Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO tâm lý học vấn đề NHU cầu TRONG tâm lý học và ý NGHĨA đối với tìm HIỂU NHU cầu QUÂN NHÂN TRONG HOẠT ĐỘNG QUÂN sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.13 KB, 23 trang )

VẤN ĐỀ NHU CẦU TRONG TÂM LÝ HỌC VÀ Ý NGHĨA ĐỐI VỚI
TÌM HIỂU NHU CẦU QUÂN NHÂN TRONG HOẠT ĐỘNG QUÂN SỰ
MỞ ĐẦU
Nhu cầu với tư cách là một hiện tượng tâm lý của con người, nó chi phối một
cách mãnh liệt đến đời sống tâm lý nói chung, đến hành vi của con người nói riêng.
Nhu cầu được nhiều ngành khoa học nghiên cứu và ứng dụng vào nhiều lĩnh vực
khác nhau trong cuộc sống: Trong quản lý, kinh doanh, giáo dục... Trong tâm lý
học nhu cầu thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà tâm lý học, được
nhiều công trình nghiên cứu đề cập tới. Đặc biệt trong tâm lý học hoạt động, nhu
cầu được xem như là nguồn gốc tạo nên tính tích cực trong hoạt động của con
người, nhu cầu luôn gắn liền với hoạt động, là tiền đề, yếu tố khách quan tạo nên
các phẩm chất tâm lý.
Tùy theo các góc độ tiếp cận, mỗi lý thuyết khác nhau thì nhu cầu được xem
xét ở một khía cạnh nhất định, song ở góc độ tiếp cận nào thì nhu cầu luôn được
xem là yếu tố quan trọng, nguồn gốc hoạt động của con người, là những đòi hỏi
không thể thiếu để con người tồn tại và phát triển.
Để có một cách nhìn tổng quan trong những quan niệm, học thuyết về nhu
cầu, từ đó đánh giá được tính khoa học, tính ứng dụng rộng rãi của các quan điểm,
học thuyết đó vào trong đời sống nói chung và trong lĩnh vực hoạt động quân sự
nói riêng. Trong phạm vị bài tiểu luận này xin được trình bày khái quát các quan
điểm về nhu cầu trong tâm lý học, đặc biệt nhấn mạnh đến quan điểm của tâm lý
học hoạt động, từ đó rút ra ý nghĩa trong vấn đề nghiên cứu nhu cầu của người
quân nhân trong hoạt động quân sự.

1


I. Những quan điểm về nhu cầu trong tâm lý học
1. Các quan điểm về nhu cầu của các nhà tâm lý học phương tây
Vấn đề nhu cầu được quan tâm, đề cập khá sớm, bởi nó liên quan trực tiếp đến
hoạt động và cuộc sống của con người. Ngay trong triết học, Ph. Ăngghen – tuy


không phải là một nhà tâm lý học, nhưng khi nói về quan điểm của mình về nhu
cầu ông khẳng định: “Người ta quy cho trí óc, cho sự mở mang và hoạt động của
bộ óc tất cả công lao làm cho xã hội phát triển được nhanh chóng và đáng lẽ người
ta phải giải thích rằng hoạt động của mình là do nhu cầu của mình quyết định (mà
những nhu cầu đó quả thật đã phản ánh vào trong đầu óc con người, làm cho họ có
ý thức đối với những nhu cầu đó) thì người ta lại quen giải thích rằng hoạt động của
mình là do tư duy của mình quyết định. (F. Anghen – Phép biện chứng của tự
nhiên, Nxb Sự thật,H. trang 280).
Những nghiên cứu về nhu cầu trong tâm lý học phương tây có thể kể đến một
số trường phái tiêu biểu sau:
Tâm lý học hành vi về nhu cầu: Chủ nghĩa Hành vi do nhà tâm lý học Mỹ
J.Watson (1878/1895) sáng lập. Ông cho rằng: tâm lý học không mô tả, giảng giải
các trạng thái ý thức mà chỉ nghiên cứu hành vi cơ thể. Hành vi được hiểu là tổng
số các cử động bên ngoài, nảy sinh ở cơ thể nhằm đáp ứng lại một kích thích nào
đó, nó được thể hiện bằng công thức hành vi nổi tiếng S-R. Vì vậy, theo Tâm lý học
hành vi, mọi vấn đề tâm lý như ý thức, tư tưởng, tình cảm, ý chí, nhu cầu, động
cơ…đều là những khái niệm mơ hồ, không ai nhìn thấy được, sờ thấy được, đo
được, đếm được. Do vậy, tất cả chúng đều là phi vật chất, và không thể quyết định
được một hiện tượng vật chất. Song nếu xét về thực chất, ngay từ đầu thế kỉ 19, các
tác giả như Wkoler, Ethordike, NE.Miller đã có những thí nghiệm nghiên cứu về
nhu cầu ở động vật và khẳng định: các kiểu hành vi của con vật được thúc đẩy bởi
2


nhu cầu (bằng việc đưa ra “luật hiệu ứng” và giả thuyết về mối liên hệ kích thích –
phản ứng), từ đó kết luận: Nhu cầu có thể quyết định hành vi. Sau này, các đại biểu
tâm lý hoc Hành vi mới đưa vào công thức S – R một biến số 0, biến số trung gian:
đó là nhu cầu, trạng thái chờ đón, kinh nghiệm sống…các tác giả này giải thích
rằng: O là biến số trung gian có tác dụng điều chỉnh đáp ứng phù hợp với các kích
thích vào cơ thể. Xét về mặt quan điểm: các nhà hành vi không coi nhu cầu là thuộc

về tâm lý, nhưng trên thực tế, nghiên cứu của họ cho thấy các thực nghiệm đã chỉ
ra các nhà tâm lý học hành vi nghiên cứu khá rõ và kĩ về nhu cầu, đặc biệt là những
nhu cầu cụ thể, nhu cầu sinh lý.
Điểm hạn chế của họ là: họ quan niệm đồng nhất nhu cầu ở con người và nhu
cầu ở con vật. Thiếu sót này do các thực nghiệm mà các nhà hành vi dựa vào để đi
đến kết luận thường là thực nghiệm trên động vật.
Tâm lý học hiện sinh: Clack Hull với thuyết xung năng theo hướng tiếp cận
sinh học cho rằng: các nhu cầu sinh lý chi phối đời sống con người. Ông không phủ
định sự có mặt của những nhu cầu, động cơ khác nhưng theo ông, chúng kết hợp và
bị chi phối bởi nhu cầu thể chất, thúc đẩy hoạt động của con người. Về bản chất,
thuyết xung năng đã sinh vật hoá nhu cầu của con người. Xem nhu cầu như là xung
năng mang tính sinh vật, nảy sinh từ sự thiếu hụt thức ăn, nước uống, không khí,
nguy hiểm…qua đó phủ nhận tính xã hội, bản chất xã hội của nhu cầu. Quy gán:
nhu cầu nội tâm và nhu cầu xã hội đều do yếu tố sinh vật tạo ra.
Phân tâm học về nhu cầu: Thuyết phân tâm do Freud (1856 – 1939) xây dựng
nên. Trong quá tình nghiên cứu của mình, ông cũng đã đề cập đến vấn đề nhu cầu
của cơ thể trong “Lý thuyết bản năng của con người”. Ông khẳng định, Phân tâm
học coi trọng nhu cầu tự do cá nhân như các nhu cầu tự nhiên, đặc biệt là nhu cầu
tình dục. Việc thoả mãn nhu cầu tình dục sẽ giải phóng năng lượng tự nhiên, và như
thế, tự do cá nhân thực sự được tôn trọng, kìm hãm nhu cầu này sẽ dẫn đến hành vi
3


mất định hướng của con người. “Khát dục trong Phân tâm học không có ý nói đến
việc thoả mãn những khát khao thông thường mà là sự đòi hỏi thoả mãn những khát
khao mãnh liệt. Những mong muốn này được thoả mãn sẽ đem lại cho con người
những khoái cảm đặc biệt và sẽ tạo ra một trạng thái tâm lý sung sướng, khoan
khoái, dễ chịu. Khi một khát vọng nào đó chưa được thoả mãn thì sự căng thẳng về
mặt tâm lý lên đến tột đỉnh”[Freud và phân tâm học – Tr.47 ]. Erich Fromm nhà
phân tâm học mới quan niệm rằng: “nhu cầu tạo ra cái tự nhiên của con người. Đó

là những nhu cầu:
1. Nhu cầu quan hệ người – người
2. Nhu cầu tồn tại “cái tâm”con người
3. Nhu cầu đồng nhất bản thân và xã hội với dân tộc, giai cấp, tôn giáo.
4. Nhu cầu về sự bền vững và hài hòa
5. Nhu cầu nhận thức, nghiên cứu
Những nhu cầu này là thành phần tạo nên nhân cách”. [Tr.70 Tâm lý học nhân
Cách – Nguyễn Ngọc Bích – Nxb ĐHQG – Hà Nội]
Tâm lý học Gestal về nhu cầu: Các nhà nghiên cúu tâm lý nổi tiếng của
trường phái này là: W.Wertheimer, Kohler, Kolka, đặc biệt là Kutrtlevan với các
nghiên cứu của ông về vấn đề động cơ và nhân cách, tâm lý học xã hội đều có đề
cập đến nhân tố thúc đẩy hoạt động của con người, không chỉ có xung năng mà còn
có cả nhu cầu xã hội. Khi xuất hiện một nhu cầu nào đó, xuất hiện đồng thời liên
tưởng có liên quan đến các nhu cầu đó của chủ thể. Với mọi ý nghĩ của con người
đều có liên quan đến các nhu cầu khác nhau, vì vậy, tạo ra một chuỗi những căng
4


thẳng là nguồn gốc tính cực của hoạt động, đồng thời mang tính tích cực hoạt động,
giảm trạng thái căng thẳng đó.
Tâm lý học nhân văn về nhu cầu: Tâm lý học nhân văn ra đời như một khuynh
hướng đối lập với tâm lý học hành vi và phân tâm học. Tiêu biểu cho lý thuyết về
nhu cầu của trường phái tâm lý học nhân văn là “Thuyết thứ bậc nhu cầu” của
A.Maslow. Abraham Maslow (1908 -1970), ông là một nhà tâm lý học nổi tiếng
người Mỹ, là người đáng chú ý nhất với sự đề xuất về Tháp nhu cầu và ông được
xem là cha đẻ của chủ nghĩa nhân văn trong Tâm lý học.
Maslow nhà khoa học xã hội nổi tiếng đã xây dựng học thuyết về nhu cầu của
con người vào những năm 1950. Lý thuyết của ông nhằm giải thích những nhu cầu
nhất định của con người cần được đáp ứng như thế nào để một cá nhân hướng đến
cuộc sống lành mạnh và có ích cả về thể chất lẫn tinh thần.

Lý thuyết của ông giúp cho sự hiểu biết của chúng ta về những nhu cầu của
con người bằng cách nhận diện một hệ thống thứ bậc các nhu cầu. Ông đã đem các
loại nhu cầu khác nhau của con người, căn cứ theo tính đòi hỏi của nó và thứ tự
phát sinh trước sau của chúng để quy về 5 loại sắp xếp thành thang bậc về nhu cầu
của con người tư thấp đến cao.
Nhu cầu sinh lý: Đây là nhu cầu cơ bản để duy trì cuộc sống của con người
như nhu cầu ăn uống, ngủ, nhà ở, sưởi ấm và thoả mãn về tình dục. Là nhu cầu cơ
bản nhất, nguyên thủy nhất, lâu dài nhất, rộng rãi nhất của con người. Nếu thiếu
những nhu cầu cơ bản này con người sẽ không tồn tại được. Đặc biệt là với trẻ em
vì chúng phụ thuộc rất nhiều vào người lớn để được cung cấp đầy đủ các nhu cầu
cơ bản này. Ông quan niệm rằng, khi những nhu cầu này chưa được thoả mãn tới
mức độ cần thiết để duy trì cuộc sống thì những nhu cầu khác của con người sẽ
không thể tiến thêm nữa.

5


Nhu cầu về an toàn hoặc an ninh: An ninh và an toàn có nghĩa là một môi
trường không nguy hiểm, có lợi cho sự phát triển liên tục và lành mạnh của con
người. Nội dung của nhu cầu an ninh: An toàn sinh mạng là nhu cầu cơ bản nhất, là
tiền đề cho các nội dung khác như an toàn lao động, an toàn môi trường, an toàn
nghề nghiệp, an toàn kinh tế, an toàn ở và đi lại, an toàn tâm lý, an toàn nhân sự,…
Đây là những nhu cầu khá cơ bản và phổ biến của con người. Để sinh tồn con
người tất yếu phải xây dựng trên cơ sở nhu cầu về sự an toàn. Nhu cầu an toàn nếu
không được đảm bảo thì công việc của mọi người sẽ không tiến hành bình thường
được và các nhu cầu khác sẽ không thực hiện được. Do đó chúng ta có thể hiểu vì
sao những người phạm pháp và vi phạm các quy tắc bị mọi người căm ghét vì đã
xâm phạm vào nhu cầu an toàn của người khác.
Những nhu cầu về quan hệ và được thừa nhận (tình yêu và sự chấp nhận): Do
con người là thành viên của xã hội nên họ cần nằm trong xã hội và được người

khác thừa nhận. Nhu cầu này bắt nguồn từ những tình cảm của con người đối với
sự lo sợ bị cô độc, bị coi thường, bị buồn chán, mong muốn được hòa nhập, lòng
tin, lòng trung thành giữa con người với nhau.
Nội dung của nhu cầu này phong phú, tế nhị, phức tạp hơn. Bao gồm các vấn
đề tâm lý như: Được dư luận xã hội thừa nhận, sự gần gũi, thân cận, tán thưởng,
ủng hộ, mong muốn được hòa nhập, lòng thương, tình yêu, tình bạn, tình thân ái là
nội dung cao nhất của nhu cầu này. Lòng thương, tình bạn, tình yêu, tình thân ái là
nội dung lý lưởng mà nhu cầu về quan hệ và được thừa nhận luôn theo đuổi. Nó thể
hiện tầm quan trọng của tình cảm con người trong quá trình phát triển của nhân
loại.
Nhu cầu được tôn trọng: Nội dung của nhu cầu này gồm hai loại: Lòng tự
trọng và được người khác tôn trọng. Lòng tự trọng bao gồm nguyện vọng muốn
giành được lòng tin, có năng lực, có bản lĩnh, có thành tích, độc lập, tự tin, tự do, tự
trưởng thành, tự biểu hiện và tự hoàn thiện.
6


Nhu cầu được người khác tôn trọng gồm khả năng giành được uy tín, được
thừa nhận, được tiếp nhận, có địa vị, có danh dự,… Tôn trọng là được người khác
coi trọng, ngưỡng mộ. Khi được người khác tôn trọng cá nhân sẽ tìm mọi cách để
làm tốt công việc được giao. Do đó nhu cầu được tôn trọng là điều không thể thiếu
đối với mỗi con người.
Nhu cầu phát huy bản ngã: Maslow xem đây là nhu cầu cao nhất trong cách
phân cấp về nhu cầu của ông. Đó là sự mong muốn để đạt tới, làm cho tiềm năng
của một cá nhân đạt tới mức độ tối đa và hoàn thành được mục tiêu nào đó.
Nội dung nhu cầu bao gồm nhu cầu về nhận thức (học hỏi, hiểu biết, nghiên
cứu,…) nhu cầu thẩm mỹ (cái đẹp, cái bi, cái hài,…), nhu cầu thực hiện mục đích
của mình bằng khả năng của cá nhân.

Sơ đồ tháp nhu cầu của Abraham Maslow

Một số quan điểm khác: Henrry Musay, khi nghiên cứu về vấn đề nhu cầu
khẳng định: nhu cầu là một tổ chức cơ động, hướng dẫn và thúc đẩy hành vi. Nhu
cầu ở mỗi người khác nhau về cường độ mức độ, đồng thời các loại nhu cầu chiếm
ưu thế cũng khác nhau ở mỗi người. Do ảnh hưởng của phâm tâm học, ông cho
7


rằng nhu cầu quy định xu hướng nhân cách đều xuất phát từ nguồn năng lượng
libido vô thức. Tuy nhiên, ông cũng đưa ra quan điểm tiến bộ về nhu cầu: thể
nghiệm ban đầu là cảm giác băn khoăn luôn ám ảnh, con người thiếu thốn một cái
gì đó, nó là cần thiết của chủ thể cần cho hoạt động sống và do đó, gây cho chủ thể
một mục đích tính tích cực nhất định.
Phillip Kotler khi nghiên cứu về nhu cầu trong hoạt động quản trị kinh doanh
Đã đưa ra quan điểm phân biệt nhu cầu, mong muốn và yêu cầu. Theo ông, nhu cầu
là trạng thái cảm giác thiếu hụt một sự thoả mãn cơ bản nào đó của cơ thể, tồn tại
như một bộ phận cấu thành cơ thể và nhân thân của con người. Mong muốn là ước
ao có được những thứ cụ thể để được thoả mãn nhu cầu sâu xa nào đó. Nó không
ngừng phát triển và được định hình bởi các lực lượng và chế định xã hội. Yêu cầu
là mong muốn có được những thứ cụ thể được hậu thuẫn của khả năng có thể chiếm
lĩnh và thái độ sẵn sàng chiếm lĩnh chúng (trong kinh doanh, nó là những sảm
phẩm cụ thể được hậu thuẫn bởi khả năng và thái độ sẵn sàng mua chúng) Từ đó,
ông khẳng định: “những người làm makerting không tạo ra nhu cầu,
nhu cầu đã tồn tại trước khi có những người làm maketting”. Ông cũng chia nhu
cầu ra thành 5 kiểu khác nhau.
1. Nhu cầu được nói ra
2. Nhu cầu được thực tế
3. Nhu cầu không được nói ra
4. Nhu cầu được thích thú
5. Nhu cầu thầm kín
8



Nhìn chung, quan điểm của ông về nhu cầu chỉ là ứng dụng trong hoạt động
quản trị kinh doanh. Nhưng nó cũng đóng góp một phần trong việc tìm hiểu nhu
cầu của con người.
2. Một số quan điểm về nhu cầu của các nhà tâm lý học Liên Xô
Sau Cách mạng tháng Mười, nền tâm lý học ở Liên Xô đã có bước phát triển
mạnh mẽ. Dưới ánh sáng của triết học Mác – Lênin, các nhà tâm lý học Liên Xô
khi nghiên cứu về con người, đời sống tâm lý con người đã khẳng định: nhu cầu
là yếu tố bên trong quan trọng đầu tiên thúc đẩy hoạt động của con người.
Người đầu tiên trong tâm lý học Xô viết nghiên cứu về nhu cầu là D.N.
Uznetze. Ông khám phá ra mối quan hệ giữa nhu cầu và hành vi. Tương ứng theo
mỗi kiểu hành vi là một nhu cầu. Uznetze. cho rằng: không có gì đặc trưng cho
một cơ thể sống hơn sự có mặt của nó ở nhu cầu. Nhu cầu, đó là cội nguồn của
tính tích cực, với ý nghĩa này thì khái niệm nhu cầu rất rộng.. . Nhu cầu là một
thuộc tính tâm lý đặc trưng giữ vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy hành vi, ông
quan niệm rằng: nhu cầu là yếu tố quyết định tạo ra tính tích cực, nó xác định xu
hướng, tính chất hành vi. Ông cũng cho rằng: dựa vào nhu cầu của con người để
phân loại hành vi của con người.
Người có công đầu khám phá quá trình nảy sinh nhu cầu phải kể đến X.L
Rubinstein, là nhà tâm lý học hoạt động, ông quan niệm nhu cầu là nguồn gốc của
tính tích cực hoạt động của con người. Rubinstein khẳng định rằng con người có
nhu cầu sinh vật, nhưng bản chất của con người là sản phẩm của xã hội vì thế phải
xem xét đồng thời các vấn đề cơ bản của con người với nhân cách. Nói đến nhu
cầu của con người nói đến việc đòi hỏi một cái gì đó hay một điều gì đó nằm
ngoài con người. Khả năng đáp ứng những đòi hỏi ấy một mặt phụ thuộc vào thế
giới đối tượng, trong những điều kiện cụ thể, mặt khác nó phụ thụôc vào sự nỗ
9



lực, năng lực của chính chủ thể. Do đó, khi nói đến nhu cầu sẽ xuất hiện hai hệ
thống là: thế giới đối tượng và trạng thái tâm lý của chủ thể. Tức là phải có mối
quan hệ thống nhất giữa hai yếu tố khách quan (của đối tượng) và yếu tố chủ quan
(của chủ thể) trong hoạt động thỏa mãn nhu cầu. Nhu cầu mang tính tích cực,
thúc đẩy con người hoạt động tìm kiếm cách thức, phương tiện đối tượng thỏa
mãn nó.
P.X. Ximonov thì cho rằng: trong trường hợp nhu cầu cấp bách xuất hiện mà
thiếu hụt thông tin về khả năng thoả mãn, sẽ nảy sinh những rung cảm âm tính,
tăng năng lượng nhu cầu. Tuy nhiên, kết quả hành vi lại không thuận lợi. Kết quả
dương tính sẽ làm giảm tổng thể các hành động thoả mãn nhu cầu. Theo ông, đặc
điểm nhu cầu phụ thuộc vào việc được trang bị thông tin, công cụ và cách thức
nhằm thoả mãn nhu cầu.
B.Ph. Lomov: khi nghiên cứu về nhân cách, ông cũng đề cập khá nhiều đến
nhu cầu. Ông cho rằng nhu cầu như là một thuộc tính của nhân cách. “Nhu cầu cá
nhân là đòi hỏi nào đó về những điều kiện và phương tiện nhất định cho việc tồn
tại và phát triển. Nhu cầu đó nhất thiết bắt nguồn từ những quá trình xảy ra có tính
khách quan trong đó cá nhân tham dự vào suốt cả đời sống của mình. Dĩ nhiên,
nhu cầu là trạng thái của cá nhân, nhưng là nhu cầu về một cái gì đó nằm ngoài cá
nhân” [Những vấn đề lý luận và phương pháp luận trong tâm lý học – Tr 479].
Trong đời sống của cá nhân, nhu cầu vật chất không phải là tất cả. Con người có
thể tồn tại và phát triển chỉ như một thành viên của xã hội. Còn việc “tiêu dùng”
những giá trị tinh thần do xã hội tạo ra mới có vai trò quan trọng trong việc hình
thành và phát triển nhân cách. Ông cho rằng, các nhu cầu đều có cấp độ của nó.
Chẳng hạn như nhu cầu nhận thức thì đi từ sự tò mò, tới sự tìm kiếm chân lý một
cách say mê, nhu cầu nghỉ ngơi đi từ việc cần phải thư giãn, ngủ cho đến cách ly

10


tạm thời với các hình thức quen thuộc của đời sống xã hội…Nhu cầu cao nhất là

nhu cầu sáng tạo.
A.N.Leonchiep cho rằng: cũng như những đặc điểm tâm lý khác của con
người, nhu cầu cũng có nguồn gốc trong hoạt động thực tiễn. Theo ông, nhu cầu
thực sự bao giờ cũng có tính đối tượng: nhu cầu bao giờ cũng là nhu cầu về một
cái gì đó. Trong mối quan hệ giữa đối tượng thoả mãn nhu cầu và nhu cầu, ông
cho rằng: đối tượng tồn tại một khách quan và không xuất hiện khi chủ thể mới
chỉ có cảm giác thiếu hụt hay đòi hỏi. Chỉ khi chủ thể thực sự hoạt động thì đối
tượng thoả mãn nhu cầu mới xuất hiện và lộ diện ra. Nhờ có sự lộ diện ấy mà nhu
cầu mới có tính đối tượng của nó. Nhu cầu, với tính chất là sức mạnh nội tại thì
chỉ có thể được thực thi trong hoạt động. Lúc đầu nhu cầu chỉ xuất hiện như là
một điều kiện, một tiền đề cho hoạt động, chỉ đến khi chủ thể thực sự bắt đầu
hành động với đối tượng thì lập tức xảy ra sự biến hoá của nhu cầu, nó không còn
tồn tại một cách tiềm tàng. Sự phát triển của hoạt động càng đi bao xa bao nhiêu
thì nhu cầu càng chuyển hoá bấy nhiêu thành kết quả của hoạt động. Ông phê
phán việc tách nhu cầu ra khỏi hoạt động vì như vậy sẽ coi nhu cầu là điểm xuất
phát của hoạt động. Mối liên hệ giữa hoạt động với nhu cầu được ông mô tả bằng
sơ đồ: Hoạt động – Nhu cầu – Hoạt động. Luận điểm này đáp ứng được quan
điểm Macxit về nhu cầu. Luận điểm này cho rằng nhu cầu của con người được sản
xuất ra. Đó là luận điểm có ý nghĩa đối với tâm lý học. Ông còn cho rằng: nhu cầu
của con người không chỉ được sản xuất ra mà còn được cải biến ngày trong quá
trình sản xuất và tiêu thụ và đó là mấu chốt để hiểu được bản chất của các nhu cầu
của con người.
Khi xem xét mối quan hệ giữa nhu cầu với động cơ, ông cho rằng: khi mà
đối tượng của nhu cầu xuất hiện, cái mà được nhận biết (được cảm nhân, được
hình dung, hoặc được tư duy) thì có được chức năng thúc đẩy, hướng dẫn hoạt
11


động, tức là trở thành động cơ. Hay, nội dung đối tượng của nhu cầu chính là
động cơ của hoạt động. Một hoạt động diễn ra bao giờ cũng hướng vào việc đạt

mục đích đạt kết quả nhất định nào đó. Động cơ của hoạt động chính là cái nhu
cầu đã được đối tượng hoá và được hình dung trước dưới dạng các biểu tượng của
kết quả hoạt động.
Ngay trong triết học, Ph. Ăngghen – tuy không phải là một nhà tâm lý học,
nhưng khi nói về quan điểm của mình về nhu cầu. ông khẳng định: “Người ta quy
cho trí óc, cho sự mở mang và hoạt động của bộ óc tất cả công lao làm cho xã hội
phát triển được nhanh chóng và đáng lẽ người ta phải giải thích rằng hoạt động
của mìn là do nhu cầu của mình quyết định (mà những nhu cầu đó quả thật đã
phản ánh vào trong đầu óc con người, làm cho họ có ý thức đối với những nhu cầu
đó) thì người ta lại quen giải thích rằng hoạt động của mình là do tư duy của mình
quyết định. (F. Anghen – Phép biện chứng của tự nhiên, Nxb Sự thật,H. trang
280).
Dựa vào những lý luận của tâm lý học hoạt động, đặc biệt là quan điểm của
Leonchiev, trong tâm lý học hoạt động hiện nay, nhu cầu được quan niệm: nhu
cầu là sự đòi hỏi tất yếu về vật chất, tinh thần mà con người thấy cần được thỏa
mãn để tồn tại và phát triển. Nhu cầu của con người được hình thành, tạo nên
trạng thái tích cực bên trong, kích thích con người trực tiếp hoạt động. Lúc đầu,
nhu cầu chỉ là trạng thái thiếu thốn, cần thiết phải thỏa mãn một cái gì đó, phương
hướng đạt tới sự thỏa mãn đó chưa hình thành rõ rệt. Chính trong hoạt động, khi
chủ thể gặp đối tượng có thể đáp ứng được sự cần thiết đang đòi hỏi cần phải thỏa
mãn thì trạng thái nhu cầu mới trở thành động cơ trực tiếp kích thích, thúc đẩy
con người hoạt động theo một phương hướng rõ rệt, nhằm đạt tới đối tượng cần
chiếm lĩnh. Nhu cầu lúc này đã được cụ thể hóa trực tiếp thúc đẩy con người hoạt
động nhằm chiếm lĩnh đối tượng. Ph. Ăng ghen đã chỉ ra rằng: “…đáng lẽ người
12


ta phải giải thích rằng hoạt động của mình là do nhu cầu của mình quyết định (mà
những nhu cầu đó, quả thật đã được phản ánh vào đầu óc của người ta và đã làm
cho họ có ý thức đối với nhu cầu đó) thì người ta lại quen giải thích rằng hoạt

động của mình là do tư duy của mình quyết định”.
Khi nghiên cứu nhu cầu cần phải đặt trong mối quan hệ với động cơ. Theo
quan điểm của các nhà tâm lý học Mác-xít thì: “Nhu cầu là những đòi hỏi tất yếu
khách quan, biểu hiện sự cần thiết về một cái gì đó cần được thoả mãn của con
người trong cuộc sống và hoạt động” (1). Hiểu nhu cầu cần phải hiểu vấn đề mấu
chốt nhất đó là: tính khách quan; tính khách quan của nhu cầu được biểu hiện trên
hai mặt: mặt thứ nhất là sự cần thiết của chủ thể phải được thoả mãn các nhu cầu
để đảm bảo sự sống và tồn tại (như ăn, mặc, ở, đi lại, vui chơi - giải trí...); mặt thứ
hai của việc thoả mãn các nhu cầu đó của con người phải được thực hiện bằng các
đối tượng của hoạt động thực tiễn - tức là tính thực tiễn, khách quan của đối
tượng. Điều đó cho thấy nhu cầu được nảy sinh bởi mối quan hệ biện chứng giữa
hoàn cảnh bên ngoài với điều kiện bên trong của con người, nó biểu hiện sự phụ
thuộc của con người vào hoàn cảnh sống cụ thể, nhưng đó không phải là sự lệ
thuộc một cách máy móc vào điều kiện hoàn cảnh, mà đó là sự thể hiện mối tác
động tích cực trở lài điều kiện hoàn cảnh, cải tạo chính hoàn cảnh đó. Như vậy,
nhu cầu có nguồn gốc từ hiện thực khách quan và thông qua quá trình hoạt động
thực tiễn mà nó được nảy sinh. Vì vậy, nhu cầu không tách rời hoạt động, nhờ
hoạt động mà sự cần thiết trừu tượng nào đó được vật chất hoá và trở thành nhân
tố kích thích trực tiếp đối với hoạt động sống của con người; mặt khác, nhu cầu
không chỉ là sự đòi hỏi, sự cần thiết phải được thoả mãn trong hoạt động mà còn
là điều kiện, là tiền đề của hoạt động, đóng vai trò hướng dẫn điều chỉnh hoạt
động. Nói về vấn đề này, A.N. Leonchiev viết: “Nhu cầu với tư cách là điều kiện
13 Tâm lý học quân sự, Nxb QĐND, H.1998, tr 248.
13


bên trong, là tiền đề bắt buộc của hoạt động và nhu cầu với tư cách là cái hướng
dẫn và điều chỉnh hoạt động cụ thể của chủ thể trong môi trường đối tượng” (2).
Với quan niệm như vậy, xét trong mối quan hệ gắn bó mật thiết với môi trường
xung quanh, con người không chỉ phụ thuộc một cách thụ động, mà nhờ có nhu

cầu, hoạt động của con người trở nên tích cực, chủ động và sáng tạo; điều này thể
hiện rất rõ tính chất chủ thể trong quá trình hoạt động. Tuy nhiên, tính tích cực
của nhu cầu đó chỉ tồn tại ở dạng tiềm tàng, chứ chưa phải đã thúc đẩy hành vi và
hoạt động đạt hiệu quả, mà muốn biến thành những hành động cụ thể, nhu cầu đó
phải được chuyển hoá thành động cơ - khi đó nhu cầu với tư cách là động lực thúc
đẩy hành vi và hoạt động của con người một cách tự giác, tích cực, đạt hiệu quả
cao.
Quá trình chuyển hoá nhu cầu thành động cơ được diễn ra trong quá trình đạt
đến sự thoả mãn nhu cầu của cá nhân; ở quá trình này, lúc đầu nhu cầu chỉ là trạng
thái thiếu thốn, cần thiết phải thoả mãn một cái gì đó, về phương hướng để đạt tới
nhưng chưa được hình thành một cách rõ rệt, chỉ đến khi chủ thể gặp được đối
tượng đáp ứng được nhu cầu (quá trình đối tượng hoá nhu cầu), thì nhu cầu mới
trở thành động cơ trực tiếp thúc đẩy hoạt động.
Khi đề cập đến tính đối tượng của nhu cầu, A.N. Leeonchev đã xác định hai
cấp độ của nó gồm: Cấp độ thứ nhất, là trạng thái tâm lý bên trong, là điều kiện
bắt buộc của hoạt động. Nó thể hiện trạng thái thiếu thốn của chủ thể. Nhưng do
chưa gặp đối tượng thỏa mãn, nên ở cấp độ này, nhu cầu chỉ có khả năng phát
động sức mạnh của các chức năng tâm lý và tạo ra sự kích thích chung. Kết quả,
dẫn đến các hành vi tìm tòi vô hướng. Cấp độ thứ hai, cao hơn, nhu cầu “gặp gỡ”
đối tượng hay cấp độ nhu cầu có đối tượng. Ở cấp độ này, nhu cầu có khả năng
kích thích, hướng dẫn và điều chỉnh hoạt động theo một hướng rõ ràng, hướng đối
tượng thảo mãn nhu cầu. Nhu vậy nhu cầu bao giờ cũng phải gắn với đối tượng
24 A.N. Lêonchiép, Hoạt động - Ý thức - Nhân cách, Nxb Giáo Dục, H.1989, tr 99, tr 4.

14


của nó. Nói cách khác nhu cầu cần phải được “vật hóa”, “đối tượng hóa” vào
trong thực thể khách quan, ở bên ngoài chủ thể, hướng dẫn và kích thích chủ thể
về phía đó. Sự phát triển của nhu cầu là sự phát triển nội dung đối tượng của nó.

Về phương diện triết học, ta thấy, bản thân đối tượng của hoạt động hiện ra trước
chủ thể như là cái đáp ứng nhu cầu này hay khác của chủ thể. Đồng thời, chính
đối tượng đó cũng là sự đối tượng hóa nhu cầu của con người.
II. Ý nghĩa của vấn đề trong nghiên cứu nhu cầu quân nhân trong hoạt động
quân sự
1. Những nhu cầu cơ bản của người quân nhân trong hoạt động quân sự
Nhu cầu là những đòi hỏi tất yếu khách quan biểu hiện sự cần thiết về một
cái gì đó cần được thỏa mãn của con người trong cuộc sống và hoạt động. Không
phải mọi sự cần thiết đều là nhu cầu. Nhu cầu nảy sinh bởi mối quan hệ giữa
hoàn cảnh bên ngoài với điều kiện bên trong của con người, nó biểu hiện sự phụ
thuộc của con người vào hoàn cảnh sống cụ thể. Nhu cầu không tách rời hoạt
động, nhờ hoạt động mà một sự cần thiết trừu tượng nào đó mới được vật chất hóa
và trở thành nhân tố kích thích trực tiếp đối với hoạt động sống của nhân cách.
Nhu cầu của con người rất đa dạng và phong phú và không phải là cái bất di
bất dịch mà nó rất năng động, biến đổi thường xuyên song sự vận động và biến
đổi của nhu cầu cũng tuân theo một số quy luật nhất định.
Quá trình thỏa mãn nhu cầu của con người thông thường trải qua ba giai
đoạn hay ba trạng thái: Lúc chưa được thỏa mãn thì háo hức, mong ước do đó
thúc đẩy con người hoạt động tìm tòi để lấy cân bằng. Muốn điều khiển hành vi
của con người nên đánh vào những nhu cầu đang ở giai đoạn này. Khi đang chiếm
lĩnh đối tượng để thỏa mãn nhu cầu thì con người có trạng thái khoan khoái dễ
chịu, ngây ngất sung sướng. Khi đã lấy được cân bằng, nhu cầu đã được thỏa mãn
cực độ bão hòa thì có tâm trạng chán chường. Lúc này đối tượng mất hết ý nghĩa.
Nếu đánh vào những nhu cầu ở giai đoạn này thì không có ý nghĩa gì. Nhưng nếu
15


có đối tượng mới sẽ kích thích nhu cầu mới và nhu cầu mới sẽ nổi lên, hoạt động
mới sẽ xuất hiện. Vì vậy nhu cầu con người là bất tận.
Nhu cầu với tư cách là trạng thái có thể có nhiều đối tượng để thỏa mãn

cũng như nhiều con đường để thỏa mãn song chủ thể sẽ chọn đối tượng nào có thể
đem lại lợi ích nhất và tạo nên khoái cảm nhiều nhất cho chủ thể. Đây là một điểm
rất đáng chú ý trong vấn đề điều khiển hành vi con người.
Hầu hết mỗi người có một hệ thống nhu cầu. Khi nhu cầu này được thỏa mãn
thì nhu cầu khác trở nên bức thiết và cấp bách hơn (trước đó có thể là thứ yếu).
Con người không bao giờ thỏa mãn được cùng một lúc mọi nhu cầu. Khi những
điều mong ước trước đây đã được giải quyết thì những điều mong lược mới sẽ
phát sinh. Nhu cầu mong ước của con người là vô tận. Muốn điều khiển hành vi
của con người cần xác định thời điểm đó nhu cầu nào đang nổi lên, đang trở nên
cấp bách nhất đối với con người đó để có những tác động thích hợp.
Ở người quân nhân, hoạt động lĩnh vực hoạt động đặc thù - hoạt động quân
sự, song không vì thế mà nhu cầu ở họ bị mất đi mà chỉ là bị rằng buộc về điều
kiện thõa mãn những nhu cầu đó. Trong những điều kiện đó, những nhu cầu cơ
bản của họ vẫn xuất hiện và nhất thiết cần được thỏa mãn ở những mức độ nhất
định để tồn tại, phát triển và chiến đấu. Những nhu cầu cơ bản đó là:
Nhu cầu về chính trị - đạo đức: là những đòi hỏi về tình cảm yêu mến Tổ
quốc, chế độ, nhân dân, Đảng; về lòng căm thù chế độ bóc lột, bất công xã hội; về
tinh thần sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, tích cực tham gia
mọi mặt hoạt động góp phần nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội, gắn bó,
thương yêu đồng đội, giữ gìn lối sống cách mạng, khiêm tốn, trong sạch, lành
mạnh.
Nhu cầu về nhận thức: đó chính là những đòi hỏi hiểu biết toàn diện về chính
trị, quân sự, kinh tế, khoa học kỹ thuật, văn hóa, nghệ thuật, thẩm mỹ… Trong đó
16


quan trọng nhất là những đòi hỏi hiểu biết về đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước, về các nhiệm vụ quân sự, nhiệm vụ của quân đội, đơn vị,
về khoa học nghệ thuật quân sự, vũ khí trang bị và chức trách, nhiệm vụ quân
nhân.

Nhu cầu thẩm mỹ: là những đòi hỏi thưởng thức về cái đẹp của tự nhiên, xã
hội, cái đẹp của văn hóa nghệ thuật, cái đẹp của nhận thức, thái độ, hành vi, lối
sống trực tiếp hàng ngày đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, cái đẹp trong tư thế,
tác phong chuẩn mực đạo đức xã hội chủ nghĩa, phù hợp với bản chất, truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, quân đội.
Nhu cầu lao động: là những đòi hỏi khách quan phải được thỏa mãn về các
dạng hoạt động chân tay, hoạt động trí óc nhằm cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội,
làm
ra của cải vật chất, môi trường sống phục vụ con người. Nhu cầu lao động của
quân nhân được biểu hiện trong lao động quân sự, nó đòi hỏi cao về tính tự giác,
tích cực và hiệu quả cao trong chiến đấu, thành thạo nghiệp vụ, chuyên môn, vũ
khí trang bị, kỹ thuật quân sự, lao động có năng suất, kỷ luật, vượt qua được mọi
khó khăn, gian khổ, phức tạp trong huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, hoàn thành tốt
các nhiệm vụ, chức trách được phân công.
Nhu cầu giao tiếp: là những đòi hỏi về quan hệ bình đẳng, tôn trọng nhân
cách, đúng mực giữa tình đồng chí, đồng đội; giữa cấp trên, cấp dưới, với đơn vị
bạn, với bạn bè thân thiết trong và ngoài đơn vị, với quê hương, gia đình, với
nhân dân, các quan hệ giao tiếp đó tuân theo tiêu chuẩn đạo đức của người quân
nhân cách mạng, phù hợp với quy tắc, chuẩn mực, điều lệnh, điều lệ quân đội, phù
hợp với truyền thống, phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc.
Nhu cầu hoạt động xã hội: nhu cầu hoạt động xã hội của người quân nhân
được thể hiện chủ yếu là những đòi hỏi tham gia công tác tổ chức, đoàn thể như
công tác đảng, công tác đoàn, các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao,
17


khoa học kỹ thuật quân sự. Ngoài ra còn có các hoạt động chính trị - xã hội ở địa
phương. Xuất phát từ quyền lợi, nghĩa vụ, từ ý thức làm chủ, từ tinh thần trách
nhiệm, từ khả năng, vai trò cá nhân… làm nảy sinh nhu cầu hoạt động xã hội của
quân nhân phản ánh bản chất xã hội, bản chất người quân nhân cách mạng.

2. Ý nghĩa của vấn đề trong nghiên cứu nhu cầu quân nhân trong hoạt động
quân sự
Các nhu cầu của con người vừa mang tính khách quan vừa phản ánh tính chủ
quan, nó được hình thành trong qua trình sống, quan hệ xã hội, chịu sự tác động
của hoàn cảnh, điều kiện tự nhiên – xã hội và của giáo dục. Nhu cầu của mỗi
người được nảy sinh khác nhau tùy theo vị thế xã hội và đặc điểm riêng của cá
nhân, do đó nội dung nhu cầu cũng khác nhau. Cùng với sự vận động, biến đổi và
phát triển của hoàn cảnh, điều kiện sống; của nhận thức tình cảm, nhu cầu của con
người không cố định mà biến đổi theo. Quá trình hoạt động làm thỏa mãn nhu cầu
cũng lại làm nảy sinh những nhu cầu mới. Vì thế, nhu cầu của con người ngày
càng trở nên phong phú. Song phương thức để thỏa mãn nhu cầu lệ thuộc rất lớn
vào ý thức, vào kết quả giáo dục. Nhu cầu là sự thống nhất giữa khách quan và
chủ quan.
Nghiên cứu nhu cầu quân nhân trong hoạt động động quân sự phải nhận thấy
rằng các nhu cầu của họ được nảy sinh và gắn liền với thực tiễn cuộc sống và hoạt
động quân sự trong những hoàn cảnh, điều kiện sinh hoạt, chiến đầu của lực
lượng vũ trang, nó không ngừng phát triển theo sự vận động, phát triển của yêu
cầu, nhiệm vụ quân đội, của sự đòi hỏi phù hợp với tình hình biến đổi thực tiễn
của lực lượng vụ trang, xã hội. Do đó, để nhận biết và thỏa mãn những nhu cầu
cho quân nhân đòi hỏi cán bộ chỉ huy, lãnh đạo chú ý những khía cạnh sau:

18


Thứ nhất, giáo dục cho quân nhân ý thức sâu sắc, đầy đủ, chính xác các nhu
cầu của mình đặc biệt là các nhu cầu tinh thần, nhu cầu lao động, giao tiếp và hoạt
động xã hội.
Người quân nhân chỉ khao khát, tìm kiếm, chiếm lĩnh đối tượng để thỏa mãn
nhu cầu khi chính bản thân họ ý thức được nhu cầu của mình. Thông thường,
những nhu cầu bậc thấp thường sẽ được mỗi quân nhân ý thức rõ nét, bởi nó gắn

liền với yếu tố bản năng, gắn liền với sự tồn tại của bản thân. Song những nhu cầu
bậc cao thì không phải lúc nào và ở mọi quân nhân được ý thức một cách rõ ràng.
Do đó, đối với người chỉ huy, lãnh đạo phải giúp cho quân nhân không chỉ ý thức
sâu sắc về nhu cầu của mình mà còn tạo ra những điều kiện, phương thức thỏa
mãn nhu cầu đó.
Phương thức giáo dục nhu cầu hiệu quả nhất chính là giáo dục trong hoạt
động, thông qua hoạt động của người quân nhân. Cần phải đưa quân nhân vào
hoạt động thực tiễn, bởi nhu cầu chỉ nảy sinh thông qua hoạt động và giao tiếp.
Việc tổ chức hoạt động thực tiễn phong phú và đa đạng bao nhiêu sẽ quyết định
tới sự phong phú, đa dạng về nhu cầu bấy nhiêu. Ở đây, việc giáo dục không chỉ
dừng lại trong giới hạn ở việc giúp quân nhân nhận thức về nhu cầu nói riêng mà
rộng hơn nữa đó chính là quá trình giúp cho người quân nhân nhận thức rõ hơn về
chức trách, nhiệm vụ của một công dân, một quân nhân. Đây chính là cơ sở đảm
bảo cho quân nhân hoàn thành tốt chức trách nhiệm vụ được giao.
Thứ hai, quan tâm và tạo điều kiện thỏa mãn những nhu cầu của quân nhân
một cách hợp lý.
Nhu cầu của con người nói chung và nhu cầu của người quân nhân nói riêng
vô cùng phong phú và đa dạng, luôn chịu sự tác động của hoàn cảnh, điều kiện tự
nhiên – xã hội, đặc điểm hoạt động của cá nhân. Với đặc thù là hoạt động huấn
luyện sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu, người quân nhân luôn phải đối mặt với sự
căng thẳng về tinh thần và thể lực, sự thiếu thốn về vật chất và tình cảm. Đặc biệt
19


đối với những chiến sĩ biên giới, hải đảo, họ thường xuyên phải đối mặt với sự
gian khổ của công việc, nỗi nhớ nhà, sự cách trở về địa lý thì những nhu cầu về
tinh thần luôn là bức thiết và cần đươc thỏa mãn. Vì vậy, người chỉ huy, lãnh đạo
cần phải quan tâm, tìm hiểu những nhu cầu bức thiết đó, tạo điều kiện và thỏa
mãn tối đa những nhu cầu cơ bản, những nhu cầu chính đáng cho họ. Tuy nhiên,
việc thỏa mãn những nhu cầu cho người quân nhân cần phải tính đến đặc điểm

hoạt động của đơn vị, điều kiện cho phép và đặt trong những hoàn cảnh, thời điểm
cụ thể chứ không phải làm một cách tùy tiện, thiếu sự nhất quán giữa người lãnh
đạo và người chỉ huy. Kết hợp hài hòa việc thỏa mãn những nhu cầu vật chất và
nhu cầu tinh thần, song cần coi trọng việc hình thành và thỏa mãn những nhu cầu
bậc cao cho người quân nhân. Đồng thời trong những thời điểm, hoàn cảnh cụ thể
cũng phải xác định được đâu là nhu cầu bức thiết, nổi cộm để tìm phương thức
thỏa mãn. Đây chính là những tác động một mặt để giảm bớt những căng thẳng,
sự khô cứng trong môi trường quân sự, mặt khác tạo nên sự thống nhất, đoàn kết
trong đơn vị.
Thứ ba, Coi trọng hình thành những nhu cầu bậc cao, đấu tranh với xu hướng
đòi hỏi, hưởng thụ, không phù hợp với xã hội, yêu cầu hoạt động quân sự.
Nhu cầu mang bản chất xã hội lịch sử, biểu hiện hai mặt tích cực, tiêu cực và
luôn vận động phát triển. Việc hình thành những nhu cầu bậc cao như nhu cầu
cho, nhu cầu cống hiến sẽ giúp mỗi quân nhân tích cực chiếm lĩnh, vươn tới
những giá trị xã hội cao đẹp. Bên cạnh đó, dưới tác động của mặt trái kinh tế thị
trường, lối sống thực dụng, những xu hướng đòi hỏi cá nhân, hưởng thụ đã ảnh
hưởng không nhỏ đến việc ý thức và tìm phương thức thỏa mãn nhu cầu của quân
nhân. Vì vậy, cần phải làm cho mỗi quân nhân luôn ý thức rằng, học tập, lao động,
chiến đấu là những nhu cầu cốt lõi của người quân nhân cách mạng. Xác định đó
là những mục tiêu để hướng đến, để chiếm lĩnh, để thôi thúc hoạt động của bản
thân. Đồng thời, biết hạn chế, gạt bỏ những nhu cầu cá nhân vị kỷ, không thuộc
20


về đa số, không phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh đơn vị và tính chất đặc thù của
hoạt động quân sự.
Nhu cầu của con người nói chung, nhu cầu của người quân nhân nói riêng là
không có giới hạn và luôn biến đổi, phát triển. Vấn đề quan trọng là cần phải xác
định đâu là những nhu cầu thiết yếu, nổi cộm trong từng giai đoạn hoàn cảnh cụ
thể và thỏa mãn nó bằng phương thức nào? Trả lời vấn đề này cũng chính là việc

chúng ta đã ý thức được đầy đủ vấn đề những nhu cầu của bản thân và nhu cầu
của tập thể.

21


KẾT LUẬN
Nhu cầu là một vấn đề cơ bản, quan trọng trong tâm lý học nói chung và tâm
lý học hoạt động nói riêng. Đã có rất nhiều nhà tâm lý học với nhiều học thuyết
khác nhau ở cả phương Đông và phương Tây quan tâm nghiên cứu về vấn đề này.
Đặc biệt trong tâm lý học hoạt động, trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của
triết học Mác, với cách tiếp cận hoạt động, các nhà tâm lý học hoạt động đã từng
bước lý giải và khám phá khá toàn diện vấn đề nhu cầu về lý luận và thực tiễn trên
nguyên tắc gắn liền với hoạt động và đặt trong mối quan hệ qua lại với động cơ.
Nhu cầu được xem là nguồn gốc cho việc hình thành tính tích cực hoạt động của
con người.
Nghiên cứu vấn đề nhu cầu hiện nay có ý nghĩa rất lớn trong việc tìm hiểu nhu
cầu của con người trong cuộc sống và tìm phương hướng thỏa mãn những nhu cầu
đó. Trong hoạt động quân sự, việc nghiên cứu tìm hiểu những nhu cầu của người
quân nhân và thỏa mãn nó sẽ là cơ sở để đảm bảo cho quân nhân hoàn thành tốt
chức trách, nhiệm vụ được giao.

22


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. L.X.Vưgôtxki, Tuyển tập tâm lý học, Nxb ĐHQG, H. 1997.
2. Tâm lý học, Những cơ sở lý luận và phương pháp luận, HVCTQS, 1984.
3. Những vấn đề của tâm lý học đại cương, Nxb Matxcơva, 1973.
4. Lịch sử tâm lý học và tâm lý học quân sự, Nxb QĐND, H 2003.

5. Lịch sử tâm lý học, Nxb ĐHQG, H 2004.
6. Phan Trọng Ngọ (chủ biên), Các lý thuyết phát triển tâm lý người, Nxb
ĐHSP, H 2003.
7. Tuyển tập Phạm Minh Hạc, Nxb CTQG, H 2006.
8. Bản thảo kinh tế - triết học, Nxb Sự thật, H 1962.
9. Tâm lý học Liên Xô, Nxb Tiến bộ, H 1978.
10. Những vấn đề Tâm lý học trong các tác phẩm của C.Mác, HVCTQS, 1984
11. A.N. Leonchiev, Một số công trình Tâm lý học, Nxb Giáo dục, H 2003.
12. B. Ph. Lomov, Những vấn đề lý luận và phương pháp luận tâm lý học
(sách dịch), Nxb ĐHQG, H 2000.
13. A.N. Leonchiev, Hoạt động – ý thức – nhân cách (sách dịch), Nxb Giáo
dục, H 1989.
14. Tâm lý học quân sự, Nxb QĐND, H 1998.

23



×