Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

KHÔNG GIAN văn hóa TRONG đoạn TRÍCH đất nước của NGUYỄN KHOA điềm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.62 KB, 10 trang )

KHÔNG GIAN VĂN HÓA TRONG ĐOẠN TRÍCH ĐẤT NƯỚC CỦA
NGUYỄN KHOA ĐIỀM
(Trương Thị Như Huệ - Lớp Cao học Văn học Việt Nam K19)
I. MỞ ĐẦU
Ngay từ thuở còn thơ, tôi đã có những giấc ngủ say nồng trong lời ru ầu ơ của
mẹ, biết thích thú khi nghe giọng kể đều đều, ấm áp của bà qua mô típ ngày xửa,
ngày xưa với những lời hát ru ngọt ngào, da diết. Và chính những câu chuyện cổ tích
thần tiên ấy đã khơi dậy trong tôi bao ước mơ ngọt ngào, say đắm. Giờ đây, tôi đã
đến nhiều nơi, tiếp xúc với nhiều người và khi trở thành người giáo viên giảng dạy
Ngữ Văn tiếp cận với những tác phẩm văn học dân gian, tôi mới thấm thía hết những
ý nghĩa của nó.
Đoạn trích Đất Nước (Trích chương V từ Trường ca Mặt đường khát vọng –
SGK Ngữ văn 12-Tập 1- NXB Giáo dục Hà Nội) của Nguyễn Khoa Điềm chứa đựng
không gian văn hóa dân gian lại một lần nữa dẫy lên trong lòng tôi tình yêu tha thiết
đối với điệu hồn dân tộc. Vì lẽ đó, Khúc giao hưởng, dòng sông, cái nhìn huyền thoại
là con đường đến với đất nước tình yêu trong thơ Nguyễn Khoa Điềm ở cả chương V
nói riêng và Mặt đường khát vọng nói chung. Cái bề thế của một nền văn hiến bốn
nghìn năm mà nhà thơ tiếp nhận được đã biến thành một dòng chảy tâm hồn. Dòng
chảy ấy có tiếng róc rách của con suối khởi nguyên, có xôn xao của một dòng sông,
có cả cái ào ạt của những con sóng biển dâng trào… (Lê Bảo - Tác phẩm văn
chương trong trường phổ thông, những con đường khám phá).
Khúc giao hưởng ấy, vẫn mãi ngân nga trong tâm hồn người đọc như mạch
nước ngầm thấm sâu vào từng kẽ đất bởi vẻ đẹp muôn màu của không gian văn hóa
đất nước.
II. NỘI DUNG

1


Đất Nước mang tính trữ tình - chính luận vừa dồi dào cảm xúc, vừa sâu lắng,
suy tư. Chương V cũng tạo ra được một giọng điệu, một không gian nghệ thuật riêng


đầy màu sắc sử thi, có tác dụng đưa người đọc vào một thế giới hấp dẫn bởi những
phong tục tập quán, những mĩ tục thuần phong vừa đậm đà tính dân tộc, lại vừa rất
mới mẻ và hiện đại trong cách cảm nhận, cũng như trong hình thức thể hiện bằng thể
thơ tự do tuôn chảy tự nhiên như hơi thở của cuộc sống đang thuận buồm xuôi gió
vậy. Nguyễn Khoa Điềm đã nhìn thấu suốt chiều dài của lịch sử văn hoá dân tộc,
mượn vẻ đẹp đa dạng của nó ở chiều sâu và bề dày để tắm lên lời thơ của mình
những hình ảnh duyên dáng, mượt mà.
1. Không gian của lịch sử văn hoá bốn ngàn năm
Không gian của Đất Nước không thông qua những sử liệu, những khái niệm
khô khan, trừu tượng mà được dệt bằng những điều thật cụ thể, thân thuộc, bình dị:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa”… mẹ thường hay kể.
Đó là niềm tự hào về bề dày lịch sử mà không phải đất nước nào cũng có được. Nhà
thơ nói về ngày khai sinh ra Đất Nước theo huyền thoại, gắn với những câu chuyện
cổ tích hấp dẫn, sinh động:
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Đất Nước lớn lên cùng với truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm của cha ông
ta. Theo Nguyễn Khoa Điềm, Đất Nước cũng như một thực thể sống có quá trình sinh
ra và lớn lên. Sinh ra từ những điều giản dị, thân quen; lớn lên bằng tinh thần quật
cường mạnh mẽ để sinh tồn và trưởng thành. Trong Thời gian đằng đẵng ấy là lịch sử
nối tiếp của biết bao thế hệ cha anh:
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
2


Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hằng năm ăn đâu làm đâu

Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ.
Thế hệ đi trước có trách nhiệm truyền lại cho thế hệ sau ngọn lửa tinh thần, đặc biệt
phải cùng nhau biết hướng đến nguồn cội bằng lòng biết ơn và thành kính sâu sắc.
Khi nhắc đến ngày giỗTổ là nhắc đến cội nguồn và trách nhiệm của biết bao thế hệ,
giọng thơ bỗng trở nên trang nghiêm, tha thiết. Đó là bà, cha mẹ, anh em… lớp lớp
người nối tiếp nhau. Cho nên, đất nước luôn tiềm tàng mối quan hệ máu thịt giữa các
thế hệ quá khứ, hiện tại và tương lai. Tất cả đoàn kết thành một khối cùng vun đắp và
phát triển cho Đất Nước vẹn tròn, to lớn.
2. Không gian văn hoá mênh mông
Văn hoá của một dân tộc thể hiện rõ nét ở phong tục tập quán, lối sống và nếp
sinh hoạt của người dân. Nguyễn Khoa Điềm đã không quên khai thác phương diện
này để xây dựng những hình ảnh thơ và những chi tiết nghệ thuật đặc sắc, giàu ý
nghĩa:
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Hay: Tóc mẹ thì bới sau đầu
Và:

Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng

Không gian văn hoá của đất nước không ở đâu xa lạ mà có ngay trong bản thân đời
sống nhân dân, từ cái kèo, cái cột, từ những vật dụng đơn sơ tạo nên cuộc sống, từ cả
chỗ đất làm nhà, trồng lúa, trồng tre…Tất cả những sự vật thân quen, bình dị ấy, cùng
với những phong tục tập quán của nhân dân như ăn trầu, trồng tre, búi tóc sau đầu…
đều làm nên khuôn mặt dân tộc - một dân tộc sống trong lam lũ nhưng người với
người sống để yêu nhau chan chứa nghĩa tình đằm thắm, keo sơn. Đặc biệt, miếng
trầu trở thành biểu tượng rất quen thuộc. Trong ca dao, trầu cau là biểu tượng của đôi
trai gái yêu nhau, biểu tượng của tình yêu, của sự gắn bó lứa đôi bền chặt. Trầu - cau
3



trở thành biểu tượng cho sự gắn bó, hòa hợp nồng thắm. Chất cay thơm của lá trầu
cộng với chất chát của miếng cau và độ nồng của vôi tạo nên một thứ “Hạnh phúc
màu đỏ”. Một miếng trầu trao nhau tạo nên nghĩa, nên tình:
Miếng trầu ăn kết làm đôi
Lá trầu là vợ, cau tươi là chồng
Trầu xanh, cau trắng, cay nồng
Vôi pha với nghĩa, thuốc nồng với duyên.
Trầu cau cũng là biểu tượng cho tình nghĩa con người Việt Nam. Trong tình yêu, tình
nghĩa này biểu hiện ở lòng chung thủy, ở ước mơ đôi lứa được sống trăm năm. Tình
yêu trong ca dao luôn hướng về hôn nhân, hướng về tình nghĩa vững bền. Nó thể hiện
một quan niệm rất đúng đắn của con người bình dân trước vấn đề luyến ái. Miếng
trầu gắn chặt với phong tục, tập quán, miếng trầu biểu trưng cho tính cách con người
Việt Nam thủy chung, nhân nghĩa. Miếng trầu đã góp phần làm giàu thêm cho bản
sắc văn hóa của đất nước.
Đất nước còn gắn với không gian huy hoàng, tráng lệ:
Đất là nơi “ con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
Chim phượng hoàng, cá ngư ông còn là những biểu tượng về đất nước trong ca dao:
Con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc
Con cá ngư ông móng nước biển khơi
Những câu ca dao miền Trung giản dị như người dân quê lam lũ mà nặng tình nơi
đây đã giúp nhà thơ cụ thể hoá một cách thật sinh động hình tượng đất nước. Nó gợi
được không gian quá khứ xa xăm và lấp lánh sắc màu huyền thoại khiến cho hình
tượng đất nước càng trở nên thiêng liêng, cao đẹp. Mặt khác, hai hình ảnh chim
phượng hoàng, cá ngư ông còn gợi lên một niềm tin, một khát vọng về chủ quyền đất
nước. Cảm nhận được điều này, Nguyễn Khoa Điềm đã vận dụng bài ca dao ấy vào
trong thơ mình và nâng nó lên một tầm giá trị mới: Đất nước Việt Nam không chỉ là
4



một đất nước thiêng liêng mà còn là một đất nước giàu đẹp với những sản vật quý
hiếm. Tác giả đã dùng biện pháp điệp ngữ và sử dụng kiểu câu khẳng định Đất là
nơi..., Nước là nơi... như để khẳng định một lần nữa đất nước Việt Nam là một đất
nước có chủ quyền, có độc lập dân tộc, dân chủ. Đất nước ấy không thể bị chia cắt,
không thể chịu sự cai trị của kẻ ngoại bang.
3. Không gian riêng tư của tình yêu đôi lứa
Màu sắc văn hoá dân gian còn tắm lên không gian riêng tư của tình yêu đôi lứa
đầy thi vị và nên thơ:
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Tác giả đã dùng biện pháp tách từ rồi ghép từ để định nghĩa, giảng giải về khái niệm
Đất Nước. Một định nghĩa không khô khan mà giàu liên tưởng đem đến bao nhiêu
điều bất ngờ thú vị. Không gian đất nước thật cụ thể, thân thương, gắn với mỗi con
người và những sinh hoạt trong đời sống, là nơi anh đến trường, là nơi em tắm, là
không gian tuyệt diệu của tình yêu đôi lứa. Đất mở ra cho anh một chân trời kiến
thức, nước gột rửa tâm hồn em trong sáng, dịu hiền. Cùng với thời gian lớn lên, đất
nước trở thành nơi anh và em hò hẹn. Không những thế, đất nước còn là người bạn
chia sẻ những tình cảm nhớ mong của người đang yêu. Cách sử dụng từ ngữ thật
khéo léo của nhà thơ đã gợi lên sự hài hoà, nồng thắm của anh và em, của đất nước
mình. Đất nước là hình ảnh thân quen nhất:
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm.
Tình yêu đôi lứa qua sự chờ đợi cũng là một yếu tố tạo thành đất nước. Hình ảnh
chiếc khăn trong câu thơ chính là nhà thơ đã chắt lọc ra từ nhiều bài ca dao khác
nhau:
Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
5



Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai...
Khi muốn tránh sự sỗ sàng, nhân dân thường gởi tâm sự vào những vật xung quanh,
tránh nói đến cái “tôi” của mình. Ở đây, để biểu lộ sự nhớ nhung da diết đến người
yêu của cô gái, nhân dân đã dùng hình tượng đằm thắm của chiếc khăn để rồi nhân
cách hóa nó như một con người thực thụ. Khăn cũng biết thương yêu nên khăn rơi
xuống đất, khăn biết nhớ nên khăn vắt lên vai, khăn biết bùi ngùi, đau khổ khi xa
vắng bạn tình nên khăn chùi nước mắt... Nỗi nhớ ở đây không chỉ lắng đọng mà cồn
cào, bần thần, không chỉ là lặng lẽ mà còn ồ ạt, dữ dội... Tất cả nỗi sầu tư ấy gói gọn
trong chiếc khăn được nhân cách hóa lên thành một vật có linh hồn, rung động như
nhịp trái tim thổn thức của người đang ưu tư, sầu cảm. Điều này cũng được thể hiện
trong những câu ca dao như:
Em về anh mượn khăn tay
Gói câu tình nghĩa lâu ngày sợ quên
Hay:
Nhớ khi khăn mở trầu trao
Miệng chỉ cười nụ biết bao nhiêu tình
Nguyễn Khoa Điềm đã bắt trúng mạch và nắm đúng hồn của bài ca dao Khăn
thương nhớ ai để rút ra hai chữ Nhớ thầm. Do đó, mặc dù ngắn gọn nhưng ý thơ rất
tinh tế. Bài ca dao Khăn thương nhớ ai đã vượt được chặng đường thời gian, hóa thân
vào trong câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm để đến với chúng ta trong ngày hôm nay
khi con người vẫn đang rất cần tình yêu, cần nỗi thương nhớ ngọt ngào và sâu lắng
như thế! Chính đất nước là nơi khắc ghi những kỷ niệm mơ mộng tuyệt vời ấy!
Hãy lắng tâm hồn mình lại đọc câu thơ sau của Nguyễn Khoa Điềm:
Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi
Ta thấy thấp thoáng bóng dáng câu ca dao:
Yêu em từ thuở trong nôi
6



Em nằm em khóc, anh ngồi anh ru
Từ đó, ta càng thấm thía cái nghĩa tình sâu sắc ẩn giấu đằng sau những câu ca dao
kia. Con người Việt Nam ta là vậy, từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ đời này sang
đời khác đã truyền lại cho nhau, đã “dạy” con, “dạy” cháu biết mở rộng vòng tay
yêu thương đối với mọi người dù đó chỉ mới là em bé nằm trong nôi. Chính điều đó
đã làm nên truyền thống nhân văn bền vững và dày lên theo năm tháng của dân tộc
Việt Nam ta. Nguyễn Khoa Điềm như khẳng định lại một lần nữa đất nước Việt Nam,
đất nước của truyền thống nhân văn cao cả.
4. Không gian sinh tồn của dân tộc
Đất nước còn tồn tại trong không gian sinh tồn của cả dân tộc:
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
Nhắc đến Lạc Long Quân và Âu Cơ, nhắc đến giỗ Tổ Hùng Vương, tác giả
muốn nhắc nhở mọi người nhớ về cội nguồn văn hoá của dân tộc. Dù bôn ba ở tận
chốn nào, người Việt Nam cũng hướng về đất Tổ, nhớ đến dòng giống Rồng Tiên của
mình. Đất nước Việt Nam còn là đất nước có truyền thống Uống nước nhớ nguồn.
Nguyễn Khoa Điềm cảm nhận đất nước qua độ dài vô tận của thời gian đằng đẵng,
không gian mênh mông và không gian không chỉ có chiều rộng mà điều quan trọng
trên nền thời gian ấy đã có biết bao nhiêu biến thiên lịch sử vừa chân thật, vừa phảng
phất chất huyền thoại. Không gian vừa là núi cao, sông rộng lại vừa là nơi sinh sống
của bao nhiêu người Việt Nam từ thế hệ này qua thế hệ khác chim có tổ, người có
tông ( tục ngữ). Nguyễn Khoa Điềm viết :
Đất nước là nơi dân mình đoàn tụ
Đất nước Việt Nam là nơi đất thiêng, là bình địa yên lành, nhân hậu để cho sự cao
quý thanh khiết hội tụ: Đất là nơi chim về phải chăng là một lời giải thích cho câu tục
7



ngữ Đất lành chim đậu?. Tuy ngắn gọn những câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm rất
súc tích, hàm chứa những ý tưởng lớn lao. Chứng tỏ, tác giả vận dụng vốn hiểu biết
văn hóa dân gian rất linh hoạt và sáng tạo.
5. Không gian địa lí gắn với vẻ đẹp của danh lam thắng cảnh
Cái nhìn mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm về gương mặt đất nước qua những
miền không gian địa lí, những danh lam thắng cảnh:
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mười chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con Rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho đất nước mình núi Bút, non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Dày đặc các từ ngữ chỉ địa danh trải dài theo bản đồ cong cong hình chữ S để tạo nên
tấm bản đồ văn hoá. Thế nhưng, nhà thơ đã không dùng phép liệt kê đơn thuần của
một nhà địa lí, bởi thấp thoáng trên những không gian ấy là những huyền thoại,
truyền thuyết biểu hiện cho tính cách Việt, tâm hồn Việt. Từ rất lâu, ông cha ta đã kể
những câu chuyện, những sự tích về núi Vọng Phu, hòn Trống Mái…để cảm nhận
hình ảnh thiên nhiên hay cùng chính là để gửi gắm, kí thác tâm hồn mình. Vì vậy, ta
còn thấy trên mỗi ngọn núi, dòng sông đều có sự hoá thân của một nét đẹp tính cách
dân tộc, một lẽ sống của con người Việt Nam. Có thể nói, chính những con người
bình dị, những sự vật nhỏ bé bình thường ấy đã làm nên vẻ đẹp của bức chân dung
tâm hồn dân tộc, làm nên chiều sâu văn hoá và sức sống bất tử của đất nước xinh đẹp
này.
III. KẾT LUẬN

8



1. Cuộc sống cứ mãi trôi đi và tất cả đều trở thành dĩ vãng dưới lớp bụi của thời gian,
những gì là nghệ thuật đích thực thì vẫn bất tử cùng năm tháng. Hàng ngàn năm trôi
qua, văn hóa dân gian vẫn luôn tồn tại, phát triển và biểu hiện dưới nhiều hình thức
khác nhau. Đặc biệt, kho tàng phong phú ấy đã được các nhà thơ vận dụng để đưa
vào sáng tác của mình, làm cho không gian nghệ thuật trong tác phẩm của họ thấm
đượm chất dân gian.
2. Ta có thể hình dung toàn bộ chương “Đất Nước” như một sợi dây: đất nước trường
tồn trong chiều dài thời gian, trong chiều rộng không gian, trong phong tục tập quán,
trong tâm hồn và tính cách người Việt. Bằng sợi dây dẻo dai ấy, những hạt cườm trữ
tình óng ánh, lung linh được xâu thành chuỗi cườm Đất Nước muôn đời. Chuỗi cườm
ấy chính là màu sắc văn hoá dân gian, hồn dân tộc sẽ là sức sống bất diệt của trường
ca vì những giá trị tinh thần sẽ tồn tại bất biến, vĩnh cửu. Bởi vậy, thế giới nghệ thuật
của “Đất Nước” có sự thống nhất giữa vẻ đẹp cổ điển văn hoá dân gian với cách cảm
nhận mới mẻ, hiện đại của con người hôm nay. Có thể nói, đây là nét thẩm mĩ đặc sắc
nhất của tác phẩm này. Nó làm cho tư tưởng Đất Nước của nhân dân đi vào lòng bạn
đọc một cách thấm thía.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Aristote (1999), Nghệ thuật thi ca, NXB Văn học
2. M. Bakhtin (1987)- Những vấn đề thi pháp Đôxtôiepxki (Trần Đình Sử dịch),
NXB Giáo dục.
3. Nguyễn Thị Bình (2007) Văn xuôi Việt Nam 1975 – 1995 những đổi mới cơ bản,
NXB Giáo dục.
4. Hà Minh Đức chủ biên (1993) Lí luận văn học, NXB Giáo dục.
5. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên (1992) Từ điển thuật ngữ
văn học, NXB Giáo dục.

9



Trương Thị Như Huệ
Học viên Cao học K19 – Lớp Văn học Việt Nam
Email:
Số điện thoại: 0984628442

10



×