Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH mặt TRẬN dân tộc THỐNG NHẤT (1930 1945) TIỂU LUẬN CAO HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (248.56 KB, 31 trang )

MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài

Theo Hồ Chí Minh, Mặt trận dân tộc thống nhất là tổ chức chính trị
đông đảo nhất, rộng rãi nhất, nơi quy tụ ý chí dân tộc, tinh thần dân tộc, là
môi trường tập hợp lực lượng, rèn luyện và phát huy bản lĩnh chính trị của các
lực lượng trong công cuộc dựng nước và giữ nước.
Nhìn lại 84 năm lãnh đạo cách mạng nước ta, thời kỳ nào Đảng ta cũng
coi trọng vị trí của MTDTTN, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với Mặt trận,
làm cho Mặt trận thực sự trở thành nơi tập hợp sức mạnh đoàn kết rộng rãi
mọi tầng lớp nhân dân, không có sự phân biệt đối xử, trên dưới một lòng,
đồng tâm nhất trí, động viên được sức mạnh vô địch của toàn dân tộc, tranh
thủ sự đồng tình ủng hộ của đông đảo bạn bè gần xa trên thế giới, do vậy mà
phong trào cách mạng nước ta phát triển mạnh mẽ, vượt qua mọi khó khăn
thử thách, đánh bại mọi thế lực thù địch, đưa sự nghiệp cách mạng nước ta đi
từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, hoàn thành nhiệm vụ giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước vào một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên
độc lập, tự do và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Từ 1930-1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng nước ta đã giành
được những thắng lợi hết sức vẻ vang. Trong thời kỳ đó, MTDTTN với các
hình thức tổ chức và các tên gọi khác nhau đã dần được hình thành, phát triển
và đảm đương vai trò lịch sử to lớn.
Kế thừa, phát huy truyền thống yêu nước và đoàn kết của dân tộc ta.
ĐCSVN và Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng. Ngay từ khi mới ra đời, Đảng đã chủ trương đoàn kết mọi lực
lượng dân tộc và dân chủ trong MTDTTN để cùng nhau chống kẻ thù chung
vì độc lập tự do của Tổ quốc”. Ở mỗi thời kỳ khác nhau có những hình thức
và tên gọi tổ chức cụ thể khác nhau phù hợp với nhiệm vụ của từng thời kỳ
cách mạng nhưng MTDTTN Việt Nam- nơi tập hợp các giai tầng trong xã hội


1


vì những mục tiêu lớn của dân tộc luôn tồn tại và phát triển. Hiện nay, Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam là hình thức tổ chức của MTDTTN Việt Nam với mục
tiêu tập hợp và phát huy sức mạnh của khối Đại đoàn kết toàn dân phấn đấu
cho một nước Việt Nam độc lập, tự do, hạnh phúc, dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, văn minh. Từ ngày thành lập, tùy đặc điểm của từng thời kỳ
cách mạng, mà Mặt trận mang các tên gọi khác nhau, song vẫn là một mục
tiêu, một ý nghĩa, một hành động.
Nghiên cứu quá trình ĐCSVN lãnh đạo xây dựng MTDTTN trong thời
kỳ 1930-1945 là một việc cần thiết. Qua đó có thể hiểu được những bước
phát triển trong tư duy, tổ chức thực hiện, sự sáng tạo của Đảng trong xây
dựng lực lượng cách mạng và phát huy vai trò của MTDTTN trong sự nghiệp
cách mạng. Vì vậy em chọn đề tài “Quá trình hình thành Mặt trận dân tộc
thống nhất (1930-1945)”.
2. Mục đích, nhiệm
2.1.
Mục đích

vụ nghiên cứu

Nghiên cứu quá trình hình thành Mặt trân dân tộc thống nhất (19301945) để thấy được các bước phát triển trong nhận thức và hành động của
Đảng về xây dựng MTDTTN (1930-1945) là đúng đắn, sáng tạo. Qua đó thấy
được vai trò to lớn của MTDTTN trong tiến trình cách mạng Việt Nam.
Qua nghiên cứu rút ra những kinh nghiệm xây dựng MTDTTN (19301945), vận dụng vào giai đoạn hiện nay.
Nhiệm vụ
Trình bày cơ sở lý luận trong xây dựng MTDTTN.
Phân tích sự hình thành MTDTTN thời kỳ 1930-1945.
Rút ra một số kinh nghiệm trong quá trình lãnh đạo của Đảng trong


2.2.
-

công tác xây dựng MTDTTN thời kỳ 1930-1945.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng trong xây dựng hình
thành MTDTTN từ 1930-1945.
2


4.

Phương pháp nghiên cứu

Bài tiểu luận có sử dụng một số phương pháp sau: Phương pháp lịch sử,
phương pháp loogic, phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp so sánh,
phương pháp thống kê...
5.

Kết cấu đề tài

Ngoài phần bảng chữ viết tắt, mục lục, mở đầu, kết luận và tài liệu
tham khảo, tiểu luận gồm 2 chương:
Chương I: Quan điểm về Mặt trận dân tộc thống nhất và quá trình hình thành
Mặt trận dân tộc thống nhất (1930-1945)
Chương II: Một số kinh nghiệm trong quá trình xây dựng Mặt trận dân tộc
thống nhất (1930-1945)

3



CHƯƠNG I
QUAN ĐIỂM VỀ MẶT TRẬN DÂN TỘC THỐNG NHẤT VÀ
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH MẶT TRẬN DÂN TỘC THỐNG
NHẤT (1930-1945)
I.

Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Mặt

1.1.

trận dân tộc thống nhất
Chủ nghĩa Mác- Lênin về xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất

Chủ nghĩa Mác- Lênin khẳng định, quần chúng nhân dân là động lực cơ
bản của mọi cuộc cách mạng xa hội, đóng vai trò quyết định đến thắng lợi của
mọi cuộc cách mạng. Cách mạng là ngày hội của quần chúng và là sự nghiệp
của quần chúng, nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử. Trong cuộc cách mạng
đó, giai cấp vô sản là lực lượng lãnh đạo cách mạng phải trở thành giai cấp
dân tộc.
Trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, Các Mác-Ăngghen đã đề cập
đến mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp. Các ông cho rằng: Cuộc đấu tranh
của giai cấp vô sản nhằm lật đổ ách thống trị của giai cấp tư sản ở giai đoạn
đầu là mang tính dân tộc, vì “phong trào vô sản là phong trào độc lập của khối
đại đa số và mưu lợi ích cho khối đại đa số” 1. Các ông đòi hỏi: “giai cấp vô
sản ở mỗi nước trước hết phải giành chính quyền, phải tự xây dựng thành một
giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc” 2. Như vậy, theo quan điểm
của các ông trong thời đại ngày nay, chỉ có giai cấp vô sản mới thống nhất
được lợi ích của giai cấp mình với lợi ích của nhân dân lao động và của dân

tộc. Có triệt để xóa bỏ được tình trạng áp bức bóc lột giai cấp mới có điều
kiện xóa bỏ áp bức bóc lột dân tộc, mới đem lại độc lập thực sự cho dân tộc
mình và dân tộc khác. Để thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình giai cấp vô sản
phải đánh đổ giai cấp thống trị để giải phóng giai cấp và giải phóng đân tộc,
phải biết tập hợp tất cả lực lượng có thể tập hợp được để đánh đổ kẻ thù của
1 C.Mác- Ăngghen toàn tập, Tập 4, NXB Chính trị- quốc gia, H.1995,Tr 624.
2 C.Mác- Ăngghen toàn tập, Tập 4, NXB Chính trị- quốc gia, H.1995,Tr 624.

4


giai cấp và xây dựng xã hội mới. Sức mạnh của quần chúng được phát huy
khi được tổ chức chặt chẽ và đặt dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản mà đội
tiên phong của nó là Đảng Cộng sản. Nghĩa là quần chúng phải được giác
ngộ, được tổ chức và trực tiếp tham gia vào sự nghiệp cách mạng. Thực tiễn
lịch sử cho thấy không có sự tham gia tích cực của quần chúng được tổ chức
thì không có cuộc cách mạng nào có thể giành thắng lợi.
Trong lực lượng cách mạng, vấn đề đồng minh của giai cấp vô sản là
vấn đề có tính chiến lược của người cộng sản. Vì vậy Mác và Ăngghen đã kêu
gọi “vô sản thế giới đoàn kết lại”. Đến giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, Lênin
phát triển tinh thần đó, nêu lên khẩu hiệu: “Vô sản toàn thế giới và các dân
tộc bị áp bức đoàn kết lại”. Chỉ có đoàn kết, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc
tế, đoàn kết các lực lượng yêu nước và tiến bộ mới tạo nên sức mạnh lớn để
đánh đổi kẻ thù dân tộc và giai cấp. Để thực hiện thành công chiến lược của
mình, Quốc tế Cộng sản đã lập ra các tổ chức quốc tế khác nhau tạo thành
một trận tuyến cách mạng rộng lớn. Chủ nghĩa Mác- Lênin chỉ ra rằng, nếu
giai cấp vô sản tiến hành cuộc đấu tranh chống giai cấp bóc lột một cách đơn
độc “thì đó không những là điều dại dột mà còn là một tội ác nữa” 1. Điều đó
cho thấy sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ sự gắn bó máu thịt giữa Đảng và
quần chúng nhân dân. Để có được kết quả đó, Đảng phải có đường lối, chủ

trương, chính sách đúng đắn, phù hợp dể tập hợp và huy động sức mạnh của
toàn dân tộc vào sự nghiệp cách mạng.
Để khẳng định vai trò to lớn của quần chúng nhân dân là người sáng
tạo ra lịch sử và để quần chúng nhân dân thực hiện sứ mệnh lịch sử đó, các
Đảng cộng sản phải tập hợp được quần chúng vào một tổ chức chặt chẽ, rộng
rãi là MTDTTN, đồng thời phải thường xuyên giáo dục, dìu dắt và hướng dẫn
họ đứng lên làm cách mạng.
1.2.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất
Vai trò của MTDTTN là tập hợp, đoàn kết hết thảy các lực lượng dân
tộc, cùng đứng lên đánh đuổi ngoại xâm, giành độc lập dân tộc, tự do cho
1 Lênin toàn tập, tập 41, NXB Tiến bộ, Maxcơva 1979, Tr.97.

5


nhân dân. Tư tưởng Hồ Chí Minh về MTDTTN bắt nguồn từ quan điểm nhất
quán của Người về vai trò quyết định của quần chúng trong lịch sử, coi cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng, Đảng chỉ có thể hoàn thành sứ mệnh lịch
sử của mình nếu biết tập hợp, đoàn kết các tầng lớp nhân dân trong MTDTTN
rộng rãi chống kẻ thù chung và xây dựng đất nước. Trong quá trình phát triển
của cách mạng, tuy phải trải qua những bước thăng trầm, song quan điểm đó
luôn luôn nhất quán.


Muốn giành được thắng lợi của cách mạng nói chung và xây dựng chủ
nghĩa xã hội thành công thì phải đại đoàn kết dân tộc
Muốn giành được thắng lợi của cách mạng nói chung và xây dựng chủ


nghĩa xã hội thành công thì phải đại đoàn kết dân tộc nhưng muốn đại đoàn
kết dân tộc thì phải tổ chức quần chúng lại thành MTDTTN rộng rãi. Sự hình
thành khối đại đoàn kết dân tộc là một tất yếu và sự ra đời tổ chức Mặt trận
cũng là một tất yếu khách quan. Quan điểm này khẳng định Mặt trận ra đời,
phát triển không tuỳ thuộc vào ý muốn chủ quan. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
nhiều lần khẳng định vai trò quan trọng của MTDTTN trong cách mạng dân
tộc dân chủ cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Người cho rằng, do
đặc điểm mâu thuẫn xã hội và đấu tranh giai cấp ở nước ta mà MTDTTN Việt
Nam có sứ mạng cao cả đoàn kết hết thảy mọi người Việt Nam yêu nước và
tiến bộ đấu tranh cho quyền lợi tối cao của dân tộc.
Tại Đại hội thống nhất Việt Minh - Liên Việt (3-1951), Hồ Chí Minh đã
tổng kết kinh nghiệm về đại đoàn kết dân tộc và MTDTTN thành khẩu hiệu
nổi tiếng: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/ Thành công, thành công, đại thành
công. Đây chính là chiến lược cách mạng, là tư tưởng cơ bản mà Người đã
tổng kết và rút ra từ truyền thống đấu tranh anh dũng đầy hy sinh gian khổ và
rực rỡ chiến công của dân tộc ta, nó đã trở thành chân lý bền vững của dân tộc
ta về đại đoàn kết dân tộc và MTDTTN.

6




Mặt trận Dân tộc Thống nhất là một hình thức tập hợp quần chúng
rộng rãi, đại diện cho đại đa số quần chúng, đại diện cho quyền lợi dân
tộc, không có sự phân biệt đối xử.
Người cho rằng: “Từ Nam đến Bắc, ai là người tán thành hoà bình,

thống nhất, độc lập, dân chủ thì chúng ta sẵn sàng đoàn kết với họ, thật thà
hợp tác với họ, thật sự đoàn kết với họ, dù từ trước đến nay họ đã theo phe

phái nào”1. Chúng ta đọc thấy tư tưởng này của Người từ trong Chính cương
vắn tắt và Sách lược vắn tắt được thông qua (1930) tại hội nghị hợp nhất ba
tổ chức cộng sản để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Mặt trận là nơi tập
hợp mọi lực lượng yêu nước và tiến bộ, thực hiện thêm bạn, bớt thù, nhằm
tập trung mũi nhọn đấu tranh vào kẻ thù nguy hiểm nhất. Xu hướng hẹp hòi,
biệt phái, phân biệt đối xử là trái với tư tưởng Hồ Chí Minh, chẳng những
không tập hợp được lực lượng cách mạng rộng rãi mà còn làm tăng thêm kẻ
thù, giảm bớt bầu bạn, làm tổn hại cho sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc.


Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến tinh thần hợp tác thật thà, đoàn kết thực sự
Người đã thể hiện tinh thần ấy trong việc tranh thủ tập hợp được mọi

người Việt Nam yêu nước vào cuộc đấu tranh giành độc lập cho Tổ quốc qua
các thời kỳ, kể cả những người từng là quan lại trong triều đình phong kiến
trước đây, những người đã từng làm việc trong chế độ cũ mà không cố chấp
quá khứ của họ. Muốn cho họ thật lòng đi theo cách mạng, cách mạng phải
thật lòng đến với họ. Đó chính là truyền thống lấy đại nghĩa dân tộc làm
trọng mà chiến thắng mọi trở ngại, cảm hoá mọi con người.
Muốn đoàn kết thực sự và hợp tác thật thà, Chủ tịch Hồ Chí Minh
nhấn mạnh: “Mặt trận phải có Cương lĩnh thật vững chắc, rất rộng rãi và thiết
thực”2. Thiết thực vì cương lĩnh đó phải phù hợp với nguyện vọng thiết tha
của toàn thể đồng bào, đó là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh; rộng rãi vì Mặt trận bao gồm những người hiện nay tỏ ra
1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, H, 1996, t.8, tr.49, 66
2 Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB CTQG, H, 1996, t.8, tr.49, 66

7



thành tâm, thành ý phụng sự Tổ quốc dù trước đây họ đã theo phe phái nào;
vững chắc vì Mặt trận dựa trên nền tảng đại đa số nhân dân trong nước là
đồng bào công nhân và đồng bào nông dân, đồng thời chú trọng đến tất cả
các tầng lớp xã hội trong nước ta, “không bỏ sót ai”. Theo đường lối của
Đảng, Cương lĩnh của Mặt trận đề ra những yêu cầu thiết thực, phù hợp
với tâm tư nguyện vọng và đòi hỏi thiết tha của mọi tầng lớp nhân dân
trong xã hội.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đoàn kết thật sự nghĩa là mục đích phải
nhất trí và lập trường cũng phải nhất trí. Điều đó đòi hỏi mọi thành viên của
Mặt trận phải lấy điểm tương đồng là Tổ quốc Việt Nam hoà bình, thống
nhất, độc lập dân chủ và giàu mạnh, là làm cho mọi người Việt Nam ai cũng
có cơm ăn, áo mặc, được học hành, xã hội công bằng, văn minh, làm cơ sở để
gắn bó mọi giai tầng với nhau trong hành động thiết thực, đồng thời đòi hỏi
mọi chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, mọi
chương trình hành động của Mặt trận… đều phải nhằm thực hiện mục tiêu
chung đó. Hồ Chí Minh còn chỉ rõ rằng:”Đoàn kết thật sự nghĩa là vừa đoàn
kết vừa đấu tranh”1. Không thể có sự đoàn kết một chiều nào có thể củng cố
và duy trì được MTDTTN. Từ những luận điểm của Hồ Chí Minh, có thể
thấy: hai điều kiện cơ bản để bảo đảm cho sự tồn tại của Mặt trận, đó là điểm
tương đồng và sự khác biệt. Không có điểm tương đồng, chúng ta không thể
tập hợp được mọi giai tầng trong xã hội dưới ngọn cờ đại đoàn kết. Song, do
trong Mặt trận có nhiều giai tầng, nên sự khác biệt là điều đương nhiên. Để
cho những yếu tố khác biệt đó có thể cùng tồn tại và gắn kết với nhau trong
Mặt trận và cùng hành động vì mục tiêu chung, thì sự đấu tranh để đi đến
thống nhất là rất cần thiết. Tuy nhiên, đó không phải là cuộc đấu tranh nhằm
loại trừ nhau, đấu tranh để phân biệt kẻ thắng người thua, mà là dựa trên tinh
thần “vì nước, vì dân”, đặt lợi ích dân tộc lên trên hết, và phải tiến hành “trên
lập trường thân ái”, học những cái tốt của nhau, giúp nhau hiểu rõ cái sai,
1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr.137.


8


cùng nhau sửa chữa sai lầm, cùng nhau tiến bộ. Làm được như vậy là điều rất
khó, nếu như động cơ đấu tranh không thật sự vì nước, vì dân, không đặt lợi
ích tối cao của dân tộc, lợi ích của sự nghiệp chung của nhân dân lên trên hết,
gạt bỏ mọi động cơ cá nhân, những định kiến hẹp hòi, khắc phục cách nhìn
phiến diện và thiển cận của cả hai phía, phía người phê bình và phía người
được phê bình.


Giải quyết mối quan hệ giữa dân tộc với giai cấp trong MTDTTN
Giải quyết mối quan hệ giữa dân tộc với giai cấp trong Mặt trận Dân

tộc Thống nhất là một sáng tạo thiên tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi vận
dụng học thuyết Mác - Lênin về giai cấp và đấu tranh giai cấp, về sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân vào hoàn cảnh cụ thể nước ta. Trong tác phẩm
“Đường kách mệnh”, Người đã chỉ rõ: Công nông là gốc của cách mệnh, tiếp
theo đó, tư tưởng này được khẳng định trong Chính cương vắn tắt, Sách lược
vắn tắt. Người chỉ ra rằng: liên minh công nông là nền tảng của MTDTTN,
đồng thời Người cũng chỉ rõ Mặt trận còn là nơi thể hiện sức mạnh của dân
tộc, bao gồm mọi người Việt Nam thực sự yêu nước, tiến bộ. Với quan điểm
đó, Hồ Chí Minh đã đặt vấn đề giai cấp (liên minh công nông) trong lòng dân
tộc (MTDTTN). Các giai cấp nằm trong MTDTTN là nằm trong liên minh
giai cấp, liên minh với các tầng lớp yêu nước khác, không phải đấu tranh để
lật đổ, tiêu diệt, loại trừ giai cấp, mà là tạo thành lực lượng thống nhất của cả
dân tộc để giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đặt liên minh
công nông trong khuôn khổ nền tảng của Mặt trận Dân tộc Thống nhất, Hồ
Chí Minh đã giải quyết một cách sáng tạo mối quan hệ hài hoà giữa dân tộc
và giai cấp ở nước ta.



MTDTTN không phải là sách lược tạm thời mà là một chiến lược lâu
dài của cách mạng.
Đây là quan điểm rất cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh về MTDTTN.

Xuất phát từ quan điểm đoàn kết lâu dài với mọi người yêu nước và tiến bộ,
Người cho rằng: “Mặt trận dân tộc thống nhất chẳng những đóng vai trò quan
9


trọng trong cách mạng dân tộc dân chủ, mà còn đóng vai trò rất quan trọng
trong cách mạng xã hội chủ nghĩa nữa”1.
Quan điểm đó khẳng định: ngày nay sau khi hoàn thành cách mạng
giải phóng dân tộc, tiến hành công cuộc xây dựng đất nước, thực hiện công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, xoá nghèo nàn lạc hậu, chúng ta vẫn cần tiếp tục
củng cố và phát huy vai trò lịch sử quan trọng của MTDTTN. Rõ ràng sự
nghiệp xây dựng đất nước là sự nghiệp của hàng triệu triệu quần chúng chứ
không phải là sự nghiệp từ trên dội xuống. Vì vậy vẫn phải đoàn kết, tập hợp
mọi người Việt Nam yêu nước và tiến bộ, tán thành mục tiêu độc lập, tự do,
hạnh phúc. Tiến hành xây dựng đất nước, ở vào hoàn cảnh trong nước và
quốc tế hiện nay, chúng ta vẫn phải phân biệt rõ ai là bạn, ai là thù, vẫn phải
thực hiện thêm bầu bạn, bớt kẻ thù và khẳng định rằng mọi người yêu nước
và tiến bộ là bạn của ta, mọi thế lực chống phá sự nghiệp của nhân dân ta là
kẻ thù của ta. Tư tưởng của Hồ Chí Minh vẫn luôn ngời sáng, chỉ rõ vai trò
của Mặt trận trong giai đoạn hiện nay của cách mạng nước ta.
2.
2.1.

Quá trình hình thành Mặt trận dân tộc thống nhất (1930-1945)

Bước đầu hình thành Mặt trận dân tộc thống nhất (1930-1935)

Ngay từ Chính cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt được thông qua tại
Hội nghị thành lập ĐCSVN do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chủ trì đã vạch ra sự
cần thiết phải xây dựng một MTDTTN nhằm đoàn kết các giai tầng trong
xã hội, các tổ chức chính trị, các cá nhân phát huy truyền thống yêu nước,
sức mạnh mọi nhân tố của dân tộc phấn đấu cho sự nghiệp chung giải
phóng dân tộc.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã vạch ra những vấn đề mang tính chiến
lược, sách lược và tính nguyên tắc về tập hợp lực lượng cách mạng và xây
dựng MTDTTN ở Việt Nam. Đảng ta xác định “phải thu phục cho được đại
bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng”,
“phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày” và “làm cho các đoàn thể thợ
1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.605

10


thuyền, dân cày, (công hội và hợp tác xã) khỏi ở dưới quyền lực và ảnh hưởng
ở tư bản quốc gia”.1
Trong Án nghị quyết về vấn đề phản đế tại Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 10 năm 1930 đã nêu rõ sự
cấp thiết phải thành lập Mặt trận Thống nhất phản đế. Án nghị quyết chỉ rõ:
“Ở Đông Dương có nhiều lực lượng phản đế mà hiện nay cần phải liên hiệp
lại làm một phong trào cách mạng thống nhất để đánh đuổi đế quốc chủ nghĩa,
mưu sự giải phóng cho xứ Đông Dương” 2. Án nghị quyết đã chỉ rõ: “Phải làm
cho hội ấy có tính chất quần chúng. Phải triệu tập các hội công nông, hội học
sinh, binh lính, thanh niên, phụ nữ và các đảng phái cách mạng khác (như
Quốc dân Đảng) lại mà tổ chức thành một Hội phản đế ở Đông Dương.
Nhiệm vụ phải làm cho Hội phản đế hết sức tham gia vào các cuộc đấu tranh

hàng ngày của công nông”3.
Sau khi “Án nghị quyết về vấn đề phản đế” ra đời, ngày 18/11/1930
Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương đã ra Chỉ thị thành
lập HPĐĐM- hình thức đầu tiên của MTDTTN dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Chỉ thị về vấn đề thành lập HPĐĐM đã nêu rõ hai động lực chính, căn bản
cho sự bố trí hàng ngũ cách mạng, đó là giai cấp công nhân đồng minh với
giai cấp nông dân. Giai cấp vô sản lãnh đạo cuộc cách mạng tư sản dân quyền
ở Đông Dương mà không tổ chức được toàn dân lại thành một lực lượng thật
rộng, thật kín thì cuộc cách mạng cũng khó thành công. Điều đặc biệt ở Chỉ
thị này là đã phê phán thẳng thắn những nhận thức lệch lạc và chỉ rõ ra rằng:
Từ trước tới nay, do chưa hiểu thấu đáo chuyện này, nên ta “Thiếu một tổ
chức quảng đại quần chúng để hấp thụ các tầng lớp trí thức dân tộc, tư sản
dân tộc (họ là tầng lớp trên hay ở vào tầng lớp giữa cũng vậy) và cho tới cả
1 Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và Mặt trân Dân tộc Thống nhất, NXB Chính trị quốc gia,
H.1996, Tr.149.
2 Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2, NXB Chính trị quốc gia, H.2000, Tr.195.
3 Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2, NXB Chính trị quốc gia, H.2000, Tr.195.

11


những người địa chủ có đầu óc oán ghét đế quốc Pháp, mong muốn quốc gia
độc lập, để đưa tất cả những tầng lớp và cá nhân đó vào trong hàng ngũ chống
đế quốc Pháp, để kịp vận động toàn dân nhất tề hành động mặt này hay mặt
khác mà chống khủng bố trắng và ủng hộ cách mạng công nông”. Chỉ thị
cũng nhấn mạnh: “ Thường vụ Trung ương đã khảo sát tình hình các nơi gửi
về và đã có những chỗ xuất phát để làm thí nghiệm rồi. Nên chỉ thị xuống để
các cấp Đảng bộ và các đồng chí nghiên cứu thi hành và cáo kịp thời về Trung
ương. Thường vụ ủy tin chắc rằng: Bản chị thị này sẽ giúp đỡ các cấp Đảng
ủy và toàn thể các đồng chí chúng ta phát triển mạnh mẽ được Hội Phản đế

Đồng minh”1. Chỉ thị được gửi tới các cấp ủy Đảng và toàn thể đảng viên
khẳng định lại đường lối chiến lược và sách lược của Đảng trình bày
trong Luận cương và nhấn mạnh tới tầm quan trọng của công tác xây dựng
MTDTTN mà trong giai đoạn lịch sử này việc tổ chức HPĐĐM là chủ trương
đúng đắn và cấp thiết.
Như vậy, ngay từ khi mới ra đời, Đảng đã có chủ trương thành lập
MTDTTN, nhằm đoàn kết, tập hợp mọi lực lượng yêu nước và tiến bộ, đấu
tranh giải phóng dân tộc thoát khỏi ách nô dịch của chủ nghĩa thực dân.
Từ cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đến chỉ thị thành lập
HPĐĐM cùng các chủ trương, chính sách khác về mặt trận của Đảng đã thúc
đẩy phong trào cách mạng phát triển mạnh mẽ, rộng khắp. Tiêu biểu là cao
trào cách mạng 1930-1931 mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ-Tĩnh. Đây là thắng
lợi đầu tiên về xây dựng lực lượng cách mạng từ khi Đảng ta ra đời. Do điều
kiện thực tiễn, diễn biến tình hình phức tạp có nhiều bất lợi cho Đảng và cách
mạng nên chủ trương của Đảng về thành lập HPĐĐM chưa được phổ biến sâu
rộng và chưa được triển khai trong cả nước. HPĐĐM- hình thức tổ chức đầu
tiên của MTDTTN Việt Nam. Nó có ý nghĩa vô cùng quan trọng, chuẩn bị
tiền đề lí luận và thực tiễn để Đảng ta tiếp tục xây dựng MTDTTN trong giai
đoạn tiếp theo.
1 Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2, NXB Chính trị Quốc gia, H.2000, Tr.227

12


Tháng 6-1932, TW Đảng đã đề ra “Chương trình hành động” của Đảng
Cộng sản Đông Dương. Chương trình đã chỉ ra khả năng tổ chức một
MTDTTN của các lực lượng phản đế cùng hành động chung với các tổ chức
dân tộc chủ nghĩa, dù chỉ là bạn đồng minh tạm thời của công- nông. Đảng
chủ trương phải lôi kéo vào liên minh phản đế tất cả các phần tử và tổ chức ít
nhiều có tính chất chống đế quốc. Thực hiện “Chương trình hành động” của

Đảng, các tổ chức cơ sở Đảng đã phát triển các hội cày, hội cấy, hội đọc
sách... để tập hợp, giáo dục và hướng dẫn quần chúng đấu tranh. Nhờ vậy
phong trào ngày càng thu hút được nhiều quần chúng tham gia và đã lan đến
nhiều nơi ở Việt Nam, Lào và Cam-pu-chia. Song vì chưa quán triệt đầy đủ tư
tưởng đại đoàn kết dân tộc nên chương trình hành động chưa đưa ra được một
chính sách cụ thể cho MTDTTN.
Tháng 3 năm 1935, Đại hội Đảng lần thứ nhất đã thông qua nghị quyết
về công tác Phản đế liên minh, quyết định thành lập và thông qua điều lệ của
tổ chức nhằm tập hợp tất cả các lực lượng phản đế toàn Đông Dương. Điều lệ
của Phản đế liên minh rộng và linh hoạt hơn Điều lệ Hội phản đế đồng minh.
Bất kỳ người hoặc đoàn thể nào thừa nhận nghị quyết, Điều lệ và thường
xuyên nộp hội phí thì được thừa nhận là hội viên. Nghị quyết đã có bước tiến
rõ rệt trong đánh giá khả năng phản đế của các giai cấp và tầng lớp trong xã
hội. Động lực chính ở Đông Dương là thợ thuyền và nông dân lao động, giai
cấp bóc lột bản xứ như địa chủ, lý hào, tư sản thành thị và thôn quê, đại trí
thức cũng có một số ít phần tử có tinh thần phản đế. Từ đó, chính sách Mặt
trận có sự linh hoạt và mềm dẻo hơn. Đảng Cộng sản không chỉ liên hệ với
các đoàn thể cách mạng mà còn phải liên hệ với những đồng minh đảng phái
quốc gia, những phần tử cách mạng lẻ tẻ “để gia tăng lực lượng phản đế”. Với
các tổ chức, đảng phái quốc gia, cải lương, kể cả các tổ chức, tầng lớp, tay
chân đế quốc, Đảng cũng có sách lược, phân hóa, tranh thủ rất đúng đắn. Với
Quốc dân Đảng tuy đã phân hóa và tan rã nhưng cũng còn những người có
ảnh hưởng trong quần chúng nên cần tranh thủ. Đối với các Đảng như Thanh
13


niên, Tân Việt, Vừng Hồng, Cao Vọng, An Nam độc lập Đảng...tuy tan rã
nhưng vẫn còn một số đảng viên giữ vững tinh thần phản đế. Vì vậy cần phải
ra sức tranh thủ họ.
Với những chủ trương về chiến lược và sách lược của Phản đế liên

minh đã chứng tỏ bước tiến mới của Đảng ta trong quá trình hoàn chỉnh về
nhận thức và chỉ đạo thực tiễn xây dựng MTDTTN.
Từ HPĐĐM (1930), hình thức đầu tiên của MTDTTN đến Hội Phản đế
liên minh (1935), MTDTTN Việt Nam đã từng bước được hình thành.
2.2.

Bước phát triển mới về Mặt trận dân tộc thống nhất (1936-1939)

Cuối 1929, thế giới diễn ra cuộc khủng hoảng kinh tế (1929-1933). Để
thoát khỏi cuộc khung hoảng, các nước Đức, Ý, Nhật thiết lập một chế độ
Phát-xít chuẩn bị chiến tranh nhằm chia lại thị trường thế giới.
Trước tình hình đó, đại hội VII của Quốc tế cộng sản đã diễn ra (71935). Đại hội xác định kẻ thù trước mắt của nhân dân thế giới lúc này không
phải là chủ nghĩa đế quốc nói chung mà là chủ nghĩa Phát xít. Từ đó đại hội
xác định nhiệm vụ trước mắt của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
trên thế giới chưa phải là đấu tranh đánh đổ toàn bộ chủ nghĩa đế quốc nói
chung mà là đấu tranh chống chủ nghĩa Phát xít, giành dân chủ và hòa bình.
Để thực hiện nhiệm vụ đó cần phải thành lập MTDTTN để đoàn kết, tập hợp
lực lượng tạo thành một sức mạnh to lớn tấn công vào chủ nghĩa Phát xít. Đối
với các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, đại hội chỉ rõ vấn đề MTDTTN
chống đế quốc có tầm quan trọng đặc biệt.
Trải qua thời kỳ đấu tranh, khôi phục, phát triển phong trào cách mạng
trong những năm 1932-1935, Đảng ta đã rút ra được nhiều bài học về sự cần
thiết phải xây dựng lực lượng cách mạng, phải tập hợp tất cả các tổ chức, lực
lượng, đảng phái yêu nước trong một mặt trận để chống kẻ thù, trước mắt là
bọn phản động và thuộc địa tay sai, chống Phát xít, chống chiến tranh, đòi dân
sinh dân chủ và hòa bình. Vì vậy, hội nghị Ban chấp hành TW Đảng (7-1936)
đã họp để triển khai nghị quyết Đại hội VII của Quốc tế cộng sản, TW dã
14



quyết định thành lập Mặt trận nhân dân phản đế (MTNDPĐ): “Nhiệm vụ của
Đảng Cộng sản ở đó không những phải thâu phục quảng đại quần chúng nông
dân và tiểu tư sản ở thành thị. Đồng thời trong lúc lập mặt trận rộng rãi, chúng
ta phải thâu phục hết các tầng lớp nhân dân”1.
Hội nghị TW 7-1936 đánh dấu sự trưởng thành của Đảng trong việc
giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa mục tiêu chiến lược và mục tiêu cụ thể
trước mắt, giữa chủ trương mới và hình thức đấu tranh mới, giữa củng cố khối
liên minh công nông và mở rộng MTDTTN. Tuy nhiên, hội nghị chưa nêu ra
được khẩu hiệu thích hợp về dân tộc, chưa tìm ra được hình thức Mặt trận phù
hợp với mục tiêu đấu tranh mới.
Tháng 9-1937, hội nghị TW Đảng họp và quyết định thành lập Thanh
niên dân chủ Đông Dương thay cho Đông Dương Cộng sản Đoàn; lập Hội
cứu tế bình dân, Công hội, Nông hội thay cho Cứu tế đỏ, Công hội đỏ, Nông
hội đỏ... Đồng thời, Đảng chủ trương đẩy mạnh việc thành lập các hội quần
chúng công khai và nửa công khai như Hội ái hữu, tương tế, kể cả các hoạt
động khác đều vào Mặt trận dân chủ thống nhất (MTDCTN).
Tháng 3- 1938, với những biến đổi trong và ngoài nước, hội nghị TW
Đảng lần thứ VII họp đưa ra những quyết sách mới trong đó quyết định thành
lập “Mặt trận Dân chủ thống nhất Đông Dương” (Mặt trận Dân chủ Đông
Dương). Hội nghị nhấn mạnh: “Vấn đề lập Mặt trận Dân chủ thống nhất Đông
Dương là một nhiệm vụ trung tâm của Đảng trong giai đoạn hiện tại” và đề ra
chủ trương: “Đưa hết toàn lực của Đảng, dùng hết phương pháp để lan rộng
các xu hướng, phát triển các mầm mống trong ấy thành một lực lượng hành
động mạnh mẽ”2. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, phong trào đấu tranh của quần
chúng trong thời kỳ MTDCĐD đã diễn ra sôi nổi và đạt nhiều kết quả trên
nhiều lĩnh vực. Bên cạnh những thắng lợi của phong trào dân chủ là những
1 Văn kiện Đảng về Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam, Tập 1, NXB Chính trị quốc gia, H.1999, Tr.262.
2 Văn kiện Đảng về Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam, tập 1, NXB Chính trị quốc gia, H.1999, Tr.321.

15



khuyết điểm ảnh hưởng đến phong trào. Tổng kết sự lãnh đạo của Đảng và
công tác mặt trận trong những năm 1936-1939, đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã
viết tác phẩm “Tự chỉ trích”. Tác phẩm đã rút ra những kinh nghiệm lớn của
Đảng về xây dựng MTDC.
Từ 1936-1939, nhờ chủ trương và sự chỉ đạo đúng đắn, sáng tạo của
Đảng và Nguyễn Ái Quốc, các hình thức của MTDTTN đã được hình thành
trong thực tiễn cách mạng.
2.3.

Mặt trận Việt Minh-ngọn cờ tập hợp toàn dân tộc đấu tranh giành chính
quyền (1939-1945)
Tháng 9 năm 1939,chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, MTDCĐD
bị thực dân Pháp thẳng tay đàn áp. Cùng với sự đầu hàng thoả hiệp của thực
dân Pháp với phát xít Nhật, vấn đề sống còn của các dân tộc Đông Dương đã
đặt ra. Tháng 11/1939, tại Bà Điểm, Hoóc Môn (Gia Định), TW Đảng họp hội
nghị. Đảng Cộng sản Đông Dương đã kịp thời chuyển hướng chỉ đạo, chuyển
cuộc vận động Mặt trận Dân chủ thành Mặt trận Dân tộc thống nhất chống
chiến tranh đế quốc với tên gọi chính thức: Mặt trận Dân tộc thống nhất phản
đế Đông Dương (MTDTTNPĐĐD) nhằm liên hiệp tất cả các dân tộc Đông
Dương, các giai tầng, đảng phái, cá nhân có tinh thần phản đế muốn giải
phóng dân tộc chống đế quốc, bè lũ tay sai của chúng và vua chúa bản xứ
phản bội quyền lợi dân tộc. Các tổ chức phản đế phát triển nhanh chóng dưới
hình thức bí mật và công khai. Lực lượng tham gia mặt trận bao gồm tất cả
các giai cấp, các đảng phái, các phần tử phản đế muốn giải phóng dân tộc,
thực hiện Đông Dương hoàn toàn độc lập với quyền dân tộc tự quyết. Lực
lượng đó bao gồm công nhân nông dân, tiểu tư sản, tư sản dân tộc, trung, tiểu
địa chủ. Hội nghị nhấn mạnh hai nhân tố cơ bản của MTDTTNPĐĐD: công
nông là lực lượng chính và giai cấp công nhân lãnh đạo. “Sự đồng minh chặt

chẽ của công nông là vấn đề sống chết của cách mệnh”1.
1 Văn kiện Đảng 1930 – 1945, T.III, Sđd, tr.60

16


Phong trào đấu tranh và cuộc vận động cách mạng phản đế cũng được
phát triển rầm rộ. Nhiều cuộc biểu tình, phát truyền đơn, phản đối chiến tranh
và tẩy chay chợ phiên, giúp hội “Pháp-Việt bác ái” nổ ra ở khắp ba kỳ, tiêu
biểu là cuộc đấu tranh của nông dân ở Thái Bình, đấu tranh của 5000 lính
Tourane (Trung Kỳ) và cuộc biểu tình của hàng ngàn binh lính Mỹ Tho. Bên
cạnh những thắng lợi về tập hợp lực lượng, công tác mặt trận thời kỳ này còn
có nhiều hạn chế về mặt tổ chức. MTDTTNPĐĐD triển khai không đều, chỉ
tập trung ở Nam Kỳ, nhiều nơi sao nhãng việc tổ chức công hội và nông hội,
phần nhiều chỉ chú trọng lập Hội phản đế cứu quốc.
Sau khi Nhật nhảy vào Đông Dương, hội nghị TW Đảng (11-1940)
đã họp tại làng Đình Bảng (Bắc Ninh). Hội nghị đề ra những nội dung cơ
bản nhằm tăng cường mở rộng MTDTTNPĐĐD. Các tổ chức phản đế
nhanh chóng được phát triển trong các tổ chức bí mật cũng như các tổ chức
công khai.
Năm 1940, quân Nhật kéo vào Đông Dương, thực dân Pháp đầu hàng
và làm tay sai cho phát xít Nhật. Đầu năm 1941, Nguyễn Ái Quốc quyết định
về nước. Hội nghị cán bộ tỉnh Cao Bằng của Đảng Cộng sản Đông Dương,
họp vào cuối tháng 4 năm 1941, dưới sự chủ tọa của Hoàng Văn Thụ và Vũ
Anh, đã khẳng định công tác xây dựng thí điểm các đoàn thể cứu quốc đạt kết
quả tốt, chứng tỏ chủ trương hoạt động trên danh nghĩa Việt Minh của
Nguyễn Ái Quốc là hoàn toàn đúng đắn.
Tại Cao Bằng Người trực tiếp chỉ đạo thí điểm công tác xây dựng
MTVM. Nguyến Ái Quốc liên tiếp mở những lớp huấn luyện ngắn ngày nhằm
đào tạo cán bộ cho Việt Minh. Sau một thời gian nắm tình hình và chuẩn bị,

Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập và chủ trì Hội nghị lần VIII Ban chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương từ ngày 10 đến ngày19 tháng
5 năm 1941 trong rừng Khuổi Nậm, thuộc Pác Bó, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao
Bằng. Hội nghị đã phân tích, đánh giá tình hình trong nước và thế giới. Hội
17


nghị nhận định: “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt
dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này nếu không
giải quyết được vấn đề giải phóng, không đòi lại được độc lập, tự do cho toàn
thể dân tộc thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa
trâu mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại
được”1. Vì vậy hội nghị chủ trương tạm gác khẩu hiệu “đánh đổ địa chủ, chia
ruộng đất cho dân cày” thay bằng khẩu hiệu “tịch thu ruộng đất của đế quốc
và Việt gian chia cho dân cày, chia lại ruộng đất công”. Hội nghị chủ trương
giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước trên bán đảo Đông
Dương. Trên tinh thần đó, hội nghị quyết định thành lập ở mỗi nước một
MTDTTN. Ở Lào, Cam-pu-chia là Ai Lao độc lập đồng minh và Cao Miên
độc lập đồng minh. Theo đề nghị của Nguyễn Ái Quốc, vào ngày 19 tháng
5 năm 1941, Hội nghị quyết định thành lập Việt Nam Độc lập Đồng minh, gọi
tắt là Việt Minh thay cho MTDTTNPĐĐD. Trên cơ sở ra đời mặt trận ở các
nước sẽ tiến tới thành lập một mặt trận chung của ba nước Đông Dương là
Đông Dương độc lập đồng minh.
Tháng 10-1941, Việt Minh công bố tuyên ngôn, chương trình, điều lệ
của mình. Tuyên ngôn của MTVM nhấn mạnh: “Việt Minh chủ trương tập
hợp hết thảy mọi tinh thần độc lập chân chính của giống nòi, kết thành một
khối cách mạng vô địch, đạp tan xiềng xích của Nhật- Pháp”2.
Chương trình của Việt Minh nhấn mạnh: “Việt Nam độc lập đồng minh
chủ trương liên hiệp hết thảy các tầng lớp nhân dân, không phân biệt tôn giáo,
đảng phái, xu hướng chính trị nào, giai cấp nào, đoàn kết chiến đấu để đánh

đuổi Pháp và Nhật giành quyền độc lập cho xứ sở”3.
1 Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, NXB Chính trị Quốc gia, H.2000, Tr.113.
2 Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, NXB Chính trị Quốc gia, H.2000, Tr.461.
3 Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, NXB Chính trị Quốc gia, H.2000, Tr.149-150.

18


MTVM là hình thức MTDTTN đầu tiên của Việt Nam trình bày rõ ràng
về cương lĩnh chính trị, cách thức tiến hành và tổ chức lực lượng để thực hiện
mục đích cứu quốc của mình. Quán triệt nghị quyết hội nghị TW Đảng tháng
5-1941, dưới ánh sáng của tuyên ngôn, chương trình và điều lệ của MTVM,
nhiều Đảng bộ địa phương trong cả nước đã dẩy mạnh công tác tổ chức, xây
dựng MTVM. Cao Bằng là tỉnh đầu tiên trong cả nước được tiếp thu sâu rộng
nghị quyết TW Đảng tháng 5-1941 về MTVM. Phong trào Việt Minh từ các
vùng thí điểm đã lan rộng khắp cả nước.
Năm 1943, tình hình thế giới có bước chuyển biến lớn, Hông quân Liên
Xô và quân đội Anh, Mỹ đã đẩy Phát xít Đức vào thế thất bại, cổ vũ và thúc
đẩy phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc phát
triển mạnh. 28-2-1943, Hội nghị Ban thường vụ TW Đảng đã họp bàn mở
rộng MTDTTN và xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang.
Để mở rộng mặt trận Việt Minh, tháng 6-1944, Đảng Cộng sản Đông
Dương đã giúp một số trí thức yêu nước tiến bộ thành lập Đảng dân chủ Việt
Nam. Tháng 7-1944, Đảng dân chủ Việt Nam tự nguyện gia nhập MTVM.
Sau đảo chính Nhật Pháp 9-3-1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Mặt
trận Việt Minh ráo tiết chuẩn bị cao trào “Kháng Nhật, cứu nước”. 16-4-1945,
Tổng bộ Việt Minh lập ra ủy ban dân tộc giải phóng, tập dượt cho nhân dân
nắm chính quyền. Ngày 4-6-1945, Tổng bộ Việt Minh tuyên bố thành lập Khu
giải phóng Việt Bắc bao gồm 6 tỉnh, với thủ đô Tân Trào lịch sử. Mặt trận
Việt Minh đi đầu phong trào “phá kho thóc giải quyết nạn đói”, thổi bùng

ngọn lửa khởi nghĩa từng phần trong thời kỳ tiền khởi nghĩa.
Ngày 13-8-1945, phát xít Nhật đầu hàng vô điều kiện. Cơ hội cứu nước
ngàn năm có một đã tới. Tình thế vô cùng khẩn trương. Lúc đó Hồ Chủ tịch
đã về Tân Trào trực tiếp chỉ đạo cách mạng. Ngày 16-8-1945, dưới mái đình
Hồng Thái, Quốc dân đại hội Tân Trào bao gồm 60 đại biểu cả nước đã họp
19


để thông qua Mệnh lệnh khởi nghĩa của Tổng bộ Việt Minh, 10 chính sách lớn
của Việt Minh và cử ra Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam do Hồ Chí Minh
làm chủ tịch.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự chỉ đạo của Tổng bộ Việt Minh, hơn
20 triệu nhân dân cả nước đã nhất tề nổi dậy đấu tranh giành chính quyền.
Ngày 2-9-1945, tại quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt
Chính phủ lâm thời đọc tuyên ngôn độc lập, tuyên bố trước nhân dân cả nước
và thế giới, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Có thể nói MTVM là một trong những điển hình thành công của Đảng
ta về công tác Mặt trận. Đánh giá vai trò của MTVM, Tuyên ngôn của Đại hội
toàn quốc thống nhất Việt Minh - Liên Việt họp tháng 3-1951 nêu rõ: “Việt
Minh có công lớn trong việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, chống quân
cướp nước. Công đức ấy tất cả mọi người Việt Nam phải ghi nhớ. Lịch sử của
Việt Minh 10 năm đấu tranh cho độc lập, tự do của dân tộc cũng là những
trang sử vẻ vang vào bậc nhất của dân tộc Việt Nam ta” 1. MTVM ra đời và
giành được chính quyền trước hết là kết quả của sự định hình đúng đắn của
Đảng Cộng sản Đông Dương về chỉ đạo chiến lược giữa hai nhiệm vụ phản đế
và phản phong; giữa dân tộc và giai cấp. Đây cũng là kết quả của sự kết hợp
nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với đặc điểm lịch sử cụ thể của
Việt Nam.

1 “Mặt trận Việt Minh ra đời và lãnh đạo cuộc đấu tranh giành độc lập”, Đại cương Lịch sử Việt

Nam toàn tập (Từ thời nguyên thủy đến năm 2000), H.: Giáo dục Việt Nam, 2009, tr. 821

20


CHƯƠNG II
MỘT SỐ KINH NGHIỆM TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG
MẶT TRẬN DÂN TỘC THỐNG NHẤT (1930-1945)
1. Đảng phải luôn nhận thức đúng vị trí, vai trò của MTDTTN
Nhận thức đúng vai trò, vị trí của MTDTTN là vấn đề hết sức quan
trọng vì đây là cơ sở để Đảng ta đề ra chủ trương, chính sách và hình thức tổ
chức. Mặt trận phù hợp với thực tiễn, đáp ứng nhiệm vụ của cách mạng nhằm
thực hiện mục tiêu đề ra.
Quán triệt sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, truyền thống dân tộc và thực tiễn cách mạng Việt Nam và thế giới,
ngay từ khi ra đời trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã thể hiện rõ
quan điểm về xây dựng Mặt trận đoàn kết dân tộc. Tiếp đó Ban Thường vụ
TW Đảng chính thức ra chỉ thị thành lập HPĐĐM (18-11-1930)- hình thức
MTDTTN đầu tiên ở Việt Nam. Nhận thức vấn đề MTDTTN từ khi thành lập,
Đảng ta đã khẳng định sự nhận thức lý luận và tính định hướng đúng đắn của
mình trong việc xác định vị trí, vai trò của MTDTTN. Đó là nền tảng quan
trọng trong quá trình xây dựng và phát triển MTDTTN của Đảng. Tại Đại hội
Đảng lần I (3-1935), Đảng xác định nhiệm vụ, tranh thủ rộng rãi quần chúng
là nhiệm vụ quan trong và cấp bách nhất, chủ trương lập mặt trận phản đế liên
minh nhằm tiếp tục bổ sung, hoàn chỉnh nhận thức về quá trình xây dựng
MTDTTN. Từ 1936-1939, Đảng chủ trương thành lập MTDTTNPĐ rộng rãi
đấu tranh đòi những quyền lợi dân chủ đơn sơ. Đảng nhanh chóng tập hợp
được rộng rãi các lực lượng yêu nước vào các hội ái hữu, các hội quần chúng,
từng bước hình thành MTDCĐD.
Sau khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, mâu thuẫn giữa nhân dân

Đông Dương với bọn đế quốc xâm lược trở nên gay gắt, Đảng chủ trương
thành lập MTDTTNPĐĐD để đoàn kết dân tộc, chĩa mũi nhọn vào kẻ thù chủ
yếu là chủ nghĩa đến quốc và bọn tay sai. Nhận thức về vai trò của MTDTTN,
21


ngay sau khi về nước, Nguyễn Ái Quốc đã xúc tiến ngay việc thành lập Mặt
trận đoàn kết toàn dân tộc, từ đó thành lập MTVM. Cách mạng tháng Tám
thành công là kết quả của chính sách đại đoàn kết dân tộc, dân chủ và tiến bộ
vì mục tiêu cao nhất là độc lập dân tộc.
Khi nào Đảng nhận thức đúng vị trí, vai trò của Mặt trận đối với sự
nghiệp cách mạng thì MTDTTN không ngừng được xây dựng vững mạnh và
phát triển rộng khắp. Trong giai đoạn 1930-1945, đường lối lãnh đạo của
ĐCSVN luôn có chủ trương đoàn kết toàn dân tộc.
2. Đảng phải có chủ trương, chính sách và hình thức tổ chức mặt trận phù
hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của từng thời kỳ cách mạng
Thực tiễn của quá trình xây dựng MTDTTN từ 1930-1945 cho thấy,
muốn xây dựng thành công MTDTTN Đảng phải có chủ trương, chính sách
và hình thức tổ chức phù hợp với từng thời kỳ cách mạng. Đường lối, chủ
trương, chính sách phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể, phù hợp với lợi ích
của giai cấp, tầng lớp trong xã hội nhằm đoàn kết toàn dân, phấn đầu thực
hiện mục tiêu đề ra.
Trong thời kỳ 1930-1945, Đảng ta đã lựa chọn các hình thức Mặt trận
linh hoạt với các tên gọi khác nhau, đề ra khẩu hiệu đấu tranh phù hợp với
từng thời kỳ cách mạng. Đảng ra chỉ thị thành lập HPĐĐM, hình thức đầu
tiên của MTDTTN trong đó nêu lên tư tưởng chiến lược cách mạng là đoàn
kết toàn dân thành một tổ chức với lực lượng rộng rãi, coi công- nông là động
lực chính quyết định thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc. Trong thời
kỳ 1936-1939, hoàn cảnh lịch sử trong nước và thế giới có nhiều biến đổi,
Đảng chủ trương thành lập MTNDPĐ rộng rãi, mục tiêu đấu tranh đòi những

quyền lợi hàng ngày cho nhân dân, chống thuộc địa, chủ nghĩa phát xít và
nguy cơ chiến tranh thế giới mới. 3-1938, Đảng đổi tên MTNDPĐ thành
MTDC với các hình thức tổ chức đấu tranh linh hoạt, đòi dân sinh, dân chủ,
chuẩn bị đưa quần chúng vào những trận chiến cao hơn. 11-1939, Đảng chủ
trương thành lập MTDTTNPĐĐD thay cho MTDC, đặt ra vấn đề giải phóng
22


dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu và cấp bách nhất, từ đó đề ra những chủ trương,
chính sách đúng đắn đạt được nhiều kết quả, trong đó có quyền tự do, dân chủ
của nhân dân. 1941-1945, tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến
chuyển, Đảng thành lập MTVM với mục tiêu đặt độc lập dân tộc lên trên hết,
đưa ra những chính sách về kinh tế, chính trị, văn hóa, ngoại giao đáp ứng
nguyện vọng của nhân dân, đoàn kết thành một lực lượng tiến hành Tổng khởi
nghĩa giành thắng lợi.
Trong giai đoạn 1930-1945 thấy được chỉ khi nào chủ trương, chính
sách của Đảng về xây dựng Mặt trận xuất phát từ thực tiễn, đáp ứng được
nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân và hình thức tổ chức mặt trận phù hợp
thì chủ trương của Đảng mới đi vào cuộc sống, rộng rãi trong quần chúng
nhân dân để đưa cách mạng đến thắng lợi.
3. Xác định đúng kẻ thù, đồng minh, giải quyết đúng các mối quan hệ trong
mặt trận


Xác định đúng kẻ thù, đồng minh

Muốn có chính sách mặt trận đúng đắn, trước hết phải xác định đúng kẻ
thù cụ thể, trước mắt. Điều đó đòi hỏi phải có lập trường giai cấp vững vàng,
nhãn quan chính trị sâu sắc, nhạy bén. Trong đấu tranh cách mạng, không thể
chỉ nêu ra kẻ thù chung chung, mà phải chỉ rõ kẻ thù cần phải đánh đổ trong

từng giai đoạn chiến lược. Có như vậy mới tập trung được toàn bộ lực lượng
cách mạng đánh đổ chúng. Xác định rõ kẻ thù cụ thể mới lợi dụng được
những mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù và vận dụng sách lược mềm dẻo để cô
lập cao độ kẻ thù nguy hiểm nhất.
Ngay từ khi thành lập, Đảng ta đã đánh giá đầy đủ vị trí của giai cấp
nông dân Việt Nam, giai cấp đông đảo nhất, chiếm 95% số dân, là bạn đồng
minh cách mạng và trung thành nhất của giai cấp công nhân Việt Nam. Hai
giai cấp công nhân và nông dân có liên minh chặt chẽ mới phát huy đầy đủ
sức mạnh, thực hiện triệt để nhiệm vụ giải phóng dân tộc và giai cấp. Sự liên
minh của hai giai cấp công nhân và nông dân ở nước ta là nền tảng vững chắc
23


của Mặt trận dân tộc thống nhất. Đảng ta xác định rõ vai trò lãnh đạo của giai
cấp công nhân, vai trò nòng cốt của liên minh công - nông, vị trí quan trọng
của tầng lớp trí thức, tiểu tư sản và ra sức tập hợp đông đảo lực lượng về phía
cách mạng, đồng thời đánh giá cao truyền thống yêu nước của mọi tầng lớp
nhân dân. Đảng đã lôi cuốn giai cấp tư sản dân tộc, một bộ phận hoặc từng cá
nhân xuất thân từ giai cấp phong kiến địa chủ có tinh thần yêu nước tham gia
cách mạng giải phóng dân tộc. Trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ,
Đảng hết sức chú ý phân tích thái độ chính trị của các giai cấp, các tầng lớp,
nhất là các tầng lớp trên để tranh thủ mọi khả nǎng có thể tranh thủ nhằm tǎng
cường mặt trận dân tộc rộng rãi để chống đế quốc và tay sai


Giải quyết đúng đắn các mối quan hệ trong nội bộ mặt trận

Đảng ta đã giải quyết đúng đắn các mối quan hệ trong nội bộ mặt trận.
-


Mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp

Mặt trận là tổ chức tập hợp lực lượng dân tộc chống đế quốc xâm lược
và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Nó bao gồm nhiều giai cấp, tầng lớp được tập
hợp, đoàn kết trên cơ sở chương trình hành động chung. Các giai cấp trong
mặt trận đều thống nhất về lợi ích chung của dân tộc. Đối với giai cấp công
nhân, lợi ích chung của dân tộc và lợi ích riêng của giai cấp là nhất trí. Nhưng
đối với các giai cấp khác, thì lợi ích riêng của giai cấp và lợi ích chung của
dân tộc có mặt nhất trí và có mặt không nhất trí. Vì vậy, Đảng phải nêu ra
được những mục tiêu chung mà tất cả thành viên của mặt trận có thể chấp
nhận được. Đó là cương lĩnh chung, chương trình hành động của mặt trận.
Trong thời kỳ 1936-1939, Đảng nêu ra mục tiêu đấu tranh đòi cải thiện dân
sinh, dân chủ, chống chủ nghĩa Phát xít, chống chiến tranh; trong thời kỳ
1939-1945 là đấu tranh chống Nhật, Pháp, giành độc lập dân tộc.
-

Mối quan hệ giữa liên minh công nông và mặt trận.

Đây là mối quan hệ lớn nhất trong công tác mặt trận. Đảng ta đã giải
quyết thành công mối quan hệ này thông qua việc giải quyết đúng mối quan
hệ giữa nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến. Trong khi nhấn mạnh
24


đoàn kết dân tộc, không bao giờ Đảng coi nhẹ vai trò nền tảng của mặt trận là
khối liên minh công nông, vì liên minh công nông có vững chắc mới có thể
mở rộng được mặt trận. Chỉ nhấn mạnh liên minh công nông mà không chú ý
tranh thủ các giai cấp, tầng lớp khác là hẹp hòi, tả khuynh. Ngược lại, chỉ chú ý
vận động các giai cấp, tầng lớp khác mà không chú ý củng cố liên minh công
nông là phạm sai lầm hữu khuynh. Đảng ta đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ

trên bằng việc thường xuyên nắm vững mục tiêu lâu dài và mục tiêu chủ yếu
trong từng thời kỳ cách mạng, phân tích được mâu thuẫn chủ yếu để vạch rõ kẻ
thù trực tiếp, nguy hiểm nhất. Khi cần tập trung lực lượng để giải quyết những
nhiệm vụ cấp bách nhất của cách mạng, Đảng đã giải quyết đúng mức quyền lợi
của công nông và của các giai cấp, các tầng lớp tham gia mặt trận.
-

Mối quan hệ giữa tranh thủ tầng lớp trên đi đôi với phát động quần
chúng cơ bản.

Đây là mối quan hệ phức tạp đòi hỏi phải có giải pháp khéo léo. Về bản
chất giai cấp, tầng lớp trên đối lập với quần chúng cơ bản của cách mạng là
công nông. Nhưng Đảng có thể và cần phải tranh thủ tầng lớp trên, nhất là
những cá nhân có uy tín trong quần chúng, đó là điều cần thiết và có lợi cho
việc phát động quần chúng cơ bản. Nhưng phong trào vững chắc phải là
phong trào cách mạng của quần chúng cơ bản. Chỉ khi nào phong trào đó
mạnh mới bảo đảm tranh thủ được tầng lớp trên.
-

Mối quan hệ giữa đoàn kết và đấu tranh.

Đoàn kết một chiều, thiếu đấu tranh trong thực tế dẫn đến phá vỡ khối
đoàn kết, thủ tiêu mặt trận. Do đó, trong mặt trận cần thiết phải có đấu tranh
nhằm mục đích thực hiện cương lĩnh chung của mặt trận. Đấu tranh vượt quá
cương lĩnh là phạm sai lầm tả khuynh, trái lại, thiếu đấu tranh để thực hiện
cương lĩnh là hữu khuynh, dẫn đến mất đoàn kết.
4. Không ngừng củng cố, tăng cường vai trò của Đảng đối với Mặt trận dân
tộc thống nhất

25



×