Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

bài tập lớn luật hình sự - tội trộm cắp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (92.35 KB, 11 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Xã hội ngày càng phát triển, văn minh, cuộc sống của con người được đầy đủ
hơn về cả vật chất và tinh thần. Nhưng không vì thế mà số lượng tội phạm được giảm
xuống, thậm chí hoạt động của các đối tượng phạm tội diễn biến phức tạp hơn, thủ
đoạn gây án ngày càng tinh vi và có chiều hướng gia tăng, đặc biệt là tội trộm cắp tài
sản. Để thấy được tính nguy hiểm của tội trộm cắp, nhóm chúng em đã tiến hành tìm
hiểu một tình huống cụ thể với nội dung như sau: “Khoảng 18 giờ ngày 25/11/2012,
C (19 tuổi) đi xe máy của gia đình chở H (17 tuổi) đi chơi rồi rủ nhau đi trộm cắp
tài sản. C chở H đi lòng vòng một hồi thì thấy có hai chiếc xe máy dựng trước cửa
nhà anh D. Lúc này C thấy vắng người nên dừng xe và nói với H: “ Mày vào phá
khóa đi, tao đợi ngoài này” H vào nhà anh D dùng tuốc nơ vít phá khoá chiếc xe
SH. C đang đứng canh gác thấy có người lại gần, C sợ bị bắt giữ nên phóng xe ra
ngoài đường lớn và về nhà. Sau khi lấy được xe, ra ngoài đường không nhìn thấy
C nên H chủ động đem chiếc xe trên đến gửi tại phòng trọ của T. Ngày 27/11/2012,
Công an bắt được C, H và thu hồi lại chiếc xe bị trộm cắp tại phòng trọ của T.
Chiếc xe trị giá 69 triệu đồng. C, H có thể bị xét xử theo khoản 2 Điều 138 BLHS.”

GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1.Vấn đề 1: C có được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội không?
Trả lời:
Tại khoản 1 Điều 8 Bộ luật hình sự năm 1999, tội phạm được định nghĩa như
sau: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự,
do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm
phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ
chính trị, chế độ kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền,
lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự


do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực
khác nhau của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.”
Tại Điều 19 Bộ luật hình sự năm 1999, quy định về tự ý nửa chừng chấm dứt


việc phạm tội như sau:
“Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là tự mình không thực hiện tội phạm
đến cùng, tuy không có gì ngăn cản.
Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự
về tội định phạm; nếu hành vi thực tế đã thực hiện có đủ yếu tố cấu thành của một tội
khác, thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này.”
Người được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội phải thỏa mãn các
dấu hiệu sau:
Việc chấm dứt không thực hiện tiếp tội phạm xảy ra khi phạm tội đang ở giai
đoạn chuẩn bị hoặc ở giai đoạn chưa đạt chưa hoàn thành. Khi phạm tội đã ở giai
đoạn chưa đạt đã hoàn thành thì cũng có nghĩa là người phạm tội đã thực hiện hết
những hành vi mong muốn và do vậy không thể có việc tự ý tự dừng lại không thực
hiện tiếp tội phạm. Tại thời điểm chưa đạt đã hoàn thành, hậu quả của tội phạm tuy
chưa xảy ra nhưng sẽ xảy ra nhưng sẽ xảy ra mà không cần người người phạm tội
phải có hành vi gì tiếp nữa (theo ý thức chủ quan của chủ thể). Như vậy, việc chủ thể
chỉ dừng lại không thực hiện tiếp rõ ràng không ngăn chặn được việc hậu quả nguy
hiểm cho xã hội xảy ra.
Việc chấm dứt không thực hiện tiếp tội phạm phải là tự nguyện và dứt khoát.
Để được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, trước hết đòi hỏi việc chủ thể
dừng lại không thực hiện tiếp tội phạm phải hoàn toàn do động lực bên trong chứ
không phải do trở ngại khách quan chi phối. Khi dừng lại, người phạm tội vẫn tin
rằng, hiện tại không có gì ngăn cản và vẫn có thể thực hiện tiếp được tội phạm. Việc
dừng lại không thực hiện tiếp tội phạm trong trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt
việc phạm tội phải là sự thể hiện của việc từ bỏ hẳn ý định phạm tội chứ không phải là
thủ đoạn để tiếp tục thực hiện tội phạm. Trong thực tế, việc tự ý nửa chừng chấm dứt


việc phạm tội có thể do những động cơ khác nhau thúc đẩy như hối hận, sợ bị phát
hiện, sợ bị trừng trị v.v.. Luật hình sự không đòi hỏi người tự ý nửa chừng chấm dứt
việc phạm tội phải thực sự hối hận…

Trong tình huống nêu trên, thì vào khoảng 18 giờ ngày 25/11/2012, C (19 tuổi)
đi xe máy của gia đình chở H (17 tuổi) đi chơi rồi rủ nhau đi trộm cắp tài sản. C chở
H đi lòng vòng một hồi thì thấy có hai chiếc xe máy dựng trước cửa nhà anh D.
Nhiệm vụ của C là đứng ngoài canh để cho H thực hiện hành vi tội phạm là lấy chiếc
xe SH dựng trước nhà anh D. Nhưng do có một nguyên nhân khách quan đó là C đang
đứng canh gác thì có một người lại gần, C sợ bị bắt giữ nên phóng xe ra ngoài đường
lớn và về nhà. Việc C không thực hiện hành vi phạm tội của mình nữa là vì C sợ bị
bắt giữ, nhưng đó không phải hoàn toàn là do ý thức chủ quan của quan của của C là
sợ bị bắt giữ mà đó còn là do nguyên nhân khách quan bên ngoài tác động vào đó là
có người lại gần. Do đó, việc C không thực hiện hành vi phạm tội của mình nữa
không được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội. Mà việc C không thực hiện
hành vi phạm tội của mình nữa trong tình huống trên được coi là phạm tội chưa đạt.
Việc phạm tội chưa đạt được quy định tai Điều 18, Bộ luật hình sự năm 1999 như sau:
“Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến
cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội.
Người phạm tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt.”
Như vậy, trong tình huống nêu trên việc C không thực hiện hành vi phạm tội
của mình nữa không được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội.
2.Vấn đề 2: Giả sử khi đến gửi xe tại phòng trọ của T, H có nói cho T biết đây là
xe vừa trộm cắp được, T cho H gửi xe thì T có bị coi là đồng phạm về tội trộm
cắp tài sản với vai trò là người giúp sức không?
Trả lời:
Điều 20, Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về đồng phạm như sau:
“1.Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội
phạm.


2.Người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức đều là những
người đồng phạm.
Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm.

Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm.
Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội
phạm.
Người giúp sức là người tạo những điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc
thực hiện tội phạm.
3.Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa
những người cùng thực hiện tội phạm.”
Theo nội dung Điều 20, Bộ luật hình sự năm 1999 thì đồng phạm đòi hỏi những
dấu hiệu sau:
Về mặt khách quan: đồng phạm đòi hỏi hai dấu hiệu. Thứ nhất, đông phạm đòi
hỏi phải có ít nhất hai người và hai người này phải có đủ điều kiện của chủ thể của tội
phạm. Đó là điều kiện có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự. Thứ hai, những người đó phải cùng thực hiện tội phạm có nghĩa là
người đồng phạm phải tham gia vào tội phạm với một trong bốn hành vi sau: hành vi
thực hiện tội phạm, hành vi tổ chức thực hiện tội phạm, hành vi xúi giục người khác
thực hiện tội phạm, hành vi giúp sức người khác thực hiện tội phạm.
Về mặt chủ quan, đồng phạm đòi hỏi những người cùng thực hiện tội phạm đều
có lỗi cố ý. Ngoài ra, đối với những tội có dấu hiệu mục đích là dấu hiệu bắt buộc,
đồng phạm đòi hỏi những người cùng thực hiện phải có cùng mục đích phạm tội đó.
Thứ nhất, về dấu hiệu lỗi. Khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, mỗi người
đồng phạm không chỉ cố ý với hành vi của mình mà còn biết và mong muốn sự cố ý
tham gia của những người đồng phạm khác. Lỗi cố ý trong đồng phạm được thể hiện
trên hai mặt lí trí và ý chí. Về lý trí, mỗi người đều biết hành vi của mình là nguy
hiểm cho xã hội và đều biết người khác cũng có hành vi nguy hiểm cho xã hội cùng
với mình. Về ý chí, những người đồng phạm cùng mong muốn có hoạt động chung và


cùng mong muốn hoặc cùng có ý thức để mặc cho hậu quả phát sinh. Thứ hai, về dấu
hiệu mục đích. Đồng phạm đòi hỏi dấu hiệu mục đích trong trường hợp đồng phạm
những tội có mục đích là dấu hiệu bắt buộc.

Tại khoản 2 Điều 20 Bộ luật hình sự năm 1999 định nghĩa về người giúp sức
như sau: “Người giúp sức là người tạo ra điều kiện tinh thần hay vật chất cho việc
thực hiện tội phạm”.
Hành vi nguy hiểm cho xã hội của người giúp sức trong đồng phạm là hành vi
tạo những điều kiện cho người thực hiện hành vi phạm tội. Người giúp sức có thể là
giúp sức về vật chất hoặc là giúp sức về tinh thần. Trong thực tế, giúp sức về vật chất
có thể là cung cấp công cụ, phương tiện hoặc khắc phục những trở ngại… để tạo ra
điều kiện cho người thực hiện tội phạm được dễ dàng thuận lợi hơn. Giúp sức về tinh
thần có thể là những hành vi cung cấp những gì tuy không có tính vật chất nhưng
cũng tạo cho người thực hành điều kiện thuận lợi hơn trong việc thực hiện tội phạm
như chỉ dẫn, góp ý kiến, cung cấp tình hình v.v..
Thông thường, hành vi giúp sức được thực hiện dưới dạng hành động nhưng
cũng có thể có trường hợp dưới dạng không hành động. Đó có thể là trường hợp của
những người có nghĩa vụ pháp lý phải hành động nhưng đã cố ý không hành động và
qua đó đã loại trừ trở ngại khách quan ngăn cản việc thực hiện tội phạm của người
trực tiếp thực hiện tội phạm, tạo điều kiện cho người đó có thể thực hiện hoặc tiếp tục
thực hiện tội phạm được đến cùng.
Dạng giúp sức đặc biệt đã được thừa nhận và coi là dạng giúp sức tinh thần là
giúp sức bằng lời hứa hẹn sẽ che giấu người phạm tội, che giấu các tang vậ chứng
hoặc sẽ tiêu thụ các vật do phạm tội mà có sau khi tội phạm đã thực hiện xong. Lời
hứa hẹn trước của người giúp sức tuy không tạo ra những điều kiện thuận lợi cụ thể
nhưng cũng có những tác động tích cực vào quá trình thực hiện tội phạm. Sự tác động
này thể hiện ở chỗ đã củng cố ý định phạm tội, củng cố quyết tâm phạm tội hoặc
quyết tâm phạm tội đến cùng của người trực tiếp thực hiện tội phạm.


Hành vi giúp sức thường được thực hiện trước khi người thực hành bắt tay vào
hành động. Nhưng cũng có trường hợp người giúp sức tham gia khi tội phạm đang
tiến hành.
Trong tình huống nêu trên, sau khi lấy được xe, ra ngoài đường không nhìn

thấy C nên H chủ động đem chiếc xe trên đến gửi tại phòng trọ của T. Khi đến gửi xe
tại phòng trọ của T, H có nói cho T biết đây là xe vừa trộm cắp được, nhưng T vẫn
cho H gửi xe. Bên cạnh đó, trước khi H thực hành hành vi trộm cắp của mình cũng
như trong quá trình H vào nhà anh D dùng tuốc nơ vít phá khoá chiếc xe SH để lấy
chiếc xe đó, thì T không hề hứa trước với H là sẽ cho H gửi nhờ chiếc xe SH mà H
trộm cắp được mà việc T cho H gửi xe được thực hiện sau khi H đã thực hiện xong
hành vi trộm cắp chiếc xe SH của nhà anh D. Do đó, T không bị coi là đồng phạm về
tội trộm cắp tài sản với vai trò là người giúp sức mà hành vi T cho H gửi xe mà T vừa
trộm được được coi là che giấu tội phạm, được quy định tai Điều 21 như sau: “Người
nào không hứa hẹn trước, nhưng sau khi biết tội phạm được thực hiện, đã che giấu
người phạm tội, dấu vết, tang vật của tội phạm hoặc có hành vi khác cản trở việc phát
hiện, điều tra, xử lý người phạm tội, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội che giấu
tội phạm trong những trường hợp mà Bộ luật này quy định.”
Như vậy, trong tình huống nêu trên T không bị coi là đồng phạm về tội trộm
cắp tài sản với vai trò là người giúp sức.
3.Vấn đề 3: Nếu H đang có án tích về tội cướp tài sản (Điều 133 BLHS) lại có
hành vi trộm cắp tài sản nêu trên thì H bị coi là có tình tiết tái phạm hay tái
phạm nguy hiểm?
Trả lời:
Theo tình huống trên, C và H cùng đi trộm cắp tài sản và hành vi của C và H có
thể bị xét xử theo khoản 2 Điều 138 Bộ luật dân sự năm 1999:
“Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ hai năm đến
bảy năm:
a)

Có tổ chức;


b)
c)

d)
e)
f)

Có tính chất chuyên nghiệp;
Tái phạm nguy hiểm;
Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;
Hành hung để tẩu thoát;
Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu

g)

đồng;
Gây hậu quả nghiêm trọng.”

Theo khoản 3 Điều 8 BLHS quy định: “Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm
gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội
ấy là đến ba năm tù; tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội
mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù; tội phạm rất
nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung
hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội
phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối
với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình”.
Vì vậy, ta có thể căn cứ vào khoản 3, Điều 8 BLHS để phân loại tội phạm đối
với trường hợp phạm tội của C và H đó là: Theo khoản 2 Điều 138 BLHS quy định thì
mức cao nhất của khung hình phạt của tội trộm cắp tài sản mà C và H đã thực hiện là
bảy năm tù nên trường hợp phạm tội của C và H thuộc loại tội phạm nghiêm trọng.
Căn cứ theo Điều 9 Bộ luật Hình sự, thì tội trộm cắp của C và H thuộc phạm tội do cố
ý.
Điều 133 Bộ Luật Hình sự quy định về tội cướp tài sản như sau:

1.Người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi
khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm
chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm.
2.Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm
đến mười lăm năm:
a)Có tổ chức;
b)Có tính chất chuyên nghiệp;
c)Tái phạm nguy hiểm;


d)Sử dụng vũ khí phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;
đ)Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ
thương tật từ 11% đến 30%;
e)Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu
đồng;
g)Gây hậu quả nghiêm trọng.
3.Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai
năm đến hai mươi năm:
a)Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ
thương tật từ 31% đến 60%;
b)Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu
đồng;
c)Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười tám
năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:
a)Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ
thương tật từ 61% trở lên hoặc làm chết người;
b)Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;
c)Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
5.Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu

đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một
năm đến năm năm.
Căn cứ vào Điều 8 Bộ luật Hình sự, tội cướp tài sản mà H phạm phải và chưa
được xóa án tích trước đó. Nếu thuộc Khoản 1 hoặc Khoản 2 Điều 133 thì thuộc vào
tội phạm rất nghiêm trọng, còn nếu tội của H thuộc vào Khoản 3 hoặc Khoản 4 thì
thuộc vào tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Điều 49 Bộ luật Hình sự quy định về phạm tội có tình tiết tái phạm hay tái
phạm nguy hiểm như sau:


1.Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội
do cố ý hoặc phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do vô ý.
2.Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm:
a)Đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng cố ý, chưa
được xóa án tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý;
b) Đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội do cố ý.
Án tích là việc người bị kết án theo quyết định của tòa án, đã thi hành hình phạt
nhưng chưa được xóa án. Người đã chấp hành xong hình phạt được tạo điều kiện làm
ăn, sinh sống lương thiện, hoà nhập với cộng đồng, khi có đủ điều kiện do luật định
thì được xóa án tích.
Giả định H đang có án tích về tội cướp tài sản (Điều 133 BLHS) nay lại phạm
tội trộm cắp theo tình huống nêu trên,thì căn cứ vào Khoản 1 Điều 49, H thuộc vào
trường hợp đầu tiên đó là “đã bị kết án chưa được xoá án tích mà lại phạm tội do cố
ý”. Do đó theo tình huống trên thì H phạm tội có tình tiết tái phạm.
Trường hợp trên của H không thuộc tái phạm nguy hiểm do các tình tiết không
thoả mãn Khoản 2 Điều 49. Tội trộm cắp mà H phạm phải chỉ là tội nghiêm trọng do
cố ý không thuộc vào trường hợp “chưa được xóa án tích mà lại phạm tội rất nghiêm
trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý” và càng không thoả mãn Điểm b Khoản 2
Điều 49.
Tóm lại trong tình huống trên thì H phạm tội có tình tiết tái phạm.

4. Giả định C và H mới tròn 15 tuổi mà trộm cắp tài sản theo tình huống nêu
trên thì có phải chịu TNHS không?
Trả lời:
Điều 12 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự
như sau:
“1.Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.
2.Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”


Giả định C và H mới tròn 15 tuổi mà trộm cắp tài sản theo tình huống nêu trên
thì C và H chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý
hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Mà hành vi phạm tội của C và H có thể bị xét
xử theo khoản 2 Điều 138, chiếu theo khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình sự năm 1999 thì
trường hợp phạm tội của C và H thuộc loại tội phạm nghiêm trọng. Do đó C và H
không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp của mình.
Như vậy, giả định C và H mới tròn 15 tuổi mà trộm cắp tài sản theo tình huống
nêu trên thì C và H không phải chịu trách nhiệm hình sự.

KẾT LUẬN
Thông qua việc phân tích tình huống trên, chúng ta đã phần nào thấy được sự
nguy hiểm của tội trộm cắp tài sản gây ra cho người bị hại cũng như cho toàn xã hội.
Các vụ trộm cắp tài sản xuất phát từ sự chủ quan, thiếu cảnh giác trong việc bảo vệ tài
sản, tạo điều kiện thuận lợi để tội phạm trộm cắp tài sản hoạt động; do tình hình kinh
tế - xã hội trong những năm qua còn khó khăn; do ảnh hưởng của mặt trái cơ chế thị
trường, một bộ phận người lao động không có việc làm, sự xuống cấp về đạo đức xã
hội, chạy theo lối sống thực dụng; một bộ phận thanh thiếu niên lười lao động, biến
chất về đạo đức xã hội. Như vậy, việc xác định chính xác và nhanh chóng loại tội
phạm, loại cấu thành tội phạm, trách nhiệm hình sự của chủ thể là rất quan trọng,
quyết định đến việc xét xử, áp dụng mức hình phạt đối với tội phạm. Việc sửa đổi bổ

sung một số điều trong BLHS cũng là điều rất cần thiết trong hoàn cảnh xã hội đang
phát triển không ngừng. Đồng thời, các nhà áp dụng pháp luật cũng cần nắm bắt tình
hình kịp thời, vận dụng linh hoạt các điều luật góp phần làm cho xã hội thêm công
bằng dân chủ.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật hình sự Việt Nam, tập I, Nxb CAND,
Hà Nội, 2014.
2. Khoa luật – Đại học quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật hình sự (Phần chung),Nxb,
ĐHQG, Hà Nội, 2005.
3. Viện khoa học pháp lí – Bộ tư pháp, Bình luận khoa học BLHS Việt Nam năm
1999, Nxb, CTQG, Hà Nội, 2001.
4. Nguyễn Ngọc Hòa, Tội phạm và cấu thành tội phạm, Nxb, CAND, Hà Nội, 2008.
5. BLHS của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam 1999 (Đã được sửa đổi bổ sung năm
2009).



×