Tải bản đầy đủ (.doc) (119 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ VAI TRÒ của bộ đội BIÊN PHÒNG THAM GIA xây DỰNG hệ THỐNG CHÍNH TRỊ cơ sở TỈNH THANH hóa HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (512.73 KB, 119 trang )

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết đầy đủ

Chữ viết tắt

Bộ đội Biên phòng

BĐBP

Chính trị quốc gia

CTQG

Chính trị - xã hội

CT - XH

Chủ nghĩa xã hội

CNXH

Hệ thống chính trị

HTCT

Hội đồng nhân dân

HĐND

Hệ thống chính trị cơ sở



HTCTCS

Kinh tế - xã hội

KT - XH

Quân đội nhân dân

QĐND

Xã hội chủ nghĩa

XHCN

Ủy ban nhân dân

UBND


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

3

VỀ VAI TRÒ BỘ ĐỘI BIÊN PHÒNG THAM
GIA XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ
SỞ Ở TỈNH THANH HÓA HIỆN NAY

1.1. Hệ thống chính trị cơ sở và vai trò Bộ đội Biên

11

phòng tham gia xây dựng hệ thống chính trị cơ sở ở
tỉnh Thanh Hóa hiện nay
1.2. Thực trạng về vai trò Bộ đội Biên phòng tham gia xây

11

dựng hệ thống chính trị cơ sở ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay
Chương 2. YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN PHÁT HUY

31

VAI TRÒ BỘ ĐỘI BIÊN PHÒNG THAM GIA
XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ Ở
TỈNH THANH HÓA HIỆN NAY
2.1. Yêu cầu phát huy vai trò Bộ đội Biên phòng tham gia

54

xây dựng hệ thống chính trị cơ sở ở tỉnh Thanh Hóa
hiện nay
2.2. Một số giải pháp cơ bản phát huy vai trò Bộ đội Biên

54

phòng tham gia xây dựng hệ thống chính trị cơ sở ở
tỉnh Thanh Hóa hiện nay

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

60
84
86
92

2


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hệ thống chính trị cơ sở có vị trí, vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN hiện nay, là cơ sở để tổ chức và
vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, huy động mọi khả năng phát triển KT - XH, củng cố quốc phòng,
an ninh, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư. Xây dựng HTCTCS vững
mạnh toàn diện là vấn đề có ý nghĩa chiến lược đối với cách mạng nước ta, là
nhiệm vụ cơ bản, thường xuyên và cấp bách hiện nay, là trách nhiệm của các
cấp, các ngành, các đoàn thể xã hội và mỗi người dân.
Thanh Hóa là tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm của khu vực Bắc
Trung Bộ, là vùng đất giàu tiềm năng, có vị trí chiến lược quan trọng về kinh
tế, chính trị, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh. Trong những năm qua,
HTCTCS cùng nhân dân trong tỉnh đã nỗ lực phấn đấu vượt qua nhiều khó
khăn, tích cực phát triển KT - XH, giữ vững ổn định chính trị, tăng cường
quốc phòng, an ninh, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của
nhân dân. Tuy nhiên, trước yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng, HTCTCS

tỉnh Thanh Hóa còn bộc lộ không ít bất cập, nhất là khu vực biên giới miền
núi cần được khắc phục với sự chung tay, góp sức của các cấp, các ngành, các
lực lượng chính trị, xã hội và toàn thể nhân dân.
Là một bộ phận trong lực lượng vũ trang cách mạng của Đảng và Nhà
nước đứng chân trên địa bàn, có quan hệ gắn bó với Đảng bộ, chính quyền, đoàn
thể và nhân dân địa phương, BĐBP Thanh Hóa có vai trò và trách nhiệm to lớn
trong tham gia xây dựng HTCTCS; xây dựng địa phương vững mạnh về kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh. Đó là sự thể hiện bản chất,
truyền thống tốt đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ”, đồng thời cũng là cơ sở để BĐBP tỉnh
hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới quốc gia.

3


Nhận thức rõ vị trí, vai trò của mình trong việc tham gia xây dựng
HTCTCS, thực hiện tốt các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, Nhà nước, Quân đội,
Bộ tư lệnh BĐBP, Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân Tỉnh, trong những năm qua
BĐBP Thanh Hóa cơ bản đã phát huy tốt vai trò của mình cùng với cấp ủy,
chính quyền địa phương góp phần xây dựng, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt
động của cấp ủy, chính quyền và các tổ chức CT - XH. Tuy nhiên, việc phát huy
vai trò của BĐBP trong tham gia xây dựng HTCTCS ở tỉnh Thanh Hóa vẫn còn
những hạn chế, bất cập cần phải khắc phục. Đó là những hạn chế trong tham
mưu, đề xuất xây dựng và nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức quần
chúng; chất lượng tham gia phát triển KT - XH trên địa bàn của một số đơn vị
chưa cao; công tác phối hợp với các lực lượng đứng chân trên địa bàn chưa
thống nhất, rõ ràng; hiệu quả công tác tuyên truyền, vận động nhân dân còn hạn
chế… Trước yêu cầu xây dựng HTCTCS vững mạnh toàn diện ở khu vực biên
giới miền núi hiện nay, đòi hỏi BĐBP cần tiếp tục phát huy hơn nữa vai trò của
mình nhằm góp phần xây dựng HTCTCS đủ sức hoàn thành nhiệm vụ lãnh đạo,
tổ chức xây dựng địa phương vững về chính trị, mạnh về kinh tế, bảo vệ vững

chắc chủ quyền an ninh biên giới quốc gia.
Với các lý do trên, tác giả chọn đề tài: “Vai trò Bộ đội Biên phòng tham
gia xây dựng hệ thống chính trị cơ sở ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay” làm luận
văn tốt nghiệp là vấn đề có ý nghĩa quan trọng, cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
* Nhóm công trình khoa học nghiên cứu về hệ thống chính trị cơ sở
Mấy thập kỷ nay, việc nghiên cứu về hệ thống chính trị cơ sở đã thu hút sự
quan tâm của đông đảo các nhà khoa học, tiêu biểu như: Nguyễn Quốc Phẩm
(chủ biên), “Hệ thống chính trị cấp cơ sở và dân chủ hóa đời sống xã hội nông
thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta”,
Nxb CTQG, H, 2000. Trong đó, các tác giả đi sâu phân tích những nhân tố tác
động đến tổ chức và hoạt động của HTCTCS vùng dân tộc thiểu số ở các tỉnh
miền núi, vùng cao phía Bắc nước ta hiện nay; đánh giá những nhân tố tác

4


động từ thiết chế хã hội truyền thống tộc người. Các tác giả đã rút ra nguyên
nhân, bài học kinh nghiệm, đề xuất giải pháp chủ yếu nhằm đổi mới tổ chức và
phương thức hoạt động của HTCT, thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở vùng
nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số các tính phía Bắc nước ta hiện nay.
Tác giả Vũ Hoàng Công với công trình: “ Hệ thống chính trị cơ sở: đặc
điểm, xu hướng và giải pháp”, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, đã đi sâu phân tích
khái niệm, quy luật hình thành HTCT; chỉ ra đặc điểm của HTCT Việt Nam
và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đổi mới hệ thống chính trị
cũng như thực tiễn đổi mới hệ thống chính trị ở tầm vĩ mô và sự tác động của
nó đến hệ thống chính trị cơ sở; từ đó, chỉ ra những xu hướng phát triển của
hệ thống chính trị cơ sở và đề xuất những giải pháp củng cố, nâng cao hiệu
quả của hệ thống chính trị cơ sở.
Trong các tác phẩm: “Hệ thống chính trị cơ sở, thực trạng và một số

giải pháp đổi mới”, Chu Văn Thành (chủ biên), Nxb CTQG, Hà Nội, 2004;
“Hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn nước ta hiện nay”, Hoàng Chí Bảo
(chủ biên), Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2005, các tác giả đã đi sâu
nghiên cứu dưới những góc độ khác nhau của HTCTCS và bước đầu làm rõ
khái niệm, đặc điểm, cấu trúc, vai trò của HTCTCS, chỉ ra những xu hướng
vận động chủ yếu và đề xuất những giải pháp cơ bản xây dựng và phát huy
vai trò của HTCTCS trên một số lĩnh vực của đời sống xã hội.
Bên cạnh đó, còn có một số công trình khoa học, luận văn, luận án cũng
đã quan tâm nghiên cứu về hệ thống chính trị cơ sở ở từng địa bàn cụ thể như:
“Vai trò của hệ thống chính trị cơ sở trong xây dựng nông thôn mới ở tỉnh
Bình Dương hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Triết học, Nguyễn Văn Thuận, Hà
Nội, 2012; “Phát huy vai trò của hệ thống chính trị cơ sở tỉnh Gia Lai trong
đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Triết học,
Phan Xuân Phương, Hà Nội, 2012; “Vai trò hệ thống chính trị cơ sở trong
thực hiện chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ở tỉnh Lâm Đồng hiện
nay”, Luận văn thạc sĩ Chủ nghĩa xã hội khoa học, Vũ Thư, Hà Nội, 2014; ….

5


Trên cơ sở làm rõ quan niệm, vai trò của hệ thống chính trị, các tác giả đã
phân tích cấu trúc, phương thức hoạt động của các thành tố trong hệ thống
chính trị; khảo sát thực trạng và đề xuất các giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt
động, cũng như phát huy vai trò của các thành tố trong hệ thống chính trị và
hệ thống chính trị cơ sở trong các nhiệm vụ cụ thể ở một số địa bàn.
* Nhóm công trình nghiên cứu đề cập đến vai trò của Quân đội trong
tham gia xây dựng hệ thống chính trị cơ sở.
Đề cập đến vai trò của quân đội trong tham gia xây dựng hệ thống chính trị
cơ sở có công trình khoa học: “ Bộ đội địa phương tỉnh Lâm Đồng tham gia xây
dựng cơ sở chính trị xã, phường vững mạnh trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn

thạc sĩ khoa học chính trị, Nguyễn Tiến Dũng, Hà Nội, 2005. Tác giả đã khẳng
định bộ đội địa phương tỉnh Lâm Đồng trong những năm qua đã quán triệt và
thực hiện tốt các nghị quyết, chỉ thị, của Đảng, Nhà nước, Quân đội, nghị quyết
của đảng bộ tỉnh và Hội đồng nhân dân các cấp về xây dựng cơ sở chính trị xã,
phường vững mạnh, đã đạt được những kết quả nhất định, góp phần giữ vững sự
ổn định về an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội ở địa phương.
Đáng kể hơn cả là công trình “Quân đội tham gia xây dựng hệ thống chính
trị ở cơ sở vùng dân tộc, tôn giáo trên địa bàn Tây Nguyên trong điều kiện mới”
của Tổng cục Chính trị, Nxb QĐND, Hà Nội, 2006. Công trình đã khẳng định vị
trí, vai trò quan trọng của hệ thống chính trị ở cơ sở vùng dân tộc, tôn giáo trên
địa bàn Tây Nguyên trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Từ phân tích
sâu sắc thực trạng HTCTCS vùng dân tộc, tôn giáo nơi đây, công trình đã khẳng
định: “Vận động quần chúng, tham gia xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở là
truyền thống, chức năng, nhiệm vụ của quân đội ta” [63, tr.174].
Vấn đề quân đội tham gia xây dựng HTCTCS đã được nhiều luận văn, luận
án quan tâm, như: “Phát huy vai trò bộ đội địa phương trong xây dựng hệ thống
chính trị cơ sở làm thất bại chiến lược diễn biến hoà bình của địch trên địa bàn
Tây Nguyên hiện nay” của tác giả Nguyễn Trường Sơn, Luận án tiến sĩ Triết
học, Học viện Chính trị, Hà Nội, 2009; “Bộ đội địa phương tỉnh Cà Mau tham

6


gia xây dựng hệ thống chính trị cơ sở hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Triết học,
Đặng Thanh Nam, Hà Nội, 2010; “Bộ đội địa phương Đà Nẵng tham gia xây
dựng cơ sở chính trị - xã hội trên địa bàn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Chủ nghĩa
xã hội khoa học, Huỳnh Trường Sơn, Hà Nội, 2014; vv… Các công trình, đề tài
này đã tập trung làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn vấn đề vai trò, phát huy vai
trò và các hoạt động cụ thể của quân đội trong xây dựng hệ thống chính trị cơ
sở vững mạnh, đấu tranh làm thất bại chiến lược diễn biến hoà bình của các

thế lực thù địch, lợi dụng vấn đề tôn giáo để truyền đạo trái phép, từ đó đề
xuất những giải pháp phát huy vai trò đó trong tình hình hiện nay.
* Nhóm công trình nghiên cứu đề cập đến vai trò của Bộ đội Biên phòng trong
tham gia xây dựng, củng cố cơ sở chính trị - xã hội và hệ thống chính trị cơ sở.
Các công trình đề cập đến vai trò của Bộ đội Biên phòng trong tham gia
xây dựng cơ sở chính trị - xã hội và hệ thống chính trị cơ sở tiêu biểu như:“Bộ
đội Biên phòng Lào Cai tham gia xây dựng cơ sở chính trị - xã hội ở các xã,
phường biên giới hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Triết học, Nguyễn Xuân Bách,
Hà Nội, 2008. Tác giả đã luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn về cơ sở
chính trị - xã hội ở các xã, phường biên giới các tỉnh Lào Cai và thực chất Bộ
đội Biên phòng tham gia xây dựng cơ sở chính trị - xã hội ở các xã biên giới
hiện nay. Từ việc đánh giá khách quan thực trạng tham gia xây dựng cơ sở
chính trị - xã hội ở các xã, phường biên giới, tác giả đã đề xuất một số phương
hướng và giải pháp cơ bản để Bộ đội Biên phòng tham gia xây dựng cơ sở
chính trị - xã hội ở các xã, phường biên giới hiện nay có hiệu quả hơn.
Trong đề tài:“Vai trò của cán bộ Biên phòng tăng cường cho các xã biên
giới tỉnh Lai Châu trong xây dựng hệ thống chính trị cơ sở hiện nay”, Luận
văn thạc sĩ Chủ nghĩa xã hội khoa học, Nguyễn Ngọc Dung, Hà Nội, 2013; tác
giả đã làm rõ vai trò của cán bộ biên phòng tăng cường cho các xã biên giới
trong xây dựng HTCTCS; chỉ ra những nhân tố bảo đảm cho việc phát huy vai
trò của cán bộ tăng cường, đánh giá đúng vai trò của cán bộ biên phòng tăng
cường trong thực tiễn xây dựng HTCTCS hiện nay.

7


Đề cập đến vai trò của Bộ đội Biên phòng trong tham gia xây dựng cơ
sở chính trị - xã hội và hệ thống chính trị cơ sở còn có các bài viết: “Phát huy
vai trò của Bộ đội Biên phòng tham gia củng cố, xây dựng tổ chức đảng ở các
xã, phường biên giới, biển đảo góp phần giữ vững ổn định chính trị trên địa

bàn khu vực biên giới”, Trương Viết Tý, Tạp chí Khoa học quân sự, số
12/2007; “Vai trò của cán bộ biên phòng tăng cường cho các xã biên giới
trong xây dựng hệ thống chính trị cơ sở hiện nay”, Nguyễn Ngọc Dung, Tạp
chí Khoa học Giáo dục Biên phòng, số 28, 9/2012… Các bài viết đã khẳng
định vị trí, vai trò của Bộ đội Biên phòng trong tham gia xây dựng cơ sở
chính trị, hệ thống chính trị cơ sở ở khu vực biên giới, hải đảo. Trên cơ sở
đánh giá thực trạng và nhận thức rõ yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới,
các tác giả đã đề xuất một số giải pháp cơ bản để phát huy hơn nữa vai trò
cũng như hoạt động cụ thể của Bộ đội Biên phòng trong tham gia xây dựng,
củng cố cơ sở chính trị và hệ thống chính trị cơ sở trên địa bàn đứng chân.
Như vậy, các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài rất phong
phú, đa dạng. Tuy nhiên, theo tổng quan của chúng tôi, hiện chưa có một công
trình nào đi sâu nghiên cứu đầy đủ, có hệ thống về hệ thống chính trị cơ sở và
vai trò của Bộ đội Biên phòng trong tham gia xây dựng hệ thống chính trị cơ
sở ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò Bộ đội
Biên phòng tham gia xây dựng HTCTCS ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay, luận văn
xác định yêu cầu và đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò Bộ
đội Biên phòng tham gia xây dựng HTCTCS ở tỉnh Thanh Hóa thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về vai trò BĐBP tham gia xây dựng hệ
thống chính trị cơ sở ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay.
- Đánh giá thực trạng vai trò Bộ đội Biên phòng tham gia xây dựng
HTCTCS ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay và rút ra những nguyên nhân.

8



- Xác định yêu cầu và đề xuất một số giải pháp chủ yếu phát huy vai trò
Bộ đội Biên phòng tham gia xây dựng HTCTCS ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Vai trò Bộ đội Biên phòng tham gia xây dựng HTCTCS ở tỉnh Thanh
Hóa hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu
Vai trò Bộ đội Biên phòng tham gia xây dựng HTCTCS trên địa bàn
biên giới miền núi của tỉnh Thanh Hóa (tập trung nghiên cứu, khảo sát các
đồn Biên phòng Bát Mọt, Yên Khương, Trung Lý, Na Mèo). Thời gian khảo
sát và đánh giá của luận văn từ năm 2010 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng về HTCT, về bản chất,
chức năng, yêu cầu của quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân; các nghị
quyết, chỉ thị, hướng dẫn của Đảng, Nhà nước, quân đội, Bộ tư lệnh BĐBP về
công tác vận động quần chúng, xây dựng hệ thống chính trị cơ sở.
* Cơ sở thực tiễn: Thực trạng phát huy vai trò Bộ đội Biên phòng
tham gia xây dựng HTCTCS ở tỉnh Thanh Hóa, thông qua các báo cáo tổng
kết của BĐBP Thanh Hóa, các báo cáo hàng năm của Tỉnh ủy, UBND tỉnh,
các số liệu điều tra khảo sát về công tác tham gia xây dựng HTCTCS ở các
đồn biên phòng tỉnh và kết quả điều tra thực tế của tác giả là cơ sở thực
tiễn của luận văn.
* Phương pháp nghiên cứu: Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; đồng thời, sử dụng tổng hợp các
phương pháp của khoa học chuyên ngành, liên ngành: phương pháp phân tích,
tổng hợp, lôgíc - lịch sử, hệ thống, so sánh, khảo sát, điều tra xã hội học, tổng
kết thực tiễn và phương pháp chuyên gia.

9



6. Ý nghĩa của đề tài
Luận văn góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò
của Bộ đội Biên phòng trong tham gia xây dựng HTCTCS ở tỉnh Thanh Hóa
thời gian qua cũng như hiện nay; đồng thời cung cấp cơ sở lý luận, thực tiễn
để các cấp uỷ Đảng, chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội ở địa
phương, trực tiếp là Bộ đội Biên phòng tỉnh Thanh Hóa tham khảo, vận dụng
trong quá trình lãnh đạo, tổ chức thực hiện phát huy tốt hơn nữa vai trò của
mình trong tham gia xây dựng HTCTCS thời gian tới.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu,
giảng dạy các vấn đề liên quan ở các học viện, nhà trường trong Quân đội,
làm tài liệu tham khảo cho đội ngũ cán bộ cơ sở hiện nay.
7. Kết cấu của đề tài
Luận văn gồm: phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài
liệu tham khảo và phụ lục.

10


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VAI TRÒ BỘ ĐỘI
BIÊN PHÒNG THAM GIA XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ
Ở TỈNH THANH HÓA HIỆN NAY

1.1. Hệ thống chính trị cơ sở và vai trò Bộ đội Biên phòng tham gia xây
dựng hệ thống chính trị cơ sở ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay
1.1.1. Hệ thống chính trị cơ sở và quan niệm về xây dựng hệ thống
chính trị cơ sở ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay
* Hệ thống chính trị cơ sở ở nước ta
Hệ thống chính trị là hệ thống các tổ chức, các thiết chế CT - XH và các

mối quan hệ giữa chúng với nhau, hợp thành cơ chế chính trị của một chế độ.
Cơ chế đó bảo đảm việc thực thi quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền
trong quan hệ với các giai cấp, tầng lớp và các nhóm xã hội khác [38, tr.31].
Đối với nước ta, khái niệm HTCT lần đầu tiên được sử dụng trong Văn kiện
Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa VI (năm 1990). Theo
đó, HTCT XHCN ở nước ta bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và các tổ chức CT - XH như: Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Đoàn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh, Hội Nông dân… và cơ chế hoạt động của các tổ chức đó
nhằm từng bước xây dựng, phát triển và hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo
đảm mọi quyền lực thuộc về nhân dân và thực hiện mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Điều 110 Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (bổ sung
sửa đổi năm 2013) nêu rõ: “Các đơn vị hành chính của nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam được phân định như sau: Nước chia thành tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương; tỉnh chia thành huyện, thị xã và thành phố thuộc
tỉnh; thành phố trực thuộc trung ương chia thành quận, huyện, thị xã và đơn vị
hành chính tương đương; huyện chia thành xã, thị trấn; thị xã và thành phố
thuộc tỉnh chia thành phường và xã; quận chia thành phường” [37, tr.12].

11


Theo đó, xã, phường, thị trấn là đơn vị hành chính cấp cơ sở của Nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; có những cộng đồng dân cư liên kết với nhau
trong các hình thức sinh hoạt vật chất và tinh thần trên một địa bàn cố định;
có hệ thống tổ chức hành chính ổn định hoạt động theo Hiến pháp và pháp
luật, tương ứng với cơ cấu phân cấp về hành chính.
Nói đến HTCTCS là nói đến hệ thống tổ chức, bộ máy, nội dung và
phương thức hoạt động của các tổ chức đảng, chính quyền và các đoàn thể CT

- XH của quần chúng ở cơ sở (xã, phường, thị trấn). HTCTCS có vai trò rất
quan trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tăng cường khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động mọi khả năng
phát triển KT - XH, tổ chức cuộc sống của cộng đồng cư dân. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã chỉ rõ: “Về mặt hành chính, cấp xã là gần gũi dân nhất, là nền
tảng của hành chính, cấp xã làm được việc thì mọi công việc đều xong xuôi”
[41, tr.371]. HTCTCS ở nước ta vận hành theo cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, nhân dân làm chủ, đảm bảo “Toàn bộ tổ chức và hoạt động của
HTCT nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện
nền dân chủ XHCN, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân” [25, tr.19]
Xét về mặt cấu trúc, HTCTCS là một chỉnh thế thống nhất bao gồm các
thiết chế, tổ chức chính trị như: Tổ chức cơ sở đảng (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ
sở), chính quyền cơ sở (HĐND, UBND xã, phường, thị trấn) và các tổ chức
CT - XH (Mặt trận Tổ quốc, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân,
Hội Cựu chiến binh …). Các tổ chức này được tổ chức và hoạt động theo
những nguyên tắc nhất định và có quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau. Mỗi thành
tố trong HTCTCS có vị trí, vai trò, chức năng khác nhau, song đều vận hành
theo cơ chế Đảng lãnh đạo, chính quyền điều hành, quản lý, phát huy vai trò
của các tổ chức CT - XH và quyền làm chủ của nhân dân.
Hệ thống chính trị cơ sở có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN; là đơn vị ở cấp dưới

12


cùng, có vai trò trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý và tổ chức thực hiện các chỉ
tiêu, kế hoạch, nhiệm vụ trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội,
quốc phòng, an ninh…
* Quan niệm và đặc điểm hệ thống chính trị cơ sở tỉnh Thanh Hóa

Khái quát tình hình tỉnh Thanh Hóa
Một là, Thanh Hóa là một tỉnh thuộc lưu vực sông Mã, cách Hà Nội 150
km về phía Nam, phía Bắc giáp với ba tỉnh Sơn La, Hòa Bình và Ninh Bình,
phía Nam giáp với tỉnh Nghệ An, phía Tây giáp với tỉnh Hủa Phăn nước Lào với
đường biên giới 192 km, phía Đông giáp với Vịnh Bắc Bộ có bờ biển dài 120
km. Thanh Hóa là tỉnh có sự đa dạng về địa hình bao gồm cả đồng bằng ven
biển, trung du, miền núi; diện tích tự nhiên là 11.114,65 km2, dân số 3.514.173
người, mật độ dân cư 316 người/km2. Địa bàn hành chính của tỉnh có 01 thành
phố, 02 thị xã, 24 huyện, với tổng số 577 xã, 30 phường và 28 thị trấn [19, tr.23].
Hai là, trong những năm qua, kinh tế tỉnh Thanh Hóa có sự chuyển dịch cơ
cấu mạnh mẽ, tốc độ phát triển khá nhanh, toàn diện và đã đạt được những kết
quả quan trọng. Từ một tỉnh nông nghiệp, sau hơn mười năm nay, cơ cấu kinh tế
của Thanh Hóa đã có sự chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng công nghiệp, dịch vụ,
du lịch. Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) năm 2016 theo giá so sánh
năm 2010 tăng 9,05%; trong đó ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng
2,52%; ngành công nghiệp, xây dựng tăng 11,96%; các ngành dịch vụ tăng
8,83%. GRDP bình quân đầu người năm 2016 đạt 1.620 USD [68, tr.1].
Ba là, Trong những năm qua, HTCT các cấp ở tỉnh Thanh Hóa thường
xuyên được quan tâm củng cố và xây dựng, đảm bảo giữ vững ổn định chính trị
trên địa bàn. Đảng bộ Tỉnh hiện có 34 đảng bộ trực thuộc, có 1.724 tổ chức cơ
sở đảng, với 217.918 đảng viên (đứng thứ hai cả nước, sau thành phố Hà Nội).
Các tổ chức Đảng đã nghiêm túc quán triệt các chỉ thị, nghị quyết về công tác
tư tưởng, tổ chức, cán bộ, bảo vệ chính trị nội bộ, công tác kiểm tra giám sát,
kỷ luật Đảng; tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Nghị quyết TW4 (khóa XI),
Nghị quyết TW4 (khóa XII), Chỉ thị 05/CT-TW của Bộ Chính trị, Nghị quyết

13


Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII... Đảng bộ tỉnh luôn tiến hành có hiệu quả

công tác bồi dưỡng, nâng cao trình độ lý luận chính trị và đạo đức cho cán bộ,
đảng viên; giáo dục lịch sử và truyền thống cách mạng cho cán bộ, đảng viên
và nhân dân. Tỉnh luôn đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng và phát huy vai trò quản
lý của Nhà nước trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; quan tâm lãnh đạo, chỉ
đạo đổi mới và nâng cao chất lượng của HTCT trước yêu cầu mới, khắc phục
tổ chức cơ sở đảng yếu kém.
Bốn là, lĩnh vực văn hóa, xã hội của Thanh Hóa đã có những bước phát
triển mang tính toàn diện. Công tác giáo dục luôn có bước phát triển khá, đạt
chuẩn quốc gia và phổ cập bậc học trung học. Cơ sở vật chất phục vụ dạy và
học được tăng cường theo hướng chuẩn quốc gia. Chất lượng giáo dục toàn
diện, giáo dục mũi nhọn được giữ vững; tỷ lệ học sinh được công nhận tốt
nghiệp THPT năm 2016 đạt 96,89%, tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia là
56,2%. Các lĩnh vực chăm sóc sức khỏe nhân dân, dân số, gia đình và trẻ em,
thể dục thể thao thường xuyên được quan tâm. Toàn tỉnh có thêm 94 xã đạt
tiêu chí quốc gia về y tế, nâng tỷ lệ chung cả tỉnh lên 60% [68, tr.5].
Đến năm 2016, xây dựng nông thôn mới trong tỉnh đạt kết quả tích cực,
bình quân mỗi xã đạt 14,2 tiêu chí. Toàn tỉnh hiện có 1 huyện, 158 xã, 300
thôn, bản đạt chuẩn nông thôn mới [62, tr.1]. Phong trào “Toàn dân đoàn kết
xây dựng đời sống văn hóa gắn với xây dựng nông thôn mới” ngày càng phát
triển và đi vào chiều sâu. Tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh giảm 2,5% so với đầu năm,
xuống còn 11%, khu vực miền núi còn dưới 14%, khu vực 7 huyện nghèo
thuộc chương trình 30a giảm còn dưới 20% [68, tr.5].
Năm là, Thanh Hóa là tỉnh có sự đa dạng về dân tộc, tôn giáo, còn tiểm ẩn
nhiều yếu tố phức tạp. Trên địa bàn tỉnh có nhiều thành phần dân tộc sinh sống,
chủ yếu có 7 dân tộc: Kinh, Thái, Mông, Mường, Dao, Thổ, Khơ Mú. Những năm
gần đây, tình trạng di cư tự do ở một số vùng đồng bào các dân tộc thiểu số đã và
đang diễn ra phức tạp, gây không ít khó khăn cho công tác quản lý của chính
quyền địa phương và các lực lượng chức năng, ảnh hưởng đến việc triển khai

14



chính sách đầu tư phát triển KT - XH, ổn định cuộc sống của nhân dân, gây mất
ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn biên giới miền núi.
Hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh có những diễn biến phức tạp. Các
trưởng đạo tích cực liên hệ với các tổ chức, hệ phái tôn giáo để nhờ giúp đỡ
kinh phí; vận động, lôi kéo, thu nạp tín đồ, vận động quyên góp, tùy tiện xây
cất nhà nguyện, nhà thờ; truyền và học đạo trái pháp luật … Hiện nay, số
người theo các tôn giáo trên địa bàn tỉnh có ở tất cả các địa phương trong tỉnh,
trong đó có các tôn giáo như: Công giáo, Tin lành, Phật giáo…
Sáu là, công tác quốc phòng an ninh của tỉnh ngày càng được củng cố
và xây dựng vững chắc, nhất là những địa bàn trọng yếu, khu vực biên giới,
biển đảo. Quán triệt quan điểm của Đảng, toàn tỉnh đã và đang thực hiện
tốt phương châm kết hợp phát triển KT - XH với tăng cường tiềm lực quốc
phòng, an ninh; tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy đảng đối với lực lượng
vũ trang. Phong trào quần chúng bảo vệ Tổ quốc được đẩy mạnh, đạt hiệu
quả thiết thực. Các lực lượng vũ trang trong tỉnh được củng cố, chất lượng
tổng hợp, khả năng sẵn sàng và sức chiến đấu được nâng lên; chủ động
phối hợp kịp thời, đấu tranh có hiệu quả với âm mưu, hoạt động của các thế
lực thù địch, không để xảy ra bất ngờ. Lực lượng vũ trang thường xuyên
nắm chắc tình hình, chủ động tham mưu giải quyết các tình huống, không
để xảy ra đột xuất; tích cực tham gia phòng, chống, khắc phục hậu quả
thiên tai và cứu hộ, cứu nạn; bảo đảm an toàn tuyệt đối cho các sự kiện
quan trọng của tỉnh.
Từ những trình bày trên đây về HTCTCS và tình hình tỉnh Thanh Hóa, có
thể đưa ra quan niệm như sau: Hệ thống chính trị cơ sở tỉnh Thanh Hóa là một
bộ phận của hệ thống chính trị ở nước ta, một chỉnh thể thống nhất bao gồm
toàn bộ các tổ chức chính trị và tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp ở xã,
phường, thị trấn, các thiết chế quy định về tổ chức và hoạt động giữa các tổ
chức đó nhằm thực hiện sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành của Nhà

nước, bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong tỉnh ở cơ sở.

15


Hệ thống chính trị cơ sở tỉnh Thanh Hóa là cấp trực tiếp tổ chức thực hiện
chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước và HTCT cấp trên; là cầu
nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Hiệu quả, hiệu lực trong lãnh đạo, quản
lý, tổ chức thực hiện các nhiệm vụ của HTCTCS là thực tiễn sinh động để Đảng,
Nhà nước tổng kết kinh nghiệm, bổ sung cho đường lối, chính sách, pháp luật
ngày càng hoàn thiện hơn, nhằm đáp ứng đúng nhu cầu, nguyện vọng của nhân
dân; đồng thời, đó là thước đo khẳng định tính đúng đắn của chủ trương, đường
lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước và HTCT cấp trên.
Cũng như tình hình cả nước, chức năng chủ yếu của HTCTCS tỉnh
Thanh Hóa là phát triển KT - XH, xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ
XHCN, bảo đảm quyền làm chủ thuộc về nhân dân, trấn áp mọi âm mưu, thủ
đoạn chống phá của các thế lực trên địa bàn; thực hiện sự nghiệp đổi mới, xây
dựng và bảo vệ tổ quốc XHCN. Hệ thống đó vận hành theo nguyên tắc: tổ
chức cơ sở đảng lãnh đạo, chính quyền cơ sở quản lý, nhân dân các dân tộc
anh em địa phương làm chủ. HTCTCS tỉnh Thanh Hóa có vai trò đặc biệt
quan trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân địa phương thực hiện
đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước và HTCT
cấp trên, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy quyền làm chủ
của nhân dân, huy động mọi nguồn lực phát triển KT - XH, tổ chức cuộc sống
của cộng đồng dân cư.
Hệ thống chính trị cơ sở tỉnh Thanh Hóa có đầy đủ đặc điểm và cấu trúc
của HTCTCS nói chung, song do đặc thù điều kiện tự nhiên, KT - XH có những
nét riêng biệt nên HTCTCS Thanh Hóa mang những đặc điểm nổi bật đó là:
Thứ nhất, hệ thống chính trị cơ sở tỉnh Thanh Hóa được tổ chức, hoạt
động trên địa bàn rộng lớn, phong phú, đa dạng.

Đây là đặc điểm đặc thù của HTCTCS tỉnh Thanh Hóa so với các địa
phương khác bởi Thanh Hóa là tỉnh có diện tích rộng lớn, sự đa dạng về địa
hình, có cả 3 vùng sinh thái: đồng bằng ven biển, trung du, miền núi. Khu vực
miền núi có 11 huyện, chiếm 2/3 diện tích tự nhiên, là khu vực có điều kiện

16


thuận lợi để phát triển các ngành nông - lâm nghiệp với các loại cây lâm sản
và các cây như đậu, chè, lạc, mía… Vùng đồng bằng của Thanh Hóa có diện
tích lớn nhất miền Trung và thứ ba của cả nước, có đầy đủ tính chất của một
đồng bằng châu thổ, là vùng tập trung dân số đông, có thế mạnh về nguồn
nhân lực và thuận lợi cho phát triển nông nghiệp. Vùng ven biển bao gồm 6
huyện, thị xã chạy dọc theo bờ biển gồm vùng sình lầy ở huyện Nga Sơn và
các cửa sông Hoạt, sông Mã, sông Yên và sông Bạng, là nơi thuận lợi cho
khai thác và nuôi trồng thủy - hải sản.
Địa hình của Thanh Hoá rất phong phú, đa dạng, là điều kiện để Thanh
Hoá phát triển các ngành nông - lâm - thủy sản toàn diện và cho phép chuyển
dịch cơ cấu dễ dàng trong nội bộ từng ngành. Nhiều cảnh quan đẹp kết hợp
giữa rừng - biển - đồng bằng là điều kiện để phát triển du lịch, dịch vụ. Độ
cao chênh lệch giữa các vùng miền núi, trung du, đồng bằng với nhiều hệ
thống sông suối, tạo ra tiềm năng thuỷ điện khá phong phú… Nhưng, với địa
hình rộng lớn, phong phú, đa dạng, đặc biệt là địa bàn miền núi tương đối
phức tạp, hiểm trở, dân cư thưa thớt, nhiều xã địa bàn rộng, cơ sở hạ tầng thấp
kém, giao thông đi lại khó khăn, nhiều xã vùng sâu, vùng xa, vùng cao miền
núi còn đặc biệt khó khăn, làm ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả hoạt động
của HTCTCS tỉnh Thanh Hóa.
Thứ hai, hệ thống chính trị cơ sở tỉnh Thanh Hóa chỉ đạo nền kinh tế có
cơ cấu đặc trưng cả nông - lâm - thủy sản, công nghiệp, dịch vụ và du lịch.
Với đặc điểm địa bàn rộng lớn, phong phú, đa dạng về điều kiện tự nhiên,

Tỉnh ủy và chính quyền tỉnh Thanh Hóa xác định cơ cấu kinh tế của địa
phương là nông - lâm - thủy sản, công nghiệp, dịch vụ và du lịch; coi sản xuất
nông nghiệp là ngành kinh tế trọng yếu, sản xuất thuỷ sản là thế mạnh và mũi
nhọn trong phát triển kinh tế của địa phương. Vì vậy, lĩnh vực nông nghiệp nông thôn ở tỉnh Thanh Hóa giữ vai trò trọng yếu trong phát triển KT - XH của
tỉnh. Đồng thời, để phát triển kinh tế một cách bền vững và có hiệu quả, tỉnh
quy hoạch vùng kinh tế của tỉnh thành vùng kinh tế nội địa, vùng kinh tế ven

17


biển và vùng kinh tế biển. Nông thôn ở Thanh Hóa nằm trong vùng kinh tế nội
địa của tỉnh, chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản.
Trong sản xuất nông nghiệp, toàn tỉnh đã chuyển đổi được 6.248 ha cây
trồng kém hiệu quả sang trồng các cây khác có hiệu quả và giá trị kinh tế cao
hơn. Hiện tổng sản lượng lương thực đạt 1,72 triệu tấn. Chăn nuôi ổn định,
tổng đàn có xu hướng tăng lên so với cùng kỳ [68, tr.2].
Bên cạnh đó, HTCTCS tỉnh Thanh Hóa đã quan tâm chỉ đạo phát triển
lâm nghiệp, thúc đẩy sản xuất công nghiệp và các ngành dịch vụ, du lịch. Từ
đó, đã đạt được những kết quả tích cực, như: giá trị sản xuất lâm nghiệp tăng
13,6%; giá trị sản xuất thủy sản tăng 6,2%; giá trị sản xuất công nghiệp tăng
9,9%; các ngành dịch vụ tăng 16%; hoạt động du lịch tăng 21,2% [68, tr.3].
Thứ ba, hệ thống chính trị cơ sở tỉnh Thanh Hóa quản lý và điều hành
bộ phận dân cư đa dạng, phân tán, dân số đông.
Thanh Hoá là tỉnh có số dân đông thứ ba trong cả nước, đông dân nhất so
với sáu tỉnh Bắc Trung Bộ, đồng thời là tỉnh có nhiều đơn vị hành chính nhất
cả nước. Đặc điểm hành chính thể hiện tiềm năng to lớn về mặt xã hội của
tỉnh, song cũng có không ít khó khăn, phức tạp cho việc quản lý KT - XH trên
địa bàn. Dân cư phân bố không đồng đều, chủ yếu tập trung đông ở thành
phố, thị xã, thị trấn ven biển, ven sông và thưa thớt ở các vùng núi. Những
nguyên nhân chính của sự phân bố dân cư không đồng đều phải kể đến sự

phân bố tài nguyên thiên nhiên, hệ thống các cơ sở KT - XH, hệ thống cơ sở
hạ tầng phục vụ đời sống và cả lịch sử cư trú.
Thanh Hóa là địa phương có nhiều thành phần dân tộc sinh sống, cơ bản
là dân cư tại chỗ, ít có dân di cư tự do từ các địa phương khác đến, trong đó
người Kinh chiếm tỷ lệ lớn nhất (84,4%), người Mường (8,7%), người Thái
(6%). Các dân tộc thiểu số khác như Mông, Dao, Tày, Sán Dìu, Hoa, Cao
Lan, Thổ... chiếm tỷ lệ không đáng kể (gần 1%). Tính đa dạng và phân tán về
thành phần cư dân là lợi thế cho sự phát triển văn hóa, du lịch, song sự khác
biệt về phong tục tập quán và các mối quan hệ dân tộc đa dạng, và điều đó

18


cũng đặt ra cho HTCTCS ở đây nhiều vấn đề khó khăn, phức tạp trong giải
quyết vấn đề dân tộc và thực hiện đại đoàn kết dân tộc cũng như sự phát triển
đồng đều giữa các vùng miền trong tỉnh. Bên cạnh đó, trình độ phát triển
không đồng đều giữa miền núi, đồng bằng và đô thị, giữa các thành phần dân
tộc; đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều thiếu
thốn, trình độ dân trí thấp, tỷ lệ nghèo đói ở mức cao, làm ảnh hưởng không
nhỏ đến kết quả hoạt động của HTCTCS tỉnh Thanh Hóa.
Thứ tư, hệ thống chính trị cơ sở tỉnh Thanh Hóa hoạt động trong điều
kiện chất lượng đội ngũ cán bộ cơ sở ngày càng được nâng lên cả về trình độ
văn hóa, trình độ lý luận và chuyên môn nghiệp vụ.
Những năm gần đây, với sự quan tâm của cấp ủy, chính quyền các cấp,
trình độ mọi mặt của đội ngũ cán bộ chủ trì xã, phường, thị trấn ở tỉnh Thanh
Hóa không ngừng được nâng lên. Hiện 100% Bí thư đảng uỷ xã, phường, thị
trấn đã tốt nghiệp trung học phổ thông, trong đó gần 10% có trình độ thạc sĩ,
64% có trình độ đại học, 21% có trình độ cao đẳng, 5% có trình độ trung học
chuyên nghiệp; 100% chủ tịch UBND xã, phường, thị trấn ở tỉnh Thanh Hóa đã
tốt nghiệp trung học phổ thông, có 89,14% có trình độ đại học, 5,04% có trình

độ cao đẳng, 5,82% có trình độ trung học chuyên nghiệp [phụ lục 13].
Tuy nhiên, chất lượng đội ngũ cán bộ HTCTCS tỉnh Thanh Hóa
không đồng đều giữa miền núi và đồng bằng, giữa nông thôn và đô thị.
Trình độ chung của đội ngũ cán bộ cơ sở khu vực miền núi còn thấp về
chất lượng, số lượng, cơ cấu tổ chức có nhiều mặt chưa ngang tầm với
nhiệm vụ. Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ trong HTCTCS tỉnh Thanh Hóa
còn những biến động nhất định, bởi đội ngũ này do nhân dân địa phương
trực tiếp bầu lên thông qua bầu cử, nếu trúng cử thì trở thành cán bộ, nếu
không thì họ lại trở về làm công dân bình thường. Mặt khác, quá trình
thực hiện quy định luân chuyển công tác đối với cán bộ chuyên trách,
công chức cấp xã, phường, thị trấn cũng đã tạo nên tính biến động trong
đội ngũ cán bộ cơ sở. Tính biến động này ảnh hưởng không nhỏ đến kết
quả thực hiện nhiệm vụ của HTCTCS.

19


Thứ năm, hệ thống chính trị cơ sở tỉnh Thanh Hóa hoạt động trong điều
kiện địa bàn còn tiềm ẩn những yếu tố phức tạp.
Thanh Hóa là tỉnh có địa bàn rộng lớn, đa dạng; có biên giới trên đất liền
và biên giới trên biển; đồng thời là địa phương có tính đa dạng về dân tộc, tôn
giáo, nên trên địa bàn tỉnh còn tiềm ẩn những phức tạp, ảnh hưởng đến hoạt
động của HTCTCS.
Thời gian gần đây, trên địa bàn các huyện miền núi Tây Thanh Hóa
tiếp tục xuất hiện những biểu hiệu liên quan đến hoạt động tuyên truyền,
lôi kéo thành lập “Nhà nước Mông” như: lưu truyền băng đĩa, nghe đài
phát thanh tiếng Mông từ Manila (Philippin) có nội dung tuyên truyền về
thành lập “Nhà nước Mông” và các luận điệu mê tín, dị đoan… Những
hoạt động này tập trung trên địa bàn các huyện vùng cao biên giới, vùng
đồng bào Mông sinh sống như Quan Hóa, Bá Thước, Quan Sơn. Kéo theo

đó là hoạt động buôn bán vũ khí và chất ma túy trái phép. Việc truyền và
học đạo trái pháp luật vẫn còn diễn biến phức tạp, các trưởng đạo (tự
phong) trong đồng bào dân tộc thiểu số (đồng bào Mông) tăng cường hoạt
động, thường xuyên đi đến địa bàn các huyện miền núi để tuyên truyền,
vận động, lôi kéo, thu nạp tín đồ, vận động quyên góp, tùy tiện xây cất
nhà nguyện, nhà thờ.
Bên cạnh đó, các thế lực thù địch còn triệt để khai thác những hạn chế trong
nhận thức, những khó khăn trong đời sống và tình trạng đói nghèo của nhân dân
vùng dân tộc thiểu số, vùng đồng bào có đạo trong tỉnh để tiến hành “diễn biến
hòa bình” nhằm gây mất đoàn kết, mâu thuẫn, xung đột giữa các dân tộc, tôn giáo;
nói xấu Đảng, chính quyền và cán bộ đảng viên, hòng tách quần chúng ra khỏi sự
lãnh đạo của Đảng, làm suy yếu bộ máy chính quyền cơ sở.
Như vậy, Thanh Hóa là một trong những tỉnh có vị trí chiến lược về
nhiều mặt ở Bắc Trung Bộ nước ta. HTCTCS tỉnh Thanh Hóa ngoài những
đặc điểm chung của HTCTCS cả nước, còn mang những đặc điểm đặc thù do
bối cảnh lịch sử, điều kiện tự nhiên và KT - XH chi phối.

20


* Quan niệm về xây dựng hệ thống chính trị cơ sở ở Thanh Hóa hiện nay
Từ những trình bày về HTCTCS và đặc điểm HTCTCS ở Thanh Hóa hiện
nay, trước yêu cầu và đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc XHCN, việc tăng cường, nâng cao chất lượng xây dựng HTCTCS ở Thanh
Hóa là nhiệm vụ thường xuyên và rất quan trọng. Theo đó, chúng ta có thể quan
niệm: Xây dựng hệ thống chính trị cơ sở ở tỉnh Thanh Hóa là tổng hòa các hoạt
động có mục đích của các tổ chức, các lực lượng và quần chúng nhân dân dưới
sự lãnh đạo của các tổ chức Đảng, sự điều hành của chính quyền địa phương,
tập trung hoàn thiện bộ máy, nội dung phương thức hoạt động, bồi dưỡng rèn
luyện đội ngũ cán bộ đảng viên, củng cố và tăng cường các mối quan hệ giữa

các thành tố của của HTCTCS nhằm đảm bảo nâng cao năng lực, hiệu lực của
HTCTCS vững mạnh, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, góp phần giữ
vững sự ổn định và phát triển trên địa bàn.
Xây dựng HTCTCS ở tỉnh Thanh Hóa là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước
và nhân dân, trong đó chủ thể trực tiếp là các tổ chức cơ sở đảng, chính quyền
cơ sở, các tổ chức CT - XH, nhân dân và các lực lượng đứng chân trên địa bàn
tỉnh mà BĐBP tỉnh Thanh Hóa là một lực lượng. Việc xây dựng HTCTCS ở
tỉnh Thanh Hóa hiện nay tập trung vào những nội dung cơ bản sau:
Củng cố, kiện toàn tổ chức, bộ máy của HTCTCS, trong đó tập trung xây
dựng, củng cố, kiện toàn các tổ chức cơ sở đảng, chính quyền và các tổ chức
CT - XH vững mạnh toàn diện.
Nâng cao chất lượng hoạt động của HTCTCS; xác định cơ chế, thể chế, đổi
mới nội dung, phương thức hoạt động của các tổ chức cơ sở đảng, chính quyền
và các tổ chức CT - XH.
Bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở, chăm lo công tác phát triển
đảng viên, phát hiện và bồi dưỡng tạo nguồn cán bộ tại chỗ cho địa phương.
Xây dựng cơ sở xã hội của HTCTCS, trọng tâm là xây dựng cộng đồng
dân cư, thôn, bản, khối phố. Đây vừa là cơ sở tồn tại của HTCTCS, vừa là mục
tiêu, đối tượng phục vụ của HTCTCS. Để xây dựng cơ sở xã hội của HTCTCS

21


cần tập trung vào những nội dung: Phát triển KT - XH, xóa đói giảm nghèo, an
sinh xã hội và giải quyết các vấn đề bức xúc ở địa phương; xây dựng cơ sở
chính trị - tinh thần trong nhân dân, thế trận lòng dân, niềm tin của nhân dân
đối với HTCTCS, phát huy quyền làm chủ của nhân dân; tuyên truyền vận
động nhân dân đấu tranh chống các âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch.
Xây dựng HTCTCS ở tỉnh Thanh Hóa phải tuân thủ một số yêu cầu sau:
Bám sát và thực hiện đúng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và

pháp luật của Nhà nước, bám sát tình hình đặc điểm địa bàn và thực trạng
HTCTCS trong tỉnh hiện nay.
Xây dựng HTCTCS phải đặt dưới sự lãnh đạo của cấp ủy, chính quyền
các cấp. Đây là nhiệm vụ chung của cấp ủy, chính quyền, đoàn thể các cấp và
các lực lượng đứng chân trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
Cần tăng cường phối hợp giữa các lực lượng đứng chân trên địa bàn với
cấp ủy, chính quyền địa phương; các cơ quan, ban, ngành và nhân dân địa
phương nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng trong tham gia
xây dựng HTCTCS.
1.1.2. Nội dung vai trò bộ đội Biên phòng tham gia xây dựng hệ thống
chính trị cơ sở ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay
* Đặc điểm của Bộ đội Biên phòng tỉnh Thanh Hóa
Về tổ chức, biên chế
Hiện nay, BĐBP tỉnh Thanh Hóa được tổ chức biên chế thành 1 Bộ
chỉ huy, gồm: 17 đồn biên phòng, 1 tiểu đoàn huấn luyện, 1 hải đội, 1 đội
công tác và các cơ quan trực thuộc Bộ chỉ huy; đặt dưới sự lãnh đạo của
Tỉnh uỷ, Đảng uỷ Bộ Tư lệnh BĐBP và trực tiếp là Đảng uỷ Biên phòng
Tỉnh. Đội ngũ cán bộ BĐBP tỉnh được đào tạo ở các nhà trường trong và
ngoài quân đội, có trình độ từ sơ cấp trở lên. Hạ sĩ quan, chiến sĩ của
BĐBP tỉnh Thanh Hóa được tuyển chọn từ các thanh niên ưu tú trong
cộng đồng dân cư tỉnh Thanh Hóa để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ biên giới
quốc gia mà Đảng, Nhà nước, Quân đội giao cho.

22


Trên cương vị công tác, từng cá nhân cán bộ, chiến sĩ BĐBP được tổ
chức, biên chế trong các đơn vị với những nhiệm vụ, chức trách, chuyên môn
khác nhau, song đây là lực lượng có vai trò quan trọng trong tham gia xây
dựng HTCTCS. Đồng thời, đây cũng là nguồn cán bộ cho lực lượng biên

phòng và HTCTCS tỉnh Thanh Hóa.
Về chức năng, nhiệm vụ của Bộ đội Biên phòng Thanh Hóa
Bộ đội Biên phòng nói chung và BĐBP Thanh Hóa nói riêng là lực
lượng vũ trang cách mạng của Đảng và Nhà nước, là một thành phần của
Quân đội nhân dân Việt Nam, được xác định có chức năng: “Làm nòng cốt,
chuyên trách quản lý, bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới quốc gia theo nhiệm
vụ quyền hạn được giao; đồng thời là lực lượng thành viên của các khu vực
phòng thủ tỉnh, huyện biên giới" [27, tr.2].
Sự nghiệp bảo vệ biên giới quốc gia là nhiệm vụ chung của toàn Đảng,
toàn dân, của các cấp, các ngành, các đoàn thể xã hội, trong đó BĐBP là lực
lượng trực tiếp, nòng cốt. Nghị quyết 11/NQ-TW ngày 08/8/1995 của Bộ
Chính trị đã chỉ rõ: “Nhiệm vụ biên phòng rất toàn diện và phức tạp, bao gồm
bảo vệ biên giới trên bộ, trên biển đảo, bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của
đất nước, bảo vệ an ninh trật tự xã hội, chống vượt biên trái phép, chống buôn
lậu qua biên giới, bảo vệ tài nguyên môi trường và lợi ích quốc gia” [27, tr.3].
Nhiệm vụ trọng tâm của BĐBP Thanh Hóa là bảo vệ vững chắc chủ quyền,
an ninh biên giới quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội trên địa bàn phụ trách,
phối hợp với các lực lượng khác sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi bảo
vệ Tổ quốc, giữ vững ổn định chính trị, quốc phòng, an ninh ở khu vực biên giới;
đồng thời, tuyên truyền vận động quần chúng nhân dân vùng biên giới, tăng
cường đoàn kết dân tộc, thực hiện các chủ trương và chương trình KT - XH của
Đảng và Nhà nước, tích cực xây dựng, củng cố cơ sở chính trị.
Nghị quyết số 24/NQ-ĐU, ngày 20/12/1998 của Đảng ủy Bộ Tư lệnh
BĐBP Về Bộ độ Biên phòng tham gia phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực
biên giới trong tình hình mới đã xác dịnh việc tham gia xây dựng, củng cố

23


HTCTCS, phát triển KT - XH ở khu vực biên giới là nhiệm vụ chính trị quan

trọng, thường xuyên, lâu dài của lực lượng BĐBP. Như vậy, tham gia xây
dựng HTCTCS là một trong những nhiệm vụ của BĐBP Thanh Hóa.
* Quan niệm về vai trò Bộ đội Biên phòng Thanh Hóa tham gia xây
dựng hệ thống chính trị cơ sở
Theo Từ điển bách khoa Việt Nam: “Vai trò là chức năng, tác dụng của
cái gì hoặc của ai, trong sự vận động của nhóm, của tập thể nói chung” [65,
tr.653]. Theo đó, với chức năng, nhiệm vụ của mình, BĐBP Thanh Hóa cũng
như các tổ chức CT - XH, các lực lượng khác đều có vai trò nhất định trong
thực hiện các nhiệm vụ chính trị ở địa phương và trong xây dựng HTCTCS
trên địa bàn. Trên cơ sở đó, chúng ta có thể quan niệm:
Vai trò BĐBP tham gia xây dựng HTCTCS ở tỉnh Thanh Hóa là chức
năng, tác dụng của BĐBP trên địa bàn tỉnh cùng với các lực lượng khác, thực
hiện củng cố, kiện toàn và nâng cao năng lực hoạt động của HTCTCS, làm
cho HTCTCS vững mạnh về mọi mặt, góp phần vào sự phát triển toàn diện và
vững chắc của địa phương.
Như chúng ta đã biết, mỗi tổ chức, lực lượng có vị trí, vai trò và nhiệm
vụ khác nhau trong xây dựng HTCTCS. Việc xác định đúng vị trí, nhiệm vụ
của từng chủ thể có ý nghĩa rất quan trọng, nhằm phát huy tốt vai trò trong
thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng HTCTCS.
Bộ đội Biên phòng Thanh Hóa là lực lượng quan trọng tham gia xây
dựng HTCTCS theo chức năng, nhiệm vụ, đặt dưới sự lãnh đạo chỉ đạo của
cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương trong tỉnh, của Bộ Tư lệnh BĐBP, Bộ
Quốc phòng. Việc phát huy tốt vai trò đó của BĐBP tỉnh là trách nhiệm của
các cấp ủy, chỉ huy, các tổ chức trong Bộ chỉ huy BĐBP Thanh Hóa.
Xây dựng HTCTCS ở tỉnh Thanh Hóa là trách nhiệm của Đảng, Nhà
nước, toàn quân và toàn dân, trước hết là trách nhiệm của đảng bộ, chính
quyền, quân và nhân dân các dân tộc tỉnh Thanh Hóa, trong đó BĐBP có vai
trò rất quan trọng. Vai trò đó được biểu hiện trên những điểm chính sau:

24



Một là, tham mưu, đề xuất kiện toàn, củng cố các tổ chức đảng, tổ chức chính
quyền, các tổ chức chính trị - xã hội cho cấp ủy đảng, chính quyền địa phương.
Đây là nội dung cơ bản, có tính chất then chốt thể hiện vai trò tham gia
xây dựng HTCTCS ở tỉnh Thanh Hóa của BĐBP. Vai trò tham mưu xây dựng
các tổ chức đảng, chính quyền, các tổ chức CT - XH của BĐBP Thanh Hóa
thể hiện rất cụ thể và đa dạng trong hoạt động của từng đơn vị, trên từng địa
bàn. Tuy nhiên, có những nội dung mang tính chất chung nhất mà các đơn vị
BĐBP Thanh Hóa tập trung làm:
Tham mưu, đề xuất với cấp ủy địa phương thường xuyên quan tâm chăm
lo kiện toàn các tổ chức đảng ở các thôn, bản, bảo đảm cho thôn, bản nào
trong địa bàn cũng có chi bộ hoặc tổ đảng; đề xuất nội dung lãnh đạo, cải tiến
phương pháp sinh hoạt, tham gia giúp cấp ủy, chi bộ, đảng bộ cơ sở nâng cao
hiệu quả phổ biến, quán triệt nghị quyết cho nhân dân.
Tham mưu cho Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân định hướng phát
triển KT - XH phù hợp với quy hoạch, định hướng của trên và thực hiện đúng
chức năng quản lý nhà nước tại địa phương; nghiên cứu đề xuất kế hoạch phát
triển cơ sở hạ tầng một cách hợp lý, nhằm phục vụ đời sống của nhân dân;
đồng thời tạo điều kiện để chính quyền nắm chắc và gắn bó với nhân dân.
Tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền địa phương củng cố kiện toàn Mặt
trận Tổ quốc, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến
binh... Giúp đỡ các tổ chức này xây dựng nội dung, hình thức hoạt động phong
phú, thiết thực, hấp dẫn để tập hợp, giáo dục quần chúng nhân dân.
Hai là, trực tiếp tham gia xây dựng, củng cố, kiện toàn hệ thống chính trị
cơ sở vững mạnh; tích cực tuyên truyền vận động nhân dân, xây dựng lòng tin
của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị cơ sở.
Trực tiếp tham gia xây dựng, củng cố, kiện toàn HTCTCS.
Bộ đội Biên phòng phối hợp với cấp ủy địa phương, kiện toàn tổ chức
đảng cơ sở, làm cho Đảng bộ cấp cơ sở vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng

và tổ chức; chăm lo xây dựng và nâng cao năng lực tổ chức, quản lý, lãnh đạo
của cán bộ chủ chốt, quan tâm củng cố cơ sở Đảng từ chi bộ đến đảng bộ.

25


×