Tải bản đầy đủ (.docx) (3 trang)

Soạn bài Tự tình 2 (Hồ Xuân Hương)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (52.26 KB, 3 trang )

Soạn bài:

TỰ TÌNH (BÀI II)
--- HỒ XUÂN HƯƠNG ---

I.TÌM HIỂU CHUNG

1. Tác giả: Hồ Xuân Hương
– Sống vào khoảng nửa cuối thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX.
– Xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo, cha làm nghề dạy học.
– Là người đa tài đa tình, phóng túng, giao thiệp với những nhà văn nhân tài tử, đi
rất nhiều nơi. Đường tình duyên của Hồ Xuân Hương nhiều éo le, ngang trái (hai
lần lấy chồng đều làm lẽ).
– Sáng tác của Hồ Xuyên Hương bao gồm thơ chữ Hán và thơ chữ Nôm. Được
mệnh danh là bài chúa thơ Nôm. Hồ Xuân Hương là một hiện tượng độc đáo trong
lịch sử văn học Việt Nam
2. Tác phẩm:
– Tự tình là bày tỏ lòng mình: có 3 bài tự tình văn bản là bài tự tình II.
– Thể thơ: Đường luật thấi ngôn bát cú.
– Chủ đề: “Bài thơ nêu lột một nghịch đối: duyên phanạ muộn màng, lỡ dở trong
khi tác giả cứ lạnh lùng trôi qua. Nghịch đối này dẫn đến tâm trạng vừa buồn vừa
tủi vừa phẫn uất nhưng cuối cùng vẫn đọng lại.

II.ĐỌC HIỂU VĂN BẢN:

Câu 1: Tâm trạng và hoàn cảnh của tác giả trong bốn câu thơ đầu.
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.”
Tâm hồn những thi sĩ luôn nhạy cảm với những giao động xung quanh họ dù


là nhỏ nhất. Hồ Xuân Hương một nhà thơ đầy nữ tính, rất tinh tế khi đặt mình


trong không gian và thời gian đặc biệt để thể hiện được sâu sắc tâm trạng của
mình. Câu thơ được mở đầu bằng thời gian “ đêm khuya” – thời gian khoảnh khắc
mà tâm hồn nhạy cảm hay có những suy tư, thời gian mà khiến tâm trạng buồn
càng thêm buồn. Nhà thơ không chỉ đặt mình vào khoảng thời gian đó mà còn sử
dụng thành công nghệ thuật lấy động tả tĩnh, lấy âm thanh tiếng “văng vẳng” của
trống canh dồn dập để tả về không gian tĩnh lặng xung quanh. Trong không gian ấy
tâm hồn thi sĩ càng trở nên cô đơn hơn, mượn cảnh để nói lên liếng lòng của chính
mình. Âm thanh “văng vẳng” không chỉ tcas giả cảm nhận bằng thính giác mà còn
cảm nhận bằng trái tim, sự trôi đi quá nhanh của thời gian, thời gian trôi đi mang
theo bao nỗi niềm, thiếu hụt, mất đi. Chủ thể trữ tình cô đơn, lẻ loi trước không
gian rộng lớn “nước non” khi nghe thấy tiếng trống canh vang lên thì nỗi buồn
càng dâng đầy. Hình ảnh “hồng nhan” lại càng nhấn mạnh thêm nỗi buồn và nỗi tủi
cực cô đơn đó.
Hai câu thơ tiếp là hai câu tả thực thể hiện được rõ hoàn cảnh và tâm trạng
của nhân vật trữ tình hơn nữa. Nỗi buồn u uất đó nhân vật trữ tình tìm đến rượu để
giải quên nhưng nỗi buồn không thể nguôi ngoai hơn được mà cứ say rồi lại tỉnh.
Ngắm vầng trăng thì trăng xế bóng, khuyết chưa tròn. Câu thơ tả ngoại cảnh nhưng
cũng là tâm cảnh tạo nên sự đồng nhất giữa trăng và người. Trăng sắp tàn mà vẫn
chưa tròn – tuổi xuân trôi qua mà hạnh phúc không trọn vẹn.
Câu 2: Tâm trạng và thái độ của nhà thơ qua hình tượng thiên nhiên trong câu 5
và 6.
“Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám.
Đâm tọac chân mây, đá mấy hòn.”
Hai câu 5 - 6 mang đậm cá tính của Hồ Xuân Hương. Hai hình ảnh thiên
nhiên rất dữ dội thể hiện sự bức bối trong tâm trạng và khát khao phá vỡ những lối
mòn quen thuộc của cuộc sống để được tự do. Rêu là một sinh vật nhỏ yếu, hèn
mọn nhưng cũng không chịu khuất phục, mềm yếu; nó phải xiên ngang mặt đất.

Đá vốn rất chắc nhưng giờ cũng ngọn hơn để đâm toạc chân mây.
Lối đảo ngữ cùng với những động từ mạnh xiên, đâm kết hợp với các bổ
ngữ như ngang, toạc thể hiện rõ hơn nỗi khát khao hạnh phúc, giải thoát khỏi cô
đơn của nhà thơ.
Câu 3: Tâm sự của tác giả qua hai câu kết.


“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con !”
Ở hai câu kết Hồ Xuân Hương đã trực tiếp bộc lộ tâm trạng của mình. Tâm
trạng vẫn là nỗi buồn và ngán ngẩm khi thấy mùa xuân đi rồi nhưng lại trở lại đó là
quy luật của tạo hóa. Nhưng mỗi mùa xuân đi qua lại mang theo một tuổi xuân mà
tuổi xuân đó không thể quay lại được nữa. Tâm trạng tác giả được trực tiếp bộc lộ.
Thời gian vô tình cứ trôi chảy, xuân của tự nhiên qua đi rồi trở lại nhưng xuân của
người thì không. Từ lại thứ nhất có nghĩa là thêm một lần nữa, từ lại thứ hai là sự
trở lại. Vì vậy, hai từ lại giống nhau về âm nhưng khác nhau về nghĩa, về cấp độ
nghĩa.
Câu cuối cùng của bài là sự bộc bạch nỗi buồn của Hồ Xuân Hương. Bằng
nghệ thuật dùng từ thuần Việt theo cấp độ, tăng tiến của tác giả cho thấy nghịch
cảnh éo le. Một người đa tình, đa tài như Hồ Xuân Hương nhưng lại chỉ nhận được
mảnh tình “tí con con”. Thật xót xa biết mấy.
Câu 4: Khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của Hồ Xuân Hương.
Do hoàn cảnh, bi kịch về duyên phận lỡ làng, muộn màng khi thời gian cứ
trôi cứ trôi qua đi mà không đợi chờ ai. Tuổi xuân của nhà thơ cũng vậy cũng trôi
đi mà không luyến tiếc. Đó dẫn đến tâm trạng buồn tủi, phẫn uất nhưng vẫn tiềm
ẩn khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc đến vô thường. Khát vọng thể hiện rõ nét
nhất đã được nhắc tới ở câu 5 và 6.




×