A không làm được gì để bảo vệ quyền lợi cho tôi.
Thời gian thì kéo dài, thậm chí ông A còn không biết phiên tòa xử vào lúc nào.
Do vậy, ngày 14/7/2008 hai bên đã thống nhất làm biên bản chấm dứt thanh lý Hợp
đồng theo mục 4 Điều 2 của Hợp đồng thì ông A đồng ý trả lại cho tôi 20 cây vàng trong
vòng 15 ngày nhưng mãi đến ngày 10/12/2008 ông A mới trả cho tôi lần 01 được 4.000
USD (bốn ngàn đô la Mỹ) và cam kết thanh toán hết số vàng còn lại trong tháng 12/2008.
Ngày 30/12/2008 ông A trả tiếp lần 2 được 20.000.000 VNĐ (hai mươi triệu Việt Nam

đồng) và hứa sẽ trả nốt số còn lại vào ngày 31/12/2008. Nhưng suốt từ đó đến nay, rất
nhiều lần tôi đi lại yêu cầu ông A thanh toán nốt số vàng còn lại (gần 15 cây) nhưng ông
A cứ khất lần không chịu trả và cố ý lẩn tránh và còn trả lời là: không trả, muốn làm gì thì
làm, làm đơn đi đâu thì làm đi.
Kính thưa Đoàn luật sư! Tôi đã già yếu, lại mắc bệnh thần kinh tọa, đi lại rất khó
khăn. Chồng tôi đã chết, con cái đi làm xa do đó hoàn cảnh kinh tế rất khó khăn. Số tiền
tạm ứng cho ông A tôi nhờ chị Thúy giao hộ cho ông A, ông A không giúp được gì để bảo
vệ quyền lợi cho tôi nhưng lại không chịu trả lại vàng cho tôi theo cam kết của Hợp đồng
(mục 04 Điều 2).
Nay hoàn cảnh gia đình tôi khó khăn, nhà thì bị mất, tiền thì ông A dây dưa không
chịu trả, vì vậy tôi làm đơn này kính đề nghị Ban chủ nhiệm Đoàn luật sư TP B xem xét
lại tư cách đạo đức của luật sư A, đồng thời với chức trách, quyền hạn của Đoàn có biện
pháp buộc ông A phải hoàn trả lại cho tôi số vàng nói trên để tôi khỏi kiện ông A – một
luật sư ra trước cơ quan pháp luật của nhà nước làm ảnh hưởng thanh danh của Đoàn.
Xin chân thành cảm ơn.
Kèm theo:
Hà Nội, ngày 10 tháng 03 năm 2009
- Hợp đồng dịch vụ;
Kính đơn
- Biên bản chấm dứt hợp đồng;
(đã kí)
- Giấy biên nhận;
Tạ Thị Đặng
- Giấy cam kết của ông A.

3


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

-------------------

HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ KHOÁN VIỆC
(Số 02/HĐ-DV)
Hôm nay, ngày 16 tháng 4 năm 2007 tại Trụ sở Văn phòng luật sư C, địa chỉ: 190
phố Đ thành phố B.
Chúng tôi gồm:
Bên thuê dịch vụ (bên A):
1. Bà Tạ Thị Đặng
Sinh năm: 1943
Số CMND: 010081856
Cấp ngày: 25/05/2001 tại B
Hộ khẩu thường trú: 316 đường Nguyễn Trãi, thành phố B .
2. Trần Thị Ngọc Anh
Sinh năm: 1971
Số CMND: 014554994
Cấp ngày: 15/8/2003 tại B
Hộ khẩu thường trú: 316 đường Nguyễn Trãi thành phố B.
Bên nhận dịch vụ (bên B):
Văn phòng luật sư C – Đoàn luật sư TP B
Điện thoại: 04. 9721918
Fax: 04. 9721910
Do ông: Nguyễn Văn A – Chức vụ: Luật sư, Trưởng văn phòng làm đại diện
Hai bên A, B cùng thống nhất lập Hợp đồng dịch vụ khoán việc với những điều
khoản sau:
Điều 1: Trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi của bên A
1.1 Bên A ủy quyền cho bên B thay mặt bên A làm việc với cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền để đòi lại quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất tại 316 Nguyễn
Trãi, thành phố B;
1.2 Bên A có nghĩa vụ cung cấp cho bên B các giấy tờ, chứng cứ cần thiết liên quan

tới ngôi nhà, đất tại 316 Nguyễn Trãi thành phố B;
1.3 Thanh toán cho bên B số tiền 100 cây vàng bốn số 9, trong đó tạm ứng trước
cho bên B số tiền 20 cây vàng bốn số 9 trong vòng 15 ngày kể từ ngày ký hợp
đồng này, số tiền còn lại sẽ thanh toán nốt sau khi kết thúc vụ việc; bên B đã
hoàn thành việc đòi lại nhà và đất 316 đường Nguyễn Trãi thành phố B cho bên
A;
Điều 2: Trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi của bên B
2.1 Bên B bỏ ra mọi chi phí giao dịch, án phí và các chi phí theo luật định, kể cả chi
phí để thi hành án (nếu có);
2.2 Thời gian để bên B thực hiện hợp đồng đòi nhà và đất cho bên A là 03 tháng kể
từ ngày ký hợp đồng này;
2.3 Bên B được hưởng thù lao là 100 cây vàng bốn số chín, được tạm ứng trước 20
cây vàng bốn số chín trong vòng 15 ngày kể từ ngày ký hợp đồng này, số tiền
còn lại sẽ thanh toán nốt sau khi kết thúc vụ việc: bên B đã hoàn thành việc đòi
lại nhà và đất 316 đường Nguyễn Trãi, thành phố B cho bên A;
2.4 Bên B sẽ hoàn lại cho bên A số tiền mà bên A đã đưa cho bên B nếu bên B
4


không đòi được nhà và đất cho bên A.
Điều 3: Cam kết chung
3.1 Bên A cam kết đây là hợp đồng duy nhất mà bên A ký với bên B. Các hợp đồng
khác mà bên A kí với bất kỳ một cá nhân, tổ chức nào liên quan tới nhà, đất tại
316 đường Nguyễn Trãi, TP B đều không có giá trị pháp lý;
3.2 Mọi thành quả của việc đòi lại quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất tại 316
đường Nguyễn Trãi, TP B kể từ ngày ký hợp đồng này đều là do kết quả của
bên B làm được (điều này được hiểu như sau: Trong quá trình tiến hành công
việc đòi lại quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất nếu bên A tự ý nhờ bất kỳ
cá nhân hoặc tổ chức nào giúp đỡ thì mọi thành quả này đều là kết quả của bên
B);

3.3 Bên A cam kết những người có tên trong bản hợp đồng này là những người
được quyền đại diện những đồng sở hữu ngôi nhà 316 đường Nguyễn Trãi, TP
B. Nếu sai bên A sẽ bồi thường toàn bộ chi phí mà bên B đã bỏ ra;
3.4 Trong thời gian thực hiện hợp đồng nếu có gì vướng mắc hai bên phải trao đổi,
bàn bạc cùng tháo gỡ với điều kiện phải cùng thống nhất và có văn bản xác định
sự thống nhất đó.
Hợp đồng này có hiệu lực trong vòng 03 tháng kể từ ngày ký.
Hợp đồng này được lập thành 04 bản (mỗi bản có 02 trang) có giá trị pháp lý như
nhau. Mỗi bên giữ 02 bản.
BÊN A
(đã kí)
Tạ Thị Đặng
(đã kí)
Trần Thị Ngọc Anh

BÊN B
TRƯỞNG VĂN PHÒNG
(đã kí)
Luật sư Nguyễn Văn A

5


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
--------------------

GIẤY BIÊN NHẬN
Tôi là: Nguyễn Văn A – hiện ở 190 phố Đ, thành phố B có nhận của chị Lương Thị
Thủy – sinh năm 1962 hiện ở 1a xã A Thạch Tây, số tiền là 125.000.000 đồng (một trăm

hai lăm triệu đồng chẵn).
Hà Nội, ngày 8/5/2007
Người nhận tiền
(đã kí, đóng dấu)
Luật sư Nguyễn Văn A
Ngày 25/7/2007 tôi Nguyễn Văn A đã nhận của chị Thúy số tiền 120.000.000đ (một trăm
hai mươi triệu đồng chẵn) theo hợp đồng dịch vụ khoán việc số 02/HĐKV nhà 316
đường Nguyễn Trãi, thành phố B .
(đã nhận 2 lần tiền, đủ 20 cây vàng 9999).
Người nhận tiền
(đã kí, đóng dấu)
Luật sư Nguyễn Văn A

6


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
-------------------

BIÊN BẢN CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG
Hôm nay, ngày 14 tháng 7 năm 2008 tại Trụ sở Văn phòng luật sư C – Đoàn luật sư
TP B, địa chỉ: 190 phố Đ thành phố B.
Chúng tôi gồm:
Bên thuê dịch vụ (sau đây gọi là bên A):
1. Bà Tạ Thị Đặng
Sinh năm: 1943
Số CMND: 010081856
Cấp ngày: 25/05/2001 tại thành phố B
2. Trần Thị Ngọc Anh

Sinh năm: 1971
Số CMND: 014554994
Cấp ngày: 15/8/2003 tại thành phố B
Cùng có hộ khẩu thường trú: 316 đường Nguyễn Trãi, thành phố B.
Bên nhận dịch vụ (sau đây gọi là bên B):
Văn phòng luật sư C – Đoàn luật sư TP B
Điện thoại: 04. 9721918
Fax: 04. 9721910
Do ông: Nguyễn Văn A – Chức vụ: Luật sư, Trưởng văn phòng làm đại diện
Hôm nay, ngày tháng năm 2008, hai bên đã cùng thống nhất lập Biên bản chấm
dứt hợp đồng số 02/HĐ-DV ngày 16 tháng 04 năm 2007 với những nội dung như sau:
Theo hợp đồng ngày 16/4/2007 hợp đồng số 02/HĐ-DV.
Điều 2 khoản 2 trong hợp đồng đòi nhà và đất 316 đường Nguyễn Trãi, thành phố B
là bên A thực hiện cho bên B theo thời gian đúng 3 tháng kể từ ngày ký hợp đồng. Nhưng
nay đã quá hạn kể từ ngày ký hợp đồng cho nên buộc phải chấm dứt hợp đồng này hoàn
trả lại 20 cây vàng (hai chục cây vàng) mà bên B đã nhận của bên A (kèm biên nhận) theo
Điều 2 khoản 4 của Hợp đồng số 2/HĐDV ngày 16/4/2007.
Sau khi chấm dứt hợp đồng số 2/HĐDV ngày 16/4/2007 bên B sẽ hoàn trả lại 20
cây vàng (hai chục cây vàng) trong vòng 15 ngày.
Hai bên đã cùng thống nhất biên bản chấm dứt hợp đồng ngày……………
Hợp đồng này được lập thành 02 bản mỗi bên giữ 01 bản cho đến khi bên B hoàn
trả đủ số tiền cho bên A.
BÊN A
(đã kí)
Tạ Thị Đặng
(đã kí)
Trần Thị Ngọc Anh

BÊN B
(đã kí)

Luật sư Nguyễn Văn A

7


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
--------------------

GIẤY CAM KẾT
Tôi là: Nguyễn Văn A – hiện ở 190 phố Đ, thành phố Bi. Tôi xin cam kết nội dung
như sau:
Theo nội dung hợp đồng dịch vụ pháp lý về việc bảo vệ quyền lợi của bà Tạ Thị
Đặng ở 316 Nguyễn Trãi thành phố B. Bà Đặng đã đặt cọc 20 cây vàng bốn số 9. Theo
biên bản thanh lý giữa hai bên – ông Nguyễn Văn A đã thanh toán được 4.000 USD(bốn
ngàn đô la Mỹ), số vàng còn lại theo tỷ giá ngày 10/12/2008 – căn cứ vào điều kiện thực
tế ông A sẽ tính cụ thể thanh toán số tiền (vàng) còn lại cho bà Lương Thị Thúy (cam kết
trong tháng 12/2008 sẽ giải quyết dứt điểm thanh lý hợp đồng).
Bản cam kết này lập 01 bản giao cho bà Thúy giữ làm bằng.
Hà Nội, ngày 10/12/2008
NGƯỜI GIAO TIỀN
(đã kí)
Luật sư Nguyễn Văn A
Đã giao cho cô Thúy số tiền là 20.000.000đ (hai mươi triệu đồng chẵn) số tiền còn
lại sẽ tiếp tục thanh toán nốt vào ngày 31/12/2008.
Hà Nội, ngày 30/12/2008
NGƯỜI GIAO TIỀN
(đã kí)
Quang H


8


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
-----------------------

BIÊN BẢN LÀM VIỆC
Hồi 14 giờ ngày 21 tháng 5 năm 2009 tại Văn phòng Đoàn luật sư TP B, Chúng tôi
gồm:
Họ tên: Nguyễn Văn T
Chức vụ: luật sư - ủy viên HĐKTKL – Đoàn luật sư TP B
Tiến hành lập biên bản làm việc với:
Họ tên: Tạ Thị Đặng
Hội khẩu thường trú: 316 đường Nguyễn Trãi, thành phố B.
Bà Tạ Thị Đặng là người làm đơn khiếu nại đến Đoàn luật sư TP B để đòi tiền luật
sư Nguyễn Văn A – Trưởng văn phòng luật sư C thuộc Đoàn luật sư TP B.
Nội dung biên bản
Luật sư T: giới thiệu chức danh nghiệp vụ của mình, thay mặt Hội đồng khen
thưởng, kỷ luật Đoàn luật sư TP B để giải quyết việc khiếu nại đòi tiền luật sư Nguyễn
Văn A. Đồng thời cũng thông báo cam kết của luật sư Nguyễn Văn A tại Biên bản làm
việc với Hội đồng khen thưởng, kỷ luật ngày 14/5/2009 là: “đến ngày 21/5/2009 sẽ trả
ngay một khoản tiền từ 15.000.000đồng – 20.000.000đồng cho bà Đặng tại Văn phòng
Đoàn luật sư TP B và số tiền còn lại sẽ trả hết cho bà Đặng làm nhiều lần trong thời
gian là 3 tháng (tức là ngày trả nợ cuối cùng là ngày 21/8/2009)”, vậy bà có chấp nhận
lời cam kết trả nợ này của luật sư Nguyễn Văn A không?
Bà Đặng: tôi chấp nhận lời cam kết trả nợ của luật sư Nguyễn Văn A. Tôi mong
muốn Hội đồng khen thưởng, kỷ luật Đoàn luật sư TP B hết sức giúp đỡ tôi, đôn đốc luật
sư A trả hết nợ cho tôi theo như cam kết. SĐT của tôi là” 01256185479 hoặc 0953359521
khi cần liên lạc đề nghị Hội đồng khen thưởng, kỷ luật liên lạc trực tiếp vào số điện thoại

ngày, tôi sẽ tới làm việc, không cần phải có Giấy mời của Đoàn luật sư TP B.
Biên bản lập xong đã đọc lại cho bà Đặng nghe công nhận biên bản ghi đúng nội
dung đã làm việc, không có ý kiến gì khác, cùng ký tên làm bằng.
(đã ký)
Tạ Thị Đặng

NGƯỜI LẬP BIÊN BẢN
(đã kí)
Luật sư Nguyễn Hoàng Tiến

9


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
-----------------------

BIÊN BẢN LÀM VIỆC
Hồi 15 giờ ngày 14 tháng 5 năm 2009 tại trụ sở Văn phòng Đoàn luật sư TP B, .
Chúng tôi gồm:
Họ tên: Nguyễn Văn T
Chức vụ: luật sư - ủy viên HĐKTKL – Đoàn luật sư TP B
Đại diện cho Hội đồng khen thưởng, kỷ luật làm việc với:
Họ tên: Nguyễn Văn A
Chức vụ: luật sư Đoàn luật sư TP B – Trưởng văn phòng luật sư C, Đoàn luật sư TP
B.
Nội dung làm việc
LS T: Ngày 16/3/2009 Đoàn luật sư TP B nhận được đơn khiếu nại của bà Tạ Thị
Đặng, thường trú tại 316 đường Nguyễn Trãi,thành phố B. Nội dung: bà Đặng
đề nghị luật sư Nguyễn Văn A hoàn trả số tiền trong hợp đồng đã ký với Văn

phòng luật sư số 19 ngày 16/4/2007 với số tiền còn lại tương đương 15 cây
vàng.
LS A: có biên bản giải trình về vụ việc này kèm theo viết ngày 12/5/2009.
LS T: Ngày 14/7/2008 văn phòng luật sư C đã ký biên bản chấm dứt hợp đồng với
bà Đặng với nội dung thực hiện Điều 2 khoản 2 của Hợp đồng ngày 16/4/2007
của Văn phòng luật sư C với bà Đặng là hoàn trả lại số tiền trong hợp đồng
cho khách hàng nếu không thực hiện được việc đòi được nhà số 316 Nguyễn
Trãi. Vậy Văn phòng luật sư C đã thanh toán được bao nhiêu tiền cho bà
Đặng?
LS A: Tôi thay mặt Văn phòng luật sư C đã trả lại cho khách hàng là bà Đặng
4.000USD và 20.000.000 đồng tương đương 5 cây vàng làm 3 lần có giấy biên
nhận kèm theo. Như vậy, so với số tiền văn phòng số 19 đã nhận của bà Đặng
20 cây vàng thì chúng tôi còn thiếu 15 cây vàng.
LS T: Vì lý do gì trong biên bản chấm dứt hợp đồng ký với bà Đặng ngày 14/7/2008
la sau 15 ngày anh thanh toán nốt số tiền còn lại, tại sao đến bây giờ chưa
thanh toán nốt?
LS A: Vì tôi bị tai nạn giao thông gẫy chân trái phải nằm điều trị tại bệnh viện mất 2
tuần, sau đó về tiếp cụ điều trị ngoại trú ở nhà nên tôi không có điều kiện để
thực hiện hoành chỉnh hợp đồng dịch vụ pháp lý với bà Đặng. Mặc dù tôi đã
phải chi phí cho dịch vụ này rất nhiều nhưng tôi vẫn chấp nhận thiệt hại để
thanh toán cho khách hàng đầy đủ nhằm giữ uy tín của cá nhân và văn phòng
nhưng do việc thu tiền các dịch vụ khác không có,chi phí cho việc chữa trị tai
nạn mất nhiều tiền do vậy đến nay tôi chưa thanh toán nốt được cho bà Đặng
như đã cam kết.
LS T: Vậy hướng giải quyết của anh về việc này thế nào?
LS A: Sau một tuần làm việc (đến ngày 21/5/2009) tôi sẽ có một khoản tiền khoảng
10


LS T:


LS A:

từ 15.000.000đ đến 20.000.000đ, thông qua Hội đồng khen thưởng, kỷ luật
của Đoàn luật sư TP B để trả cho bà Đặng số tiền còn lại trong vòng 03
tháng kể từ sau ngày 21/5/2009 sẽ thanh toán nốt cho bà Đặng, thông qua Hội
đồng khen thưởng, kỷ luật Đoàn luật sư TP B. Số tiền này được trả làm nhiều
lần.
Thông qua sự việc này luật sư thấy mình có thiếu sót, khuyết điểm gì so với
quy tắc đạo đức, ứng xử của luật sư do Bộ Tư pháp ban hành và có đề nghị gì
với Hội đồng khen thưởng, kỷ luật và Ban chủ nhiệm Đoàn luật sư TP B giúp
đỡ giải quyết việc này?
Tôi nhận thấy đây là một thiết sót của luật sư so với quy tắc đạo đức hành
nghề nhưng việc này nằm ngoài ý muốn chủ quan của luật sư (do tai nạn giao
thông) còn ý thức được việc giữ uy tín cho bản thân và Đoàn luật sư TP B
nên luật sư đã chủ động ký biên bản chấm dứt hợp đồng và cam kết trả lại hết
tiền cho bà Đặng mà không tính đến chi phí thực tế tôi đã bỏ ra giải quyết vụ
việc này. Vì vậy luật sư cam kết trước Hội đồng khen thưởng, kỷ luật Đoàn
luật sư TP B là luật sư sẽ thanh toán hết số tiền còn lại trong vòng 03 tháng.
Tôi đề nghị Hội đồng khen thưởng, kỷ luật và Ban chủ nhiệm xem xét thiếu sót
này của tôi vì tôi không mong muốn để khách hàng phải khiếu nại đến Đoàn
luật sư TP B để đòi tiền nên tôi mong muốn Hội đồng khen thưởng, kỷ luật
xem xét và có hình thức kỷ luật phù hợp, trên cơ sở thông cảm giúp đỡ luật sư,
bản than cũng thấy đây là bài học đáng nhớ và sẽ không bao giờ mắc phải.
Những điều cam kết trong biên bản này không được luật sư thực hiện nghiêm
túc thì tôi xin chịu mọi hình thức kỷ luật nghiêm khắc nhất của Đoàn luật sư
TP B và pháp luật.

Biên bản lập xong đã đọc lại cho mọi người có tên trong biên bản cùng nghe, công
nhận biên bản ghi đúng nội dung đã làm việc, không có ý kiến gì khác, cùng ký tên làm

bằng.
Tôi đã đọc lại biên bản làm việc,
hoàn toàn nhất trí
Ngày 14/5/2009
(đã ký)
Nguyễn Văn A

NGƯỜI GHI BIÊN BẢN
(đã kí)
Luật sư Nguyễn Văn T

11


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
-----------------------

BIÊN BẢN CHỨNG KIẾN
Hồi 10 giờ ngày 27 tháng 5 năm 2009 tại Văn phòng Đoàn luật sư TP B.
Tôi, Nguyễn Văn T
Chức vụ: luật sư - ủy viên HĐKTKL – Đoàn luật sư TP B
Tiến hành lập biên bản chứng kiến:
Họ tên: Nguyễn Văn A
Chức vụ: luật sư Đoàn luật sư TP B – Trưởng văn phòng luật sư C Đoàn luật sư TP
B.
Trả tiền thanh toán hợp đồng dịch vụ pháp lý
Cho bà: Tạ Thị Đặng
68 tuổi
Hội khẩu thường trú: 316 đường Nguyễn Trãi, thành phố B.

Số tiền luật sư A trả cho bà Đặng 1.000USD (một ngàn đô la Mỹ) bà Đặng đã nhận
đủ số tiền trên và viết giấy biên nhận tiền cho luật sư Tân. Luật sư A hứa sẽ trả tiếp cho
bà Đặng khoảng 2.000 USD trong thời gian là 30 ngày tới.
Biên bản lập xong đã đọc lại cho mọi người có tên trong biên bản cùng nghe công
nhận biên bản ghi đúng nội dung chứng kiến, cùng ký tên làm bằng.
NGƯỜI GIAO TIỀN
(đã ký)
Nguyễn Văn A

NGƯỜI NHẬN TIỀN
(đã ký)
Tạ Thị Đặng

12

NGƯỜI LẬP BIÊN BẢN
(đã kí)
Luật sư Nguyễn Văn T


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
-----------------------

ĐƠN ĐỀ NGHỊ
Kính gửi: - Ban chủ nhiệm Đoàn luật sư TP B;
- Ban khen thưởng – kỷ luật
Tôi là: Nguyễn Văn A, luật sư thuộc Văn phòng luật sư C – Đoàn luật sư TP B xin
đề nghị Ban chủ nhiệm và Ban khen thưởng một việc nhà sau:
Tôi có hẹn thanh toán tiền theo Hợp đồng cho bà Tạ Thị Đặng ở 316 Nguyễn Trãi.

Tôi có hẹn đến 21/8/2009 sẽ thanh toán đầy đủ cho bà Đặng nhưng do nguyên nhân chủ
quan và khách quan mà chưa thực hiện được. Nay tôi đề nghị Ban chủ nhiệm, Hội đồng
khen thưởng – kỷ luật cho phép tôi thu hẹn 03 tháng mà tiến đến 21/11/2009 tôi sẽ thực
hiện xong nghĩa vụ thanh toán trên.
Đến ngày 26/8/2009 tôi xin trả cho bà Đặng 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng).
Kính mong Ban chủ nhiệm và Hội đồng khen thưởng, kỷ luật xem xét.
Hà Nội, ngày 21 tháng 8 năm 2009
NGƯỜI LÀM ĐƠN
(đã kí)
Nguyễn Văn A

13


ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ B
HỘI ĐỒNG KHEN THƯỞNG KỶ LUẬT
------------------Số: 412/2009/ĐLS

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
--------------------Hà Nội, ngày 27 tháng 10 năm 2009

GIẤY MỜI
(Lần thứ nhất)
Ban chủ nhiệm – Hội đồng khen thưởng, kỷ luật – Đoàn luật sư TP B mời:
Luật sư: Nguyễn Văn A – Trưởng Văn phòng luật sư C
Địa chỉ: 190 phố Đ – Thành phố B
Đúng 14 giờ, ngày 29 tháng 10 năm 2009 có mặt tại Văn phòng Đoàn luật sư TP B .
Để làm việc với Hội đồng khen thưởng, kỷ luật về việc ông bị tố cáo.
Các luật sư có tên sau đây:

1. Luật sư Nguyễn Văn Đ – Chủ tịch Hội đồng khen thưởng, kỷ luật;
2. Luật sư Nguyễn Văn T - Ủy viên Hội đồng khen thưởng, kỷ luật.
Sẽ làm việc với ông, đề nghị ông có mặt đúng giờ để làm việc có hiệu quả.
Nơi nhận:
- Như trên;
- Lưu văn phòng Đoàn luật sư TP B
- Luật sư T và luật sư Đ (để thực hiện)

ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ B
CHỦ NHIỆM
(đã kí, đóng dấu)
Luật sư. Nguyễn Văn T

14


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
-----------------------

BIÊN BẢN
Về việc Luật sư Nguyễn Văn A vắng mặt
Hồi 14 giờ 50’ tại Văn phòng Đoàn luật sư TP B vào ngày 29 tháng 10 năm 2009.
Đại diện Hội đồng khen thưởng, kỷ luật gồm:
1. Luật sư Nguyễn Văn Đ – Chủ tịch Hội đồng khen thưởng, kỷ luật - Đoàn luật sư
TP B;
2. Luật sư Nguyễn Văn T - Ủy viên Hội đồng khen thưởng, kỷ luật – Đoàn luật sư
TP B;
3. Luật sư Ngô Văn H - Ủy viên Hội đồng khen thưởng, kỷ luật – Đoàn luật sư TP
B

Chứng kiến lập biên bản:
Ông Nguyễn Văn G – Chánh văn phòng Đoàn luật sư TP B.
Tiến hành lập biên bản về việc luật sư Nguyễn Văn A không có mặt làm việc với
Hội đồng khen thưởng, kỷ luật theo Giấy mời số 412/2009/ĐLSHN ngày 27/10/2009 của
Chủ nhiệm Đoàn luật sư TP B Nguyễn Văn T ký mà không có lý do chính đáng bằng văn
bản.
Biên bản đã được đọc lại cho mọi người có tên trong Biên bản cùng nghe công nhận
Biên bản ghi đúng nội dung làm việc.
CHỦ TỊCH HĐKTKL
(đã ký)
Luật sư Nguyễn Văn Đ

ỦY VIÊN HĐKTKL
(đã kí)
Luật sư Ngô Văn H
NGƯỜI CHỨNG KIẾN
LẬP BIÊN BẢN
(đã ký)
Luật sư Nguyễn Văn G

15

NGƯỜI LẬP BIÊN BẢN
(đã kí)
Luật sư Nguyễn Văn T


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
------------------Kính gửi: - Ban chủ nhiệm Đoàn luật sư TP B;

- Hội đồng khen thưởng, kỷ luật
Tên tôi là: Nguyễn Văn A – luật sư Văn phòng luật sư C Đoàn luật sư TP B.
Căn cứ yêu cầu của Ban chủ nhiệm và Hội đồng khen thưởng, kỷ luật yêu cầu tôi
báo cáo về đơn khiếu nại của bà Tạ Thị Đặng – Hộ khẩu thưởng trú: 316 đường Nguyễn
Trãi, thành phố B.
Tôi trình bảy nội dung sự việc như sau:
Bà Tai Thị Đặng và con gái là bị đơn trong vụ kiện đòi lại nhà tại 316 Nguyễn Trãi,
nguyên đơn là Công ty Cổ phần H, vụ án kéo dài nhiều năm (từ 2001-2007) đã qua nhiều
cấp xét xử nhưng chưa giải quyết xong.
Năm 2007 bà Đặng thông qua cô Lương Thị Thúy, có đến Văn phòng đề nghị Văn
phòng cử luật sư tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Văn phòng luật sư đã ký hợp đồng dịch vụ pháp lý với phương thức khoán gọn là
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà Đặng và dịch vụ thù lao 100 cây vàng bốn số 9
(một trăm cây vàng bốn số chín), tạm ứng trước 20 cây vàng (quy ra tiền mặt) có giấy
biên nhận thu trực tiếp từ cô Thúy.
Văn phòng luật sư đã cử luật sư A và người được ủy quyền là luật sư Triệu Văn Tr
để tham gia phiên tòa phúc thẩm với tư cách bảo vệ bị đơn.
Do nhiều lý do phiên tòa hoãn (bà Đặng bị ốm, luật sư Nguyễn Văn A bị tai nạn gẫy
chân) nên thời gian thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý là 3 tháng không thực hiện được.
Sau khi tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao mở phiên tòa xét xử phía Công ty cổ
phần H được hưởng nhà 316 Nguyễn Trãi, bà Đặng được Công ty cổ phần H bố trí một
căn nhà 45m2 tại khu tập thể của Công ty.
Đội thi hành án quận Th ra quyết định cưỡng chế, văn phòng luật sư đã tư vấn, can
thiệp, đến nay vụ việc vẫn chưa giải quyết xong, mẹ con bà Đặng hiện vẫn ở tại căn nhà
số 316 Nguyễn Trãi.
Theo yêu cầu của cô Thúy – người trực tiếp nộp tiền cho Văn phòng luật sư C, Văn
phòng luật sư đã thanh toán trả lại 5.000 USD tương đương với 5 cây vàng bốn số 9 và
cam kết thanh toán hết số tiền tạm ứng cho phía cô Thúy. Tuy nhiên đến nay vẫn chưa
thanh toán được.
Trên đây là toàn bộ diễn biến của Hợp đồng dịch vụ pháp lý giữa Văn phòng luật sư

số 19 và bà Tạ Thị Đặng. Sở dĩ bà Đặng có đơn khiếu nại lên Ban chủ nhiệm Đoàn luật
sư TP B là lỗi của luật sư A do chưa hoàn trả được hết số tiền với nhiều lý do:
Cô Lương Thị Thúy là người đầu tư cùng thực hiện hợp đồng nhưng do thời gian
không như ý muốn, thấy vụ việc chưa giải quyết xong, muốn đòi lại tiền. Trong thời điểm
khó khăn văn phòng với mong muốn thanh toán đầy đủ số tiền tạm ứng, nhưng chưa giải
quyết được. Cô Thúy đã yêu cầu bà Đặng là đơn xúc phạm đến uy tín của luật sư, vì khi
chưa đàm phán được phương thức, thời gian thanh toán mà đã có đơn nên luật sư không
vừa ý với việc làm này. Vì vậy, sự việc phải làm phiền đến Ban chủ nhiệm Hội đồng khen
16


thưởng, kỷ luật đúng là lỗi của luật sư.
Để giải quyết vụ việc trên Văn phòng luật sư C hứa với Ban chủ nhiệm và Hội đồng
khen thưởng, kỷ luật trong thời hạn 3 tháng kể từ ngày làm việc với Ban chủ nhiệm và
Hội đồng khen thưởng, kỷ luật, Văn phòng luật sư sẽ giải quyết dứt điểm vụ việc trên.
Hà Nội, ngày 28 tháng 04 năm 2009
(đã kí)
Nguyễn Văn A

17


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
-------------------

ĐƠN TRÌNH BÀY
(Về đơn khiếu nại của bà Tạ Thị Đặng)
Kính gửi: - Ban chủ nhiệm Đoàn luật sư TP B;
- Hội đồng khen thưởng, kỷ luật

Tên tôi là: Nguyễn Văn A – luật sư Văn phòng luật sư C Đoàn luật sư TP B.
Căn cứ yêu cầu của Ban chủ nhiệm và Hội đồng khen thưởng, kỷ luật yêu cầu tôi
báo cáo về đơn khiếu nại của bà Tạ Thị Đặng – Hộ khẩu thưởng trú: 316 đường Nguyễn
Trãi, thành phố B.
Tôi trình bảy nội dung sự việc như sau:
Bà Tạ Thị Đặng và con gái là bị đơn trong vụ kiện đòi lại nhà tại 316 Nguyễn Trãi,
nguyên đơn là Công ty Cổ phần H, vụ án kéo dài nhiều năm (từ 2001-2007) đã qua nhiều
cấp xét xử nhưng chưa giải quyết xong.
Năm 2007 bà Đặng thông qua cô Lương Thị Thúy, thường trú ở thành phố Hồ Chí
Minh có đến Văn phòng đề nghị Văn phòng cử luật sư tham gia bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình.
Văn phòng luật sư đã ký hợp đồng dịch vụ pháp lý với phương thức khoán gọn là
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà Đặng và dịch vụ thù lao 100 cây vàng bốn số 9
(một trăm cây vàng bốn số chín), tạm ứng trước 20 cây vàng (quy ra tiền mặt) có giấy
biên nhận thu trực tiếp từ cô Thúy.
Văn phòng luật sư đã cử luật sư A và người được ủy quyền là luật sư Triệu Văn Tr
để tham gia phiên tòa phúc thẩm với tư cách bảo vệ bị đơn.
Do nhiều lý do phiên tòa hoãn (bà Đặng bị ốm, luật sư Nguyễn Văn A bị tai nạn gẫy
chân) nên thời gian thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý là 3 tháng không thực hiện được.
Sau khi tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao mở phiên tòa xét xử phía Công ty cổ
phần H được hưởng nhà 316 Nguyễn Trãi, bà Đặng được Công ty cổ phần H bố trí một
căn nhà 45m2 tại khu tập thể của Công ty.
Đội thi hành án quận Th ra quyết định cưỡng chế, văn phòng luật sư đã tư vấn, can
thiệp, đến nay vụ việc vẫn chưa giải quyết xong, mẹ con bà Đặng hiện vẫn ở tại căn nhà
số 316 Nguyễn Trãi.
Theo yêu cầu của cô Thúy – người trực tiếp nộp tiền cho Văn phòng luật sư số 19,
Văn phòng luật sư đã thanh toán trả lại 5.000 USD tương đương với 5 cây vàng bốn số 9
và cam kết thanh toán hết số tiền tạm ứng cho phía cô Thúy. Tuy nhiên đến nay vẫn chưa
thanh toán được.
Luật sư với ý muốn thanh toán cho thân chủ nhưng vì nhiều lý do khách quan chưa

thanh toán để thanh lý hợp đồng được.
Với tư cách là luật sư chấp nhận sự rủi ro, phần thiệt hại do luật sư tự chịu trách
nhiệm (gần 02 năm chi phí giao dịch để bảo vệ quyền lợi cho thân chủ, không yêu cầu
thân chủ phải chịu khoản chi phí với Văn phòng và quan hệ). Luật sư cam đoan sẽ thanh
toán hết khoản tiền mà khách hàng đã nộp.
Vì vậy, Luật sư đề nghị Ban chủ nhiệm, Hội đồng khen thưởng, kỷ luật làm việc với
18


khách hàng, tạo điều kiện để luật sư thanh toán theo hợp đồng đã thanh lý. Luật sư cam
đoan ngay sau khi làm việc với Ban chủ nhiệm, Hội đồng khen thưởng, kỷ luật sẽ lo mọi
khoản tiền trả lại cho bà Đặng thông quan Hội đồng khen thưởng, kỷ luật.
Với mong muốn giữ uy tín cho Đoàn luật sư TP B và bản thân luật sư, luật sư cam
kết thực hiện đúng hợp đồng thanh lý.
Kính mong Ban chủ nhiệm và Hội đồng khen thưởng, kỷ luật với tư cách là người
quản lý và bảo vệ quyền lợi của luật sư xem xét và hết sức giúp đỡ.
Xin chân thành cảm ơn.
Hà Nội, ngày 12 tháng 05 năm 2009
Người viết đơn
(đã kí)
Nguyễn Văn A

19


ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ B
HỘI ĐỒNG THI ĐUA KHEN THƯỞNG
-------------------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
---------------------

BIÊN BẢN LÀM VIỆC
Hồi 14 giờ ngày 05 tháng 11 năm 2009 tại Văn phòng Đoàn luật sư TP B , chúng tôi
gồm có:
1. Luật sư Nguyễn Văn Đ – Chủ tịch Hội đồng khen thưởng, kỷ luật - Đoàn luật sư
TP B;
2. Luật sư Ngô Văn H- Ủy viên Hội đồng khen thưởng, kỷ luật – Đoàn luật sư TP
B.
3. Luật sư Nguyễn Văn T - Ủy viên Hội đồng khen thưởng, kỷ luật – Đoàn luật sư
TP B;
Tiến hành lập biên bản làm việc với: luật sư Nguyễn Văn A – Trưởng Văn phòng
luật sư C ở 190 phố Đ, thành phố H.
Là người bị bà Tạ Thị Đặng ở 316 đường Nguyễn Trãi, thành phố B khiếu nại về
việc luật sư Nguyễn Văn A chưa trả lại cho bà Đặng 15 cây vàng tiền dịch vụ pháp lý.
NỘI DUNG
Luật sư Nguyễn Văn Đ – chủ tịch Hội đồng khen thưởng, kỷ luật – Đoàn luật sư TP
B thông báo ý kiến chỉ đạo của Chủ nhiệm Đoàn luật sư TP B Nguyễn Văn T ngày
19/10/2009 là “ấn định ngày để luật sư Nguyễn Văn A phải hoàn trả hết số nợ cho bà
Tạ Thị Đặng, đến hạn không trả chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra và Hội đồng
khen thưởng, kỷ luật xét việc tạm đình chỉ hành nghề luật sư ” Hội đồng khen thưởng,
kỷ luật chấp nhận ấn định ngày trả nợ hết cho bà Đặng theo đơn đề nghị của luật sư
Nguyễn Văn A ngày 21/8/2009 xin được gia hạn cuối cùng là ngày 21/11/2009. Hội đồng
khen thưởng, kỷ luật đề nghị luật sư Nguyễn Văn A phải trả hết tiền còn nợ cho bà Tạ Thị
Đặng (gồm 15 cây vàng) vào ngày cuối cùng theo đề nghị của luật sư A là ngày
21/11/2009.
Ý kiến của luật sư Nguyễn Văn A: việc tôi chưa trả hết tiền dịch vụ cho bà Tạ Thị
Đặng là hoàn toàn do lỗi của tôi, nhưng do Văn phòng tôi cũng có những khó khăn về
mặt tài chính chưa trả hết nợ cho bà Đặng được, như Hội đồng khen thưởng, kỷ luật đã

biết tôi đề nghị Hội đồng khen thưởng, kỷ luật cho tôi đến ngày 21/9/2012 tôi sẽ thanh
toán trả cho bà Đặng số tiền tương đương vào khoảng 50% số nợ (khoảng 7 cây vàng).
Số tiền còn lại tôi sẽ thanh toán nốt cho bà Đặng vào hạn cuối cùng là ngày 21/9/2009.
Tôi đề nghị Hội đồng khen thưởng, kỷ luật giúp đỡ tôi thông báo cho bà Đặng thời hạn
trả nợ do tôi đề nghị để bà Đặng chấp nhận tạo điều kiện cho tôi thực hiện xong việc trả
nợ bà Đặng. Ngày 29/10/2009 Hội đồng khen thưởng, kỷ luật mời tôi đến làm việc nhưng
tôi không đến làm việc được là do tôi đang đi công tác tại tỉnh Kontum về vụ cố ý làm
trái công vụ đối với bị cáo Nguyễn Văn Khoa, Phó Giám đốc công ty điện lực tỉnh
Kontum.
Biên bản được lập xong đã đọc lại cho mọi người có tên trong biên bản cùng nghe, công
nhận biên bản ghi đúng nội dung làm việc, không có ý kiến gì khác cùng ký tên làm bằng.
CHỦ TỊCH HĐKTKL
(đã ký)
Luật sư Nguyễn Văn Đ

ỦY VIÊN HĐKTKL
(đã kí)
Luật sư Ngô Văn H
LUẬT SƯ LÀM VIỆC
(đã ký)
Luật sư Nguyễn Văn A
20

ỦY VIÊN HĐKTKL
GHI BIÊN BẢN
(đã kí)
Luật sư Nguyễn Văn T


TIỂU HỒ SƠ

2.2

21


BỘ TƯ PHÁP
THANH TRA
------------------Số 12/TB-TTr

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
--------------------B , ngày 19 tháng 01 năm 2009

ĐOÀN LUẬT SƯ TP B

CÔNG VĂN ĐẾN
SỐ: 71
Ngày, tháng: 22.01.09

Kính gửi: Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư TP B

Bộ Tư pháp nhận được đơn của ông Phan Tử Q, trú tại 45 Lý Nam Đế và bà Trần
Mỹ L, trú tại Berlin, Đức tố cáo bà Lê Thu H – Trưởng Văn phòng luật sư C thuộc Đoàn
luật sư TP B cùng với ông Đào Công Phàn lừa đảo chiếm đoạt tiền của bà Trần Mỹ L
việc ký hợp đồng kinh tế giữa ông ty An Minh Thịnh với công ty Đức Thịnh; lừa ông
Nguyễn Mạnh T ở số 70 Nguyễn Thị Minh Khai, với số tiền là 375.000.000 đồng và
9.000 USD để lo thủ tục thông quan lô hàng 20 ô tô đầu kéo nhập khẩu từ Hà Lan về
thành phố Hồ Chí Minh; lừa bà Nguyễn Thanh H – Chủ tịch Hội đồng thành viên Công
ty TNHH Dịch vụ và Thương mại Xuất nhập khẩu Kim Long số tiền là 230.000.000 đồng
thông qua việc ký Hợp đồng dịch vụ pháp lý số 07/2007/HĐV ngày 07/07/2007; vay tiền

của ông Phan Tử Q và bà Phan Xuân M (con gái ông Q) đã 5 năm nhưng đến nay vẫn
trốn nợ không trả; lấy bằng cấp 3 của em chồng tẩy xóa làm hồ sơ vào đại học và từ đó có
02 bằng đại học là Đại học Kinh tế và Đại học Luật.
Thực hiện sự chỉ đạo của Lãnh đạo Bộ Tư pháp, Thanh tra Bộ đã tiến hành xác
minh làm rõ nội dung ông Q và bà L tố cáo bà H giả mạo bằng cấp III để học Đại học
luật là không có cơ sở.
Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết đơn tố cáo của ông Phan Tử Q, thanh tra Bộ đã
tiến hành thanh tra lĩnh vực luật sư, tư vấn pháp luật tại thành phố B theo quyết định số
63/QĐ-TTr ngày 14/4/2008 của Chánh Thanh tra Bộ Tư pháp. Trong đợt thanh tra này,
Đoàn đã tiến hành thanh tra tại Văn phòng luật sư C. Qua kiểm tra Hợp đồng dịch vụ
pháp lý số 07/2007/HDDV được ký kết ngày 07/7/2007 giữa Văn phòng luật sư C và
Công ty TNHH Dịch vụ, Thương mại và Xuất nhập khẩu Kim Long cho thấy Văn phòng
luật sư C ký Hợp đồng dịch vụ pháp lý để “chống náo loạn” là hoàn toàn không đúng lĩnh
vực hoạt động của Văn phòng và không có khả năng thực hiện. mặt khác việc thu phí
dịch vụ cũng không đúng với Hợp đồng. Cụ thể, tại Hợp đồng có ghi phí dịch vụ là
200.000.000 đồng nhưng qua kiểm tra phiếu thu tiền cho thấy Văn phòng luật sư C đã thu
220.000.000 đồng và qua một số tài liệu khác của Công ty TNHH Dịch vụ, Thương mại
và Xuất nhập khẩu Kim Long cho thấy Văn phòng luật sư C đã thu 230.000.000 đồng.
Điều nàu, có thể khẳng định Văn phòng luật sư C có dấu hiệu nhận thêm tiền ngoài mức
thù lao ghi trong Hợp đồng, vi phạm đạo đức hành nghề luật sư.
Căn cứ Luật luật sư năm 2006 và Điều lệ Đoàn luật sư TP B , Thanh tra Bộ Tư pháp
đề nghị Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư xem xét, có hình thức kỷ luật thích đáng đối với
luật sư Lê Thu H và có văn bản thông báo kết quả về Bộ Tư pháp (qua Thanh tra Bộ).
Nơi nhận:
KT. CHÁNH THANH TRA
1. Như trên;
PHÓ CHÁNH THANH TRA
2. Bộ trưởng (để bc);
(đã kí, đóng dấu)
3. Thứ trưởng Hoàng Thế Liên (để bc);

Nguyễn Quốc Hùng
4. Chánh thanh tra (để bc);
5. Vụ Bổ trợ Tư pháp;
6. Ông Phan Tử Q và bà Trần Mỹ L
7. Lưu: PTTCN; VT

BỘ TƯ PHÁP

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
22


THANH TRA
------------------Số 13/TB-TTr

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
--------------------B , ngày 19 tháng 01 năm 2009

ĐOÀN LUẬT SƯ TP B

CÔNG VĂN ĐẾN
SỐ: 122
Ngày, tháng: 10.02.09

THÔNG BÁO
Kết qua giải quyết tố cáo

Kính gửi: -Ông Phan Tử Q – thành phố B ;
- Bà Trần Thị Mỹ L – thành phố B
Bộ tư pháp nhận được đơn của ông, bà khiếu nại, tố cáo luật sư Lê Thu H – Văn

phòng luật sư C – B : lừa đảo chiếm đoạt tiền của bà Trần Mỹ L, ông Nguyễn Mạnh T và
bà Nguyễn Thanh H; vay tiền của ông Phan Tử Q và bà Phan Xuân M (con gái ông Q) đã
5 năm nhưng đến nay vẫn trốn không trả; lấy bằng cấp 3 của em chồng tẩy xóa làm hồ sơ
vào đại học và từ đó có 2 bằng đại học là Đại học Kinh tế và Đại học Luật.
Sau khi xem xét thấy rằng trong đơn tố cáo có nội dung liên quan đến chức năng
quan lý nhà nước của ngành Tư pháp, Lãnh đạo bộ Tư pháp đã giao cho Thanh tra Bộ
phối hợp với trường Đại học Luật xác minh. Kết qua cụ thể như sau:
1. Đối với nội dung tố cáo bà Lê Thu H lừa đảo chiếm đoạt tiền của bà Trần
Mỹ L, ông Nguyễn Mạnh T và bà Nguyễn Thanh H; vay tiền của ông Phan Tử Q và
bà Phan Xuân M (con gái ông Q) đã 5 năm nhưng đến nay vẫn trốn nợ không trả.
Qua các tài liệu đính kèm theo đơn cho thấy các nội dung tố cáo trên liên quan đến
trách nhiệm của bà H trong việc thực hiện các hợp đồng dân sự, kinh tế và dịch vụ pháp
lý. Theo quy định tại Điều 32, điều 33 Nghị định số 136/2006/NĐ-CP ngày 14/11/2006
của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật khiếu nại, tố
cáo thì các nọi dung tố cáo trên không thuộc thẩm quyền giải quyết của Bộ Tư pháp.
Theo quy định tại điểm b, khoản 1 Điều 38 Nghị định 136/2006/NĐ-CP về nguyên tắc
Bộ Tư pháp có trách nhiệm chuyển đơn tố cáo đến cơ quan có thẩm quyền giai quyết.
Tuy vậy, qua nghiên cứu các tài liệu đính kèm theo đơn cho thấy: các đương sự đã nhiều
lần gửi đơn đến cơ quan Công an và ngày 24/10/2007 Tổng Cục An ninh Bộ Công an đã
có Công văn số 3334/A11 (A17) gửi Giám đốc Công an thành phố B đề nghị Giám đốc
Công an thành phố B chỉ đạo Công an quận H, Công an huyện T và Công an quận Q
điều tra làm rõ để xử lý theo pháp luật. Mặt khác, ngày 28/5/2008 Thanh tra Bộ đã hướng
dẫn bà Linh làm đơn gửi cơ quan tiến hành tố tụng để xem xét, giải quyết theo thẩm
quyền các nội dung tố cáo nêu trên.
Riêng với nội đung tố cáo bà Lê Thu H lừa bà Nguyễn Thanh Hà – Chủ tịch hội
đồng thành viên của Công ty TNHH Dịch vụ và Thương Mại Xuất nhập khẩu Kim Long
số tiền 230.000.000 đồng thông qua việc ký Hợp đồng dịch vụ pháp lý số 07/2007/HĐV
ngày 07/7/2007 thì trong quá trình giải quyết đơn tố cáo của ông Phan Tử Q, Thanh tra
Bộ đã tiến hành thanh tư lĩnh vực luật sư, tư vấn pháp luật tại thành phố B trong đó có
Văn phòng Luật sư C do bà Lê Thu H làm Trưởng Văn phòng. Đoàn Thanh tra đã kiểm

tra Hợp đồng dịch vụ pháp lý nói trên, qua kiêm tra cho thấy Văn phòng luật sư C ký
Hợp đồng dịch vụ pháp lý để “chống náo loạn” là hoàn toàn không đúng lĩnh vực hoạt
động của văn phòng và không có khả năng thực hiện. Mặt khác việc thu phí dịch vụ cũng
không đúng với Hợp đồng. Cụ thể:
23


Tại Hợp đồng có ghi phí dịch vụ là 200.000.000 đồng, nhưng qua kiểm tra phiếu
thu tiền cho thấy Văn phòng Luật sư C đã thu 220.000.000 đồng và qua một số tài liệu
khác của Công ty TNHH Kim Long cho thấy Văn phòng Luật sư C đã thu 230.000.000
đồng. Việc làm này cho thấy văn phòng Luật sư C có dấu hiệu nhận thêm tiền ngoài mức
thù lao ghi trong Hợp đồng. Vi phạm đạo đức hành nghề luật sư.
Đoàn thanh tra đã tiền hành làm việc cùng Đại diện Đoàn luật sư TP B đề nghị
Đoàn luật sư xem xét, xử lý kỷ luật theo quy định của pháp luật.
2. Đối với nội dung tố cáo bà Lê Thu H lấy bằng cấp 3 của em chồng, tẩy xóa
làm hồ sơ vào học đại học và từ đó có 02 bằng đại học là Đại học Kinh tế và Đại học
Luật.
(i) Để làm rõ nội dung này, Thanh tra Bộ đã có văn bản gửi Trường Đại học Luật
Hà Nội đề nghị cho kiểm tra, xác minh, thẩm định bằng tốt nghiệp cấp 3 của bà
H . Ngày 22/5/2008, Trường Đại học Luật Hà Nội sau khi kiểm tra cho biết bà
Lê Thu H học lớp Đại học tại chức K.. mở tại Trường Cán bộ Lê Hồng Phong,
trước đây Ban Thanh tra của trường đã xác minh được học viên này đã học và tốt
nghiệp Trường đại học Kinh tế năm 1989.
(ii) Ngày 28/5/2008, Thanh tra Bộ đã tiến hành làm việc với bà Trần Mỹ L. Tại buổi
làm việc này, bà L đã cung cấp cho Thanh tra Bộ 01 đĩa DVD mà theo lời bà L
nói là ghi lại nội dung buổi nói chuyện giữa bà L, ông Phan Tư Q và ông D
(chồng bà H ), tại cuộc nói chuyện này ông D cho bà Linh biết biết bà H sử
dụng bằng tốt nghiệp phổ thông trung học của em ông D, tẩy xóa để học Đại học
Kinh tế quốc dân và Đại học Luật Hà Nội .
Theo quy định tại khoản 2 Điều 70 Luật khiếu nại, tố cáo, Thanh tra Bộ yêu cầu bà

L cung cấp bằng chứng, tài liệu liên quan đến nội dung tố cáo như: cung cấp ban photo
bằng cấp 3 mà bà L cho là bà H gia mạo; cung cấp địa chỉ, số điện thoại của ông D và
em gái ông D để Thanh tra Bộ có cơ sở tiếp tục xác minh, nhưng cho đến nay bà L không
cung cấp được bất kỳ tài liệu nào. Do vậy, Thanh tra Bộ thấy không có cơ sơ để đề nghị
cơ quan có thẩm quyền giám định cuốn băng trên.
Ngày 18/6/2008, tại buổi làm việc với Thanh tra Bộ, bà H đã cung cấp một số bản
gốc văn bản liên quan đến việc học Đại học Kinh tế Kế hoạch của mình. Đồng thời, đã
giải trình về thời gian học tập của mình. Cụ thể như sau: từ năm 1960 đến năm 1969 bà
học phổ thông tại quê; năm 1971 vào bộ đội; từ năm 1971 đến năm 1973 học bổ túc văn
hóa tại trường Nguyễn Ái Quốc – Cổ Nhuế - Từ Liêm – Hà Nôi; từ năm 1973 đến 1975
học Trung cấp vật tư của quân đội; năm 1983 thì vào học tại trường Đại học tại chức –
Bộ Đại học và trung học chuyên nghiệp; năm 1994 do yêu cầu của công việc nên đã
chuyển sang học Trường Kinh tế Kế hoạch, tốt nghiệp năm 1989; năm 1989 học Tại chức
Đại học Luật B K4, tốt nghiệp năm 2003.
Qua các tài liệu do bà H cung cấp cho thấy:
+ Năm 1978, khi được Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật nhà nước tiếp nhận vào làm
việc tại Cục kiểm tra chất lượng sản phẩm và hàng hóa bà H đã tốt nghiệp Trung cấp
Thống kê;
+ Ngày 14/3/1979 Cục kiểm tra chất lượng và sản phẩm hàng hóa có Công văn gửi
Trường Đại học Kinh tế và Kế hoạch đề nghị xét cho bà H được dự thi vào trường vì bà
H thiếu 02 tuổi so với yêu cầu của Nhà trường. Sau đó, đến ngày 29/3/1083 bà H có đơn
24


xin học tại chức Kinh tế Kế hoạch chuyên ngành Kinh tế Thống kê có ý kiến đồng ý của
Trưởng phòng Tổ chức Hành chính Vật tư và Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ - Ủy ban
khoa học và Kỹ thuật của nhà nước. Ngày 20/10/1983 bà H có đơn xin chuyển từ Trường
đại học tại chức B sang trường đại học Kinh tế Kế hoạch và đã đươc Trường Đại học Tại
chức B xác nhận bà H là sinh viên năm thứ nhất đang học tại trường đồng thời đồng ý
làm thủ tục chuyển hồ sơ cho bà H .

Từ kết quả xác minh trên, cho thấy việc bà L và ông Q tố cáo bà H giả mạo bằng
tốt nghiệp cấp 3 để học đại học Kinh tế Quốc dân và Đại học Luật là không có cơ sở.
Thanh tra Bộ trân trọng thông báo để ông Phan Tử Q và bà Trần Mỹ L biết.
Nơi nhận:
1. Như trên;
2. Bộ trưởng (để bc);
3. Thứ trưởng Hoàng Thế Liên (để bc);
4. Thứ trưởng Nguyễn Đức Chính (để
bc);
5. Chánh thanh tra (để bc);
6. Vụ Bổ trợ Tư pháp;
7. Lưu: PTTCN; VT

KT. CHÁNH THANH TRA
PHÓ CHÁNH THANH TRA
(đã kí, đóng dấu)
Nguyễn Quốc Hùng

25


×