Tải bản đầy đủ (.pdf) (59 trang)

Nhìn lại chặng đường đấu tranh chống pháp của nhân dân quảng bình cuối thế kỉ XIX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.44 MB, 59 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH

BÙI THỊ HƯƠNG

NHÌN LẠI CHẶNG ĐƯỜNG ĐẤU TRANH
CHỐNG PHÁP CỦA NHÂN DÂN QUẢNG BÌNH
CUỐI THẾ KỈ XIX
Chuyên ngành: LỊCH SỬ VIỆT NAM
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Người hướng dẫn khoa học
TS. NGUYỄN THẾ HOÀN

ĐỒNG HỚI, Năm 2016

i


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng
tôi, các số liệu và kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là
trung thực, được các đồng tác giả cho phép sử dụng và chưa
từng được cơng bố trong bất kỳ một cơng trình nào khác.

Tác giả
Bùi Thị Hương

ii


Luận văn này là kết quả của một quá trình học tập


và nghiên cứu của tơi, được hồn thành nhờ nỗ lực của
bản thân và sự giúp đỡ, động viên của q thầy cơ, gia
đình bà bạn bè.
Với lịng biết ơn sâu sắc, xin bày tỏ lòng chân thành
cảm ơn đến thầy giáo TS. Nguyễn Thế Hoàn người đã trực tiếp
hướng dẫn khoa học, định hướng nghiên cứu cho tôi trong q
trình thực hiện và hồn thành luận văn này.
Tơi xin trân trọng cảm ơn quý thầy cô trong khoa
Khoa học Xã hội đã trực tiếp giảng dạy tôi trong thời
gian qua. Các thầy cô đã truyền dạy cho tôi nhiều kiến
thức và phương pháp tư duy khoa học.
Trong quá trình hồn thành luận văn, tơi ln nhận
được sự tạo điều kiện, động viên, cổ vũ của quý thầy cô ở
khoa đặc biệt là quý thầy cô giảng dạy chuyên môn lịch sử.
Tôi xin ghi nhận sự giúp đỡ quý báu đó với lịng biết ơn sâu
sắc.
Tơi xin trân trọng cảm ơn thư viện trường Đại học
Quảng Bình, thư viện Tổng hợp Quảng Bình đã giúp đỡ, tạo
điều kiện cho tơi hồn thành luận văn này.
Cuối cùng, xin được bày tỏ lịng biết ơn đến gia
đình, bạn bè đã ln ở bên, động viên tôi trên bước
đường học tập và nghiên cứu.
Tác giả
Bùi Thị Hương

iii


MỤC LỤC
Trang

TRANG PHỤ BÌA ...................................................................................................... i
LỜI CAM ĐOAN ......................................................................................................ii
LỜI CẢM ƠN .......................................................................................................... iii
MỤC LỤC ..................................................................................................................1
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................3
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................3
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ...................................................................................3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................................4
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................................5
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ..................................................5
6. Đóng góp của luận văn ........................................................................................5
7. Bố cục của đề tài..................................................................................................6
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ XÃ - HỘI
................................................................................... Error! Bookmark not defined.
1.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên ........................................................................7
1.1.1. Vị trí địa lý .................................................................................................7
1.1.2. Điều kiện tự nhiên......................................................................................8
1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội .................................................................................9
1.2.1. Điều kiện kinh tế ......................................................................................10
1.2.2. Đời sống xã hội………………………………………………………………..15

Chương 2: QUẢNG BÌNH TRONG BỐI CẢNH LỊCH SỬ THẾ KỶ XIX ....18
2.1. Bối cảnh của Việt Nam trước khi Pháp xâm lược và thái độ của nhà Nguyễn
…………………………………………………………………………………...18
2.2 Địa bàn Quảng Bình trong buổi đầu phong trào Cần Vương bùng nổ. .........23
Chương 3: NHÂN DÂN QUẢNG BÌNH CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM
LƯỢC CUỐI THẾ KỈ XIX ....................................................................................26
3.1. Nhân dân Quảng Bình chống thực dân pháp xâm lược từ năm 1858 đến năm
1885 .......................................................................................................................26
3.2. Diễn biến cuộc đấu tranh chống Pháp của nhân dân Quảng Bình từ 1858 đến

1896………………………………………………………………………………………..29

3.2.1.Những thắng lợi đầu tiên .........................................................................29
1


3.2.2. Nhân dân Quảng Bình ra sức bảo vệ vua Hàm Nghi ...............................33
3.2.3. Phong trào Cần Vương ở Quảng Bình sau khi Nguyễn Phạm Tuân bị bắt
...............................................................................................................……………35
3.2.4. Phong trào Cần Vương ở Quảng Bình tạm thời lắng xuống sau khi vua
Hàm Nghi bị bắt ....................................................................................................38
3.3. Đặc điểm,kết quả,ý nghĩa ...........................................................................41
3.3.1. Đặc điểm ..................................................................................................41
3.3.2. Kết quả ýnghĩa ……………………………… ……………………………….44

C. KẾT LUẬN ..........................................................................................................47
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................49
PHỤ LỤC

2


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Vốn được định hình trên dãi đất miền Trung của tổ quốc, Quảng Bình được
xem là khúc ruột miền Trung. Cùng với của cả nước, nhân dân Quảng Bình từ trong
q khứ đã tích cực cùng nhân dân cả nước đứng lên đấu tranh bảo vệ quê hương
xóm làng, bảo vệ đất nước và từ đó đúc kết thành một truyền thống yêu nước hào
hùng.
Quảng Bình có lịch sử hình thành và phát triển với nhiều biến động, thăng

trầm. Quảng Bình thường là nơi xung đột của các thế lực. Chính vì thế phong trào
chống ngoại xâm ở đây phát triển rất mạnh mẽ. Và thường là trung tâm của các
phong trào đấu tranh. Đặc biệt là trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp xâm
lược thế kỷ XIX.
Có thể nói rằng, trong suốt chặng đường lịch sử chống ngoại xâm ấy, Quảng
Bình ln là mảnh đất phải gánh chịu nhiều đau thương mất mát. Và người dân
Quảng Bình được cả nước biết đến với những đức tính chịu thương, chịu khó, cần
cù, thơng minh, sáng tạo trong lao động sản xuất, anh dũng kiên cường, bất khuất
trong đấu tranh chống ngoại xâm.
Vì vậy, việc tìm hiểu và nghiên cứu vấn đề là việc làm có ý nghĩa khoa học và
có giá trị thực tiễn sâu sắc.
Từ việc nghiên cứu vấn đề rút ra những bài học kinh nghiệm phục vụ cho sự
nghiệp xây dựng và phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay.
Vì những lý do trên, tơi chọn vấn đề “Nhìn lại chặng đường đấu tranh chống
Pháp của nhân dân Quảng Bình cuối thế kỉ XIX” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Cho đến nay, vấn đề kháng chiến chống ngoại xâm của nhân dân Quảng Bình
đã được các nhà nghiên cứu đề cập dưới nhiều góc độ khác nhau. Có thể thống kê
một số tài liệu sau:
Cơng trình, “Lịch sử Đảng bộ Quảng Bình”, xuất bản năm 1995, đã trình bày về
lịch sử đấu tranh của Đảng bộ và nhân dân Quảng Bình từ khi có Đảng cộng sản
Việt Nam ra đời cho đến về sau.

3


Tác giả Nguyễn Thế Hoàn và Lê Thúy Mùi trong cơng trình “Lịch sử Quảng
Bình” (Nhà xuất bản Đại học sư phạm năm 2007), đã trình bày một cách khái quát
về lịch sử Quảng Bình từ buổi đầu dựng nước cho đến những năm kháng chiến
chống Mĩ cứu nước.

Bên cạnh đó, “Lịch sử Đảng bộ” của các huyện như : Bố Trạch; Quảng Trạch;
Tuyên Hóa; Minh Hóa; Quảng Ninh; Lệ Thủy cũng đã nghiên cứu rất kĩ về lịch sử
Đảng bộ của từng huyện trong thời kì cận hiện đại.
Tác giả Nguyễn Thị Ánh Minh, trường Đại học Đà Lạt với đề tài luận văn
“Phong trào Cần Vương ở Quảng Bình” (2007), luận văn đã trình bày khá đầy đủ
về quá trình đứng lên đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân Quảng
Bình dưới ngọn cờ Cần Vương.
Bài viết “Về cuộc kháng chiến kiên cường và anh dũng của nhân dân Quảng
Bình ở cuối thế kỉ XIX” đăng trên Tạp chí nghiên cứu lịch sử, số 106 - 1968, của tác
giả Đặng Huy Vận đã trình bày về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân
dân Quảng Bình từ khi vua Hàm Nghi xuất bơn ra Quảng Bình ban chiếu Cần
Vương kêu gọi nhân dân đứng lên đánh Pháp đến khi vua Hàm Nghi bị bắt. Bài viết
làm nổi bật lên tinh thần đấu tranh quật cường của nhân dân Quảng Bình dưới ngọn
cờ Cần Vương của vua Hàm Nghi.
Khóa luận “ Phong trào Cần Vương ở Quảng Bình” của tác giả Lê Trọng Đại,
đã trình bày quá trình đấu tranh của nhân dân Quảng Bình cuối thế kỷ XIX.
Qua các cơng trình nghiên cứu trên chúng ta có thể thấy rằng các cơng trình
chỉ trình bày một cách khái quát vấn đề chống ngoại xâm của nhân dân Quảng Bình
trong dịng chảy của lich sử dân tộc . Tuy nhiên, các cơng trình nghiên cứu nêu trên
là nguồn tài liệu vô cùng quý giá nhằm giúp cho tác giả hoàn thiện từng vấn đề đặt
ra cho đề tài.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
+ Đối tượng nghiên cứu của đề tài là “Nhìn lại chặng đường đấu tranh chống
Pháp của nhân dân Quảng Bình cuối thế kỉ XIX”.
+ Phạm vi nghiên cứu:
- Về không gian: Luận văn tập trung đi sâu nghiên cứu cuộc kháng chiến
chống Pháp của nhân dân Quảng Bình cuối thế kỷ XIX.

4



- Về thời gian: những năm cuối của thế kỉ XIX.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu đề tài là nhằm trình bày một cách cụ thể vấn đề “Nhìn
lại chặng đường đấu tranh chống Pháp của nhân dân Quảng Bình cuối thế kỉ
XIX”.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nghiên cứu nêu trên, đề tài tập trung giải quyết những
nhiệm vụ cơ bản sau:
- Thứ nhất, trình bày khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của
Quảng Bình.
- Thứ hai, trình bày nhân dân Quảng Bình kháng chiến chống Pháp cuối thể kỉ
XIX.Từ đó rút ra đặc điểm,ý nghĩa.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh về sử học là cơ sở phương pháp luận của đề tài.
- Phương pháp nghiên cứu: để thực hiện đề tài, tác giả sử dụng phương pháp lịch
sử, phương pháp logic, kết hợp với các phương pháp cụ thể của bộ môn như: sưu tầm,
so sánh, đối chiếu, phân tích, tổng hợp… Trên cở sở những tư liệu đã được sưu tầm và
xử lí, sắp xếp theo từng vấn đề đặt ra cho đề tài, từ đó tái tạo lại một cách chân thật bức
tranh cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Quảng Bình cuối của thế kỉ XIX.
6. Đóng góp của luận văn
- Về khoa học:
+ Luận văn đã nghiên cứu một cách có hệ thống về vấn đề Quảng Bình kháng
chiến chống Pháp cuối thế kỉ XIX.
+ Thứ hai, từ việc phân tích vấn đề, tác giả đề tài rút ra những nhận định đánh
giá về đặc điểm, tính chất cũng như ý nghĩa của cuộc kháng chiến chống Pháp của
nhân dân Quảng Bình.
- Về thực tiễn:

+ Xây dựng nguồn tài liệu tham khảo cho các sinh viên chuyên nghành lịch sử.

5


+ Khóa luận cịn cung cấp nguồn tài liệu cho việc giảng dạy môn lịch sử địa
phương ở các trường trung học cơ sở và trung học phổ thông.
+ Giúp cho tác giả có hiểu biết về lịch sử và truyền thống của nhân dân Quảng
Bình.
7. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận,tài liệu tham khảo,nội dung luận văn được trình bày
gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội.
Chương 2: Quảng Bình trong bối cảnh lịch sử thế kỷ XIX.
Chương 3: Nhân dân Quảng Bình chống thực dân Pháp xâm lược cuối thế kỉ
XIX

6


CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ XÃ - HỘI
1.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên
1.1.1. Vị trí địa lý
Trong tiến trình phát triển của lịch sử Việt Nam, địa bàn Quảng Bình có vị trí
rất đặc thù. Những phát hiện của các ngành khoa học trong những thập kỉ gần đây
đã chứng minh rằng vùng đất Quảng Bình khơng những có lịch sử rất lâu đời mà
còn là nơi tiềm chứa nhiều giá trị văn hóa vật chất và tinh thần rất độc đáo. Trải bao
biến thiên của lịch sử, trong diễn trình phát triển của mình, Quảng Bình đã qua
nhiều lần thay đổi về khơng gian lãnh thổ, về thể thức hành chính và cả về danh

xưng. Dưới thời vương quốc Chămpa, đất Quảng Bình ngày nay thuộc hai châu Bố
Chinh và Địa Lí. Khi chuyển chủ quyền vùng đất vào Đại Việt (1069) và đến năm
1075 nhà Lí đã đổi tên thành Bố Chính và Lâm Bình. Kể từ thời Trần cho đến đầu
thế kỉ XVII, khi châu Lâm Bình trở thành đơn vị hành chính cấp phủ hoặc lộ hay
trấn và lần lượt đổi tên thành Tân Bình, Tây Bình, Tiên Bình, Quảng Bình thì lãnh
thổ Quảng Bình phía Bắc giáp dãy Hồnh Sơn, phía Nam giáp huyện Vĩnh Linh
thuộc Quảng Trị ngày nay. Cho đến hiện nay, vẫn còn nhiều ý kiến chưa thống nhất
về vấn đề Quảng Bình bắt đầu khai sinh, xác lập vị trí của mình tự bao giờ? Chưa
có tài liệu chính thức nào xác định thời điểm hình thành vùng đất Quảng Bình. Nếu
lấy từ cột mốc 1069, năm Lý Thường Kiệt chính thức thu hồi lại ba châu: Bố Chính,
Địa Lí, Ma Linh do vua Chế Củ giao nộp, thì đến nay đã là 930. Kể từ khi thu hồi
lại cho đến sau này, địa danh của vùng 3 châu tuy nhiều lần thay đổi, đến đời
Nguyễn Hồng năm 1604 mới mang tên Quảng Bình nhưng đều có bộ máy hành
chính cai trị qua các triều đại. Cho nên, theo phần đông các nhà nghiên cứu và ý
kiến của nhà sử học Dương Trung Quốc, năm 1604 là năm danh xưng Quảng Bình
ra đời. Vì vậy, có thể lấy đây là thời điểm định hình ranh giới Quảng Bình. Từ đây
những biến chuyển ở vùng đất Quảng Bình được gắn liền với lịch sử phát triển của
đất nước, tuy dưới các triều đại phong kiến địa danh, đơn vị hành chính, các vùng
định cư ln thay đổi. Trong 930 năm vùng đất Quảng Bình phát triển với nhiều
diễn biến phức tạp và liên quan đến nhiều cuộc chiến tranh.

7


Ngày nay lãnh thổ tỉnh Quảng Bình được xác định vào khoảng 17°05' đến
18°05' vĩ độ Bắc và 105°37' đến 107°10' kinh độ Đơng. Phía Bắc giáp tỉnh Hà Tĩnh,
ngăn cách bởi dãy Hoành Sơn chạy theo hướng từ Tây sang Đông, đâm ngang từ
Trường Sơn ra tận biển (đi qua Đèo Ngang gần bờ biển) là biên giới tự nhiên của
hai tỉnh có chiều dài 129 km. Phía Nam giáp tỉnh Quảng Trị, có chung địa giới dài
75km. Phía Tây giáp tỉnh Khăm Muộn của nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào,

với đường biên giới dài 201,87 km. Phía Đơng là biển Đơng với đường bờ biển dài
116,04 km.
Địa hình Quảng Bình dài và hẹp theo trục Bắc - Nam, cùng với sự phân hóa từ
Tây sang Đơng, địa hình theo hướng Tây Nam cũng bị phân hóa rõ rệt. Các dạng
địa hình thấp dần đi từ Bắc xuống Nam. Với 85% diện tích tự nhiên là đồi núi. Phía
Tây Quảng Bình là sườn Đơng của dãy Trường Sơn. Phía Đơng là dãy đồng bằng
nhỏ hẹp, có nơi chỉ khoảng 5 - 10 km, chủ yếu tập trung theo hai bờ sơng chính;
diện tích chiếm khoảng 15% tổng diện tích tự nhiên.
Do nằm ở vị trí chiến lược quan trọng, nên trong lịch sử mảnh đất Quảng Bình
đã trải qua bao sóng gió của chiến tranh, từ đó đã hun đúc nên truyền thống anh
dũng kiên cường trong đấu tranh chống ngoại xâm để bảo vệ quê hương giống nòi,
từng bước xây dựng và phát triển.
1.1.2. Điều kiện tự nhiên
Sau khi Quảng Bình trở về với lãnh thổ quốc gia Đại Việt năm 1069, là vùng
đất phên dậu phía Nam của Đại Việt nên dân cư đang cịn thưa thớt, đất đai còn
hoang sơ. Nhà nước đã thực hiện chính sách chiêu mộ dân từ miền ngồi vào khai
khẩn làm ăn, sinh cơ lập nghiệp ở vùng đất này. Từ đó cho đến đầu thế kỉ XVII, khi
Quảng Bình đã được định hình về vị trí và tên gọi như ngày nay, thì đời sống kinh
tế - xã hội của cư dân nơi đây ngày càng phát triển.
Nằm trên dãi đất miền Trung với thiên nhiên và cảnh quan rất đa dạng. Có
diện tích tự nhiên phần đất liền là 8.037,6 km². Riêng phần đất liền, nếu tính từ Tây
sang Đơng, nơi rộng nhất của tỉnh Quảng Bình là 89 km (từ điểm cao 1090 thuộc xã
Dân Hóa, huyện Minh Hóa đến thơn Hải Đơng, xã Quảng Đơng, huyện Quảng
Trạch); nơi hẹp nhất là 40,3 km (từ điểm cao 1002, giữa ranh giới của các huyện Bố
Trạch - Quảng Ninh với tỉnh Khăm Muộn - Lào đến cửa biển Nhật Lệ - thành phố

8


Đồng Hới). Tuy nhỏ, nhưng Quảng Bình gần như hội tụ đủ các dạng địa hình với

vùng núi đá vơi, vùng đồi trung du, vùng đồng bằng chiêm trũng và vùng cồn cát
ven biển. Địa hình ở đây phân bố thấp dần từ Tây sang Đơng, trung bình 7°. Do
chiều ngang Đơng - Tây hẹp nên nhìn tồn cục địa hình Quảng Bình bị cắt xẻ mạnh,
mấp mơ, lồi lõm, nhiều nơi đồi núi chạy ra sát biển như đèo Ngang, đèo Lí Hịa;
đồng bằng nhỏ hẹp, thường là những thung lũng trong núi, thung lũng trước núi,
giao thông đi lại giữa các vùng khó khăn.
Nói đến Quảng Bình, trước hết phải nói đến vùng núi đá vơi với hệ thống hang
động tự nhiên Phong Nha - Kẻ Bàng có quá trình Karst phát triển mạnh tạo ra địa
hình đá vơi hiểm trở. Trong khối đá vơi Kẻ Bàng có hệ thống hang động khá nổi
tiếng như Động Phong Nha dài 7.729m, hang Tối dài 5.200m, hang Vòm dài
13.969m… (ở huyện Bố Trạch).
Chuyển tiếp từ vùng núi đá vôi ở phía Tây xuống đồng bằng phía Đơng nằm
ven hạ lưu các con sơng, chiếm diện tích rất nhỏ, chỉ khoảng 9,3% diện tích tự
nhiên của tồn tỉnh. Tuy nhỏ hẹp, nhưng đồng bằng Quảng Bình có vị trí quan trọng
đối với việc trồng lúa của cư dân nông nghiệp. Không chỉ hôm nay, mà xưa kia bắt
đầu từ thời đại kim khí, cư dân cổ đã vươn ra khai thác đồng bằng ven biển này. Có
thể phân biệt ba cánh đồng chính ở Quảng Bình là cánh đồng Quảng Trạch, cánh
đồng Bố Trạch và cánh đồng Quảng Ninh - Lệ Thủy (cánh đồng hai huyện).
Chuyển tiếp qua đồng bằng nằm ven hạ lưu các con sơng đó chính là những
cồn cát, đụn cát ven biển chiếm 3,3% diện tích tự nhiên của tỉnh. Đây là một đặc
điểm riêng của Quảng Bình mà ít gặp ở các tỉnh ven biển trên đất nước ta. Nhờ xuất
hiện hệ thống đụn cát mà tạo ra các vũng vịnh, bàu, đầm ven biển như Bàu Tró, Bàu
Khê, Bàu Sen.
Nằm trên dãi đất miền Trung với thiên nhiên và cảnh quan rất đa dạng. Có
diện tích tự nhiên phần đất liền là 8.037,6 km². Riêng phần đất liền, nếu tính từ Tây
sang Đơng, nơi rộng nhất của tỉnh Quảng Bình là 89 km (từ điểm cao 1090 thuộc xã
Dân Hóa, huyện Minh Hóa đến thơn Hải Đông, xã Quảng Đông, huyện Quảng
Trạch); nơi hẹp nhất là 40,3 km (từ điểm cao 1002, giữa ranh giới của các huyện Bố
Trạch - Quảng Ninh với tỉnh Khăm Muộn - Lào đến cửa biển Nhật Lệ - thành phố
Đồng Hới). Tuy nhỏ, nhưng Quảng Bình gần như hội tụ đủ các dạng địa hình với


9


vùng núi đá vôi, vùng đồi trung du, vùng đồng bằng chiêm trũng và vùng đồng cồn
cát ven biển. Địa hình ở đây phân bố thấp dần từ Tây sang Đơng, trung bình 7°. Do
chiều ngang Đơng - Tây hẹp nên nhìn tồn cục địa hình Quảng Bình bị cắt xẻ mạnh,
mấp mô, lồi lõm, nhiều nơi đồi núi chạy ra sát biển như đèo Ngang, đèo Lí Hịa;
đồng bằng nhỏ hẹp, thường là những thung lũng trong núi, thung lũng trước núi,
giao thơng đi lại giữa các vùng khó khăn.
1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội
1.2.1. Điều kiện kinh tế
Quảng Bình có nhiều tiềm năng và thế mạnh có thể xây dựng một nền kinh tế
phát triển tồn diện. Dưới chế độ phong kiến tiềm năng và thế mạnh của quê hương
không được phát huy đầy đủ để phục vụ cho đời sống nhân dân. Là vùng đất phía
Nam xung yếu của quốc gia Đại Việt, nằm trên đường thiên lí Bắc - Nam có vị trí
chiến lược quan trọng về kinh tế cũng như quốc phòng. Nên ngay từ đầu, nhà nước
phong kiến đã có nhiều chính sách ưu tiên phát triển vùng đất này, như chiêu mộ
dân miền ngoài vào đây khai khẩn phát triển kinh tế, xây dựng hệ thống đồn lũy để
bảo vệ an ninh quốc phòng cho vùng đất này. Là địa bàn nằm xa chính quyền trung
ương, đất đai chưa được khai phá nhiều, dân cư thưa thớt; lại nằm ở vị trí quan
trọng được thiên nhiên ban tặng nhiều tài nguyên thuận lợi cho việc phát triển kinh
tế, xây dựng quốc phịng. Vì vậy, dưới thời kì phong kiến vùng đất Quảng Bình đã
bị các thế lực ngoại xâm nhịm ngó và xâm chiếm đặt ách thống trị.
Nông nghiệp là ngành sản xuất chính của Quảng Bình, nặng tính chất phân
tán, tự cấp, tự túc. Ngoài hai cánh đồng Lệ Thủy và Quảng Ninh trù phú, sản xuất
nông nghiệp khá thuận lợi thì hầu hết các vùng đồng bằng đều nhỏ hẹp, đất không
màu mỡ lại thường xuyên bị thiên tai nên hoạt động sản xuất khó khăn. Do chỉ độc
canh cây lúa, nên năng suất thấp (chỉ đạt 12 tạ trên 1 cơng mẫu). Ngồi ra, người
nơng dân cịn tận dụng các vùng đất gị đồi, đất bồi ven sơng để trồng rau, đậu, ngô,

khoai sắn…
Ngư nghiệp cũng khá phát triển ở Quảng Bình. Tận dụng thế mạnh về biển,
người dân các làng Cảnh Dương, Quảng Phú, Lí Hịa, Quang Phú, Hải Thành, Bảo
Ninh… lấy nghề khai thác, chế biến hải sản làm nghề chính. Nghề biển là một nghề
lệ thuộc vào thiên nhiên, thời tiết nên trước đây cuộc sống của ngư dân rất bấp bênh

10


“ngư nhọc nông nhàn”. Ngày nay việc khai thác, chế biến nuôi trồng, bảo vệ nguồn
lợi thủy sản đang ngày càng được quan tâm, đầu tư đúng mức và dần trở thành một
trong những ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh.
Thủ cơng nghiệp Quảng Bình đa dạng và phong phú. “Thế kỉ XVII, XVIII ở
nước ta công thương nghiệp, kinh tế hàng hóa đã khá phát triển. Trên đất Quảng
Bình nhiều thủ cơng nghiệp đã có và thành nghề chun môn của cả làng. Làng Đại
Phong, làng Tuy Lộc (Lệ Thủy)… dệt chiếu hoa, làng Phan Xá, làng Hoàng Giang
chuyên nghề rèn, nghề đúc. Huyện Khang Lộc hầu như khắp nơi đều có nghề dệt,
làng Bình Xá, Võ Xá nổi tiếng với nghề dệt lụa”… 70, tr. 204 . Những ngành nghề
thủ cơng truyền thống của Quảng Bình đang từng bước được khôi phục để tạo công
ăn việc làm cho nhân dân, tăng thêm tiềm lực kinh tế cho tỉnh.
Trong lâm nghiệp, người dân chủ yếu khai thác rừng nguyên sinh, trồng rừng
và bảo vệ rừng. Người dân Quảng Bình đã biết khai thác nguồn lợi của tự nhiên, để
phục vụ cho nhu cầu cuộc sống của mình. Với cuộc sống phụ thuộc chặt chẽ vào
thiên nhiên nên người Quảng Bình cũng gắn bó mật thiết với thiên nhiên. Đó là lợi
thế để khi chiến tranh diễn ra, họ có thể tận dụng tối đa sức mạnh của thiên nhiên,
của địa hình (điển hình là phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỉ XIX) để
đấu tranh chống lại kẻ thù xâm lược.
Trên mảnh đất eo thắt của miền Trung, thiên nhiên đã ban tặng cho Quảng
Bình những thuận lợi nhất định để phát triển kinh tế - xã hội, nhưng cũng chính nơi
đây thời tiết, khí hậu cũng hết sức khắc nghiệt “nắng, gió Lào cát trắng” ảnh hưởng

rất lớn đến cuộc sống của nhân dân. Trong gian khổ đó, con người Quảng Bình ln
phải tìm cách để vươn lên xây dựng kinh tế và phát triển xã hội.
1.2.2. Đời sống xã hội
Quảng Bình là vùng đất có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời với nhiều
thăng trầm và biến động. Thời tiền sử, cư dân cổ sớm định cư ở Quảng Bình. Những
phát hiện khảo cổ học đã chứng minh được nguồn gốc bản địa và sự phát triển liên
tục qua nhiều thời đại của cộng đồng dân cư, được phân bố rãi khắp địa bàn Quảng
Bình với những di chỉ văn hóa điển hình của thời kì Hịa Bình muộn, của văn hóa đá
mới (di chỉ Bàu Tró) và văn hóa Đơng Sơn.

11


Lịch sử cộng đồng Quảng Bình đã trải qua nhiều thời kì khác nhau. Thời Hùng
Vương là cư dân Việt cổ, đến thế kỉ XI tiếp nhận những cư dân đầu tiên ở miền
ngoài vào khai phá làm ăn. Trong thế kỉ XV - XVI, cùng với chính sách khai hoang,
mở đất của nhà nước phong kiến, dân số ở đây ngày càng đơng. Thế kỉ XVI,
Nguyễn Hồng vào trấn thủ Thuận Hóa mang theo họ hàng và lực lượng nơng dân
từ phía Bắc vào đã tăng cường thêm lực lượng cho vùng đất này. Hàng trăm năm
trôi qua, đời nọ đến đời kia, các cư dân có mặt trên mảnh đất ấy đã hình thành sắc
thái riêng của cư dân Quảng Bình.
Quảng Bình là một tỉnh có dân số xếp vào loại trung bình của cả nước với dân số
831.583 người (năm 2004). Ngồi trung tâm hành chính của tỉnh là thành phố Đồng
Hới, Quảng Bình có 6 huyện với tổng cộng 159 xã, phường và thị trấn và thị xã Ba
Đồn.
Phần lớn cư dân địa phương là người kinh. Dân tộc ít người thuộc hai nhóm
chính là Chứt và Bru - Vân Kiều gồm có: Khùa, Mã Liềng, Rục, Sách, Vân Kiều, Mày,
Arem, v v… sống tập trung ở hai huyện miền núi Tuyên Hóa và Minh Hóa và một số
xã miền Tây Bố Trạch, Quảng Ninh, Lệ Thủy. Dân cư phân bố không đều, phần lớn
tập trung ở nông thôn (84,85%), chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực mà Quảng Bình có

rất nhiều tiềm năng đó là nơng - lâm - ngư nghiệp.
Nhân dân Quảng Bình khơng những có truyền thống đấu tranh chống ngoại
xâm mà cịn có truyền thống lao động cần cù, sáng tạo. Do sinh sống lâu đời ở vùng
đất đầy nắng gió, ln phải đối mặt với bão, lũ lụt, hạn hán nên cư dân Quảng Bình
là những người lao động cần cù và dũng cảm, không chịu khuất phục trước thiên tai.
Nhiều vùng đất hoang vu, đồi núi hiểm trở, bãi bồi ven sơng, ven biển đã trở thành
những xóm làng trù phú dưới bàn tay lao động của cư dân nơi đây. Chính cơng sức
lao động của người xưa đã biến vùng đất này thành địa bàn mở nước đầu tiên trong
lịch sử Việt Nam. Mặt khác, những người con từ khắp nơi phiêu bạt tới đã phải chịu
mọi sự khắc nghiệt của thiên nhiên, cuộc sống gian nan, nghèo khó đã tạo cho họ
bản lĩnh, sự kiên trì, bền bỉ, cần kiệm, yêu thương lẫn nhau.
Quảng Bình là vùng đất văn vật, có truyền văn hóa lâu đời. Trong quá trình
lịch sử, đã hình thành nhiều làng văn hóa nổi tiếng và được truyền tụng từ đời này
qua đời khác như “Bát danh hương”: “Sơn - Hà - Cảnh - Thổ - Văn Võ - Cổ -

12


Kim”. Nhiều danh nhân tiền bối học rộng, đỗ cao, cương trực, khẳng khái và nổi
tiếng xưa và nay trên nhiều lĩnh vực quân sự, văn hóa - xã hội như Dương Văn An,
Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh, Nguyễn Hàm Ninh, Hoàng Kế Viêm, Võ
Nguyên Giáp…
Trong cuộc sống, người Quảng Bình cũng ln ln lạc quan, u đời. Dù quanh
năm vật lộn với thiên nhiên, đấu tranh với địch họa nhưng họ vẫn luôn dành thời gian
để tổ chức vui chơi với những hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian độc đáo như múa
bông, đua thuyền, bơi chải, chèo cạn, hò khoan Lệ Thủy và các làn điệu dân ca khác.
Trong kháng chiến, người dân Quảng Bình đã phát huy truyền thống q báu của
mình, cùng nhau đồn kết trong những cộng đồng làng xóm với những mối quan hệ
thân tộc, láng giềng bền chặt, chung lưng đấu cật để chống giặc ngoại xâm.
Tóm lại, Quảng Bình là vùng đất “địa linh nhân kiệt”, người dân Quảng Bình

vừa anh hùng bất khuất trong đấu tranh chống kẻ thù, cần cù, sáng tạo trong lao
động sản xuất. Những truyền thống quý báu đó tiếp tục phát huy qua bao thế hệ, để
bảo vệ và xây dựng Quảng Bình ngày một đi lên.
Tiểu kết
Từ trong quá khứ, Quảng Bình đã định hình ở vị trí chiến lược khá quan trọng
của đất nước. Vì vậy, nhân dân Quảng Bình ln phải gánh chịu những hậu quả
nặng nề do chiến tranh gây ra. Sống trong điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt cùng
với sự tàn phá của chiến tranh đã hun đúc nên truyền thống kiên cường của con
người Quảng Bình. Nhân dân Quảng Bình ln cần cù, lam lũ, chịu thương chịu
khó trong lao động sản xuất xây dựng quê hương đất nước. Nhưng trong cuộc
kháng chiến chống ngoại xâm, Quảng Bình đã thể hiện tinh thần đấu tranh quật
khởi, gan dạ và anh dũng, không bao giờ chịu khuất phục trước kẻ thù. Có thể nói,
đây là một trong những đặc điểm nổi bật, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt chiều dài lịch sử
của q hương Quảng Bình nói riêng cũng như lịch sử dân tộc Việt Nam nói chung.

13


Chương 2
QUẢNG BÌNH TRONG BỐI CẢNH LỊCH SỬ THẾ KỈ XVIII
2.1. Bối cảnh Việt Nam trước khi Pháp xâm lược và thái độ của nhà Nguyễn
Từ nửa sau thế kỉ XIX, chủ nghĩa tư bản phương Tây chuyển nhanh từ giai
đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền (giai đoạn đế quốc chủ nghĩa). Nền
kinh tế hàng hóa phát triển mạnh, đặt ra yêu cầu bức thiết về thị trường và ngun
liệu. Đó chính là ngun nhân sâu xa dẫn tới những cuộc chiến tranh xâm lược các
quốc gia phong kiến phương Đông. Trong khi Việt Nam vào giữa thế kỉ XIX, chế
độ phong kiến đang đi vào con đường khủng hoảng trầm trọng. Nước Việt Nam lúc
bấy giờ là một nước quân chủ chuyên chế với nền kinh tế kém phát triển. Nông
nghiệp bị tiêu điều xơ xác do nạn kiêm tính ruộng đất ngày một tăng. Nền kinh tế tư
hữu của nông dân bị xâm phạm nghiêm trọng.Rượng đất phần nhiều tập trung vào

bọn quan lại, địa chủ. Công điền, công hữu chỗ nào màu mỡ, béo tốt đều bị bọn
cường hào lũng đoạn, còn lại thì bọn hương lí chiếm, dân nghèo chỉ được những
chỗ xương xẩu mà thơi. Cho nên nói chung nơng dân khơng có ruộng cày, đời sống
vơ cùng cực khổ. Hiện tượng nơng dân khơng có rượng đất để cày cấy phải bỏ làng
đi tha phương cầu thực là nét phổ biến dưới triều Nguyễn. chỉ từ năm 1802 đến
1806, nông dân trên 370 thơn thuộc mấy trấn lớn ngồi Bắc xiêu tán đi nơi khác.
Đến năm 1826, lại đến trên 108 xã thôn thuộc mười ba huyện của trấn Hải Dương
xiêu tán, cộng thêm vào đó là tơ thuế rất nặng nề. Đó là chưa kể đến tình trạng vỡ
đê, lụt lội, mất mùa, đói kém thường xuyên xảy ra hầu như khơng năm nào khơng
có. Vì vậy nạn đói thường xuyên xảy ra. Ngay trước khi tư bản Pháp sắp nổ sung
đánh vào Đà Nẵng (1858),một trận đói ghê gớm đã xảy ra làm cho hàng vạn nhân
dân tỉnh Trung kì bị chết. Đồng thời cũng do sự bất lực của bọn thống trị hồi đó,
nạn dịch đã hồnh hành dữ dội, giết hại hàng chục vạn người. Trước tình hình bi
thảm đó, để xoa dịu và ngăn ngừa dân chúng nổi dậy chống lại, phong kiến triều
Nguyễn đã có một số biện pháp. Minh mạng ra lệnh cho Nguyễn Công Trứ chiêu
dân tiến hành khai khẩn miền ven biển lập ra hai huyện Tiền Hải(Thái Bình), Kim
Sơn(Ninh Bình) trong hai năm 1828-1829; Tự Đức giao cho Nguyễn Tri Phương lo
liệu việc lập ấp, mộ dân ở Nam Kì từ 1853. Nhưng tất cả các biện pháp trên đều

14


khơng mang lại kết quả đáng kể vì đều xuất phát từ lợi ích của giai cấp thống trị.
Người nơng dân sau một thời gian đổ mồ hôi, sôi nước mắt lại thấy ruộng đất mình
làm ra bị bọn phong kiến cướp đoạt. Vì vậy nạn nơng dân lưu tán nhất là dưới thời
Tự Đức khi thực dân Pháp sắp nổ sung khởi hấn lại càng trở nên phổ biến khắp cả
nước và ngày càng trầm trọng hơn lên. Đó là một trong những nết tiêu biểu của thời
kì khủng hoảng suy vong của chế độ phong kiến Việt Nam dưới triều Nguyễn.
Trong khi nơng nghiệp đang lâm vào tình trạng tiêu điều xơ xác như vậy thì
cơng nghiệp nằm trong tay bọn phong kiến triều Nguyễn cũng ngày một bế tắc.

Chính sách của triều Nguyễn về mặt cơng nghiêp vô cùng phản động. Phong
kiến nhà Nguyễn nắm trong tay những ngành kinh doanh lớn. Các công xưởng lớn
đúc súng, đóng tàu, đúc tiền, các xưởng nhỏ chuyên chế đồ dung riêng cho nhà vua,
vàng bạc, gấm vóc, các cơng trường xây dựng cung điện, thành quất, lăng tẩm đều
do bộ Cơng của triều đình quản lí. Chế độ làm việc ở trong các công xưởng này là
chế độ “công tượng” mang nặng tính chất lao động cưỡng bức. Những thợ giỏi ở
các địa phương bị bắt về đây được phiên chế thành các đội ngũ, làm việc tập trung
với một số lương rất thấp, lại chịu sự quản thúc ngặt nghèo của bọn quan lại nên rất
bất mãn không có hứng khởi làm việc.
Triều đình phong kiến cịn giữ độc quyền ngành khai mỏ. số mỏ được khai
thác từ năm 1802 đến 1858 là 139 mỏ, bao gồm đủ các loại. Nhưng phần lớn các
mỏ đều do bọn quan lại triều đình phong kiến đứng ra khai thác, chỉ một số ít là do
chủ mỏ Hoa kiều hay Việt Nam chủ trì. Phương thức sản xuất trong cả ba loại mỏ
chủ yếu vẫn là lối sản xuất thủ công cá thể với hình thức bốc lột phong kiến mang
nặng tính chất nơ dịch. Năng suất trong các cơng trường mỏ thường rất thấp. Đã thế
triều Nguyễn còn đánh thuế rất nặng vào các mỏ do Hoa kiều hay người Việt đứng
ra khai thác. Nhiều phép tắc vơ lí làm hạn chế sự phát triển của ngành khai mỏ, như
quy định những khu vực cấm khai mỏ,giữ đọc quyền thu mua các kim loại khai thác
được theo giá quy định.
Các nghề thủ cơng trong nhân dân khơng có điều kiện phát triển. tại các công
xưởng thủ công, mặc dù không có một chế độ phường hội chặt chẽ theo kiểu các
nước phong kiến châu Âu, nhưng các mối quan hệ phức tạp giữa chủ và thợ, giữa
thợ cả thợ bạn, giữa các làng chuyên nghiệp với nhau và rất nhiều luật lệ cấm đoán

15


của triều đình đã làm cho sáng kiến và tài năng của người thợ ngày càng bị bóp
nghẹt. Các nghề thủ cơng nhỏ và nghề phụ gia đình ở nơng thơn bị đình đốn vì nơng
dân bị đói khổ, li tán. Thủ công nghiệp hầu như bị tê liệt.

Thương nghiệp dưới triều Nguyễn sa sút một cách rõ rệt. Chính sách “trọng
nơng ức thương” của triều đình đã kìm hãm sự phát triển của thương nghiệp. Nội
thương và ngoại thương đều do triều đình nắm độc quyền. Với chính sách hạn chế
giao lưu buôn bán đối với tàu Tây phương nên cuối đời Gia Long thì ngoại thương
với Pháp đã bị bóp lại. Đến thời Minh Mạng, chính sách này lại càng chặt chẽ hơn
nữa. thuế cửa quan, trước có 60 sở, đến năm 1851 chỉ còn 21 sở, một số cảng trước
kia buôn bán rất phồn thịnh, nay cũng trở nên tiêu điều vắng vẻ.
Nói tóm lại,nền kinh tế, tài chính nước ta trong nửa đầu thế kỉ XIX đã suy đốn
trầm trọng về mọi mặt nơng,cơng nghiệp.Do chính sách phản động của triều
Nguyễn, các yếu tố tư bản chủ nghĩa mới nảy sinh trong các khu vực kinh tế, đang
trên đà phát triển tự nhiên và tiến bộ, phù hợp với yêu cầu phát triển của xã hội đều
bị bóp nghẹt.
Để duy trì chế độ xã hội thối nát nhằm bảo vệ đặc quyền đặc lợi phong kiến
nhà Nguyễn đã ra sức củng cố trật tự bằng mọi cách.
Về đối nội, triều đình huy động những lực lượng quân sự to lớn vào việc dập
tắt các cuộc khởi nghĩa nông dân, làm cho quân lực bị tổn thất, tài chính quốc gia và
tài lực nhân dân bị khánh kiệt. Còn đối với các nước tư bản phương Tây, hạn chế
ngày một gắt gao sự giao lưu buôn bán, cấm đạo và giết đạo.
Những sự tàn bạo của triều đình đối với giáo sĩ và người cơng giáo, nhiều khi
cũng bị gây ra bởi lịng mê tín mù qng của chính những người cơng giáo. Những
mục đích đẹp đẽ nhất, thiêng liêng nhất đều có thể bị làm hư hỏng bởi lịng sốt sắng
của những tín đồ; ở Nam Kì lắm khi các giáo sĩ… khơng ngần ngại gì mà vi phạm
đạo lí con người để phục vụ cho sự tín ngưỡng của họ.
Sự xâm lược của Pháp vào giữa thế kỉ XIX đối với nước ta chính là sự suy tàn
của chế độ phong kiến nhà Nguyễn dưới thời Tự Đức. “Dưới thời Tự Đức những
yếu tố tiền tư bản trong kinh tế đã có hồi Lê mạt và Tây Sơn đã giảm sút đi nhiều;
thị trấn bớt hoạt động, bớt dân số, công thương tàn tạ, nông nghiệp sút kém, dân
tình khổ sở quá mức, loạn lạc luôn luôn, quân sự cổ hủ, kẻ cầm quyền không chịu

16



duy tân và ngày càng bị nhân dân phản kháng kịch liệt.. Đất nước suy yếu như vậy
chính là sự khuyến khích gián tiếp cho kẻ xâm lăng. Với sự can thiệp ngày càng sâu
của tư bản Pháp vào nước ta chứng tỏ rằng thực dân Pháp đã sẵn sàng cho cuộc
chiến tranh xâm lược nước ta.
Rõ ràng với những chính sách phản động nói trên, nước Việt Nam đã suy yếu
về mọi mặt và trở thành miếng mồi ngon đối với các nước tư bản phương Tây. Đặc
biệt đối với tư bản Pháp từ lâu đã có cơ sở bên trong nước ta nhờ sự hoạt động
ngấm ngầm và liên tục của bọn gián điệp đội lốt con buôn và giáo sĩ. Lịch sử lúc
này đã đi tới một bước ngoặt. một là triều Nguyễn bị đánh đỏ và thay thế vào đó là
một triều đại mới tiến theo hướng mới của tư bản chủ nghĩa có khả năng duy tân đất
nước và bảo vệ nền độc lập dân tộc.Hai là nước Việt Nam bị mất vào tay tư bản
Pháp để trở thành một xứ thuộc địa. Thực tế lịch sử đã chứng minh rằng khi tiếng
súng xâm lược của tư bản Pháp bùng nổ, giai cấp phong kiến Việt Nam đã phân hóa
ra hai phái chủ chiến và chủ hịa, phái chủ hịa gồm phần đơng bọn đại phong kiến
và bọn quan lại lớn với Tự Đức đứng đầu sẽ nhanh chống cấu kết với bọn cướp
nước và làm tay sai cho chúng đàn áp và bốc lột dân chúng. Đó là tội lớn của phong
kiến nhà Nguyễn trước dân tộc,trước lịch sử.
Vì vậy, ngày 1 - 9 - 1858, liên quân Pháp và Tây Ban Nha đã tấn cơng Đà
Nẵng, chính thức nổ súng xâm lược nước ta. Trong thời gian đầu, vì quyền lợi giai
cấp bị trực tiếp đụng chạm nên triều đình đã có phản ứng lại. Thể hiện là khi được
tin mất bán đảo Sơn Trà, triều đình Huế vội phái nhiều quân tướng tới tăng cường
lực lượng phòng thủ. Nguyễn Tri Phương được cử làm tổng chỉ huy mặt trận Quảng
Nam để lo việc chống giặc. Thất bại ở Đà Nẵng, Pháp liền chuyển hướng đánh vào
mặt trận Gia Định.
Khi tiếng súng của giặc đã nổ ầm bên tai mà triều đình cịn bận bàn cải, kẻ hịa
người đánh, trên dưới khơng nhất trí, đánh hịa khơng ngã ngũ. Nhóm Trương Đăng
Quế, Phan Thanh Giản, Lưu Lượng thì chủ trương rằng: “Chiến khơng bằng hòa,
nhưng phải cố thủ rồi sau mới bàn. Kẻ địch vốn cậy thuyền bền súng mạnh làm sở

trường; họ ở ngồi sóng gió mặt bể, thế ta khó thắng họ. Thượng kế bây giờ nên lấy
giữ (thủ) làm chính; giữ vững rồi sau mới có thể nói đánh, cũng có thể nói đến hịa.
Bằng khơng trước lo việc giữ thì đánh cũng khơng được mà hịa cũng khơng xong”

17


Đó là ý kiến cố thủ để hịa của Viện cơ mật. Một số đơng đình thần cũng chủ trương
giống như vậy, đó là Trần Văn Trung, Chu Phúc Minh, Lâm Duy Hiệp, Phan Huy
Vinh… Họ cho rằng:
Chống giặc duy thủ là hơn, lại nên nuôi sức chọn thời châm chước đối phó; thói
quen nước họ thường hay đem quân đi khiêu khích nước ngồi; chống lại mà thắng
họ thì họ dùng quân liên miên, kết nhiều tai vạ; thua họ thì họ trịch thượng địi trái
khoản bồi thường vơ biên cho no cái sở dục của họ mới thôi. Họ và ta vốn khơng
gần nhau khơng thể thơn tính nhau… Nay muốn quyết chiến với họ, chưa thấy cái
cơ tất thắng mà vạn nhất sai đi lại thêm hoang mang. Lấy chủ đợi khách, nên dùng
kế trì cửu để đợi cho họ mỏi; vì có tin sứ đi lại, sẽ tùy cơ châm chước đối phó, họ
cũng khơng có thể có sự hơn ta được
Vua Tự Đức cho là phải. Chính tư tưởng khơng thống nhất này đã làm cho
quan quân triều đình bỏ lỡ nhiều cơ hội đánh thắng quân thù. Tướng giặc Giơnuiy
phải thú nhận rằng: “Nếu họ (triều đình Huế) đánh mạnh thì họ đã đánh bại chúng
tôi lâu rồi”
Cho nên, từ 1 - 9 - 1858 đến 5 - 6 - 1862, triều đình Huế đã nhanh chóng từ
“thủ để hịa”, nghĩa là tự chọn thế thủ để nhường thế cơng cho giặc, sau đó phải cắt
đất cho giặc rồi thừa nhận chính quyền của giặc ở Sài Gòn và ra lệnh giải tán phong
trào chống giặc của nhân dân Lục tỉnh. Với điều ước 5 - 6 - 1862, tập đoàn phong
kiến thống trị họ Nguyễn đã không dám đương đầu quyết liệt với giặc và đã đầu
hàng chúng quá sớm. Sở dĩ thế là vì chính mình đã tự tạo ra cái thế bị cơ lập, đã phá
hoại thống nhất và đồn kết dân tộc. Từ đầu, nhà Nguyễn đã phá hoại sức mạnh ấy
với hàng loạt chính sách khơng hợp lịng dân về mọi mặt, tự nó làm mất chỗ dựa

trong điều kiện lịch sử chống ngoại xâm của nước ta lúc bấy giờ là nơng dân. Chính
trong tình thế lịch sử đó, “từ ngày 5 - 6 - 1862 ngọn cờ kháng chiến giữ nước và
giải phóng dân tộc đã chính thức chuyển hẳn và chuyển thẳng sang tay nhân dân từ
Nam ra Bắc”
Ngay từ khi Pháp xâm lược đến khi Pháp đặt được ách thống trị lên đất nước
ta, triều đình Huế đã thể hiện đường lối khơng nhất qn, nhượng bộ, để rồi cuối
cùng với hai điều ước Harmand (25 - 8 - 1883) và Patenôtre (6 - 6 - 1884) đã xác

18


định dứt khoát quyền thống trị của tư bản Pháp trên đất nước ta, đồng thời cũng xác
định vị trí tay sai của phong kiến nhà Nguyễn đối với quyền thống trị ấy.
Trong điều kiện phức tạp và khó khăn của lịch sử nước ta ở nửa sau thế kỉ
XIX, chính ngọn cờ kháng chiến giữ nước và giải phóng dân tộc nắm chắc trong tay
nhân dân ấy đã mở đầu cho lịch sử gần một thế kỉ đấu tranh giải phóng của tồn thể
dân tộc ta. Nhà nước phong kiến đầu hàng hoàn toàn và sụp đổ toàn bộ nhưng sức
quật khởi của nhân dân ta trong phong trào kháng chiến chống Pháp xâm lược vẫn
tiếp tục tồn tại. Một phong trào vũ trang đấu tranh rộng lớn và quyết liệt chưa từng
có kể từ khi thực dân Pháp gây hấn cho đến lúc bấy giờ. Đã nổ ra và kéo dài cho
đến những năm cuối thế kỉ XIX dưới danh nghĩa Cần Vương.
2.2. Địa bàn Quảng Bình trong buổi đầu phong trào Cần Vương bùng nổ
Trên địa bàn Quảng Bình có nhiều sĩ phu - trí thức phong kiến, quan lại địa
phương đã có những động thái phản ứng lại trước hành động ngang ngược của thực
dân Pháp và thái độ thỏa hiệp của triều đình Huế trước khi phong trào Cần Vương
bùng nổ. Vùng rừng núi Tây Bắc Quảng Bình với những yếu tố thuận lợi về tự
nhiên, kinh tế, xã hội cho việc tập hợp nghĩa quân, xây dựng căn cứ kháng Pháp lâu
dài. Vì vậy, để chuẩn bị cho việc tiến hành khởi nghĩa, nhân dân Quảng Bình dưới
sự lãnh đạo của các văn thân sĩ phu yêu nước đã dựa hẳn vào các điều kiện địa lợi,
nhân hịa đó để xây dựng hàng loạt căn cứ địa kháng chiến.

Phía Tây của dãy Trường Sơn thuộc hai tỉnh Quảng Bình và Hà Tĩnh, một số
căn cứ chống Pháp được hình thành, trong đó vùng rừng núi thuộc thượng lưu sơng
Gianh (Quảng Bình) và sơng Ngàn Sâu (Hà Tĩnh) được chọn làm căn cứ của vua
Hàm Nghi và Tơn Thất Thuyết. Đó là miền sơn cước của hai tỉnh Quảng Bình, Hà
Tĩnh, một vùng hiểm yếu, chủ yếu là tỉnh Quảng Bình. Giữa hai tỉnh có một dải núi
cao bắt đầu trong dải Trường Sơn đi thẳng ra biển. Với địa hình đồi núi chiếm diện
tích khá lớn, lại có con sơng Gianh chảy quanh, càng lên cao, đồi núi, sông suối
càng quanh co, hiểm trở, tạo ra nhiều hang động, lèn đá, thung lũng. Quảng Bình là
địa bàn rất thuận lợi cho hoạt động quân sự. Phía Bắc giáp với Lào và Hà Tĩnh; phía
Nam giáp với các vùng đồng bằng duyên hải, nằm trên tuyến đường hai miền Nam Bắc, phía Tây là núi rừng chạy dọc theo dải Trường Sơn. Có thể nói, núi rừng
Quảng Bình là địa thế chiến lược trên dải đất Bình Trị Thiên. Được sự ủng hộ của

19


quân và dân Quảng Bình, quân đội triều đình đứng đầu là Hàm Nghi và Tôn Thất
Thuyết, đã gặp nhiều thuận lợi trong việc xây dựng căn cứ. Trái lại, đối với thực
dân Pháp, Quảng Bình là vùng đất hiểm trở, rất khó khăn cho việc chuyển quân và
đảm bảo hậu cần, tiếp viện từ Huế ra, Đồng Hới lên và từ Vinh vào. Quân Pháp lại
không thông thạo địa hình ở đây và vấp phải sức kháng cự quyết liệt của nhân dân
nên rất khó thực hiện ý đồ chiến lược của chúng.
Quảng Bình với địa thế “núi vây ba mặt, biển giăng một bề” đã tạo điều kiện
thuận lợi cho phong trào Cần Vương phát triển đều khắp nơi, từ miền xuôi đến miền
núi, từ đồng bằng đến ven biển; khiến cho quân Pháp và triều đình gặp nhiều khó
khăn trong việc đưa quân đi đàn áp, buộc chúng phải phân tán lực lượng đóng giữ ở
các đồn, nên phạm vi kiểm soát, quyền khống chế của địch vì thế khơng vượt ra
ngoại vi các đồn là bao nhiêu, còn nghĩa quân làm chủ cả một vùng rộng lớn. Địa
bàn trên giúp cho cuộc kháng chiến của vua tơi Hàm Nghi có thể đứng vững và tồn
tại lâu dài hơn so với các nơi khác. Mặc dù vẫn cịn những khó khăn nhất định như
đất đai khơ cằn, dân số ít, sống rải rác ở một địa bàn phức tạp. Nhưng việc lựa chọn

thượng lưu hai con sông Ngàn Sâu (chảy về Bến Thủy) và sông Gianh (chảy về
Quảng Khê) của Quảng Bình làm căn cứ kháng chiến là một quyết định sáng suốt,
chứng tỏ tầm nhìn chiến lược của Tơn Thất Thuyết. Bởi nếu tiến thì có thể làm chủ
cả hai lưu vực trù phú và đông dân, nhờ đó mà liên lạc được với các tỉnh phía Bắc;
thối thì vào vùng rừng sâu núi cao sát biên giới Lào - Viêt để an toàn ra Thanh Nghệ hay Bắc kì. Nói về căn cứ này, ngay cả thực dân Pháp cũng nhận định: “Địa
thế này được chọn lấy một cách khơn khéo, nó liên lạc giữa hai tỉnh, từ hàng mấy
thế kỉ nay được nổi danh là đất nhà quan, đất sĩ phu; còn hơn là tỉnh khác, hai tỉnh
này sẵn sàng chống lại uy quyền của ta”
Có thể nói, việc lựa chọn miền núi phía Tây tỉnh Quảng Bình làm địa bàn đóng
qn lâu dài cho nghĩa quân Cần Vương là một sự lựa chọn sáng suốt và khôn
ngoan của những người lãnh đạo phong trào đặc biệt là Tôn Thất Thuyết. Đây là
một địa bàn mà tiến hay thối đều thuận lợi, có thể bảo tồn lực lượng.
Lưu vực sơng Gianh là vùng kháng chiến quan trọng của vua Hàm Nghi. Về
phía biển, có nhiều cồn cát làm cho thuyền chiến của giặc khó có thể đi vào phía bờ.
Từ phía vùng Thanh Thủy trở lên thì lưu vực sơng bị chia cắt ra thành nhiều khúc

20


bởi những vùng đồi núi lơ nhơ thỉnh thoảng bó hẹp đồng bằng. Trên những quả đồi
này, ta bố trí những trạm gác có thể quan sát được quân Pháp từ rất xa. Đây là một
thuận lợi lớn để nghĩa quân chủ động trước sự vận động của giặc. Địa hình ở đây có
núi cao, rừng rậm và gị đồi lẫn lộn, làng mạc ruộng đồng phân tán nhỏ hẹp ven
theo chân núi, bờ đồi. Phía dưới các chân đồi là làng mạc có nhiều người Kinh sinh
sống, ở vùng núi là làng bản của người Mường. Trung tâm thương mại thịnh nhất
của cả vùng thời bấy giờ là Chợ Đồn, mỗi tháng họp phiên 3 lần, mỗi lần có cả vạn
người. Nơi vua Hàm Nghi đóng đơ là ở thượng lưu sơng Gianh (thuộc huyện Tun
Hóa, lúc bấy giờ gọi là châu Quy Hợp)
Với những điều kiện thuận lợi trên, Quảng Bình trở thành nơi vua Hàm Nghi xây
dựng căn cứ và đứng chân lâu nhất. Chính điều đó đã tác động trở lại phong trào kháng

chiến nơi đây, đưa Quảng Bình trở thành tâm điểm của phong trào Cần Vương. Các
cuộc khởi nghĩa nổ ra mạnh mẽ, gắn liền với những tên tuổi như Nguyễn Phạm Tuân,
Lê Trực, Mai Lượng, Hoàng Văn Phúc, Lê Mộ Khởi, Đề Én, Đề Chít… đã làm nên
những dấu mốc nổi bật trong phong trào Cần Vương ở Quảng Bình

21


Chương 3
NHÂN DÂN QUẢNG BÌNH CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC
CUỐI THẾ KỈ XIX
3.1 Nhân dân Quản Bình chống Pháp xâm lược
Khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, trong nội bộ triều đình đã có sự phân
hóa thành hai phe, phe chủ chiến và phe chủ hòa. Phe chủ chiến đứng đầu là
Thượng thư Bộ binh Tôn Thất Thuyết ngày càng thắng thế tại triều đình. Tơn Thất
Thuyết thực sự nắm được triều đình đã mất gần hết quyền lực và ơng cố hết sức để
đưa nó thoát khỏi những ràng buộc mà người Pháp đang thiết lập. Sự tồn tại của phe
chủ chiến trong triều đình Huế là cái gai trong mắt của De Courcy, Tôn Thất Thuyết
trở thành đối tượng cần thanh toán hàng đầu của chúng. “… Cái cách duy nhất để
giải quyết hiện tình là phải bắt cóc hai người quan phụ chính” Tôn Thất Thuyết và
Nguyễn Văn Tường nắm cả Bộ Binh và Bộ Lại, thực quyền lại trong tay triều đình
Huế, cái điều mà làm cho bọn thực dân hậm hực nhất. “Trễ cịn hơn khơng. Ta sẽ
bắt Tường và Thuyết chăng, hay ta sẽ làm sao cho họ khơng cịn có cách gì phá
hoại ta nữa” . Hai ơng một mặt tập trung ngày càng nhiều quân về Huế, mặt khác
đem nhiều lương thực, của cải, vàng bạc ngày càng nhiều lên các sơn phòng. Pháp
nhất quyết lần này phải nắm hẳn tồn bộ hội đồng phụ chính, tẩy trừ Thuyết, Tường
ra khỏi hội đồng này, và nhất là giải tán quân đội của Tôn Thất Thuyết, tức là siết
chặt nền đơ hộ, làm cho triều đình hồn tồn phụ thuộc vào thực dân Pháp . Chúng
cũng nhận thức được rằng chính sự tồn tại của phe chủ chiến là chỗ dựa cho phái
chủ chiến ở các tỉnh và động lực thúc đẩy phong trào kháng chiến của nhân dân.

Trước thái độ khinh thường triều đình của giặc Pháp, trước âm mưu ngày càng
lộ liễu của De Courcy là muốn ra tay trước để loại bỏ Tôn Thất Thuyết và phe chủ
chiến trong triều đình. Vì vậy, phe chủ chiến đứng đầu là Tôn Thất Thuyết đã quyết
định hành động nhằm giành thế chủ động cho cuộc tấn công.
Đêm mồng 4 rạng sáng mồng 5 tháng 7 năm 1885, hai đạo quân của triều đình
cùng lúc nổ súng vào các căn cứ Pháp tại Huế. Đạo thứ nhất do Tôn Thất Lệ chỉ
huy tấn cơng tịa Khâm sứ Pháp; đạo thứ hai do Trần Xuân Soạn chỉ huy đánh đồn
Mang Cá góc Đơng - Bắc thành Huế. Bị đánh bất ngờ, lúc đầu quân địch hoảng

22


×