Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Bài dự thi tìm hiểu mối quan hệ đăc biệt Việt Nam Lào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (82.92 KB, 9 trang )

CHỦ ĐỀ 12: TẠI SAO HAI DÂN TỘC VIỆT NAM – LÀO PHẢI
THƯƠNG YÊU GẮN BỐ CHẶT CHẼ VỚI NHAU
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Việt – Lào hai nước chúng ta/ Tình
sâu hơn nước Hồng Hà, Cửu Long”, để nói lên tầm quan trọng của mối quan hệ
tốt đẹp, lâu dài giữa nhân dân hai nước Việt Nam – Lào. Việt Nam và Lào không
những có sự gắn kết bền chặt từ trong quá khứ cho đến tận ngày nay cũng như
mai sau. Hai dân tộc luôn sát cánh bên nhau cùng bảo vệ Tổ quốc, cùng phát
triển văn hóa – xã hội, cùng tiến bước để hội nhập với xu thế của thời đại mới.
1. Đôi nét về nước Lào anh em:
Lào, tên chính thức là nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, là một
quốc gia nội lục tại Đông Nam Á, phía đông giáp Việt Nam chúng ta, phía tây
bắc giáp Myanma và Trung Quốc, phía tây giáp và tây nam giáp Thái Lan, phía
tây nam giáp Campuchia. Lào có diện tích 237.955km2, với dân số khoảng
6,758 triệu người (tính đến hết năm 2016 theo Ngân hàng Thế giới), thủ đô là
Viêng Chăn, đơn vị tiền tệ Kíp Lào.
Quốc gia Lào hiện tại có nguồn gốc lịch sử và văn hoá từ Vương quốc
Lan Xang tồn tại trong bốn thế kỷ, là một vương quốc có diện tích lớn tại Đông
Nam Á. Sau một giai đoạn xung đột nội bộ, Lan Xang phân chia thành ba vương
quốc riêng biệt: Luâng Phabăng, Viêng Chăn và Chămpasắc. Năm 1893, ba
vương quốc hợp thành một lãnh thổ bảo hộ thuộc Pháp, tiền thân của quốc gia
Lào hiện nay. Lào giành độc lập sau khi Nhật Bản chiếm đóng, song người Pháp
sau đó áp đặt lại quyền cai trị cho đến khi Lào được tự trị vào năm 1949. Lào
độc lập vào năm 1953 với chính thể quân chủ lập hiến dưới quyền Sisavang
Vông. Một cuộc nội chiến trường kỳ kết thúc vào năm 1975 với kết quả là chấm
dứt chế độ quân chủ, Phong trào Pathẹt Lào theo chủ nghĩa cộng sản lên nắm
quyền.
Lào là nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa độc đảng, theo chủ nghĩa Marx và
do Đảng Nhân dân Cách mạng Lào cầm quyền. Thủ đô của Lào là Viêng Chăn,
các thành thị lớn khác là Luâng Phabăng, Savanakhẹt, và Pácsê. Lào là một quốc
gia đa dân tộc, người Lào chiếm khoảng 60% dân số, họ chủ yếu cư trú tại vùng
thấp và chiếm ưu thế về chính trị và văn hoá. Các dân tộc Môn-Khmer, H'Mông,


và dân tộc bản địa vùng cao khác chiếm khoảng 40% dân số và sống tại khu vực
đồi núi.
Chiến lược phát triển của Lào dựa trên sản xuất thuỷ điện và bán điện
năng sang các quốc gia láng giềng, cũng như trở thành một quốc gia liên kết
giao thương lục địa. Ngoài ra, lĩnh vực khai mỏ của Lào cũng phát triển, khiến
quốc gia này được đánh giá là nằm trong các nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất
Đông Á và Thái Bình Dương. Lào là một thành viên của ASEAN, Hội nghị
Đông Á và Cộng đồng các nước nói tiếng Pháp. Lào được nhận làm thành viên
đầy đủ của WTO vào năm 2013.


Nền chính trị Lào diễn ra trong khuôn khổ của một nước cộng hòa XHCN
độc đảng. Đảng chính trị hợp pháp duy nhất là Đảng Nhân dân Cách mạng Lào
(LPRP). Người đứng đầu nhà nước là Chủ tịch nước Cho – um - ma – ly Say – a
- sone kiêm. Người đứng đầu chính phủ là Thủ tướng Thông – sing Thamma Vông. Chính sách của chính phủ được Đảng định đoạt thông qua chín thành viên
đầy quyền lực của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân
Cách mạng Lào và 49 thành viên của Ủy ban Trung ương Đảng. Những quyết
định quan trọng của chính phủ được xem xét chặt chẽ bởi Hội đồng Bộ trưởng.
Nền kinh tế Lào đang phát triển nhanh, khi quốc gia này bắt đầu giảm dần
quản lý nhà nước và khuyến khích thành phần kinh tế tư nhân vào năm 1986.
Lào đã mở một sở giao dịch chứng khoán vào năm 2011, đồng thời có vai trò
như một nhà cung cấp thủy điện cho các quốc gia láng giềng như Trung Quốc,
Việt Nam và Thái Lan. Mặc dù vậy, là một quốc gia không giáp biển, lại có cơ
sở hạ tầng chưa tốt và phần lớn lực lượng lao động thiếu kĩ năng, Lào vẫn là một
trong những nước nghèo nhất khu vực Đông Nam Á. Thu nhập bình quân tính
theo đầu người vào năm 2009 của Lào ước tính khoảng $2700 theo sức mua
tương ứng.Tiết kiệm nội địa thấp khiến Lào phải phụ thuộc nặng nề vào viện trợ
nước ngoài và vay ưu đãi để lấy nguồn đầu tư cho phát triển đất nước.
Mặc dù nền kinh tế chưa thể đạt được những thành tựu như Việt Nam,
song họ có quyền hy vọng trong tương lai không xa, với việc cải cách mạnh các

thủ tục hành chính, khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài, nguồn tài nguyên
đa dạng phong phú… nền kinh tế của quốc gia có dân số gần 7 triệu người sẽ
đứng trong top đầu của khu vực.
2. Hai dân tộc Việt Nam – Lào phải yêu thương gắn bó chặt chẽ với
nhau:
Trong lịch sử quan hệ quốc tế từ xưa tới nay, quan hệ đặc biệt Việt Nam Lào, Lào - Việt Nam là một điển hình, một tấm gương mẫu mực, hiếm có về sự
gắn kết bền chặt, thủy chung, trong sáng và đầy hiệu quả giữa hai dân tộc, đấu
tranh vì độc lập, tự do và tiến bộ xã hội.
Hai nước Việt Nam - Lào có lịch sử gắn bó rất lâu đời với nhau trong suốt
chiều dài dựng nước và giữ nước của mỗi dân tộc. Trong chiều dài lịch sử ấy,
nhân dân hai nước đã “chung lưng đấu cật” để xây dựng mỗi nước phát triển.
Là hai nước láng giềng có nhiều nét tương đồng về văn hóa, Việt Nam và Lào đã
chung tay viết nên những trang sử hào hùng của hai dân tộc. Mối quan hệ hữu
nghị truyền thống lâu đời Việt Nam - Lào bắt nguồn từ tình cảm láng giềng thân
thiết, sự gắn bó keo sơn giữa dân tộc Việt Nam và nhân dân các bộ tộc Lào đã
trải qua muôn vàn thử thách, được nhiều thế hệ lãnh đạo hai Đảng và nhân dân
hai nước, đặc biệt là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và Chủ tịch Cayxỏn
Phômvihản kính mến trực tiếp gây dựng nền móng, được các thế hệ lãnh đạo kế
tục của hai Đảng, hai nước, cùng nhân dân hai nước quý trọng, nâng niu và dày
công vun đắp, không ngừng phát triển và trở thành mối quan hệ đặc biệt, thủy
chung, trong sáng và là mẫu mực hiếm có trong quan hệ quốc tế hiện nay.


Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Hai dân tộc Việt và Lào sống bên nhau
trên cùng một dải đất, cùng có chung một dãy núi Trường Sơn. Hai dân tộc
chúng ta đã nương tựa vào nhau, giúp đỡ lẫn nhau... Tình nghĩa láng giềng anh
em Việt - Lào thật là thắm thiết không bao giờ phai nhạt được”. Chủ tịch
Cayxỏn Phômvihản cũng nói: “Núi có thể mòn, sông có thể cạn, song tình nghĩa
Lào - Việt sẽ mãi mãi vững bền hơn núi, hơn sông”. Tư tưởng lớn của hai nhà
lãnh đạo đã trở thành kim chỉ nam soi đường, chỉ lối, được Đảng, Chính phủ và

nhân dân hai nước thực hiện nhất quán trong suốt những năm tháng chiến đấu
chống kẻ thù chung, giành độc lập, thống nhất đất nước đến hòa bình, xây dựng,
đổi mới, hội nhập và phát triển.
Đặc biệt, trong nhiều giai đoạn lịch sử, hai dân tộc Việt Nam - Lào đều có
chung một kẻ thù xâm lược. Vị trí địa lý và lịch sử đấu tranh dựng nước, giữ
nước của mỗi dân tộc đã gắn kết hai nước trở nên gần gũi, thân thiện. Theo đó,
quá trình chiến đấu của mỗi nước phải dựa vào nhau để chống kẻ thù chung, bảo
vệ dân tộc, bảo vệ đất nước. Vì vậy, quân và dân hai nước Việt Nam- Lào luôn
sát cánh bên nhau chống lại kẻ thù chung vì độc lập của mỗi nước, vì hạnh phúc
của nhân dân và mỗi dân tộc.
Quan hệ Lào – Việt Nam hay còn được biết đến với tên thông dụng là
Quan hệ hữu nghị Việt - Lào là mối quan hệ hữu nghị truyền thống, đoàn kết đặc
biệt và hợp tác toàn diện từ lịch sử tới hiện tại giữa Lào và Việt Nam. Mối quan
hệ được Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân Cách mạng Lào cũng như
Nhà nước 2 quốc gia coi là mối quan hệ đặc biệt với vai trò như đồng minh
chiến lược của nhau nhưng không có bất cứ bản cam kết đồng minh nào. Việt
Nam và Lào thiết lập quan hệ ngoại giao 5/9/1962.
Trải qua nhiều giai đoạn và biến cố của lịch sử, hai nước Việt Nam - Lào
cùng tựa lưng vào dải Trường Sơn hùng vĩ, sát cánh bên nhau, xây đắp quan hệ
đoàn kết đặc biệt Việt Nam - Lào cao đẹp, mẫu mực, thủy chung, hiếm có trong
lịch sử quan hệ quốc tế. Truyền thống quan hệ hữu nghị, đoàn kết vĩ đại và sự
hợp tác toàn diện giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước Lào - Việt
Nam mà Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và Chủ tịch Cayxỏn Phômvihản kính yêu
đã sáng lập, gìn giữ và được kế tục, phát triển bởi các thế hệ lãnh đạo, các chiến
sỹ cách mạng và nhân dân hai nước Lào - Việt Nam. Trong suốt nhiều thập kỷ
qua, hai nước đã cùng nhau lập những chiến công hiển hách, giành độc lập dân
tộc cho cả hai dân tộc; Mọi thắng lợi của Cách mạng Lào đều gắn chặt với sự
giúp đỡ, ủng hộ mạnh mẽ, hy sinh to lớn của nhân dân Việt Nam anh em với tinh
thần đồng chí chung một chiến hào, “hạt gạo cắn đôi, cọng rau bẻ nửa” cùng
đồng cam cộng khổ, từng bước đi tới thắng lợi cuối cùng, chiến thắng đế quốc

xâm lược và phát triển đất nước theo con đường chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, mối
quan hệ đó trở thành di sản quý giá, thành quy luật tồn tại và phát triển của hai
nước và cũng là mối quan hệ thủy chung, trong sáng, đặc biệt và hiếm có trong
quan hệ quốc tế.
a) Trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ:


Trong công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm
lược, nhân dân hai nước Việt – Lào luôn sát cánh bên nhau, viết nên những trang
sử hào hùng và cùng nhau xây dựng nên mối quan hệ đoàn kết đặc biệt.
Bối cảnh trong nước và các nước Đông Dương những năm đầu thế kỷ
XX, Hồ Chí Minh đã xác định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không
có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Nhà nước ta luôn đặt
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam gắn bó mật thiết với cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc của nhân dân các nước trong đó có dân tộc Lào. Đảng và Nhà
nước cũng luôn quan tâm sâu sắc và coi việc giúp đỡ Lào vừa là trách nhiệm
vừa là nghĩa vụ, là một nội dung quan trọng nhất của tình đoàn kết và liên minh
chiến đấu Việt - Lào. Việt Nam không chỉ đóng góp về lý luận, đường lối,
phương hướng cách mạng mà Người còn quan tâm đến cả việc tổ chức, chỉ đạo
thực tiễn cách mạng Lào.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, các phong trào đấu tranh ở Việt Nam diễn ra
mạnh mẽ và lan rộng trong cả nước và có ảnh hưởng lớn đến Lào. Các phong
trào đấu tranh của nhân dân Việt Nam cũng đã nhận được sự ủng hộ của nhân
dân Lào. Trước vận mệnh của các dân tộc Đông Dương, Trung ương Đảng Cộng
sản Đông Dương đã liên tiếp tổ chức các cuộc hội nghị quan trọng để bàn chủ
trương và biện pháp lãnh đạo phong trào đấu tranh của nhân dân đi đến thắng
lợi. Đặc biệt, tháng 5/1941 lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã chủ trì Hội nghị Ban
Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ VIII quyết định đặt nhiệm vụ giải phóng
dân tộc lên hàng đầu của cách mạng Đông Dương, giải quyết vấn đề dân tộc
trong khuôn khổ từng nước và thành lập ở mỗi nước một Mặt trận Dân tộc

Thống nhất rộng rãi.
Ngày 12/10/1945 tại Thủ đô Vientiane, Chính phủ lâm thời Lào Itsala
được thành lập, thông qua Hiến pháp và tuyên bố nền độc lập trước thế giới.
Ngày 14/10/1945, Việt Nam là nước đầu tiên gửi điện chúc mừng và tuyên bố
thừa nhận Chính phủ Lào độc lập và ngày 30/10/1945, hai nước đã ký Hiệp ước
Hợp tác tương trợ Việt -Lào. Từ đây, quan hệ Việt - Lào đã chuyển sang một giai
đoạn mới - giai đoạn phát triển quan hệ đoàn kết giữa hai dân tộc anh em không
chỉ trong quan hệ giữa nhân dân hai nước, mà còn trên tầm quan hệ gắn bó giữa
hai nhà nước như Hoàng thân Xuphanuvông đã từng tuyên bố: Quan hệ Lào Việt từ nay sẽ mở ra một kỷ nguyên mới...
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc, nhân dân hai nước phải
tiếp tục đối mặt với quân xâm lược đế quốc Mỹ. Sự nghiệp cách mạng của hai
nước Lào-Việt Nam có mối quan hệ và ảnh hưởng lẫn nhau một cách đặc biệt,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhìn nhận thấy từ lâu, Người thường căn dặn: Cách
mạng Lào không thể thiếu sự giúp đỡ của cách mạng Việt Nam và cách mạng
Việt Nam cũng không thể thiếu sự giúp đỡ của cách mạng Lào. Chính vì vậy,
trong cuộc đấu tranh giành độc lập, Đảng, Chính phủ và nhân dân Việt Nam đã
cử hàng chục vạn người con yêu quý của mình sang công tác và phối hợp với
quân và dân Lào chiến đấu tại các chiến trường của Lào, máu của biết bao anh
hùng, liệt sĩ Việt Nam hòa quyện với máu của quân và dân Lào để đem lại thắng


lợi vẻ vang cho hai dân tộc. Quan tâm, chia sẻ cùng đồng cam cộng khổ trong
hai cuộc kháng chiến, Đảng, Chính phủ và nhân dân Lào đã dành phần đất của
mình để giúp Việt Nam xây dựng “Đường Hồ Chí Minh”, “xẻ dọc Trường Sơn
đi cứu nước”…
Ngày 30/4/1975, miền Nam Việt Nam hoàn toàn giải phóng là điều kiện
thuận lợi cho cách mạng Lào giành thắng lợi hoàn toàn, thiết lập nên nước Cộng
hòa Dân chủ nhân dân Lào 2/12/1975. Thắng lợi to lớn và có ý nghĩa lịch sử
trọng đại đó, là minh chứng hùng hồn cho tình hữu nghị đoàn kết đặc biệt, thủy
chung, trong sáng.

Tóm lại, quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam trải qua nhiều
thử thách khắc nghiệt, đầy hy sinh, gian khổ vì độc lập, tự do, hạnh phúc của hai
dân tộc và nhân dân hai nước, đã trở thành quy luật sống còn và sức mạnh kỳ
diệu đưa tới nhiều thắng lợi vĩ đại của Việt Nam và Lào trong cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc, trong xây dựng và bảo vệ đất nước, cùng phát triển theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Đối với nhân dân hai nước Việt Nam, Lào, quan hệ đặc
biệt được coi là lẽ sống, là tình nghĩa ruột thịt thân thiết, trước sau như một, dù
gian nan nguy hiểm đến chừng nào cũng không thể chia tách được.
b) Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay:
Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, sự nghiệp đổi mới, mở cửa, hội
nhập quốc tế mà nhân dân hai nước đang tiến hành đã tạo ra những xung lực
mới, đồng thời cũng đặt ra những yêu cầu khách quan về gia tăng mối quan hệ
đặc biệt giữa Việt Nam – Lào; Lào – Việt Nam với những phương thức mới và
những nội dung mới, do đó hai dân tộc phải đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau cùng
phát triển, cùng đạt được những mục đích đề ra của cách mạng hai nước.
Bước vào thời kỳ đổi mới với muôn vàn khó khăn, Chính phủ hai nước
phải đổi mới cả về nội dung, phương thức và cơ chế hợp tác để giữ vững và phát
huy hiệu quả quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện, đặc biệt Việt Nam - Lào.
Chiến lược hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam trong thời
gian tới (2011 - 2015 và tầm nhìn đến 2020) được xây dựng và thực hiện trong
bối cảnh quốc tế, khu vực và ở từng nước có những thuận lợi và khó khăn đan
xen cùng những chuyển biến rất mau lẹ, tác động trực tiếp đến quan hệ hợp tác
toàn diện giữa hai nước.
Bối cảnh quốc tế và khu vực có những thuận lợi và khó khăn, nhiều cơ hội
đang mở ra cho quan hệ hợp tác giữa hai nước, đồng thời cũng đang phải đối
mặt với những thách thức rất lớn. Các nước lớn và các nước phát triển tăng
cường hợp tác với ASEAN và các tiểu vùng Mê Công mở rộng (GMS) trong bối
cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra với tốc độ nhanh và ngày
càng sâu sắc.
Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực là đang là xu thế phổ

biến hiện nay và trụ lực chính của tiến trình này là tự do hoá thương mại. Khu
vực Đông Nam Á nói chung và tiểu vùng Mê Công nói riêng đang gia tăng
mạnh mẽ các lộ trình họi nhập trên nhiều cấp độ. Với vị trí quan trọng của khu


vực Châu Á- Thái Bình dương, các nước lớn và phát triển ngày càng quan tâm
và tăng cường mở rộng quan hệ, đặc biệt là hợp tác kinh tế, thương mại và đầu
tư vào khu vực này, góp phần tạo nên diện mạo mới cho khu vực. Đây là điều
kiện thuận lợi cho sự phát triển của mỗi nước GMS, trong đó có Việt Nam và
Lào.
Tuy nhiên đây cũng sẽ là tâm điểm của sự tranh giành quyền lực và ảnh
hưởng của các nước lớn và các nền kinh tế phát triển, tác động tiêu cực đến
ASEAN và GMS, trong đó có Việt Nam và Lào. Mặt khác, vượt ra ngoài những
nội dung hội nhập kinh tế, các vấn đề về chính trị và an ninh nảy sinh trong sự
tương tác về quan hệ lợi ích chiến lược giữa các nước lớn với nhau và những
tham vọng và các nước này đối với khu vực, rất có thể đẩy các nước trong khu
vực tới những bất ổn khó lường.
Mặt khác, hợp tác giữa các nước Tiểu vùng Mê Công mở rộng(GMS) diễn
ra mạnh mẽ và ngày càng có hiệu quả. Công cuộc đổi mới đất nước Việt Nam và
Lào với tốc độ phát triển ngày càng nhanh và bền vững, cùng những kết quả hợp
tác đạt được giữa Việt Nam và Lào đòi hỏi phải tăng cường toàn diện trong giai
đoạn mới. Vì vậy, trong thời gian tới Việt Nam và Lào phải có sự phối hợp nhịp
nhàng, đổi mới quan hệ hợp tác toàn diện phù hợp với bối cảnh mới.
Việt Nam và Lào sống bên nhau tại hai triền Đông và Tây Trường Sơn
hùng vĩ, rất thuận lợi cho sự phát triển phong phú của động vật, thực vật lại
được bổ sung bởi nhiều hang động, rừng nguyên sinh kỳ thú, thuận lợi cho du
lịch. Nơi đây có nhiều sông suối chảy dốc từ núi cao đổ xuống, tạo lợi thế cho
khai thác thủy điện.
Trường sơn còn là một tường thành vững chắc cho quân dân hai nước
nương tựa nhau chống giặc ngoại xâm.

Về kinh tế, hai nước có thể bổ sung cho nhau thế lợi về biển cả của Việt
Nam, đường bộ của Lào đi sâu vào lục địa châu Á, cùng các nguồn tài nguyên
phong phú do mỗi nước quản lý.
Ngoài những điều kiện trên, hai nước Việt Nam, Lào có một ưu thế nổi
trội vô cùng quý giá là quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam mà hai
Đảng, hai dân tộc cần luôn luôn vun đắp, bảo vệ và phát huy trong mọi hoạt
động chính trị, tư tưởng, kinh tế, quốc phòng an ninh, ngoại giao, văn hoá, giáo
dục đào tạo nhân lực, nhân tài.
Tình đoàn kết đặc biệt giữa hai nước đã góp phần quan trọng vào việc
củng cố và tăng cường quan hệ hữu nghị truyền thống và hợp tác toàn diện giữa
Việt Nam và Lào trong thời kỳ mới. Trong các chuyến thăm của lãnh đạo hai
nước, hai bên luôn khẳng định quan điểm nhất quán, tiếp tục coi trọng và dành
mọi ưu tiên cho việc củng cố và tăng cường quan hệ hữu nghị truyền thống,
đoàn kết đặc biệt, hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào, coi đây là tài sản vô giá cần
gìn giữ và truyền lại cho muôn đời con cháu mai sau, đòi hỏi hai nước Việt
Nam- lào phải yêu thương gắn bó chặt chẽ với nhau, giữ cho quan hệ đặc biệt
Việt –Lào muôn đời bền vững.


Trong quan hệ hữu nghị ở tầm quốc gia đó cùng với bề dày lịch sử, tỉnh
Quảng Trị và tỉnh Savannakhet; Salavan là những người bạn thủy chung son sắt
từ trong cuộc kháng chiến chống kẻ thù chung cho đến nay. Phát huy tình đoàn
kết trong sáng, thuỷ chung giữa 2 dân tộc trong kháng chiến chống kẻ thù chung,
ngày nay Quảng Trị đã có mối quan hệ hợp tác với hai tỉnh Savannakhet và
Salavan trên nhiều lĩnh vực, đạt được những thành quả quan trọng, vun đắp cho
tình đoàn kết hữu nghị Việt –Lào ngày càng tốt đẹp và bền vững.
Nhân dịp kỹ niệm 50 năm Ngày thiết lập quan hệ ngoại giao và 35 năm
Ngày ký Hiệp ước hữu nghị hợp tác Việt Nam – Lào, đồng chí Nguyễn Phú
Trọng – Tổng Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam phát biểu: “Việt
Nam và Lào đang bước sang một giai đoạn mới, giai đoạn đẩy mạnh công cuộc

đổi mới, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nhân dân hai nước đang tích
cực triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội của mỗi Đảng và cùng nhau phấn
đấu xây dựng, phát triển đất nước Việt Nam, đất nước Lào giàu mạnh... Hơn
bao giờ, hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước cần tiếp tục củng cố,
tăng cường hơn nữa tình đoàn kết đặc biệt, quan hệ hợp tác toàn diện Việt Nam
- Lào, coi đây là lẽ sống, là nghĩa tình thân thiết, trước sau như một, dù gian
nan nguy hiểm cũng không hề lay chuyển. Việt Nam và Lào sẽ cùng nhau giữ
gìn, bảo vệ mối quan hệ đặc biệt đó, như giữ gìn và bảo vệ con ngươi của mắt
mình, làm sâu sắc, phong phú thêm và đưa mối quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào
ngày càng phát triển mạnh mẽ, đi vào chiều sâu, coi đây là tài sản thiêng liêng
vô giá, cần trao truyền lại mãi mãi cho các thế hệ mai sau”.
Trong tình hình hội nhập với nhiều biến động, nhiều khó khăn và thách
thức do tác động của tình hình thế giới và khu vực, nhưng với truyền thống tốt
đẹp của mối quan hệ đặc biệt và dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân cách
mạng Lào và Đảng Cộng sản Việt Nam, quan hệ giữa hai nước ngày càng được
tăng cường, mở rộng cho mối quan hệ hữu nghị đoàn kết đặc biệt và sự hợp tác
toàn diện Việt Nam - Lào đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói:
“…Việt Lào, hai nước chúng ta,
Tình sâu hơn nước Hồng Hà, Cửu Long”.
Bản chất của quan hệ đặc biệt đó bắt nguồn từ lòng yêu nước nồng nàn
kết hợp với chủ nghĩa quốc tế trong sáng; tình đoàn kết thủy chung và niềm tin
về lòng chân thành, trong sáng mà hai dân tộc Việt Nam, Lào dành cho nhau; sự
giúp đỡ đến mức cao nhất nhằm thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ cách mạng và
tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển tương lai của hai dân tộc. Quan hệ Việt
- Lào được xây đắp, nuôi dưỡng bằng công sức, của cải, xương máu của nhiều
thế hệ cách mạng người Việt Nam và Lào. Trải qua rất nhiều gian nan, thử thách
khắc nghiệt, quan hệ đó vẫn vẹn nguyên, không hề bị rạn nứt và phá vỡ cho dù
các thế lực thù địch dùng nhiều thủ đoạn chống phá, chia rẽ. Bản chất của quan
hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam, được nuôi dưỡng, phát triển bằng



sức cảm hóa sâu sắc của quan điểm “giúp bạn là mình tự giúp mình” do Chủ
tịch Hồ Chí Minh chỉ dẫn. Đây là câu nói cô đọng, giàu ý nghĩa chính trị, nhân
văn, mở ra phương hướng xử lý hài hòa lợi ích của hai dân tộc; là vũ khí sắc bén
chống tư tưởng dân tộc hẹp hòi, ban ơn. Dựa trên luận điểm về quyền dân tộc tự
quyết, cơ quan lãnh đạo cấp cao Việt Nam, Lào đã nhất trí tiến hành liên minh,
hợp tác theo nguyên tắc tôn trọng độc lập tự chủ của bạn như Chủ tịch Hồ Chí
Minh xác định: “Cán bộ Việt Nam sang công tác ở Lào phải hoàn toàn ở dưới
sự lãnh đạo của Chính phủ Trung ương Lào, nhất là của Thủ tướng
Xuphanuvông. Tuyệt đối không được tự cao, tự đại, không được bao biện...”.
Trước diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và khu vực, các thế lực
thù địch và phản động đang tìm mọi cách xuyên tạc, chia rẽ mối quan hệ đặc
biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam. Do vậy, hơn lúc nào hết, hai dân tộc phải
yêu thương, gắn bó chặt chẽ với nhau, cùng nhau đoàn kết làm thất bại mọi âm
mưu, thủ đoạn của kẻ thù, bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng và công cuộc
xây dựng đất nước của nhân dân hai nước.
Trong bối cảnh đoàn kết hợp tác rộng mở trên thế giới hiện nay, xuất hiện
nhiều hình thức liên kết hợp tác song phương và đa phương với nhiều mục đích
khác nhau, do vậy hai dân tộc Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam cần gắn bó chặt
chẽ bên nhau, cùng nhau vun đắp mối quan hệ đặc biệt trở thành một mẫu mực
về tình đoàn kết quốc tế trong lịch sử thế giới đương đại, đồng thời cũng vì sự
phát triển bền vững của mỗi nước.
Cuối năm 2015, Cộng đồng Kinh tế ASEAN đã chính thức ra đời, mở ra
nhiều cơ hội nhưng cũng đem lại không ít thách thức cho việc phát triển kinh tếxã hội của hai nước, điều này đòi hỏi hai dân tộc Lào và Việt Nam, nhất là các
doanh nghiêp hai nước cần phải chủ động, chuẩn bị thật kỹ, phối hợp chặt chẽ,
sâu rộng và thắt chặt hơn nữa sự tin cậy, mối quan hệ thủy chung nhằm thúc đẩy
hợp tác thương mại, đầu tư và du lịch; tập trung khai thác các thế mạnh chiến
lược, tăng cường sản xuất hàng hóa nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường mỗi
nước. Ngoài ra, doanh nghiệp hai bên cũng cần quan tâm xây dựng các nhân tố,
cơ chế để có thể hỗ trợ lẫn nhau nhiều hơn trong công tác hòa nhập và kết nối

ASEAN.
Để làm được điều này, hai bên cần tiếp tục tăng cường hơn nữa hợp tác
song phương; tập trung mọi sức lực thực hiện bằng được nội dung tinh thần thỏa
thuận mà lãnh đạo Đảng nước đã đề ra; tiếp tục củng cố và thắt chặt hơn nữa
quan hệ hữu nghị truyền thống, tình đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện giữa
hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước Lào-Việt Nam; góp phần vào sự
nghiệp bảo vệ hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển trong khu vực và trên thế
giới.
Hai bên cần tiếp tục tăng cường giáo dục để các thế hệ con cháu mai sau
hiểu được ý nghĩa sống còn của quan hệ Lào-Việt nhằm tiếp tục duy trì, vun đắp
mối quan hệ đặc biệt này; không ngừng củng cố lòng tin chiến lược; tập trung
giải quyết các vấn đề còn vướng mắc và bổ sung sửa đổi những hạn chế còn kìm
hãm sự phát triển của hai bên; tích cực phát huy thế mạnh và tiềm năng của mỗi


nước; phối hợp hài hòa quan hệ đặc biệt giữa hai nước một cách phù hợp với tập
quán quốc tế; hỗ trợ, dành ưu tiên, ưu đãi và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho
nhau; khuyến khích các bộ, ban ngành, địa phương và tổ chức quần chúng của
hai nước trực tiếp hợp tác, ủng hộ và giúp đỡ lẫn nhau một cách có hiệu quả và
thiết thực hơn; thúc đẩy hợp tác toàn diện với bước tiến mới, thành tựu mới, tạo
điều kiện thuận lợi cho nhau trong hội nhập kinh tế khu vực và thế giới; quyết
tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng X Đảng Nhân dân cách mạng
Lào và Đại hội Đảng XII Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra; tạo bước đột phá
mới cho mối quan hệ đặc biệt giữa hai nước, giúp cho mối quan hệ này ngày
càng vững chắc và bền vững với thời gian.
Thị trấn, ngày 22 tháng 8 năm 2017
NGƯỜI DỰ THI

Khổng Văn Tiến




×