Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

TIỂU LUẬN KINH tế CHÍNH TRỊ CÔNG NGHIỆP hóa, HIỆN đại hóa gắn với PHÁT TRIỂN KINH tế TRI THỨC và bảo vệ tài NGUYÊN môi TRƯỜNG TRONG THỜI kỳ QUÁ độ lên CHỦ NGHĨA xã hội ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.08 KB, 23 trang )

MỞ ĐẦU
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức và quá trình toàn
cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến sự phát triển của nhiều nước.
Việt Nam nằm trong nhóm các nước đang phát triển trình độ khoa học
và công nghệ còn lạc hậu, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, nắm bắt
xu thế phát triển của thời đại Đảng ta đã không ngừng điều chỉnh thích
nghi với điều kiện mới đề ra nhiệm vụ công nghiệp hóa hiện đại hóa đất
nước chú trọng phát triển kinh tế mà trọng tâm là kinh tế tri thức để nhanh
chóng rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển trên thế giới. Đại hội
XI, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước gắn với
phát triển KTTT...”. Điều đó thể hiện sự nhất quán, tầm nhìn xa và tính
nhạy bén của Đảng ta về vấn đề này. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung và phát triển 2011) xác định: “Từ nay
đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây
dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng
XHCN”. Để thực hiện thành công mục tiêu trên, Cương lĩnh cũng chỉ rõ:
toàn Đảng, toàn dân ta cần nêu cao tinh thần cách mạng tiến công, ý chí tự
lực, tự cường, phát huy mọi tiềm năng và trí tuệ, tận dụng thời cơ, vượt
qua thách thức, quán triệt và thực hiện tốt tám phương hướng cơ bản;
trong đó, “Đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước gắn với phát triển KTTT, bảo
vệ tài nguyên, môi trường” là phương hướng cơ bản đầu tiên. Đây không
chỉ là sự tiếp tục đường lối và chiến lược CNH,HĐH đã được xác định ở
các kỳ đại hội trước, mà còn thể hiện sự nhạy bén và phát triển sáng tạo
của Đảng ta trong việc nhận thức và vận dụng học thuyết kinh tế Mác –
Lê-nin vào điều kiện cụ thể của đất nước trong thời kỳ mới.


2
I. KINH TẾ TRI THỨC.
1.Quá trình hình thành.
Từ thập niên 80 thế kỷ XX đến nay, do tác động mạnh mẽ của cuộc


cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, đặc biệt là công nghệ thông tin, công
nghệ sinh học, công nghệ vật liệu…, nền kinh tế thế giới đang biến đổi sâu
sắc: lực lượng sản xuất xã hội chuyển từ kinh tế tài nguyên sang kinh tế tri
thức, nền kinh tế chuyển từ kinh tế tài nguyên sang kinh tế tri thức, nền văn
minh loài người chuyển từ văn minh công nghiệp sang văn minh trí tuệ. Nền
kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sản sinh ra, truyền bá và sử dụng tri
thức là động lực chủ yếu của sự tăng trưởng tạo ra của cải, tạo ra việc làm
trong tất cả các ngành kinh tế.(Theo OECD). Như vậy có thể hiểu nền kinh tế
tri thức là trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất xã hội. Cho đến nay
có nhiều quan niệm khác nhau về kinh tế tri thức (Knowledge economy). Theo
cách hiểu chung nhất, kinh tế tri thức là nền kinh tế mà trong đó việc sáng tạo và
ứng dụng tri thức đóng vai trò quyết định trong việc sản xuất ra của cải vật chất.
Còn theo Bộ Thương mại và Công nghiệp Anh: Kinh tế tri thức là nền kinh tế
mà việc sản sinh ra và khai thác tri thức có vai trò nổi trội trong quá trình tạo ra
của cải. Theo GS.VS Đặng Hữu: Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản
sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát
triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống.
2. Đặc trưng của nền kinh tế tri thức
Dù có nhiều cách hiểu khác nhau, song có thể thấy, nền kinh tế tri thức
có những đặc trưng cơ bản sau:
Tri thức đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, là vốn quý nhất, là
nguồn lực quan trọng hàng đầu quyết định sự tăng trưởng và phát triển kinh
tế. Trong quá trình lao động của từng người lao động và trong từng sản phẩm,
hàm lượng lao động cơ bắp giảm đi rất nhiều, hàm lượng tri thức, hao phí lao


3
động trí óc tăng lên vô cùng lớn. “Khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp”, khoa học thấm nhuần vào các yếu tố của lực lượng sản xuất, khoa học
nhanh chóng trở thành kỹ thuật và công nghệ. Khoa học bao gồm cả khoa học

tự nhiên- kỹ thuật và khoa học xã hội, nhất là khoa học kinh tế do con người
tạo ra. Những tri thức về kinh tế học, khoa học quản lý, tài chính ngân hàng,
quảng cáo tiếp thị, tâm lý học, mỹ học, ngôn ngữ học… ngày càng trở thành
yếu tố quan trọng của lực lượng sản xuất mới, nhất là trong các ngành sản
xuất vừa mới xuất hiện, có giá trị gia tăng rất cao như công nghiệp giải trí,
dịch vụ mạng… Trong nền kinh tế tri thức, cơ cấu tổ chức và phương thức
hoạt động kinh tế có những biến đổi sâu sắc, nhanh chóng, trong đó cơ cấu
sản xuất dựa ngày càng nhiều vào việc ứng dụng các thành tựu của khoa học
công nghệ, đặc biệt là công nghệ cao. Khoa học và công nghệ tạo ra công cụ
lao động hiện đại và phạm vi đối tượng lao động thay đổi. Trong các yếu tố
cấu thành và quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất thì công cụ lao
động giữ vị trí rất quan trọng, nó là cái quyết định năng suất lao động, biểu
hiện khả năng chinh phục và làm chủ tự nhiên của con người. Yếu tố trực tiếp
quyết định sự phát triển của công cụ lao động chính là khoa học và công
nghệ, bởi nhờ có thành tựu khoa học (những phát kiến khoa học) và công
nghệ, công cụ lao động được cải tiến không ngừng nhằm giảm nhẹ lao động
cơ bắp của con người và làm cho lao động đạt hiệu quả cao hơn. Các ngành
công nghệ cổ điển đã được nâng cấp bởi công nghệ cao và trở thành công
nghệ cao. (Đặc điểm quan trọng nhất của công nghệ cao là phải xuất phát
hoặc trực tiếp hoặc là dẫn xuất từ các tri thức khoa học là thành tựu của cuộc
cách mạng khoa học công nghệ hiện đại. Ví dụ: công nghệ thông tin phát triển
từ các tri thức về các dạng vận động của hạt điện tử electron). Công nghệ cổ
điển quang học đã được ứng dụng từ thế kỷ 19 (kính hiển vi, kính viễn
vọng…) nhưng khi được nâng cấp bởi công nghệ laze và sợi quang thì trở


4
thành công nghệ truyền thông cáp quang là công nghệ cao. Khi các công nghệ
cao xuất hiện nó đã làm nên sự thay đổi to lớn đối với lực lượng sản xuất.
Phát triển mạnh khoa học và công nghệ sẽ tạo ra một lực lượng sản xuất mới

lấy tri thức khoa học làm nguồn lực chủ yếu. Ứng dụng những ngành công
nghệ cao cơ bản và hàng loạt công nghệ cao chuyên ngành hợp thành hệ
thống công nghệ cao là nòng cốt để xây dựng lực lượng sản xuất mới, tạo ra
những ưu việt của quá trình sản xuất như nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu
quả. Trong lực lượng sản xuất mới có hàm lượng tri thức cao trong tư liệu sản
xuất, trong trang thiết bị, máy móc, công nghệ, vật liệu, tổ chức, quản lý và trong
kết cấu hạ tầng. Công cụ lao động với hệ thống máy móc thông minh được sử
dụng, máy móc được tự động hóa toàn phần mà thành phần chủ yếu là máy điện
toán mô phỏng não người đã tác dụng hỗ trợ, nhân lên khả năng lao động của con
người, tăng cường sức mạnh trí tuệ con người trong quá trình sản xuất. Các khâu
quan trọng của quá trình sản xuất như thiết kế sản phẩm và xây dựng các quy trình
sản xuất có nhiều thành tựu khoa học công nghệ mới ứng dụng; tạo ra nhiều loại
sản phẩm hoàn toàn mới, có tính cạnh tranh cao và xuất hiện trên thị trường chỉ
sau một thời gian rất ngắn từ khi có ý tưởng về sản xuất.
Khoa học phát triển làm đối tượng lao động cũng thay đổi, con người
không chỉ khám phá khai thác các yếu tố sẵn có trên mặt đất mà con người
tiến hành khai thác, khám phá các lĩnh vực khác như vũ trụ, đại dương.. Con
người nghiên cứu thăm dò và tiến tới khai thác vũ trụ, đưa người vào vũ trụ
với các công cụ ngày càng tiên tiến, từ tên lửa vũ trụ, con tàu vũ trụ, trạm
không gian… đến các vệ tinh khảo sát các hành tinh của Thái dương hệ.
Chúng ta đã được hưởng những thành tựu của ngành công nghệ cao vũ trụ
góp phần tích cực cho hoạt động của con người trên trái đất như hệ GPS (hệ
định vị toàn cầu), GIS (thông tin địa lý), phòng chống thảm họa vũ trụ…Con
người vươn tới hải dương mà công nghệ hải dương là ngành công nghệ cao để


5
con người hướng đến nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên ở đó. Theo dự
báo, hải dương sẽ đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế trong thế kỷ
XXI, nó sẽ cung cấp hàng loạt các yếu tố của tư liệu sản xuất như tài nguyên kim

loại (trong đó có vàng), dầu khí, hải sản, động vật thực vật rất quý hiếm..
Cơ cấu lao động trong kinh tế tri thức có những biến đổi so với nền
kinh tế tri thức trước đó. Lao động tri thức chiếm tỷ trọng cao (70-90%),
nguồn nhân lực nhanh chóng được tri thức hóa, sự sáng tạo, đổi mới, học tập
trở thành nhu cầu thường xuyên đối với mọi người.
Trong nền kinh tế tri thức, hàm lượng tri thức trong sản phẩm ngày
càng cao, quyền sở hữu đối với tri thức trở nên quan trọng hơn những yếu tố
như tài nguyên, đất đai.
Mọi hoạt động của kinh tế tri thức đều liên quan đến vấn đề toàn cầu
hóa, có tác động sâu sắc đến nhiều mặt của đời sống xã hội trong mỗi quốc
gia và trên toàn thế giới.
Ngay từ những năm 70 của thế kỷ XX, các quốc gia có nền kinh tế và
khoa học công nghệ phát triển đã đề ra những chương trình, chiến lược nhằm
hướng nền kinh tế phát triển theo những đặc trưng của kinh tế tri thức. Có thể
kể đến những ví dụ điển hình như: từ 1984 đến nay, mỗi năm chính phủ Mỹ
chi hàng trăm tỷ USD cho hoạt động khoa học, công nghệ. Từ những năm 80
của thế kỷ XX, chính phủ Nhật đã dành cho chương trình vi điện tử hơn 100
tỷ USD. Những năm 90 đến nay, nước Nhật đã dành khoảng 3% tổng sản
phẩm quốc dân cho hoạt động nghiên cứu và triển khai. Các nước Tây Âu
cũng đẩy mạnh hoạt động vào lĩnh vực công nghệ cao, như: công nghệ sinh
học, công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu mới, điển hình là các nước Đức,
Pháp, Italia, Anh, Ba Lan... Hiện nay theo số liệu của Ngân hàng thế giới, nếu
xét chỉ số chi tiết và tổng hợp của kinh tế tri thức thì các nước Mỹ, Nhật,
Singapore, Hồng Công đều ở vị trí hàng đầu. Chỉ số kinh tế tri thức (KEI) của Mỹ là
9,02; Nhật Bản là 8,42; Hồng Công là 8,33. Chỉ số sáng tạo của Mỹ là cao nhất: 9,47.


6
2. Phát triển kinh tế tri thức là một xu thế tất yếu.
Lao động sản xuất bao giờ cũng phải dựa vào tri thức, chỉ khác nhau ở

mức độ nhiều hay ít. Kinh tế nông nghiệp, khởi đầu cách đây khoảng mười
ngàn năm, phải dựa nhiều vào hiểu biết về canh tác, chăn nuôi, thời tiết... tức
là những tri thức cơ bản về nông nghiệp. Nhưng lúc đó đất đai, lao động thủ
công lại quan trọng hơn, nên tri thức chỉ đóng vai trò thứ yếu. Đến khoảng
giữa thế kỷ XVIII, kinh tế công nghiệp cơ giới xuất hiện và phát triển mạnh,
dựa vào các tri thức cơ học cổ điển để chế tạo ra máy móc cơ khí phục vụ sản
xuất. Nhưng để hình thành được thị trường hàng hóa của kinh tế công nghiệp
cổ điển thì tài nguyên và vốn (tư bản) lại quan trọng hơn nên tri thức cơ học
cổ điển cũng chỉ có vai trò thứ yếu.
Đến khoảng giữa thế kỷ XX, kinh tế công nghiệp cổ điển hết tiềm năng
phát triển và bắt đầu suy thoái, vì tài nguyên trở nên cạn kiệt, ô nhiễm ngày
càng nghiêm trọng, chiến tranh hủy diệt đe dọa thường xuyên... Trong bối
cảnh đó cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại xuất hiện và phát triển
bùng nổ, dựa trên những khối tri thức khổng lồ, rất mới và vô cùng phong phú
về thế giới vật chất vĩ mô và vi mô, với thuyết tương đối và thuyết lượng tử.
Lực lượng sản xuất mới được hình thành dựa trên nguồn lực chủ yếu là tri
thức, tạo nên hệ thống công nghệ cao với máy móc thông minh mà điển hình
là máy tính điện tử (máy điện toán) mô phỏng não người.
Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất mới này đã dẫn tới một
hình thái kinh tế mới. Đó là một nền kinh tế trong đó việc sáng tạo tri thức, sự
lan truyền và quảng bá nhanh tri thức đưa vào ứng dụng là động lực chủ yếu
của tăng trưởng kinh tế, tạo ra của cải, tạo ra việc làm cho tất cả các ngành
kinh tế. Nhà kinh tế học P.F.Durker gọi đó là nền kinh tế tri thức và tên gọi
này hiện nay đã trở thành phổ biến với việc sử dụng chính thức của Ngân hàng thế
giới. Trong nền kinh tế mới, kinh tế tri thức sản xuất chủ yếu dựa vào nguồn lực
tri thức. Tài nguyên và vốn dù quan trọng vẫn chỉ giữ vai trò thứ yếu.


7
Như vậy, trong tiến trình lịch sử phát triển của nhân loại con người là

động vật duy nhất có năng lực sáng tạo tri thức, do đó biết lao động sản xuất
và tiến dần tới nền kinh tế dựa vào tri thức là chính. Bởi vậy, kinh tế tri thức
là một lịch sử tất yếu.
Cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, khoảng từ giữa thế kỷ XX,
dựa trên những tri thức sáng tạo, đi sâu vào thế giới vĩ mô và thế giới vi mô,
dẫn tới sự phát minh ra các máy móc, thuộc loại hoàn toàn mới, gọi là máy
móc thông minh. Điển hình là máy điện toán, mô phỏng được những chức
năng chủ yếu của não người: biết nhớ, biết tính toán kể cả các bài toán rất
phức tạp, biết thực hiện các lệnh, biết tư vấn cho người dùng trong một số
việc..., đóng vai trò chính trong các hệ tự động hóa toàn phần của sản xuất và
trong các mạng thông tin toàn cầu. Máy móc thông minh kết hợp với tri thức
sáng tạo trở thành nguồn lực của các công nghệ cao như: công nghệ thông tin
hoặc công nghệ thông tin và truyền thông, công nghệ sinh học, công nghệ vật
liệu tiên tiến - nano..., trong đó công nghệ thông tin và truyền thông giữ vai
trò dẫn đầu. Hệ thống công nghệ cao là cốt lõi của lực lượng sản xuất mới. Sự
phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất mới đã thúc đẩy hình thành nền
kinh tế tri thức trong nửa sau của thế kỷ XX.
3. Thực trạng nền kinh tế tri thức ở Việt Nam.
Ở Việt Nam, ngay từ những năm 90 của thế kỷ XX, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã xác định: “Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại
đang diễn ra mạnh mẽ, cuốn hút tất cả các nước khác nhau”. Gần đây nhất,
Đảng ta đã xác định gắn công nghiệp hóa, hiện đại hóa với phát triển kinh tế
tri thức: “Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa với phát triển kinh tế tri
thức và bảo vệ môi trường”. (Văn kiện Đại hội XI Đảng Cộng sản Việt Nam),
trong đó Đảng ta khẳng định, phát triển khoa học và công nghệ thực sự là
động lực then chốt của quá trình phát triển nhanh và bền vững. Như vậy có
thể thấy ngay từ thời kỳ đầu, Đảng ta đã rất coi trọng việc tạo ra động lực cho
việc hình thành và phát triển kinh tế tri thức. Tuy nhiên, hiện nay về cơ bản



8
nền kinh tế Việt Nam vẫn là nền kinh tế mang những dấu ấn của kinh tế nông
nghiệp, đang chuyển dần sang kinh tế công nghiệp.
Những yếu tố cho sự ra đời và phát triển kinh tế ở Việt Nam mới
đang ở thời kỳ hình thành. Xét phương diện những đặc trưng của nền kinh tế tri
thức thì chúng ta thấy cơ cấu kinh tế - lao động của Việt Nam hiện nay vẫn là lạc
hậu: tỷ trọng các ngành dịch vụ, công nghiệp trong GDP còn hạn chế, ngành nông
nghiệp còn cao. Cơ cấu lao động cũng chưa chuyển biến mạnh mẽ: lao động trong
lĩnh vực nông nghiệp còn chiếm tỷ trọng rất cao, chất lượng lao động còn nhiều
hạn chế. Trong khi đó hiện nay ở Mỹ khoảng 80% lực lượng lao động làm việc
trong các ngành dịch vụ, nghiên cứu, ứng dụng và triển khai.
Hiện nay, hàm lượng chất xám trong sản phẩm của Việt Nam là rất
thấp, “đến 2020 giá trị sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm ứng dụng công
nghệ cao đạt khoảng 45% trong tổng GDP. Giá trị sản phẩm công nghệ chế
tạo chiếm khoảng 40% trong tổng giá trị sản phẩm công nghiệp”. (Văn kiện
Đại hội XI Đảng Cộng sản Việt Nam).
Sự đầu tư cho khoa học, công nghệ ở Việt Nam so sánh tương quan với
các quốc gia trong khu vực là rất thấp. Hiện nay, Việt Nam chỉ dành khoảng
0,3% GDP cho hoạt động khoa học, công nghệ, trong khi đó con số này ở
Malaysia là 1%, Singapore là 3%. Theo Robert Walter Global – một công ty
chuyên về tuyển dụng: năm 2012 mặc dù kinh tế khó khăn, nhiều công ty phá
sản hoặc giảm quy mô hoạt động, Việt Nam vẫn “khát” nhân sự có trình độ.
Hiện nay, tỷ lệ lao động qua đào tạo ở Việt Nam đạt khoảng 35%, đây là con
số rất thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
II. CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA GẮN VỚI PHÁT
TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC VÀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TRONG
THỜI KỲ QUÁ ĐỘ Ở VIỆT NAM.
1.Công nghiệp hóa - hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Tại đại hội Đảng lần VIII, Đảng ta khẳng định xây dựng đất nước ta
thành một nước công nghiệp có cơ sở kỹ thuật hiện đại. Cơ cấu kinh tế quan



9
hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với tŕnh độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời
sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước
mạnh, xă hội công bằng văn minh. Nước ta chuyển sang thời kỳ mới, thời kỳ
CNH, HĐH đất nước. “CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn
diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ
sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao
động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa
trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra
năng suất lao động xã hội cao ”. Từ Đại hội Đảng lần thứ III, Đảng ta luôn
coi công nghiệp hóa (CNH) là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ tiến
lên chủ nghĩa xã hội (CNXH). Đảng ta xác định thực chất của CNH xã hội
chủ nghĩa là ''Quyết tâm thực hiện cách mạng kỹ thuật, thực hiện phân công
mới về lao động xã hội là quá trình tích lũy xã hội chủ nghĩa để không ngừng
thực hiện tái sản xuất mở rộng''. Quan điểm này tiếp tục được các kỳ Đại hội
Đảng tiếp theo củng cố và mở rộng.
CNH là một giai đoạn tất yếu của mỗi quốc gia. Đối với nước ta, từ một
nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, muốn tiến lên CNXH, nhất thiết phải trải qua
CNH. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) giúp phát triển lực lượng
sản xuất, làm thay đổi căn bản công nghệ sản xuất, tăng năng suất lao động.
Đây là thời kỳ tạo tiền đề vật chất để không ngừng củng cố và tăng cường vai
trò của kinh tế nhà nước trong điều tiết sản xuất và dẫn dắt thị trường. Đồng
thời, CNH, HĐH là động lực phát triển kinh tế-xã hội, tạo điều kiện tăng
cường củng cố an ninh-quốc phòng và là tiền đề cho việc xây dựng một nền
kinh tế độc lập, tự chủ, đủ sức tham gia một cách có hiệu quả vào sự phân
công và hợp tác quốc tế.
Trong quá trình CNH, HĐH, nước ta có thuận lợi cơ bản là nước đi sau,
có thể học hỏi được kinh nghiệm thành công của những nước đi trước và có

cơ hội rút ngắn thời gian thực hiện quá trình này.


10
Chính vì thế, tại Đại hội lần thứ IX, lần đầu tiên, Đảng ta đã ghi vào
văn kiện luận điểm quan trọng về phát triển KTTT ''Đi nhanh vào công nghệ
hiện đại ở những ngành và lĩnh vực then chốt để tạo bước nhảy vọt về công
nghệ và kinh tế, tạo tốc độ tăng trưởng vượt trội ở những sản phẩm và dịch
vụ chủ lực. Công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa ngay từ đầu và trong suốt
các giai đoạn phát triển. Nâng cao hàm lượng tri thức trong các nhân tố phát
triển kinh tế- xã hội, từng bước phát triển KTTT ở nước ta''. Tới Đại hội X,
việc phát triển KTTT được thể hiện rõ với tư cách là một yếu tố cấu thành
đường lối CNH, HĐH đất nước: ''Tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh
quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình CNH,
HĐH đất nước theo định hướng XHCN gắn với phát triển KTTT, coi KTTT là
yếu tố quan trọng của nền kinh tế và CNH, HĐH. Phát triển mạnh các ngành
và sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức; kết hợp
việc sử dụng vốn tri thức của con người Việt Nam với tri thức mới nhất của
nhân loại”. Và Đại hội XI, với định hướng chiến lược cơ cấu lại nền kinh tế,
chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng, sang
phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, chú trọng nâng cao chất lượng,
hiệu quả, tính bền vững, Đảng ta tiếp tục khẳng định: ''phát triển mạnh khoa
học, công nghệ làm động lực đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, phát triển KTTT, góp phần tăng nhanh năng suất, chất lượng, hiệu quả,
sức cạnh tranh của nền kinh tế, sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước”.
Từ một nền kinh tế nông nghiệp đi lên CNXH, trong bối cảnh toàn cầu
hóa, chúng ta phải tiến thành đồng thời hai quá trình: Chuyển từ nền kinh tế
nông nghiệp lên kinh tế công nghiệp (CNH, HĐH); chuyển từ kinh tế nôngcông nghiệp lên KTTT. Trong khi ở các nước đi trước, đó là hai quá trình kế
tiếp nhau, thì ở nước ta, tận dụng cơ hội là nước đi sau, hai quá trình này được
lồng ghép với nhau, kết hợp các bước đi tuần tự với các bước phát triển nhảy

vọt, tức là gắn CNH, HĐH với phát triển KTTT.


11
Nội dung trung tâm của thực hiện CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT
là lựa chọn để có thể bỏ qua một số thế hệ công nghệ trung gian, đi thẳng vào
công nghệ cao, công nghệ mới nhằm nhanh chóng chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng tăng nhanh các ngành công nghiệp dịch vụ có hàm lượng tri thức,
giá trị gia tăng cao. Trong ''Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011-2020, ngoài
một số mục tiêu khối lượng như: tăng trưởng GDP bình quân 7-8%/năm; GDP
bình quân đầu người theo giá thực tế đạt khoảng 3.000 USD... còn có một số chỉ
tiêu về chất lượng, như là những nấc thang trên lộ trình CNH, HĐH, phát triển
KTTT. Cụ thể là: tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm khoảng 85%
GDP; giá trị sản phẩm công nghệ cao đạt 45% GDP; yếu tố năng suất tổng hợp
đóng góp vào tăng trưởng đạt 35%; giảm tiêu hao năng lượng tính trên GDP 2,53%/năm; giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp xuống còn 30-35%...
2. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức
là tất yếu khách quan.
Công nghiệp hóa - hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức là tất
yếu khách quan, vấn đề này phù hợp với lý luận và thực tiễn.
C.Mác đã đưa ra nhận định về mối quan hệ giữa khoa học và lực lượng
sản xuất bằng luận điểm nổi tiếng: "Khoa học trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp”. Trong các tác phẩm của mình, C.Mác và Ăngghen đã nhiều lần
khẳng định vai trò cũng như sức mạnh cải tạo thế giới của tri thức khoa học
khi nó trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Khi đánh giá về động lực phát
triển của khoa học và công nghệ, Ph.Ăngghen đã nhận xét: “Nếu trong xã hội
xuất hiện một nhu cầu kỹ thuật thì điều đó sẽ thúc đẩy khoa học tiến lên nhiều
hơn một chục trường đại học”1.
C.Mác cũng chỉ rõ rằng, tự bản thân khoa học không thể gây ra bất kỳ
một tác động tích cực hay tiêu cực nào đối với thế giới, mà phải thông qua sự
1


C.Mác và Ăngghen: Toàn tập, sđd, t.39, tr.271.


12
vận dụng vào hoạt động thực tiễn của con người thì nó mới phát sinh tác
dụng. Trong Gia đình thần thánh, C.Mác chỉ rõ: Tư tưởng căn bản không thể
thực hiện được cái gì hết. Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con
người sử dụng lực lượng thực tiễn. Trong Lời nói đầu Góp phần phê phán triết
học pháp quyền của Hêghen, C.Mác một lần nữa khẳng định: Vũ khí của sự
phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực lượng
vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ
trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng.
Khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp có nghĩa là khoa học
trực tiếp tham gia vào việc sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội, nó thấm
nhuần vào tất cả các yếu tố của lực lượng sản xuất đó là đối tượng lao động,
công cụ lao động và con người.Theo Mác vì tất cả sản phẩm lao động đều là
kết quả của quá trình vật hóa sức mạnh của tri thức 2 nên tới một mức độ phát
triển nhất định của nền sản xuất thì tri thức khoa học có thể trực tiếp trở thành
yếu tố đầu vào của sản xuất.
Từ thực tiễn phát triển kinh tế tri thức các nước trên thế giới điển hình
với Xingapo, từ đầu thập niên 80 thế kỷ XX, Xingapo đã đề ra chiến lược về
công nghệ thông tin năm 2000 nhằm biến quốc đảo này thành “hòn đảo thông
minh”. Đất nước này đã hình thành được xã hội thông tin với hơn 98% hộ gia
đình được kết nối vào mạng Xingapor I – mạng toàn quốc sử dụng băng thông
rộng đầu tiên trên thế giới; hầu hết các dịch vụ chủ yếu của chính phủ đều là trực
tuyến. Xingapo là một trong những nước dẫn đầu vào kinh tế tri thức với công
nghiệp tri thức chiếm hơn 57% GDP, công nhân tri thức chiếm hơn 38%.
Trong những năm vừa qua, ở Việt Nam các thành tựu của khoa học và
công nghệ được ứng dụng ngày càng rộng rãi trong lao động sản xuất và đời

sống, góp phần quan trọng vào việc nâng cao năng suất lao động và chất
lượng cuộc sống, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn.
2

C.Mác và Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Ha Nội, 2000, t.46, p.2, tr.368,369.


13
Theo đánh giá của các chuyên gia, trong thời gian qua 30% gia tăng của sản
xuất nông nghiệp là do khoa học và công nghệ của Việt Nam tạo nên. Thành
tựu đáng chú ý nữa là việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động các
cơ quan nhà nước và hướng tới xây dựng chính phủ điện tử đáp ứng yêu cầu
của quá trình hội nhập, đồng thời nhằm cung cấp dịch vụ công cho người dân
một cách nhanh chóng, thuận lợi và có hiệu quả hơn. Tuy nhiên, hoạt động
khoa học và công nghệ thời gian qua chưa đáp ứng được yêu cầu phục vụ có
hiệu quả cao cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Khoa học và công
nghệ chưa thực sự là quốc sách hàng đầu và chưa đóng vai trò then chốt, đóng
góp cho sự phát triển kinh tế xã hội còn thấp. Nguồn nhân lực lao động kỹ
thuật vừa yếu, vừa phân tán nên chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế. Hoạt
động khoa học và công nghệ chưa tạo ra động lực cho các nghiên cứu sản
xuất phát triển và ảnh hưởng đến trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Tiềm lực khoa học và công nghệ nước ta so với các nước trong khu vực và thế
giới còn thấp, năng lực công nghệ của Việt Nam đứng gần cuối bảng trong
khu vực châu Á, thua rất xa các nước như Thái Lan, Malaixia, Xingapo
khoảng 40 - 80 bậc; đội ngũ cán bộ khoa học về các lĩnh vực công nghệ
chiếm một tỷ lệ thấp trong đội ngũ trí thức nhà nước (Theo số liệu điều tra
năm 2007 của Tổng cục thống kê thì trong số cán bộ có trình độ cao đẳng, đại
học trở lên, về lĩnh vực tự nhiên và công nghệ chỉ chiếm 25,8%. Trong khi đó,
về lĩnh vực khoa học xã hội, nhân văn, giáo dục, y tế và các dịch vụ xã hội
khác chiếm 70,4%); tỷ lệ cán bộ nghiên cứu khoa học của Việt Nam còn thấp

do đó số lượng đơn đăng ký sáng chế gửi Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới còn
thấp (Giai đoạn 2001-2005, Việt Nam có 11, trong khi đó Inđônexia là 56,
Thái Lan 39, Philippin là 85, Hàn Quốc 15.000, Nhật Bản có 87.620, Mỹ có
206.700); Tỷ lệ xuất khẩu hàng hóa công nghệ cao của Việt Nam còn rất thấp
và nhóm ngành công nghệ cao của Việt Nam chỉ chiếm 21% tổng sản phẩm
sản xuất. Việt Nam cũng đã có kế hoạch xây dựng khu công nghệ cao ở Hòa


14
Lạc, Hà Nội và ở Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh, nhưng việc xây dựng hai
khu công nghệ cao này tiến hành chậm, hiệu quả đem lại chưa cao. Các
trường đại học, một số doanh nghiệp lớn, thành phố lớn cũng đã xây dựng các
Trung tâm công nghệ cao, các khu phần mềm nhưng mới chỉ đem lại hiệu quả
ban đầu. Trình độ khoa học công nghệ trong sản xuất ở nước ta vẫn còn ở
mức hạn chế, các ngành sản xuất vẫn ở trình độ lạc hậu: chỉ có một số ngành
được đầu tư thiết bị mới như bưu chính viễn thông, dầu khí, điện tử gia dụng,
sản xuất điện, xi măng, còn lại trình độ công nghệ của các ngành sản xuất
khác tụt hậu khoảng 2-3 thế hệ so với các nước trong khu vực. Nhiều tư liệu
sản xuất phục vụ sản xuất công, nông nghiệp chủ yếu phải nhập khẩu. Tỷ
trọng chế biến thô nông lâm, thủy sản còn lớn, các ngành công nghiệp sản
xuất hàng tiêu dùng và xuất khẩu giá trị gia tăng thấp. Đổi mới công nghệ
trong các ngành kinh tế còn chậm; công nghệ còn lạc hậu còn chiếm tỷ trọng
lớn trong khu vực công nghiệp.
3.

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa với bảo vệ môi trường.

Vấn đề đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) gắn với
phát triển kinh tế tri thức lần đầu tiên được đề cập trong văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng. Thực chất là quá trình CNH, HĐH “rút

ngắn” dựa trên tri thức; đó vừa là mục tiêu, vừa là phương thức để có thể thực
hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Tuy nhiên việc “rút ngắn”
quá trình CNH, HĐH cũng đang đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết là làm thế
nào để vừa có thể đi tắt, đón đầu, vừa giữ được tính bền vững trong từng bước
phát triển. Nhận thức sâu sắc vấn đề đó trong Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011), Chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 và Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành
Trung ương khóa X được Ðại hội XI thông qua đều rút ra bài học trong quá
trình đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức phải bảo đảm
mục tiêu phát triển bền vững nền kinh tế. Như vậy, Đảng ta đã chú ý nhiều


15
hơn đến tính bền vững trong quá trình thực hiện CNH, HĐH “rút ngắn” dựa
trên tri thức. Đây là một quan điểm mới, thể hiện sự đổi mới về tư duy lý luận
của Đảng trong thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH
(bổ sung, phát triển năm 2011) phương hướng cơ bản để thực hiện các mục
tiêu của thời kỳ quá độ đó là: “Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm; thực
hiện CNH, HĐH đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài
nguyên, môi trường; xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, có hiệu quả và
bền vững, gắn kết chặt chẽ công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ…”.
Nội hàm phát triển bền vững nền kinh tế ở nước ta, Ðại hội XI xác
định: Coi chất lượng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh là yêu cầu ưu tiên
hàng đầu, chú trọng phát triển theo chiều sâu, phát triển kinh tế tri thức. Có sự
kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của
nhân dân. Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước phải luôn
coi trọng việc bảo vệ và cải thiện môi trường sống. Xuất phát điểm là một
nước nông nghiệp đi lên xây dựng CNXH, trong bối cảnh toàn cầu hoá, để

phát triển nền kinh tế tri thức cần tiến hành đồng thời và lồng ghép hai quá
trình: chuyển từ kinh tế nông nghiệp lên kinh tế công nghiệp và chuyển từ
kinh tế nông - công nghiệp lên kinh tế tri thức trong điều kiện chuyển đổi cơ
chế từ kế hoạch hoá, tập trung quan liêu sang cơ chế thị trường định hướng
XHCN. Trong thời đại kinh tế tri thức, Việt Nam có thể bỏ qua các thế hệ
công nghệ trung gian để đi ngay vào công nghệ tiên tiến, công nghệ cao.
Song, điều đó không có nghĩa cho phép chúng ta có thể chủ quan, nóng vội,
đốt cháy giai đoạn mà bỏ qua những mục tiêu của phát triển bền vững.
Sau 25 năm đổi mới, nước ta đã vượt qua ngưỡng nước nghèo vào
2010, bước vào nhóm nước có thu nhập trung bình. Tuy nhiên, bên cạnh
những thành tựu vượt bậc ấy, chúng ta đang phải đối mặt với những thách


16
thức nghiêm trọng về môi trường. Theo thống kê của Bộ Tài nguyên và Môi
trường, hiện nước ta có gần 4000 cơ sở sản xuất, hơn 1500 làng nghề gây ô
nhiễm, hơn 200 KCN cần được kiểm soát về khả năng gây ô nhiễm. Thực tế
là, ô nhiễm nguồn nước, không khí đang lan rộng không chỉ ở các KCN, khu
đô thị, mà ở cả nhũng vùng nông thôn; đa dạng sinh học tiếp tục bị suy giảm;
biến đổi khí hậu và nước biển dâng gây ra triều cường và những hậu quả khôn
lường; thành quả phát triển của nhiều địa phương trong nhiều năm chỉ sau
một đợt thiên tai có thể bị xóa sạch.
Trước tình hình đó, ngày 15-11-2004, Bộ Chính trị có Nghị quyết 41NQ/TW "Về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa-hiện
đại hóa đất nước” đã khẳng định bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu, vừa là
một nội dung cơ bản của phát triển bền vững trong thời kỳ đẩy mạnh CNHHĐH. Năm 2005, Quốc hội đã thông qua Luật bảo vệ môi trường. Tại Đại hội
Đảng lần thứ XI, nội dung BVMT được nâng lên một tầm cao mới, gắn chặt
với quá trình CNH-HĐH: ''Đưa nội dung bảo vệ môi trường vào chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, vùng và các chương trình dự
án đầu tư''. Một điểm mới so với Đại hội X là đưa thêm nội dung ''chú trọng
phát triển kinh tế xanh, thân thiện với môi trường; từng bước phát triển năng

lượng sạch, sản xuất sạch, tiêu dùng sạch”.
Quá trình CNH, HĐH đặt ra nhiều vấn đề cấp thiết đối với môi trường.
Chỉ tiêu tăng GDP gấp 2,2 lần trong 10 năm tới với mức tăng trưởng công
nghiệp hằng năm 13% sẽ làm trầm trọng hơn tình trạng ô nhiễm ở các KCN
và vùng đô thị; việc CNH, HĐH các ngành công nghiệp nặng gây ra những
ảnh hưởng không thể bỏ qua với môi trường.
Song song với quá trình CNH, HĐH, chúng ta đang phải chịu những áp
lực về thay đổi cấu trúc và mô hình phát triển do sự cạn kiệt tài nguyên, ô
nhiễm môi trường ngày càng lộ rõ. Do đó, các mối quan tâm về môi trường
cần được lồng ghép ngay từ quá trình ra các quyết định về phát triến kinh tế


17
và xã hội. Có nghĩa là, cần cụ thể hóa nội dung chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng thân thiện với môi trường, tiếp cận mô hình tăng trưởng xanh đã
được đề cập trong văn kiện của Đại hội Đảng lần thứ XI. Trong đó, Nhà
nước cần dành sự quan tâm đặc biệt để xây dựng năng lực nội sinh nhằm
sử dụng và phát triển các công nghệ tiết kiệm tài nguyên, nguyên liệu,
năng lượng...; vì đây là động lực chủ yếu để thúc đẩy quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nước ta theo hướng phát triển bền vững. Một nghiên
cứu của VCCI cho thấy, có khoảng trên 70% máy móc thiết bị ở nước ta
sử dụng công nghệ cũ; 70% đã khấu hao hết và gần 50% là máy móc cũ,
hoặc vừa mới tân trang được nhập vào. Thực tế này là một thách thức đòi
hỏi phải có quyết tâm chính trị lớn nhằm tạo ra bước đột phá lớn trong
chuyển đổi mô hình tăng trưởng.
Bước đột phá ở đây là chuyển đổi quyết liệt từ cơ chế nặng về ''bao
cấp”, ''xin cho” sang cơ chế kinh tế hóa, tài chính hóa trong quản lý tài
nguyên, môi trường. Thực tế hiện nay, nhà nước bỏ ra rất nhiều kinh phí,
trang thiết bị và nguồn nhân lực cho công tác điều tra tài nguyên khoáng sản,
khí tượng, thủy văn... nhưng thường là cung cấp không hoặc với khoản phí

không đáng kể cho các nhà đầu tư. Đó là sự bù đắp không cân xứng dẫn đến
không đủ nguồn lực cho công tác quy hoạch tài nguyên và môi trường.
Nhà nước cũng cần sử dụng công cụ tài chính nhằm khuyến khích đầu
tư vào các ngành sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng lớn, sử dụng công
nghệ sạch; sản xuất và sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, các sản
phẩm và bao bì không gây hại hoặc ít gây hại đến môi trường; tái chế và sử
dụng các sản phẩm tái chế. Thực tiễn phát triển nước ta trong những năm gần
đây khẳng định, chúng ta có đủ năng lực, điều kiện để chuyên đổi thành công
sang mô hình phát triển bền vững. Kinh nghiệm phát triển lĩnh vực công nghệ
thông tin, viễn thông, cơ khí tự động hóa, công nghệ vật liệu cũng như việc
chế tạo thành công các sản phẩm nano, những thành tựu trong công nghệ sinh


18
học, cùng với năng lực sáng tạo trong toán học, vật lý học, hóa học... cho thấy
nếu có đủ quyết tâm và cách sáng tạo, phù hợp, chúng ta sẽ nhanh chóng
bước vào quỹ đạo phát triển hiện đại mà 21 quốc gia thành viên APEC,
trong đó có Việt Nam đã cam kết tại Hội nghị Thượng đỉnh tại Tokyo
tháng 11- 2010, về thực hiện một mô hình tăng trưởng mới, đảm bảo 5
yêu cầu: I) Tăng trưởng cân bằng; II) Tăng trưởng an toàn; III) Tăng
trưởng bền vững; IV) Tăng trưởng dựa vào trí tuệ; V) Tăng trưởng với lợi
ích được chia sẻ công bằng cho tất cả mọi người. Đây phải trở thành điểm
xuyên suốt quá trình CNH, HĐH nước ta.
Chuyển đổi sang mô hình tăng trưởng bền vững là biện pháp hữu hiệu
nhất có khả năng phòng ngừa và hạn chế tối đa các tác động xấu đối với
môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. Những yếu kém, khuyết
điểm trong công tác bảo vệ môi trường trong thời gian qua chủ yếu là do
các cấp các ngành thường nặng về quan tâm tới các chi tiêu tăng trưởng
kinh tế, chưa đảm bảo hài hòa, cân bằng trong phát triển kinh tế với bảo
vệ môi trường. Do đó, cần có sự chuyển biến mạnh mẽ trong toàn Đảng

và toàn xã hội về nhận thức và hành động, trong chỉ đạo điều hành và đặc
biệt trong tổ chức triển khai các hoạt động bảo vệ môi trường trong thời
kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, gắn với phát triển KTTT. Trước hết, tất cả các
dự án đầu tư phải có báo cáo đánh giá tác động môi trường, được Bộ hoặc
Sở Tài nguyên - Môi trường thẩm định trước khi được phê duyệt. Đồng
thời, tăng cường việc kiểm soát ô nhiễm tại nguồn; chú trọng quản lý chất
thải, nhất là các chất thải trong sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, dịch
vụ y tế. Khắc phục các khu vực môi trường đã bị ô nhiễm, suy thoái; nâng
cao khả năng và nguồn lực điều tra nắm chắc các nguồn tài nguyên để có
kế hoạch bảo vệ, khai thác hợp lý, bảo vệ đa dạng sinh học


19
4. Các giải pháp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với
phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ môi trường.
Một là, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN;
bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô; huy động và sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực. Để thực hiện tốt vấn đề đó, cần tiếp tục đổi mới việc xây dựng và
thực thi luật pháp bảo đảm cạnh tranh bình đẳng, minh bạch giữa các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế; đổi mới công tác quy hoạch, kế hoạch
và điều hành phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường; đồng thời, thực hiện tốt
chính sách xã hội. Cùng với đó, cần có hệ thống cơ chế và chính sách phù
hợp, đặc biệt là cơ chế, chính sách tài chính, tiền tệ nhằm nâng cao chất lượng
tăng trưởng, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của nền kinh tế; bảo
đảm quyền tự do kinh doanh và bình đẳng giữa các thành phần kinh tế; tạo lập
đồng bộ và vận hành thông suốt các loại thị trường.
Nhà nước cũng cần sử dụng công cụ tài chính nhằm khuyến khích đầu
tư vào các ngành sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng lớn, sử dụng công
nghệ sạch; sản xuất và sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, các sản
phẩm và bao bì không gây hại hoặc ít gây hại đến môi trường; tái chế và sử

dụng các sản phẩm tái chế. Thực tiễn phát triển nước ta trong những năm gần
đây khẳng định, chúng ta có đủ năng lực, điều kiện để chuyên đổi thành công
sang mô hình phát triển bền vững. Kinh nghiệm phát triển lĩnh vực công nghệ
thông tin, viễn thông, cơ khí tự động hóa, công nghệ vật liệu cũng như việc
chế tạo thành công các sản phẩm nano, những thành tựu trong công nghệ sinh
học, cùng với năng lực sáng tạo trong toán học, vật lý học, hóa học... cho thấy
nếu có đủ quyết tâm và cách sáng tạo, phù hợp, chúng ta sẽ nhanh chóng bước
vào quỹ đạo phát triển hiện đại mà 21 quốc gia thành viên APEC, trong đó có
Việt Nam đã cam kết tại Hội nghị Thượng đỉnh tại Tokyo tháng 11- 2010, về
thực hiện một mô hình tăng trưởng mới, đảm bảo 5 yêu cầu: I) Tăng trưởng
cân bằng; II) Tăng trưởng an toàn; III) Tăng trưởng bền vững; IV) Tăng
trưởng dựa vào trí tuệ; V) Tăng trưởng với lợi ích được chia sẻ công bằng cho tất
cả mọi người. Đây phải trở thành điểm xuyên suốt quá trình CNH, HĐH nước ta.


20
Chuyển đổi sang mô hình tăng trưởng bền vững là biện pháp hữu hiệu
nhất có khả năng phòng ngừa và hạn chế tối đa các tác động xấu đối với môi
trường trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. Những yếu kém, khuyết điểm
trong công tác bảo vệ môi trường trong thời gian qua chủ yếu là do các cấp
các ngành thường nặng về quan tâm tới các chi tiêu tăng trưởng kinh tế, chưa
đảm bảo hài hòa, cân bằng trong phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường. Do
đó, cần có sự chuyển biến mạnh mẽ trong toàn Đảng và toàn xã hội về nhận
thức và hành động, trong chỉ đạo điều hành và đặc biệt trong tổ chức triển
khai các hoạt động bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH,
gắn với phát triển KTTT. Trước hết, tất cả các dự án đầu tư phải có báo cáo
đánh giá tác động môi trường, được Bộ hoặc Sở Tài nguyên - Môi trường
thẩm định trước khi được phê duyệt. Đồng thời, tăng cường việc kiểm soát ô
nhiễm tại nguồn; chú trọng quản lý chất thải, nhất là các chất thải trong sản
xuất công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ y tế. Khắc phục các khu vực môi

trường đã bị ô nhiễm, suy thoái; nâng cao khả năng và nguồn lực điều tra nắm
chắc các nguồn tài nguyên để có kế hoạch bảo vệ, khai thác hợp lý, bảo vệ đa
dạng sinh học. Nói cách khác, bảo vệ môi trường phải vừa là mục tiêu, vừa là
nội dung của quá trình phát triển bền vững.
Hai là, cải cách triệt để nền giáo dục, phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao phục vụ cho phát triển kinh tế tri thức.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 khẳng định: Phát triển
và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao
là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định quá trình cơ cấu lại nền kinh tế,
chuyển đổi mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh dài hạn, bảo đảm phát
triển nhanh, hiệu quả, bền vững... Phát triển nguồn nhân lực cần phải quan tâm
cả phát triển con người và hiện đại hóa hoạt động giáo dục, đào tạo.
Ở đây, phát triển con người là nền tảng, hiện đại hóa giáo dục, đào tạo
là trung tâm. Trong những năm tới, Nhà nước phải đầu tư hơn nữa để phát
triển giáo dục. Thực hiện các chương trình, đề án đào tạo nhân lực chất lượng


21
cao đối với các ngành, lĩnh vực chủ yếu, mũi nhọn. Trong đó cần: Từng bước
ứng dụng những công nghệ mới, hiện đại vào giảng dạy, không ngừng nâng
cao chất lượng giáo dục - đào tạo. Chú trọng đào tạo theo hướng tăng cường
ứng dụng, thực hành. Huy động mọi nguồn lực cho phát triển giáo dục - đào
tạo. Tiến hành cải tiến công tác quản lý giáo dục - đào tạo. Cải cách giáo dục
phổ thông. Tăng cường giáo dục trung học chuyên nghiệp và dạy nghề. Gắn
kết quá trình đào tạo ở nhà trường với đào tạo tại các doanh nghiệp. Đổi mới
giáo dục đại học và cao đẳng theo hướng nâng cao chất lượng đào tạo và gắn
kết giữa giảng dạy, nghiên cứu và sản xuất, đáp ứng nhu cầu xã hội. Tăng
nhanh đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật có trình độ đại học, trên đại
học và đội ngũ công nhân lành nghề, đội ngũ cán bộ quản lý, các doanh nhân.
Mở rộng quan hệ hợp tác giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ với nước

ngoài. Tuyển chọn đưa đi đào tạo ở các nước tiên tiến số lượng lớn cán bộ
khoa học - kỹ thuật thuộc các lĩnh vực ưu tiên chiến lược.
Ba là, phát triển mạnh về khoa học công nghệ, tăng cường năng lực
khoa học công nghệ quốc gia.
Cương lĩnh của Đảng nêu rõ: Phát triển mạnh khoa học, công nghệ làm
động lực đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH, phát triển kinh tế tri thức; góp
phần tăng nhanh năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh
tế, sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước. Trong đó cần tập trung: Phát
triển và ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin, chuyển hướng phát triển các
lĩnh vực trọng yếu sang chủ yếu dựa vào tri thức. Phát triển nhanh có chọn lọc
các ngành kinh tế dựa vào tri thức và công nghệ cao. Tập trung ưu tiên đầu tư
phát triển mạnh một số khu công nghệ cao đã và đang hình thành ở nước ta
như: Công viên phần mềm Sài Gòn, Quang Trung, Khu công nghệ cao Láng Hoà Lạc, trung tâm phần mềm Hải Phòng, công viên phần mềm Đà Nẵng,
Trung tâm phần mềm Huế… coi đây là những hình mẫu, đầu tàu của khoa học
công nghệ - công nghiệp quốc gia.


22
Cần đầu tư cao vào những ngành mũi nhọn của quốc gia như: công
nghệ thông tin, nhất là công nghệ phần mềm; công nghệ số hoá, công nghệ
năng lượng mới, vật liệu mới, công nghệ sinh học... Thu hút các tập đoàn
xuyên quốc gia, có tiềm lực khoa học-công nghệ và tài chính mạnh đầu tư vào
Việt Nam, khuyến khích xây dựng các trung tâm nghiên cứu-phát triển, tạo sự
lan toả ra toàn bộ nền kinh tế.
Bốn là, phát triển kinh tế - xã hội phải luôn coi trọng bảo vệ và cải
thiện môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu.
Trong điều kiện khan hiếm các nguồn tài nguyên hiện nay, CNH, HĐH
tác động không thuận đến môi trường tự nhiên. Do đó văn kiện Đại hội XI
xác định: “Đưa nội dung bảo vệ môi trường vào chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, vùng và các chương trình, dự án đầu tư… Chú

trọng phát triển kinh tế xanh, thân thiện với môi trường; từng bước phát triển
năng lượng sạch, sản xuất sạch, tiêu dùng sạch”(2). Để cụ thể hóa quan điểm đó
cần: Tăng cường quản lý tài nguyên đất, nước, khoáng sản, rừng, bầu trời. Ngăn
chặn các hành vi huỷ hoại môi trường, khắc phục sự xuống cấp, tích cực phục
hồi môi trường, xử lý phế thải. Từng bước sử dụng công nghệ sạch, năng lượng
sạch. Phủ xanh đất trống, đồi trọc. Hiện đại hóa công tác nghiên cứu, dự báo,
chủ động phòng chống thiên tai, tìm kiếm cứu nạn, cứu hộ. Tăng cường quản lý
nhà nước bằng pháp luật, bảo vệ và cải thiện môi trường tự nhiên.
Như vậy, hướng tới các mục tiêu của phát triển kinh tế bền vững trong
quá trình CNH, HĐH gắn với kinh tế tri thức đã được Đại hội Đảng XI quan tâm
một cách đặc biệt. Đây đã trở thành một phần quan trọng của Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH và Chiến lược phát triển của các
ngành, lĩnh vực, bộ phận của nền kinh tế ở nước ta. Đây chính là kết quả của quá
trình đổi mới tư duy của Đảng ta trong Đại hội XI. Ngày nay, trước yêu cầu cao
hơn của sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước, hội nhập sâu hơn, toàn diện
hơn vào đời sống kinh tế quốc tế, cuộc cạnh tranh trên phạm vi toàn cầu sẽ rất
gay gắt, chúng ta cần tập trung nhiều hơn để thực hiện đồng bộ các giải pháp
nhằm bảo đảm cho thành công của sự nghiệp CNH, HĐH gắn với phát triển kinh
tế tri thức, phát triển nhanh và bền vững của nước ta.


23



×