Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Phân tích chi tiết tác phẩm Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (338.48 KB, 20 trang )

VỢ CHỒNG A PHỦ
(Tô Hoài)
A. KHÁI QUÁT:
1. Tác giả:
 Tô Hoài là nhà văn xuất sắc của văn xuôi Việt Nam hiện đại. Tô Hoài sáng
tác theo xu hướng hiện thực, thiên về phản ánh những hiện thực trong cuộc
sống đời thường trong những trang viết bình dị, tinh tế đầy chất thơ.
 Tô Hoài có vốn hiểu biết phong phú & sâu sắc về cuộc sống, đặc biệt là
những phong tục tập quán độc đáo của nhiều vùng đất khác nhau. Sự gần
gũi, gắn bó với cuộc sống & con người miền núi khiến những tác phẩm viết
về đề tài miền núi trở thành mảng sáng tác quan trọng & có giá trị của Tô
Hoài.
2. Tác phẩm
2.1 Xuất xứ, giá trị
- Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ được sáng tác năm 1952, in trong tập Truyện Tây
Bắc 1953, được giải nhất của hội văn nghệ Việt Nam (1954 – 1955).
- Vợ chồng A Phủ không chỉ là truyện ngắn hay nhất trong tập Truyện Tây Bắc nói
riêng, trong mảng sáng tác về đề tài miền núi nói chung mà còn là tác phẩm có giá
trị của văn xuôi Việt Nam hiện đại khi phản ánh chân thực và sinh động con đường
của nhân dân miền núi cao Tây Bắc đi theo Cách mạng.
2.2 Hoàn cảnh sáng tác
- Tập Truyện Tây Bắc gồm 3 tác phẩm. Vợ chồng A Phủ được viết sau chuyến đi
thực tế của Tô Hoài cùng bộ đội trong chiến dịch Tây Bắc. Chuyến đi kéo dài 8
tháng vào những khu du kích của các dân tộc thiểu số vùng núi cao Tây Bắc đã để
lại hoàn cảnh, ấn tượng sâu sắc, tốt đẹp cho nhà văn về thiên nhiên, cuộc sống của
con người Tây Bắc.
1


- Tô Hoài từng bày tỏ: “Hình ảnh Tây Bắc đau thương & anh hùng lúc nào cũng
thành nét, thành người, thành việc trong tâm trí tôi… Vì thế, tôi viết


Truyện Tây Bắc” (1959).
2.3 Nội dung, đề tài, chủ đề
- Truyện ngắn viết về cuộc đời của 2 nhân vật Mị và A Phủ ở 2 giai đoạn: ở Hồng
Ngài trong nhà thống lý Pá Tra và giai đoạn ở Phiềng Sa khi Mị và A Phủ gặp
Cách mạng, được giác ngộ và tham gia du kích đánh Tây. Đoạn trích là giai đoạn
thứ 1 của 2 nhân vật.
- Thông qua cuộc đời của Mị và A Phủ, Tô Hoài đã phản ánh cuộc sống cơ cực, tối
tăm của người dân miền núi Tây Bắc trước Cách mạng dưới ách áp bức tàn bạo
của của bọn PK vùng cao. Đồng thời thể hiện niềm tin yêu vào bản chất tốt đẹp,
sức sống mãnh liệt những người dân lương thiện bị áp bức tất yếu sẽ vùng lên đấu
tranh để thay đổi cuộc đời. Truyện ngắn đã phản ánh chân thực và đầy sức thuyết
phục con đường đến với Cách mạng của người dân Tây Bắc.
B. TÌM HIỂU TÁC PHẨM
ĐỀ 1: Một trong những bình diện quan trọng của nhất của tư tưởng nhân đạo
trong tác phẩm văn học là sự thấu hiểu, xót thương sâu sắc của nhà văn với số
phận con người. Hãy phân tích sự biến đổi trong tâm hồn, tính cách nhân vật
Mị trước và sau khi trở thành con dâu gạt nợ cho nhà thống lí để làm sáng tỏ 1
bình diện trong tư tưởng nhân đạo được Tô Hoài gửi gắm trong VCAP.
 MB:
- Tác giả, tác phẩm: (1 & 2.1)
- Nêu vấn đề:
Thông qua việc miêu tả chân thực sự biến đổi trong tâm hồn, tính cách nhân vật Mị
trước và sau khi trở thành con dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra, Tô Hoài đã thể
2


hiện một trong những biểu hiện quan trọng nhất của tư tưởng nhân đạo khi bộc lộ
sự thấu hiểu, xót thương sâu sắc với con người.
 TB:
1. Mị vốn là người con gái có những phẩm chất tốt đẹp, tài hoa, sức sống dào

dạt, trẻ trung, yêu đời:
a) Mị là một cô gái xinh đẹp, tài hoa, cô có tài thổi sáo, thổi đàn mà: “Mị uốn chiếc
lá trên môi thổi lá cũng hay như thổi sáo, trai làng vì mê tiếng sáo mà ngày đêm
thổi sáo đi theo Mị”. Sức quyến rũ mạnh mẽ của tiếng sáo cho thấy cái tài, cái tình
của người thổi sáo. Có lẽ, Mị đã gửi biết bao tình cảm, biết bao khát khao vào tiếng
sáo ấy, khiến vẻ đẹp trong tâm hồn nhạy cảm, trong trái tim thiết tha yêu đời, yêu
cuộc sống của cô đã thông qua tiếng sáo mà làm rung động, mê đắm lòng người.
b) Người con gái mạnh mẽ, tự chủ:
Cũng như nhiều cô gái khác, Mị khao khát tình yêu và cũng có người yêu theo sự
lựa chọn của trái tim mình. Trước món nợ của cha mẹ và ý định bắt Mị về làm dâu
gạt nợ của nhà thống lí, Mị tha thiết xin được ở nhà cuốc nương, trồng ngô trả nợ
thay cho bố. Cô muốn tự quyết định số phận mình chứ không chấp nhận biến mình
thành thứ hàng hoá gả bán cho nhân gian.
c) Mị vốn là cô gái có trái tim vị tha, nhân hậu. Ở nhà với cha mẹ, Mị là người con
rất hiếu thảo, nết na, chăm chỉ. Mị tự nguyện làm việc trả nợ thay cho cha mẹ. Khi
bị bắt về làm dâu gạt nợ cho nhà thống lí, không chịu nổi kiếp sống đoạ đày đau
khổ, Mị muốn tự giải thoát bằng cái chết, vậy mà chỉ vì thương bố, sợ làm liên luỵ
tới bố mà Mị gạt nước mắt, chấp nhận quay về nhà thống lí, sống tiếp cuộc đời nô
lệ, nhọc nhằn, khổ ải.
 Mị đã có đủ những phẩm chất đẹp đẽ để có thể được hưởng cuộc sống bình yên,
hạnh phúc.
2. Trong truyện ngắn VCAP, Tô Hoài đã miêu tả Mị bất hạnh trong kiếp sống
làm dâu gạt nợ:
3


- Mị không được sống với tình yêu của mình, không được tự quyết định cuộc đời
mình. Vì món nợ của cha mẹ, Mị đã bị bắt về làm dâu gạt nợ cho nhà thống lí. Bề
ngoài Mị là con dâu nhưng thực chất chỉ là con nợ. Nếu chỉ là con dâu, Mị sẽ
không phải mang gánh nặng tủi cực bởi món nợ truyền kiếp của cha mẹ và có thể

Mị còn có một chút vị trí nào đó trong nhà thống lí; nếu chỉ là con nợ, Mị còn có
thể hi vọng một ngày nào đó trả xong nợ và được giải thoát. Nhưng khi là con dâu
gạt nợ, Mị đã bị cùng lúc 2 tròng dây trói buộc cả cường quyền và thần quyền, Mị
hiểu rằng cô sẽ phải sống trong thân phận nô lệ khốn khổ của mình đến hết đời. Mị
không dám chết vì sợ làm liên luỵ đến cha, cũng không dám nghĩ đến việc thoát ra
khỏi cuộc sống trói buộc khổ sở vì sự ám ảnh của thần quyền: “Ta là thân đàn bà,
nó đã bắt về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây.” Chế độ
PK vùng cao với cách cho vay nặng lãi tàn bạo đã đẩy người con gái xinh đẹp, hiền
hoà vào kiếp nô lệ cay đắng, nhục nhằn.
- Cũng như bao người phụ nữ miền núi khác, Mị phải chịu cảnh áp bức bóc lột
nặng nề sức LĐ trong kiếp sống làm dâu gạt nợ, cô phải làm việc như một người ở
không công cho nhà thống lí. Con trâu, con ngựa còn có lúc đứng gãi chân còn Mị
và những người đàn bà khác trong nhà thống lí thì “vùi mặt làm việc cả đêm, cả
ngày”.
- Mị còn bị hành hạ đau đớn cả về thể xác lẫn tâm hồn.
+ Mị sống cô đơn, thầm lặng trong căn buồng chỉ có “một chiếc cửa sổ lỗ
vuông bằng bàn tay, lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương
hay nắng, không biết là ngày hay đêm”. Căn buồng của một người phụ nữ có
chồng mà không hề ấm áp hạnh phúc lứa đôi, nó tăm tối, lạnh lẽo như một ngục
thất giam cầm người tù chung thân, như một nấm mồ chôn vùi tuổi thanh xuân của
Mị.
+ Bất cứ lúc nào, Mị cũng có thể bị trói, bị đánh một cách dã man, vô lý.
Định đi chơi trong đêm hội mùa xuân như mọi người đàn bà khác ở Hồng Ngài, Mị
4


lại bị A Sử trói đứng vào cột nhà, bóp thuốc cho A Sử suốt đêm đến khi kiệt sức
mà thiếp đi liền bị nó đạp chân vào mặt; và thậm chí ngay cả khi Mị chỉ ngồi sưởi
hơ tay, không động chạm đến ai chỉ biết mình với ngọn lửa, A Sử đi qua, ngứa tay
cũng “đánh Mị ngã ngay xuống cửa bếp”.

Như vậy, khi sống trong nhà thống lí, trong thân phận làm dâu gạt nợ, Mị đã bị
đánh đập hành hạ như với con vật, như với đồ vật, và không vì bất cứ lí do nào.
3. Sự thấu hiểu và xót thương sâu sắc với số phận bất hạnh của nhân vật đã
được Tô Hoài thể hiện qua việc miêu tả chân thực những biến đổi xót xa của Mị
khi bị đầy ải trong kiếp sống làm dâu gạt nợ.
a) Tâm lý
Những năm tháng sống trong nhà thống lí, người con gái có ý thức tự chủ với cuộc
sống ngày xưa dường như đã không còn sức sống, sự phản kháng. Cuộc sống của
Mị bây giờ chỉ còn như sự tồn tại của cỏ cây, chỉ là chuỗi ngày mòn mỏi những ý
nghĩ buông xuôi, phó mặc, đầu hàng số phận “Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là
con trâu, con ngựa, chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”; không còn mong mỏi,
chờ đợi hay khát khao, mọi suy nghĩ mệt mỏi thụ động của Mị chỉ hướng tới cái
chết như đoạn đường cuối cùng trong cuộc đời: “Đời người đàn bà đã có chồng ở
Hồng Ngài chỉ biết cầm roi đi theo cái đuôi ngựa của chồng cho đến chết.”. Trong
căn buồng tăm tối, lạnh lẽo với “chiếc cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay”, Mị đã nghĩ
rằng “mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì
thôi.”.
b) Tính cách
Tâm lý cam chịu, buông xuôi cũng khiến người con gái nhân hậu, người con gái
yêu đời, luôn khát khao tình yêu và hạnh phúc ngày xưa trở thành người đàn bà
lạnh lùng, vô cảm trong ngôi nhà thống lí.
- Mị vô cảm với nỗi đau của người khác. Trong những đêm đông lạnh lẽo ở Hồng
Ngài, khi A Phủ bị trói tới mấy ngày đêm bên đống lửa, hàng đêm Mị vẫn “thản
5


nhiên” ra ngồi thổi lửa hơ tay, dửng dưng và thờ ơ. Thậm chí Mị còn ý thức được
sự vô cảm của mình khi nghĩ rằng “A Phủ có là cái xác chết đứng đấy cũng thế
thôi…”
- Nhưng đáng sợ và đáng buồn hơn khi Mị trở nên vô cảm, thờ ơ với nỗi đau khổ

của chính bản thân mình. Nếu trước đây Mị giãy giụa, phản kháng thậm chí dám
dùng cái chết như là một cách tiêu cực nhưng quyết liệt để chống lại số phận, để tự
giải thoát thì bây giờ ngay cả khi cha đã chết, không còn gì ràng buộc, Mị không
thiết sống mà cũng chẳng thiết chết, “ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi” – khi
không còn ý thức được nỗi đau khổ, Mị chẳng còn thiết nghĩ đến việc tự giải thoát
khỏi cái số kiếp mà cô coi là đã an bài, Mị cứ tiếp tục sống như đang chết.
c) Cách sống
Cách sống của Mị cũng thay đổi đến xót xa. Ngày xưa Mị say mê thổi kèn lá, thổi
sáo, Mị hào hứng, chăm chỉ làm nương đỡ đần cho cha mẹ, bây giờ Mị sống lùi lũi
như con rùa nuôi trong xó cửa, Mị làm việc như một cái máy vô hồn, vô cảm, một
công cụ LĐ biết nói mà câm lặng. Mị không còn những ý thức tối thiểu về thời
gian hay không gian. Mị tính thời gian bằng chuỗi công việc nhàm chán và nhọc
nhằn, những công việc triền miên, tuần hoàn từ năm này sang năm khác, từ mùa
này sang mùa khác. Không gian với Mị chỉ là cái buồng lạnh lẽo tối tăm có cái ô
cửa vuông mà “lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay
nắng”
d) Tâm lý cam chịu, sức sống thầm lặng đã in dấu sâu đậm qua dáng vẻ bên ngoài
của Mị. Những đêm đông vô tận ở Hồng Ngài, Mị chỉ biết làm bạn với ngọn lửa,
cô độc, âm thầm như một cái bóng; còn ban ngày, lúc nào cũng vậy, dù làm gì, ở
đâu Mị cũng cúi mặt, “mặt buồn rười rượi”, người ta thường trông thấy Mị lặng lẽ
“bên tảng đá, cạnh tàu ngựa” nhà thống lí. Cuộc sống đau khổ, tủi cực đã lấy đi của
Mị tất cả sức sống thanh xuân và những niềm vui tươi trẻ khiến cô câm lặng như
một tảng đá bên tảng đá, u tối, âm thầm như trâu ngựa cạnh tàu ngựa.
6


 KL
Với những chi tiết miêu tả dáng vẻ, nét mặt, cử chỉ bên ngoài đầy ấn tượng, những
đoạn độc thoại nội tâm thấm thía nỗi niềm, cách khắc hoạ nhân vật qua sự tương
phản giữa những đồng hiện của quá khứ và hiện tại, Tô Hoài đã miêu tả chân thực

và sinh động nhân vật Mị ở 2 thời điểm trước và sau khi làm dâu gạt nợ trong nhà
thống lí, những biến đổi cả trong tâm hồn, tính cách theo chiều hướng tiêu cực của
sự tha hoá đã giúp nhà văn bộc lộ niềm xót xa sâu sắc, chân thành đối với số phận
con người, thể hiện một trong những bình diện quan trọng nhất của tư tưởng nhân
đạo.
ĐỀ 2: Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Mị để làm rõ giá trị nhân đạo
trong truyện ngắn VCAP của nhà văn Tô Hoài.
 MB
- Tác giả, tác phẩm: như đề 1
- Thông qua việc miêu tả chân thực diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật
Mị trong đêm tình mùa xuân, khẳng định sức sống tiềm tàng mạnh mẽ trong tâm
hồn của một người đàn bà đau khổ. Tô Hoài đã mang đến những giá trị nhân đạo
sâu sắc cho truyện ngắn VCAP.
 TB
1. Mị là một người con gái tràn đầy sức sống: Đề 1 (1a, 1b):
- Xinh đẹp, tài hoa, trẻ trung, yêu đời.
- Mạnh mẽ, tự chủ, muốn quyết định cuộc sống mình
2. Thời gian đầu ở nhà thống lí:
- Suốt mấy tháng đầu ở nhà thống lí “đêm nào Mị cũng khóc, lúc nào cũng cúi
mặt buồn rười rượi.” Đó là biểu hiện của một người phụ nữ ý thức sâu sắc được
7


nỗi khổ sở, bất hạnh của mình, không cam lòng chịu nỗi khổ ấy, mà phản ứng
duy nhất trong hoàn cảnh đó chỉ có thể là tiếng khóc đau đớn, là sự buồn khổ
không thể nguôi ngoai.
- Rồi đến khi không thể tiếp tục chịu đựng nỗi bất hạnh khổ ải trong nhà thống
lí, Mị quyết định ăn lá ngón tự tử. Đây là một phản ứng tiêu cực nhưng quyết
liệt của người con gái mạnh mẽ không chấp nhận kiếp sống trâu ngựa nhục nhã,
muốn được giải thoát khỏi kiếp sống ấy, dẫu là bằng cái chết. Phản ứng này cho

thấy những khát vọng được sống như một con người vẫn còn rất mãnh liệt trong
lòng Mị.
3. - Sau những năm tháng chịu đầy ải trong nhà thống lí, sức sống mạnh mẽ trong
lòng Mị dường như đã nguội tắt. Mị đã hoàn toàn thay đổi. Cô gái mạnh mẽ, tự
chủ, khao khát yêu đời, yêu cuộc sống ngày xưa nay trở thành người đàn bà có tâm
lý buông xuôi, phó mặc. Mị đã trở nên thờ ơ, vô cảm với nỗi đau khổ của chính
mình, không còn chờ đợi, hi vọng hay khát khao. Mị sống mà như đang chết. Cô
gái hồn nhiên tươi trẻ ngày xưa nay “sống lùi lũi như con rùa nơi xó cửa”; Mị làm
việc như cái máy vô hồn, vô cảm, sống lặng lẽ âm thầm, thậm chí cô còn không
còn những ý thức tối thiểu về thời gian hay không gian.
4. Tuy nhiên chính lòng tin yêu sâu sắc vào con người đã giúp Tô Hoài khám phá
và miêu tả thật chân thực, tinh tế sự hồi sinh sức sống tiềm tàng, mãnh liệt trong
lòng người đàn bà bất hạnh qua những diễn biến tâm trạng và hành động của Mị
trong đêm tình mùa xuân.
4.1 Bức tranh thiên nhiên và cuộc sống con người miền Tây Bắc khi mùa xuân
đến đã được Tô Hoài miêu tả trong những đoạn văn thật trữ tình, giàu chất thơ để
làm nền cho sự hồi sinh sức sống của nhân vật. Đó là cảnh những đứa trẻ tinh
nghịch đốt những lều cạnh nương để sưởi lửa; hình ảnh những cái váy hoa đem
phơi trên mỏm đá, xoè ra như những con bướm sặc sỡ; màu vàng ửng của cỏ xanh
trong gió và rét dữ dội. Hình ảnh đám con trai, con gái đánh pao, chơi quay, thổi
8


kèn thổi sáo say sưa đặc biệt là âm thanh tiếng sáo gọi bạn tình “lửng lơ” ngoài đầu
núi. Những âm thanh, màu sắc, hình ảnh ấy đã tạo nên bức tranh mùa xuân đẹp,
thơ mộng, nồng nàn, rạo rực tình yêu, tràn trề sức sống. Đó cũng là những yếu tố
ngoại cảnh góp phần làm thức dậy những khát vọng tình yêu và hạnh phúc vẫn âm
ỉ đâu đó trong lòng Mị.
4.2 Tâm trạng và hành động
a) Mị nghe tiếng sáo

Biểu hiện đầu tiên của sự hồi sinh sức sống trong lòng Mị là chi tiết Mị nghe tiếng
sáo vọng lại, tha thiết, bổi hổi. Người đàn bà bao lâu nay dửng dưng, âm thầm như
chiếc bóng, nay hình như đã thoát ra khỏi trạng thái vô cảm, thờ ơ: Không chỉ chú
ý lắng nghe tiếng sáo từ xa vọng lại, Mị còn hình dung ra: “bóng người lấp ló đầu
núi, thổi sáo gọi bạn tình, còn cảm nhận được sắc thái “thiết tha, bổi hổi” của tiếng
sáo, nhận ra cái tình rạo rực, đắm say của người thổi sáo, thậm chí người đàn bà
âm thầm, câm lặng đã “nhẩm thầm bài hát của người đang phổ”. Bằng cách ấy, cô
đã trở về với quá khứ, đã nhớ lại những lời hát từ thưở xa xôi, đã bắt đầu mở lòng
mình để đón nhận và hoà vào âm thanh nồng nàn của tình yêu gửi trong tiếng sáo.
b) Mị uống rượu: Cảnh Mị uống rượu đã được Tô Hoài miêu tả thật ấn tượng, thể
hiện chân thực những biến đổi âm thầm mà dữ dội trong tâm hồn người đàn bà
tưởng như đã nguôi tắt sức sống:
- Trước tiên là cảnh Mị uống rượu: Cô “uống ực từng bát” – uống như để say, để
quên, uống như một người đang chết khát, uống như muốn dùng cái men say của
rượu để dìm đi những nuối tiếc, khát khao, những đau khổ, phẫn uất đột ngột trào
dâng trong lòng, uống như muốn mượn cái đắng cay của rượu để làm vơi đi những
cay đắng trong lòng – những cay đắng mà lâu nay dường như Mị đã nguôi quên.
- Mị uống rượu và lại nghe “văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng”. Từ láy “văng
vẳng” không chỉ gợi tả tiếng sáo ở xa trong không gian, tiếng sáo “thiết tha, bổi
hổi” của hiện tại, đó còn là âm thanh của hoài niệm, đưa Mị trở về với tiếng sáo và
9


bài hát của người bạn tình năm xưa, khiến Mị như trở lại với cô gái xinh đẹp, tài
hoa thưở nào. Cô gái có thể “uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo.
Có biết bao nhiêu người mê; ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”. Người đàn bà tưởng
như không còn sợi dây liên hệ nào với quá khứ, người đàn bà luôn nhìn hiện tại
một cách buồn tẻ, chán chường với một chuỗi những công việc giống nhau, người
đàn bà không thiết nghĩ đến tương lai, sống chỉ như chờ cái chết… Người đàn bà
ấy trong đêm tình mùa xuân đã lắng nghe tiếng sáo của hiện tại, trông về ngày

trước với bao nhiêu khát vọng tình yêu, khát vọng tuổi trẻ. Ảo giác của quá khứ
mãnh liệt đến mức gần như xoá mờ những bất hạnh của hiện tại, khiến Mị thấy
“phơi phới trở lại, lòng đột nhiên vui sướng”. Không chỉ nhớ lại tuổi trẻ, Mị còn
bất ngờ nhận ra mình trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ. Ý thức được mình hãy còn trẻ lòng
cũng như trẻ lại, Mị bỗng muốn được đi chơi, được đi tới những đám vui, được hoà
vào những cuộc vui, được hoà vào không khí rạo rực của mùa xuân, của tình yêu
và hạnh phúc.
- Nhưng chính ý muốn được đi chơi trong đêm hội mùa xuân như mọi người đàn
bà khác ở Hồng Ngài lại khiến Mị nhớ ra bao nhiêu năm nay A Sử không bao giờ
cho Mị đi chơi, mà Mị cũng chẳng thiết đi. Nhớ đến đó, Mị cũng đồng thời nhận
thức sâu sắc tình trạng phi lý trong cuộc hôn nhân của mình khi A Sử với Mị
“không có lòng với nhau mà vẫn phải ở bên nhau”. Cái thực tế đau khổ mà cô đã
quen, đã thờ ơ chấp nhận đến mức không còn tưởng đến cái chết.
- Mị đột ngột muốn chết, “nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết
ngay”, chết để không phải nhớ lại quá khứ, không phải nhớ lại những ước mơ khao
khát của mình, bởi “nhớ lại chỉ thấy nước mắt ứa ra, chỉ thấy tiếc hận và đau đớn”.
Muốn chết là biểu hiện mãnh liệt nhất, dữ dội nhất của sự thức tỉnh lòng ham sống,
lòng khát khao hạnh phúc, niềm khát khao ấy tạo ra sự xung đột gay gắt với tình
trạng vô nghĩa lý của thực tại. Khi không thể chấp nhận kiếp sống tủi cực, đau đớn,

10


cũng có nghĩa là sức sống tiềm tàng trong lòng Mị đã trở lại, cũng có nghĩa là Mị
đã thoát ra khỏi tình trạng lầm lũi vô cảm suốt bao năm nay.
c) Sau tất cả những khát khao uất ức và bi phẫn, Mị đã đứng lên “lấy ống mỡ, sắn
một miếng bỏ bỏ thêm vào đĩa dầu cho sáng”, rồi Mị “cuốn lại tóc,…với cái váy
hoa…” chuẩn bị đi chơi. Đây là những chi tiết cụ thể những lại hàm chứa ý nghĩa
ẩn dụ sâu sắc: Đó vừa là sự thể hiện ý muốn thay đổi không gian sống, thay đổi
chính bản thân mình, là niềm mong ước có một cuộc sống tươi sáng, mới mẻ, đẹp

đẽ hơn, vừa là hành động đấu tranh lặng lẽ, âm thầm, tự phát nhưng thật quyết liệt
của Mị để chống lại số phận.
d) Nhưng sự hồi sinh của Mị đã bị vùi dập thật độc ác:
- A Sử trói đứng Mị vào cột nhà bằng vòng dây trói tàn bạo và bằng cả mái tóc
thanh xuân của cô; A Sử tắt ngọn đèn Mị vừa thắp sáng, đóng cánh cửa thông thế
giới bên ngoài đang đầy ắp những âm thanh thiết tha bồi hồi của tiếng sáo gọi bạn
tình – cuộc đời một lần nữa đã đóng lại tăm tối trước mắt Mị. Tuy nhiên, ảo giác
được tạo dựng về tình yêu và tuổi trẻ vấn vương theo tiếng sáo dập dờn, “đưa Mị
đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”, khiến Mị hầu như không cảm thấy
mình đang bị trói, Mị quên cả hiện tại với vòng dây trói và căn phòng giam đầy
bóng tối, A Sử trói được thân xác Mị nhưng đã không còn kiềng giữ được tâm hồn
người con gái ấy. Mị vừa nhận ra mình vẫn còn trẻ, người con gái vừa hồi sinh
khao khát được hưởng tình yêu và hạnh phúc ngay trong tuổi thanh xuân.
- Chỉ đến khi Mị vùng bước đi, sợi dây trói cắt vào “tay chân đau không cựa
được”, Mị mới tỉnh lại và trở về đối mặt với thực tại nghiệt ngã, phũ phàng. Trong
cảm nhận cay đắng của Mị lúc đó, tiếng sáo tượng trưng cho tình yêu và hạnh phúc
đột ngột biến mất, „Mị không nghe tiếng sáo nữa, chỉ còn nghe tiếng chân ngựa” –
đó là những âm thanh của thực tại, đưa Mị trở về với sự liên tưởng đau đớn bởi
kiếp sống “không bằng
con ngựa” của mình.
11


- Dù đã trở lại với thực tại tàn nhẫn, nhưng suốt đêm tình mùa xuân năm ấy, QK
vẫn “nồng nàn tha thiết” trong nỗi nhớ của Mị với “hơi rượu toả, tiếng sáo rập rờn,
tiếng chó sủa xa xa”. Mị phải sống trong giằng xé đau đớn, giữa khát khao cháy
bỏng vừa hồi sinh và thực tại phũ phàng đang hiện hữu ngay trong vòng dây trói và
căn buồng giam đầy bóng tối. Sức sống cùng những khát vọng đã trở lại và cũng
đã bị vùi dập tàn nhẫn, nhưng sau đêm hội mùa xuân ấy, nó sẽ mãi mãi còn ám
ảnh, thao thức trong lòng dù chỉ là mơ hồ, xa thoảng. Sau bao nhiêu năm tháng, Mị

đã tỉnh táo nhận ra những bất hạnh đắng cay trong thân phận trâu ngựa của mình.
Khi đã nhận ra sự khổ ải, cảm nhận về sự khổ ải sẽ càng thêm thấm thía. Từ nay có
lẽ Mị sẽ không thể yên ổn với những suy nghĩ buông xuôi, cam chịu của mình để
tiếp tục sống cảnh trâu ngựa cho tới chết. Khát vọng hạnh phúc, khát vọng tình yêu
trong tuổi trẻ đã hồi sinh, đã bị vùi dập và đang chờ một ngọn gió thổi bùng lên lần
thứ 2.
 KL
1. NT: Đây là đoạn văn miêu tả đầy chất thơ về bức tranh thiên nhiên và cuộc sống
con người miền núi cao khi mùa xuân đến, đoạn văn cũng miêu tả chân thực diễn
biến tâm tư của nhân vật thông qua dòng độc thoại nội tâm với NT đồng hiện đan
xen quá khứ với hiện tại, đan xen ý thức và tiềm thức… Đoạn văn còn sử dụng thứ
ngôn ngữ nửa trực tiếp giúp người đọc nhận ra vẻ đẹp trong đời sống nội tâm của
nhân vật, lắng nghe được tiếng nói bên trong của nhân vật, tạo sự đồng cảm giữa
nhân vật và người đọc.
2. ND: Qua đó, nhà văn đã khám phá, miêu tả và khẳng định sức sống tiềm tàng,
mãnh liệt trong tâm hồn của người con gái bị đày ải tàn nhẫn đến mức tưởng như
không còn sức sống. Trân trọng, ngợi ca những khát khao tình yêu, hạnh phúc của
con người, thể hiện niềm tin yêu vào sức sống kì diệu của con người không thể bị
huỷ diệt, Tô Hoài đã đưa đến cho truyện ngắn của ông những giá trị nhân đạo sâu
sắc.
12


ĐỀ 3: Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Mị trong đêm đông cởi trói cho A
Phủ và tự giải thoát chính mình để làm rõ giá trị nhân đạo trong truyện ngắn
VCAP
 MB
- Tác giả, tác phẩm (như đề 1)
- Thông qua việc miêu tả chân thực diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật
Mị trong đêm đông cởi trói cho A Phủ và tự giải thoát chính mình, Tô Hoài đã

khẳng định và ngợi ca bản chất tốt đẹp và khát vọng sống mãnh liệt trong tâm hồn
Mị, từ đó đưa đến những giá trị nhân đạo sâu sắc trong truyện ngắn VCAP
 TB
1. Mị vốn là người con gái có sức sống tiềm tàng mãnh liệt và trái tim nhân hậu vị
tha (đề 1, phần 1-a,b,c)
2. Sau những tháng ngày chịu đày ải trong nhà thống lý:
- Mị đã hoàn toàn thay đổi – cô gái mạnh mẽ, tự chủ, khao khát yêu đời, yêu cuộc
sống ngày xưa nay trở thành người đàn bà có tâm lý buông xuôi, không còn mong
mỏi khát khao. Mọi suy nghĩ của Mị hướng tới cái chết như đoạn đường cuối cùng
trong cuộc đời buồn tủi: “Đời người đàn bà có chồng ở Hồng Ngài chỉ biết cầm roi
…”, cô gái có tấm lòng nhân hậu vị tha ngày xưa nay sống lạnh lùng, luôn thờ ơ
với nỗi đau khổ của những người xung quanh lẫn nỗi đau khổ của chính mình.
- Sức sống của Mị đã một lần bừng thức trong đêm tình mùa xuân năm nào, cũng
bị dập tắt bởi thói tàn bạo của A Sử. Sau đêm ấy, Mị dường như trở về với con
người cũ: nhẫn nhịn, lạnh lùng, vô cảm nhưng Tô Hoài đã cho thấy sức sống vẫn
âm ỉ, tiềm tàng đâu đó trong lòng Mị, đó là điều mà thậm chí chính Mị cũng không
tự nhận ra. Có lẽ cô vẫn nghĩ lòng mình đã chết hẳn, và không thể ngờ, sức sống
tiềm tàng mãnh liệt ấy sẽ trở về với cô trong đêm đông lạnh lẽo ở Hồng Ngài.
13


Diễn biến tâm trạng và hành động:
a) Lúc đầu khi nhìn thấy A Phủ bị nhà thống lí bắt trói đứng ở cây cột ngoài trời,
Mị vẫn thờ ơ, vô cảm khi “hàng đêm ra sưởi lửa hơ tay ở bếp lửa ngay gần đó, có
tới mấy đêm, Mị không hề đoái hoài tới cảnh một người con trai bị trói, bị đói và
bị rét đang chờ chết ngay bên cạnh mình. Mị còn ý thức được sự vô cảm của mình
khi “thản nhiên thổi lửa, hơ tay” bên cạnh một người sắp chết, thậm chí cô còn
nghĩ rằng “Nếu A Phủ có là cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi”. Và thật ra, Mị
không chỉ thờ ơ với nỗi khổ của A Phủ, bản thân Mị bị A Sử vô cớ “đánh ngã
xuống cửa bếp”, cô cũng dửng dưng, không thấy đau khổ hay bất hạnh, cũng chẳng

hề tức giận hay sợ hãi. “Đêm sau, Mị vẫn ra ngồi sưởi lửa như đêm trước” – trái
tim Mị dường như đã nguội lạnh với cả nỗi đau khổ hay sự sống chết của chính
mình!
b) Diễn biến tâm trạng của Mị cũng bắt đầu thay đổi từ lúc cô nhìn thấy A Phủ
khóc.
- Khi nhìn thấy “dòng nước mắt lấp lánh bò xuống 2 hõm má đã xạm đen lại” của
A Phủ, một cái gì đó chưa chết hẳn trong Mị mới đột ngột thức dậy, kéo cô ra khỏi
tình trạng thờ ơ, vô cảm.
- Một người con trai khỏe mạnh cường tráng, bây giờ hốc hác thê thảm với “2 hõm
má đã xạm đen lại” khi bị trói đứng chờ chết, một người con trai ngang tàng, mạnh
mẽ, bây giờ phải lặng lẽ khóc, dòng nước mắt không thể kiềm chế vì quá cay đắng,
không thể che giấu vì không tự lau đi được. Dòng nước mắt đàn ông “lấp lánh”
trong ánh lửa khiến nỗi thống khổ, sự đau đớn vì cảm giác bất lực tột cùng của con
người trở nên hiện hữu, sống động.
- Cảnh tượng ấy trước hết làm Mị nhớ tới cảnh mình cũng từng bị trói, cũng từng
khóc cay đắng, nước mắt “cũng chảy xuống miệng, xuống cổ không biết lau đi
được”. Nỗi đau đớn, tủi cực của chính mình trong quá khứ có lẽ đã giúp Mị nhận

14


ra nỗi đau đớn, tủi cực của A Phủ đêm nay, Mị đã cảm nhận nỗi đau khổ của A
Phủ qua trải nghiệm nỗi đau của chính mình, một cảm nhận thấm thía vị đồng cảm.
- Hình dung ra cái chết của mình năm xưa đã có thể xảy ra nếu tiếp tục bị trói như
A Phủ, nhớ tới cái chết của người đàn bà ngày trước cũng bị trói đứng trong nhà
thống lí, nghĩ đến cái chết của A Phủ sắp tới, Mị chợt nhận ra tất cả những cái chết
đã và đang xảy ra ở đây đều do sự tàn bạo của cha con nhà thống lí. Lần đầu tiên
trong tâm hồn Mị có ý thức về sự căm giận, đó cũng là lúc lòng thương thân thức
dậy tình thương người, lòng nhân hậu đưa đến sự căm hờn phẫn uất, Mị âm thầm
kết án cha con thống lí Pá Tra: “Chúng nó thật độc ác”.

- Với bản thân mình, Mị có vẻ như đã cam chịu “Ta là thân đàn bà, nó bắt ta về
trình ma nhà nó thì chỉ còn chờ rũ xương ở đây!”. Nhưng trong lòng mình lại mơ
hồ, “phảng phất” suy nghĩ về sự vô lí trong cái chết của A Phủ: “Người kia việc gì
phải chết thế?”. Sau bao nhiêu năm sống trong sự thờ ơ, vô cảm, có lẽ đây là ý nghĩ
đầu tiên của Mị dành cho người, dành cho người, vì người – ý nghĩ của trái tim
nhân hậu, vị tha đã bắt đầu thức tỉnh. Đoạn văn sau đó dày đặc những từ “chết”:
“Chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”. Đó cũng là
một biểu hiện cho thấy niềm ham sống hình như đã trở lại với Mị, trở lại trong sự
kinh hoàng về cái chết, nỗi phẫn uất vì sự phi lý trong cái chết của những con
người hiền lành, lương thiện, những con người cùng cảnh ngộ, những nạn nhân
đau đớn của cường quyền.
c) Hành động cắt dây trói
Sự hồi sinh của Mị được thể hiện trong hành động đầu tiên là cắt dây trói cứu A
Phủ. Trước đây, nghĩ tới việc nếu A Phủ trốn thoát, Mị phải chết thay, cô cũng
không thấy sợ: như vậy nguyên nhân khiến Mị cởi trói cho A Phủ không phải vì sợ
bị liên luỵ mà chỉ do sự thúc đẩy của cảm giác bất bình, phẫn uất, do sự thức tỉnh
của lòng nhân hậu, đó là sự bừng dậy tự phát, đột ngột và bất ngờ với chính Mị,
khi rút dao cắt dây trói cho A Phủ, dường như Mị vẫn đang làm theo sự mách bảo
15


của tiềm thức mơ hồ tồn tại trong một tấm lòng nhân hậu vừa thức tỉnh, vì thế khi
cởi hết dây trói ở người A Phủ thì “Mị cũng hốt hoảng”. Có lẽ đến lúc ấy, lí trí của
Mị mới chợt nhận ra tiềm thức đã xui khiến cô làm một việc thật ghê gớm. Việc
cởi trói cho A Phủ là kết quả tất yếu của sự thức tỉnh lòng nhân hậu, tình thương
người, sự đồng cảm với những người cùng cảnh ngộ và cùng với nó là sự bức bách
khắc nghiệt của hoàn cảnh.
d) Sự hồi sinh triệt để, tự giải thoát chính mình, giải thoát cho A Phủ, Mị cũng
đồng thời thoát khỏi trạng thái vô cảm, thờ ơ, lặng lẽ, trái tim nhân hậu hồi sinh thì
đồng thời khát vọng sống hồi sinh. Khi Mị không còn vô cảm với nỗi đau khổ của

người khác thì cũng đến lúc cô không thể tiếp tục vô cảm với nỗi đau khổ của
chính mình. Có lẽ sau giây phút: “đứng lặng trong bóng tối, nhìn A Phủ lao vút đi”,
hình ảnh một con người với nỗi đau khổ tột cùng, một con người như đã hoàn toàn
vô vọng trên bờ vực của cái chết đang mạnh mẽ thoát ra khỏi chốn địa ngục trần
gian, đang lao đi tìm cho mình sự sống, hình ảnh ấy khiến Mị đột ngột hiểu việc
mình cần phải làm lúc bấy giờ, ngay lập tức, đó là tự giải thoát đời mìh khỏi sự
thống trị đày ải tàn bạo của cường quyền và thần quyền trong suốt bao năm qua.
Tô Hoài miêu tả một loạt các hành động sau đó của Mị trong những câu ngắn cùng
những động từ mạnh mẽ, gấp gáp: “Mị cũng vụt chạy ra… Mị vẫn băng đi… Mị
đuổi kịp…Mị nói, thở…”
Người đàn bà lặng lẽ vô hồn vô cảm ấy đang hối hả tự cứu mình trong giây phút
mãnh liệt, gấp gáp; người đàn bà câm lặng như tảng đá ấy đã cất lên tiếng nói xin
được giải thoát: “A Phủ cho tôi đi”; người đàn bà hơn một lần muốn chết, người
đàn bà không còn tưởng đến cả sự sống lẫn cái chết, người đàn bà ấy nay khẩn
thiết mong được sống, mong được theo A Phủ để tìm sự sống bởi nỗi kinh hoàng
trước cái chết: “Ở đây thì chết mất”.
- Khát vọng sống mãnh liệt đã thức tỉnh hoàn toàn và không dừng lại ở ảo giác hay
khát khao như trong đêm tình mùa xuân mà đã trở thành những hành động quyết
16


liệt, triệt để chống lại số phận, chống lại vòng cương toả độc ác của cha con nhà
thống lí, giành lại cho mình quyền được sống, quyền được tự do.
 KL
- Đoạn văn miêu tả diễn biến tâm trạng và hành động của Mị trong đêm đông cắt
dây trói cứu A Phủ và tự giải thoát chính mình đã thể hiện tài năng của Tô Hoài
trong việc miêu tả diễn biến tâm lý của nhân vật. Tâm lý nhân vật đã được hiện lên
qua độc thoại nội tâm với nghệ thuật đồng hiện, với sự đan xen quá khứ và hiện tại,
ý thức và vô thức giúp người đọc nhận ra những diễn biến tinh tế trong tâm hồn
nhân vật. Tâm lý nhân vật còn được thể hiện chân thực qua những hành động, hoặc

chịu sự chi phối của tiềm thức, hoặc là sự tất yếu của ý thức.
- III.2, đề 2
ĐỀ 4: Phân tích hình tượng nhân vật A Phủ trong truyện ngắn VCAP
 MB
- như đề 1
- Bên cạnh nhân vật chính của truyện ngắn là Mị với vẻ đẹp tâm hồn và tính cách,
A Phủ cũng là nhân vật
được Tô Hoài khắc hoạ khá đặc sắc góp phần làm đậm thêm giá trị nhân đạo của
tác phẩm.
 TB
1. A Phủ là một người có số phận bất hạnh
- A Phủ là một người con trai nghèo khổ, suốt đời đi làm thuê, làm mướn, không
có ruộng, không có đến chiếc áo bạc để đi chơi Tết theo phong tục người Mông.
Cha mẹ A Phủ bị chết trong một trận dịch. A Phủ cũng từng bị bán cho người Thái
dưới vùng đất thấp.
- A Phủ cũng là một nạn nhân đau khổ của cường quyền. Vì chống lại sự bạo
ngược của A Sử, A Phủ bị đánh đập dã man, bọn chức quyền xử tội A Phủ không
17


theo bất cứ sự công bằng nào của pháp luật mà theo những tập tục tàn bạo thời
trung đại. Vụ xử kiện diễn ra trong khói thuốc phiện “tuôn ra các lỗ cửa tùn hút
như khói bếp, người thì đánh, người thì quỳ lạy, kể lể, chửi bới”. Sau một lượt
đánh, lại kể… lại chửi… lại đánh, cứ thế từ trưa cho đến hết đêm. Đánh A Sử phải
trả giá bằng đòn roi và sau đó phải chịu phạt và một món tiền lớn. Vì món tiền ấy,
A Phủ trở thành một người đi ở trừ nợ cho nhà thống lí, và tất nhiên với chế độ cho
vay nặng lãi của Pá Tra, món nợ ấy sẽ giam cầm A Phủ đến suốt cuộc đời, thậm
chí giống như gia đình Mị, món nợ ấy sẽ đày đoạ, khổ sở cho đến cả đời con đời
cháu. Sau đó vì để hổ ăn mất nửa con bò, nhà thống lý đã bắt A Phủ chịu trói đứng
chờ chết trong đói và rét, A Phủ sẽ phải trả giá cho nửa con bò nhà thống lý bằng

chính sinh mạng mình nếu không được Mị cứu thoát.
2. A Phủ là người có bản chất tốt đẹp
a) Cuộc sống gian truân khổ sở và hoàn cảnh bất hạnh đã giúp A Phủ có những
tính cách gan góc, ngang tàng, lòng yêu tự do và những tài năng lao động đáng
quý.
- A Phủ là một người lao động giỏi giang và chăm chỉ, anh rất thành thạo và yêu
thích những công việc lao động nặng nhọc, nguy hiểm, khó khăn, “A Phủ biết đúc
lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và đi săn bò tót rất lạ”. Vì thế nên dù biết A
Phủ nghèo khổ, sẽ không thể lấy được vợ bởi những tập tục khắc nghiệt, người
trong bản vẫn quý trọng anh mà nói: “đứa nào lấy được A Phủ như được con trâu
tốt”.
- A Phủ là người con của núi rừng, luôn gần gũi với thiên nhiên tự do, phóng
khoáng. Thửơ bé, khi bị bán xuống miền đất thấp cho người Thái, A Phủ không
chịu nổi cuộc sống tù túng nên đã trốn lên núi cao. “A Phủ đốt rừng, cuốc nương,
săn bò tót, bẫy hổ, chăn ngựa, quanh năm một mình bôn ba ngoài gò, ngoài rừng”
- A Phủ rất gan góc, ngang tàng, không hề biết sợ hãi cường quyền. Trước sự bạo
ngược của A Sử, A Phủ hiên ngang đối đầu, trừng trị hắn trong một trận đánh nhau
18


áp đảo. Tô Hoài đã miêu tả sức mạnh, sự dũng cảm và bản lĩnh kiên cường của A
Phủ trong những câu ngắn, dồn dập cùng những động từ mạnh “chạy vụt ra… vung
tay ném… xộc tới… nắm… kéo dập đầu… xé… đấm tới tấp” khi bị bọn chức viên
trong làng xử kiện vì tội đánh A
Sử, dù bị đánh đập tàn nhẫn theo kiểu tra tấn thời trung cổ, A Phủ cũng không hề
van xin, khóc lóc; cứ gan góc quỳ chịu đòn như pho tượng đá. Ngay cả khi đã
trưởng thành làm người làm công trừ nợ cho nhà thống lý, A Phủ vẫn là một con
người tự do đến hoang dã. Để hổ ăn mất nửa con bò nhà thống lý, A Phủ thẳng
thắn trở về mượn súng để đi bắn hổ, không quanh co sợ hãi.
b) A Phủ cũng là người con trai núi rừng có sức sống tiềm tàng, mạnh mẽ. Bị sự áp

chế tàn bạo của cường quyền, A Phủ dường như phần nào đã trở nên chịu nhẫn
nhục. Theo lệnh của thống lý sau khi bị đòn A Phủ phải vác dao đi chọc tiết lợn,
mở tiệc cho bọn người vừa hành hạ, chửi bới, đánh đập mình – bữa tiệc A Phủ phải
trả bằng số tiền vay của thống lý Pá Tra, phải đổi bằng cả cuộc đời đi ở trừ nợ. Khi
để hổ ăn mất bò nhà thống lý Pá Tra, bị phạt trói, cũng chính A Phủ “vác cọc…
đánh cọc… lấy cuộn dây mây” để thống lý trói mình vào cọc chờ chết. Sau mấy
ngày đêm bị trói trong gió lạnh, trong đói và rét, trước cái chết đang tới gần, A Phủ
không kiềm được nỗi cay đắng và bất lực. Hình ảnh dòng nước mắt “lấp lánh” là
minh chứng cho sự thống khổ tột cùng, sự thấu hiểu cay đắng của người con trai
núi rừng đã từng gan góc, mạnh mẽ.
- Khi được Mị cắt dây trói, A Phủ khuỵu xuống đau đớn sau mấy ngày đêm bị trói
nhưng nghe lời của Mị “đi ngay đi”, ngay lập tức A Phủ hiểu rằng mình đang đứng
giữa sự sống và cái chết, giữa cuộc sống tự do và kiếp nô lệ nhọc nhằn. Khát vọng
sống, khát vọng tự do mãnh liệt đã trả lại cho A Phủ một sức mạnh phi thường,
khiến anh có thể “quật sức vùng lên chạy”, giải thoát mình khỏi cuộc đời nô lệ,
khỏi cái chết.
c) A Phủ là người trân trọng tình nghĩa và có tấm lòng cảm thông.
19


- Nghe tiếng kêu cứu của Mị, A Phủ hiểu ngay tình cảnh của cô, người con dâu gạt
nợ bất hạnh nhà thống lý, không chỉ có tấm lòng biết ơn với người đàn bà vừa cứu
mình, A Phủ còn nhận ra cả mình và Mị đều là những nạn nhân đau khổ của cường
quyền, họ chỉ có thể giải thoát mình khỏi chốn địa ngục trần gian ấy nếu biết
nương tựa vào nhau bằng tình thương của những người cùng cảnh ngộ. A Phủ đã
đưa Mị chạy trốn khỏi nhà thống lý Pá Tra, cuộc sống hạnh phúc của họ đang ở
Phiềng Sa. Không chỉ là sự đền đáp cho chuỗi ngày đau khổ mà còn là phần
thưởng xứng đáng với những phẩm chất tốt đẹp của họ.
 KL
 Tuy không phải là nhân vật chính trong truyện ngắn, A Phủ vẫn được Tô

Hoài miêu tả thật ấn tượng, từ dáng nhìn, hành động cho đến lời nói, qua đó
làm hiện lên của nỗi đau của số phận và phẩm chất của tính cách.
 Qua cuộc đời của A Phủ, nhà văn đã phản ánh cuộc sống cơ cực, tối tăm của
những người dân miền núi Tây Bắc trước Cách mạng dưới ách áp bức tàn
bạo của bọn PK vùng cao. Nhà văn đã thể hiện không chỉ sự đồng cảm, xót
thương mà còn là niềm tin yêu sâu sắc vào bản chất tốt đẹp, sức sống mãnh
liệt của những người dân lương thiện bị áp bức tất yếu sẽ vùng lên đấu tranh
thay đổi cuộc đời.

20



×