BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
NGUYỄN KIÊN CƯỜNG
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ KHẢO NGHIỆM VÔ TÍ NH CÁC
DÒNG KEO LÁ TRÀ M ( Acacia auriculiformis A.)
TẠI TRẠM BẦU BÀ NG (BÌNH DƯƠNG)
VÀ TRẠM CẨM QUỲ (HÀ NỘI)
CHUYÊN NGÀNH: LÂM HỌC
MÃ SỐ: 60.62.60
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. BÙ I VIỆT HẢI
Hà Nô ̣i, 2011
1
MỞ ĐẦU
Hơn nửa thế kỷ qua, diện tích rừng trên toàn thế giới đã suy giảm nhanh
chóng, đặc biệt tốc độ mất rừng ở các nước đang phát triển là đáng báo động. Đối
với Việt Nam, diện tích rừng từ 14 triệu ha năm 1943 xuống còn 10,9 triệu ha năm
2001 [23]. Trữ lượng gỗ giảm sút, tính đa dạng sinh học trong rừng không còn
phong phú như trước đây, điều đó đã làm giảm khả năng phòng hộ, bảo vệ môi
trường sinh thái và giảm nhẹ thiên tai cũng như cung cấp lâm sản cho nhu cầu của
xã hội. Trước thực trạng về nhu cầu lâm sản và môi trường sinh thái, đồng thời
giảm sức ép khai thác đối với rừng tự nhiên thì biện pháp lựa chọn tốt nhất là đẩ y
mạnh công tác trồng rừng và tăng cường bảo vệ rừng tự nhiên hiện có.
Cùng với xu thế chung toàn cầu, Chính phủ Việt Nam đã và đang thực hiện
chương trình trồng mới 5 triệu hecta rừng với mục tiêu làm tăng độ che phủ của
rừng lên 43%, trong đó gồm có 2 triệu ha rừng phòng hộ và đặc dụng, 3 triệu ha
rừng sản xuất [3]. Đối với rừng sản suất, bên cạnh các loài cây trồng bản địa truyền
thống thì trong những năm gần đây, một số loài cây nhập nội đã được ưu tiên đầu
tư nghiên cứu nhằm tìm ra các giống mới đạt hiệu quả kinh tế cao và phù hợp với
điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu của Việt Nam. Các loài này hiện đã được gây trồng
trên diện rộng; chỉ tính riêng các loài Keo và Bạch đàn đã chiếm khoảng 65% diện
tích rừng trồng và được trồng ở hầu hết các vùng sinh thái trong cả nước [16].
Biết rằng, năng suất rừng trồng là kết quả của giống cộng với môi trường
canh tác. Với khâu giống, Việt Nam đã có pháp lệnh giống cây trồng lâm nghiê ̣p
(2004). Tuy nhiên, cho đến nay năng suất rừng trồng của Việt Nam còn thấp hơn
rất nhiều so với các nước trong khu vực (đạt bình quân 5 – 10 m3ha-1năm-1, trong
khi các nước Úc, Brasil, Côngô, Ấn Độ,… năng suất rừng trồng đạt tới 70 – 100
m3ha-1năm-1). Nguyên nhân chính là do nguồn giống đưa vào trồng rừng chưa được
kiểm soát chặt chẽ về chất lượng. Cụ thể là, công tác cải thiện giống chưa được
quan tâm và đầu tư đúng mức. Các nguồn giống sử dụng tràn lan và không qua
2
khảo nghiệm, bên cạnh đó là việc áp dụng các biện pháp kỹ thuật thâm canh thiếu
đồng bộ [16].
Do cây trồng lâm nghiệp là cây dài ngày, nếu không được quan tâm đầu tư
đúng đắn và khoa học từ đầu sẽ dẫn đến tổn thất lớn về kinh phí và thời gian. Đặc
biệt, với trồng rừng kinh doanh gỗ lớn thì việc đòi hỏi sử dụng nguồn giống có chất
lượng di truyền cao ngày một lớn. Bởi vậy, rất cần các hoạt động nghiên cứu cải
thiện giống cây trồng rừng, từ khảo nghiệm loài, xuất xứ cho đến khảo nghiệm
dòng vô tính để chọn ra được các loài, xuất xứ, các dòng phù hợp với từng vùng
sinh thái và phù hợp với mục tiêu đã đặt ra.
Keo lá tràm (Acacia auriculiformis A.Cunn. ex Benth) là loài cây nhập nội
được các nhà lâm nghiệp tập trung nghiên cứu từ những năm 1980. Kết quả nghiên
cứu đã tìm được một số xuất xứ có triển vọng trên các vùng sinh thái của Việt
Nam. Đồng thời, xác định được đây là loài cây đa mục đích (cây cải tạo đất nhờ
khả năng cố định đạm; cung cấp gỗ mộc, gỗ nguyên liệu giấy, gỗ củi, tanin,...), sinh
trưởng nhanh và cho tỉ lệ sống cao ngay cả trên các môi trường sống có điều kiện
khắc nghiệt.
Từ tất cả các vấn đề nêu trên, đề tài nghiên cứu: “Đánh giá kết quả khảo
nghiệm vô tính các dòng Keo lá tràm (Acacia auriculiformis A.Cunn. ex Benth)
tại trạm Bầu Bàng, huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương và trạm Cẩm Quỳ, huyện
Ba Vì, Thành phố Hà Nội” được thực hiện nhằm chọn ra một số dòng Keo lá tràm
có năng suất cao, chất lượng tố t để phục vụ công tác trồng rừng và bổ sung vào bộ
giống cây trồng lâm nghiệp được phép sản xuất kinh doanh của Việt Nam.
3
Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tầm quan trọng của giống cây rừng
Giống cây trồng là một quần thể cây đồng nhất về hình thái và có giá trị kinh
tế nhất định, nhận biết được bằng sự biểu hiện của các đặc tính do kiểu gen qui
định và phân biệt được với bất kỳ quần thể cây trồng nào khác thông qua sự biểu
hiện của ít nhất một đặc tính và di truyền được cho đời sau (Pháp lệnh giống cây
trồng lâm nghiê ̣p, 2004). Chọn giống là một trong những khâu quan trọng nhất của
trồng rừng thâm canh. Không có giống được cải thiện theo mục tiêu kinh tế thì
không thể đưa năng suất rừng lên cao được. Cải thịên giống cây rừng chỉ có hiệu
quả khi nó kết hợp được tất cả sự khéo léo về lâm sinh và chọn giống của nhà lâm
nghiệp để sản xuất ra được những sản phẩm cây rừng một cách nhanh nhất và rẻ
nhất [40]. Không thể thu được năng suất rừng tối đa khi không sử dụng những cây
có chất lượng di truyền tốt nhất, ngược lại bất luận một giống cây rừng xuất sắc
như thế nào về mặt di truyền vẫn không đạt được sản phẩm tối đa nếu không áp
dụng các biện pháp kỹ thuật lâm sinh trong một thời gian dài. Vì thế, khi nói đến
cải thiện giống cây rừng, một mặt phải nghĩ đến việc áp dụng các nguyên lý di
truyền học và chọn giống để nâng cao năng suất và chất lượng cây rừng đáp ứng
mục tiêu kinh tế là chính, mặt khác không bao giờ được quên các biện pháp kỹ
thuật lâm sinh thích hợp với đặc điểm sinh thái của các loài cây rừng [11].
Khảo nghiệm loài là bước đầu tiên trong chương trình trồng rừng, đồng thời
cũng là chương trình chọn giống. Khảo nghiệm loài thực chất là chọn loài cây có
các đặc tính phù hợp với mục đích kinh tế và thích hợp với điều kiện khí hậu - đất
đai của mỗi vùng. Thông qua khảo nghiệm loài thì mới xác định được loài tốt nhất,
thích hợp nhất, phù hợp với mục đích kinh doanh và phù hợp với điều kiện lập địa
nơi trồng rừng. Tuy nhiên, chọn được loài phù hợp với yêu cầu đặt ra vẫn chưa đủ
4
vì trong loài có nhiều xuất xứ khác nhau, vì thế cần phải chọn được xuất xứ tốt
nhất, có khả năng thích ứng cao nhất, phù hợp với các mục tiêu đã đặt ra [12].
Khảo nghiệm xuất xứ là bước thứ hai tiếp theo của khảo nghiệm loài, là sự
tập hợp nguồn hạt từ các vùng sinh thái khác nhau của một loài nào đó đã được xác
định, xây dựng khảo nghiệm nhằm tìm ra một hay một số xuất xứ tốt nhất, có tỷ lệ
sống cao, có năng suất cao theo các mục tiêu kinh tế, có khả năng phòng chống sâu
bệnh cũng như các điều kiện bất lợi khác [12]. Đối với các loài cây nhập nội thì
khảo nghiệm là một bước không thể thiếu được trong công tác chọn giống. Khảo
nghiệm xuất xứ nhằm chọn ra được những xuất xứ tốt nhất, đáp ứng được các yêu
cầu của nhà chọn giống. Khảo nghiệm là cơ sở cho chọn lọc cây trội, gây tạo giống
mới. Theo Willan (1988) thì việc chọn xuất xứ trong các loài có biến dị lớn có thể
cho tăng thu 15 – 30%. Từ các xuất xứ tốt nhất, tiến hành chọn lọc cây trội, thu
quả, hạt và các vật liệu sinh dưỡng tiến hành khảo nghiệm giống, dòng vô tính
nhằm chọn ra các giống,dòng sinh trưởng phát triển tốt, có khả năng chống chịu tốt
với điều kiện ngoại cảnh và khả năng nhân giống cao, thích ứng tốt với các vùng
sinh thái khác nhau, sau đó xây dựng vườn giống tạo vật liệu giống bằng hạt, bằng
hom hoặc nuôi cấy mô nhằm cung cấp giống tốt phục vụ cho công tác trồng rừng
[15].
Nói tóm lại, khảo nghiệm loài và xuất xứ có ý nghĩa quyết định đến sự thành
bại trong sản xuất lâm nghiệp. Thông qua khảo nghiệm loài và xuất xứ, chúng ta
mới chọn được một cách chắc chắn xuất xứ thích hợp nhất để sử dụng cho một
chương trình trồng rừng trên một số vùng sinh thái khác nhau, đặc biệt là đối với
loài cây nhập nội như Keo lá tràm. Khảo nghiệm loài và xuất xứ chính là sự lợi
dụng các biến dị di truyền sẵn có trong tự nhiên một cách có cơ sở khoa học, thông
qua việc thực nghiệm gây trồng trên những lập địa mới. Đây là phương pháp chọn
giống nhanh nhất và hiệu quả nhất [9]; [12].
5
Khảo nghiệm loài
(chọn loài)
Khảo nghiệm xuất
xứ (chọn xuất xứ)
Chọn lọc
cây trội
Lai giống
Khảo nghiệm
giống
Chuyển hóa
rừng giống
Rừng giống
Vườn giống
Vật liệu giống
(hạt, hom .....)
Rừng trồng mới
Hình 1.1: Sơ đồ chung của một chương trình cải thiện giống cây rừng
(Lê Đình Khả và Dương Mộng Hùng, 1998 [12].)
6
Có thể tóm lược chương trình cải thiện giống cây rừng theo sơ đồ (Hình
1.1). Theo Anderson (1996): “Một xuất xứ đáng tin cậy sẽ sản xuất ra một giống
cây rừng với 90% khả năng chắc chắn hơn là một xuất xứ xuất sắc song chỉ có 50%
khả năng”. Bên cạch đó, tác giả so sánh vai trò của cải thiện giống và biện pháp kỹ
thuật lâm sinh như ruột bầu, làm đất, bón phân, làm cỏ,... cho các loài cây mọc
nhanh như Keo trên một số lập địa của vùng nhiệt đới đã đưa ra kết luận rằng:
trong giai đoạn vườn ươm và sau 1 năm trồng thì cải thiện giống chỉ chiếm 15%
năng suất, đến năm thứ 3 cải thiện giống làm tăng 50% và đến năm thứ 6 cải thiện
giống quyết định đến 60% năng suất. Với loài cây mọc nhanh, các phương thức
làm đất có tác dụng tích cực trong năm thứ nhất, tỷ lệ ảnh hưởng tới năng suất là
20%, các năm tiếp theo yếu tố làm đất không còn ý nghĩa. Đối với bón phân cho
cây thì mức độ tác dụng cũng giảm dần theo sự tăng của tuổi cây, giai đoạn vườn
ươm phân bón chiếm 60% năng suất, sau một năm trồng thì trị số này giảm còn
35% và tiếp tục giảm dần còn 25% ở năm thứ 3 (dẫn từ Lê Đình Khả, 1998) [11].
1.2. Giới thiệu chung về cây Keo lá tràm
Keo lá tràm hay còn gọi là Tràm bông vàng có tên khoa học là Acacia
auriculiformis A. Cunn. ex. Benth, thuộc họ phụ Trinh nữ (Mimosoideae), họ Đậu
(Leguminosae), bộ Leguminosales. Đây là loài cây có phân bố tự nhiên ở Australia,
và nhiều vùng của Papua New Guinea, kéo dài tới Irian Yaya và quần đảo Kali của
Indonesia. Phạm vi phân bố nằm giữa vĩ độ 5 và 170 Nam, nhưng chủ yếu ở các vĩ
độ 8 – 160 Nam, độ cao tyệt đối từ 0 đến 500 m nhưng chủ yếu phân bố từ 5 đến
100 m, đặc biệt cũng thấy Keo lá tràm xuất hiện ở những vùng núi cao tới 1100 m
như ở Zimbabue, tuy nhiên sinh trưởng kém và hình thân rất xấu, chủ yếu ở dạng
cây bụi [35]. Keo lá tràm có khả năng thích nghi cao và sinh trưởng nhanh nên đã
được trồng rộng rãi ở nhiều nước như Ấn Độ, Indonesia, Malaysia, Srilanka, Thái
Lan, Philipine, Trung Quốc và Việt Nam.
Cây Keo lá tràm là loài cây gỗ có kích thước trung bình, cây sinh trưởng
nhanh, đơn thân, đoạn thân dưới cành thẳng sau đó cong về phía trên, thường cao
7
từ 10 – 20 m, ở những nơi có điều kiện thuận lợi cây cao đến 30 m, đường kính đạt
80 cm. Cây khi còn non có vỏ nhẵn, khi lớn vỏ có màu xám hoặc nâu, độ dày vỏ từ
3 đến 10 mm, nứt dọc nhỏ, khi già vỏ bong thành mảng. Tán lá dày, rậm và rộng, lá
thường xanh, có nhiều cành nhánh. Loài cây này có lá kép lông chim trong thời kỳ
cây mạ, sau đó là lá đơn mọc cách hình lưỡi giáo dài 15 đến 20 cm và rộng 2 đến 3
cm, có 3 gân chính chạy song song theo chiều dài của lá, phiến lá dày cứng, màu
xanh lục, nhẵn, bóng, mép lá nguyên, đầu lá nhọn. Hoa tự hình bông mọc thành
chùm, dài, màu vàng tươi. Quả đậu hình dẹt, mỏng, lúc còn non thẳng, khi già hình
cong và cuộn lại theo kiểu xoắn ốc không đều, mép ngoài của quả gợn sóng như
vành tai. Quả dài 5 – 6 cm, rộng 1,5 cm. Hạt nhỏ dẹt hình bầu dục nằm ngang trong
vỏ quả, mỗi hạt được bọc bởi một sợi râu màu vàng da cam. Hạt chín màu nâu đen,
có vỏ dày, cứng, rốn ở phía đầu nhỏ. Mỗi kg hạt có từ 30.000 – 60.000 hạt [35].
Keo lá tràm là loài cây ưa sáng mạnh, sinh trưởng nhanh ở những vùng có
khí hậu nóng ẩm, nắng nóng quanh năm, nhiệt độ bình quân năm từ 14 – 290C,
nhiệt độ bình quân tối đa từ 28 – 340C, nhiệt độ bình quân tháng tối thiểu từ 20 –
240C. Lượng mưa bình quân năm là 1300 - 1700 mm, lượng mưa tối thích từ 2000
– 2500 mm và có 4 – 6 tháng mùa khô. Tuy nhiên, Keo lá tràm là cây có biên độ
sinh thái rộng, có khả năng chịu hạn cao, sống được ở vùng khô hạn có lượng mưa
trung bình hàng năm thấp hơn 700 mm, có mùa khô kéo dài tới 6 tháng, hoặc vùng
có mùa đông lạnh xuống tới 100C, ở những nơi đó Keo lá tràm sinh trưởng kém,
cành nhánh nhiều và thường bị khô ngọn [35].
Keo lá tràm sống được trên nhiều loại đất khác nhau, từ đất cát ven biển đến
đất sét, đất potzon, đất feralit, đất phát triển trên phiến thạch sét, phiến thạch mica,
granit, đá vôi, bãi thải công nghiệp, đất chua phèn,…với độ pH từ 3 – 9,5. Tuy
nhiên, Keo lá tràm sinh trưởng tốt trên đất còn giàu dinh dưỡng, tầng đất sâu, độ
pH trung tính hoặc hơi chua [18], [35].
Keo lá tràm thường mọc thành đai hẹp, chúng có thể là loài cây ưu thế hoặc
là một trong những loài cây ưu thế của quần thể. Có thể tìm thấy chúng trong
8
những vùng đất thấp của vùng nhiệt đới. Keo lá tràm sinh trưởng cùng chung quần
thể với Bạch đàn và Phi lao [24]. Keo lá tràm không những có thể trồng rừng hỗn
loài với các loài cây Bạch đàn, Phi lao, Sao đen, Dầu,…mà còn trồng rừng thuần
loài đều sinh trưởng tốt.
Keo lá tràm có khả năng tái sinh bằng hạt rất mạnh. Hạt chín rụng xuống đất
khi gặp điều kiện thuận lợi hạt có thể nảy mầm ngay. Kết quả điều tra tái sinh rừng
trồng từ tuổi 6 đến tuổi 10 tại Lâm trường Trị An – Đồng Nai cho thấy tổng số hạt
giống nằm dưới tán rừng khoảng 14.000 – 16.000 hạt/ha, trong khi đó lượng hạt
còn sót lại nằm trong đất từ năm trước khoảng 4.000 – 12.500 hạt/ha và lượng cây
con tái sinh đạt 11.500 đến 24.000 cây/ha [5].
Keo lá tràm là loài cây sinh trưởng khá nhanh. Ở Việt Nam, trên các lập địa
tốt như ở Minh Đức (Bình Phước) với đất xám tầng dày đạt năng suất 34 – 35
m3ha-1năm-1 ở tuổi 6. Tại Ba Vì (Hà Nội) sau một năm cây cao từ 2,2 – 2,5 m với
đường kính 2,7 – 3,3 cm, sau hai năm có thể cao 5 – 6 m với đường kính 4,5 – 5,6
cm. Ở huyện Trảng Bom (Đồng Nai) cây Keo lá tràm trồng phân tán sau 30 năm
cao 20 – 22 m, đường kính 40 – 60 cm, cá biệt có cây đường kính đạt tới 80 cm
[10].
Keo lá tràm là cây xanh quanh năm, tán lá dày, rễ có nốt sần chứa vi sinh vật
cộng sinh Rhizobium và Bradyrhizobium có khả năng tổng hợp Nitơ khí quyển và
cố định đạm, cây có thể sống được trên đất đai nghèo kiệt nên nhiều nơi đã sử dụng
Keo lá tràm như là một loài cây tiên phong cải tạo đất, chống xói mòn và làm cây
xanh đô thị [7].
Kết quả khảo nghiệm xuất xứ trong nhiều năm qua ở nước ta cho thấy trong
hàng chục xuất xứ Keo lá tràm chỉ có một số ít là có sinh trưởng nhanh rõ rệt. Nòi
địa phương Keo lá tràm tuy có khả năng chịu đựng khá tốt đối với hoàn cảnh khắc
nghiệt nhưng sinh trưởng kém hơn nhiều các xuất xứ khác, lại có nhiều cành nhánh
[18]. Vì vậy, việc chọn những cá thể ưu trội có sinh trưởng nhanh, chất lượng thân
cây đẹp và khảo nghiệm dòng vô tính để xác định tính ổn định di truyền của chúng
9
là một trong những biện pháp cần thiết góp phần nâng cao năng suất và chất lượng
của rừng trồng loài cây này.
1.3. Những nghiên cứu cải thiện giống trên thế giới có liên quan
Ở một số nước trên thế giới việc trồng Keo (Acacia) làm nguyên liệu công
nghiệp với quy mô lớn đã được thực hiện từ rất sớm và công tác cải thiện giống
cũng được chú trọng ngay từ đầu. Các nghiên cứu thường tập trung vào việc tìm ra
những xuất xứ, dòng có năng suất và chất lượng tốt. Điển hình như ở Công Gô,
diện tích rừng trồng Keo bằng cây hom từ 1978 đến 1986 là 23.407 ha với tăng
trưởng bình quân ở tuổi 6 của các dòng vô tính được chọn là 35 m3ha-1năm-1 so với
12 m3ha-1năm-1 ở các lô hạt đại trà. Tăng thu di truyền từ 40% lên tới 192%, tức gần
3 lần so với rừng trồng từ nguồn giống chưa được cải thiện [20].
Từ năm 1989, ở Nam Phi đã có những nghiên cứu về sinh trưởng của dòng
vô tính. Kết quả cho thấy rừng trồng bằng cây con từ hạt năng suất bình quân đạt
21,9 m3ha-1năm-1, trong khi đó các dòng vô tính trồng đại trà đạt trên 30 m3ha-1năm1
[20]. Nhân giống vô tính các loài Keo đã được một số tác giả nghiên cứu. Wong
và Haines (1991) cho rằng việc giâm hom các cây mẹ trẻ tuổ i có thể sử dụng công
nghệ đơn giản và tiến hành giâm hom quanh năm, tuy nhiên giá thành cây hom cao
hơn cây hạt [39].
Keo được đưa vào khảo nghiệm và gây trồng ở Philipin từ những năm 1980.
Với diện tích khoảng gần 4000 ha gây trồng các loài Keo, trong đó Keo tai tượng
được đánh giá là rất có triển vọng, năng suất của rừng trồng 10 tuổi đạt tới 32 m3ha1
năm-1. Đối với Keo lá tràm 30 tháng tuổi qua khảo nghiệm xuất xứ đã xác định
được nguồn hạt từ vườn giống Bensbach và Holroyd là có triển vọng [21].
Tại Indonesia, nghiên cứu phát triển gây trồng các loài Keo được thực hiện
theo dự án trồng rừng của công ty MHP với tổng diện tích 193.500 ha, trong đó
diện tích trồng Keo tai tượng chiếm 90%. Năm 1990, công ty đã thiết lập được khu
rừng giống 17 ha bằng hạt của 79 cây trội; trong hai năm 1991 - 1992 đã trồng
92,92 ha rừng giống gồm nhiều xuất xứ. Từ năm 1993 – 1997, công ty đã xây dựng
10
được 35,63 ha vườn giống thế hệ 1. Sau đó, công ty đã trồng được 42,45 ha vườn
giống thế hệ 2 từ năm 2000 – 2005. Công ty cũng đã thiết lập 2 ha vườn giống sản
xuất hạt lai cho Keo tai tượng và Keo lá tràm năm 1996, với 139 gia đình từ PNG
và Queensland của Keo lá tràm đã được khảo nghiệm hậu thế. Hạt sẽ được thu hái
và chọn cây lai tại vườn ươm. Đây là hướng chọn giống lai tự nhiên đơn giản và dễ
thực hiện [21].
Tại Malaysia, các nghiên cứu và phát triển mở rộng rừng trồng mạnh nhất so
với các nước trong vùng Đông Nam Á. Tại đây, cây Keo lá tràm được dẫn giống
trồng thử nghiệm từ những năm 1930, đến những năm 1970 thì Keo lá tràm đã trở
thành loài cây trồng rừng kinh tế chính, hàng loạt các khảo nghiệm xuất xứ trên 4
địa điểm có điều kiện lập địa khác nhau về độ ẩm đất, độ sâu tầng đất, lượng mùn
và cỏ dại. Theo kết quả tại Sabah, sau 10 - 13 năm chiều cao cây đạt 20 - 25m và
đường kính 20 - 30cm, tăng trưởng bình quân ở đây là 44 m3ha-1năm-1, đồng thời
kết luận sinh trưởng của Keo lá tràm tốt hơn các xuất xứ địa phương. Tính đến cuối
năm 1990, diện tích rừng trồng Keo lá tràm ở Sabah vào khoảng 14.000 ha [32].
Tại Thái Lan, năm 1985 khảo nghiệm giống đã được tiến hành cho 12 loài
từ 23 lô hạt trên 6 địa điểm khảo nghiệm đã thu được kết quả sau 3 năm tuổi sinh
trưởng giữa các loài và xuất xứ khác nhau là sai khác có ý nghĩa, trong đó các loài
Keo lá tràm, Keo lá liềm và Keo đa thân có xuất xứ từ Papua New Guinea được
đánh giá là tốt ở tất cả các lập địa. Keo lá tràm xuất xứ tốt nhất là Balamuk (PNG)
đạt chiều cao nơi có lập địa tốt nhất là 12,3 m và đường kính là 12 cm, đồng thời
Keo lá tràm cho tỷ lệ sống cao nhất kế đến là Keo đa thân và Keo lá liềm. Tác giả
cũng chỉ ra rằng khi sử dụng các loài Keo để trồng rừng thì việc xác định điều kiện
lập địa, loài và xuất xứ thích hợp để đảm bảo sinh trưởng và sản lượng là công tác
không thể thiếu, nếu sử dụng các loài, xuất xứ không thích hợp với điều kiện của
lập địa thì hậu quả sức sinh trưởng và sản lượng kém là không thể tránh khỏi và
phải chịu tổn thất không nhỏ [27].
11
Khảo nghiệm hậu thế các gia đình cây trội Keo lá tràm được chọn lọc từ nơi
nguyên sản và từ các lâm phần địa phương tại Thái Lan năm 1989 đã cho thấy có
sự sai khác rất lớn về sinh trưởng giữa các xuất xứ cũng như giữa các gia đình
trong cùng xuất xứ. Các gia đình được chọn lọc trong các rừng sản xuất có sinh
trưởng kém đã bị chặt bỏ khi khảo nghiệm này được chuyển hoá thành vườn giống.
Sự sinh trưởng kém của các gia đình địa phương đã được lý giải là do nền tảng di
truyền hẹp, tình trạng giao phấ n cận huyết và chọn lọc âm tính (các cá thể có sinh
trưởng kém được chọn để thu hái hạt giống cho sản xuất đại trà) đã diễn ra qua
nhiều thế hệ [35].
Tại Lào, khảo nghiệm phối hợp loài và xuất xứ cho các loài Keo Acacia
được tiến hành năm 1998 thông qua sự đầu tư của tổ chức Phát Triển Quốc Tế
Thụy Điển (SIDA) với 14 xuất xứ thuộc 8 loài kết quả cho thấy Keo tai tượng xuất
xứ Oriomo (PNG) sinh trưởng tốt nhất, cây Keo lá tràm xếp thứ ba về sinh trưởng ở
xuất xứ tốt nhất Archer River thuộc nước Úc, bên cạnh ưu điểm sinh trưởng nhanh
thì 2 xuất xứ này đạt tỷ lệ sống trên 80% [36].
Tại Trung Quốc, từ những năm 1960 Keo lá tràm đã được đưa vào gây
trồng, tới năm 1997 đã có khoảng 200.000 ha Keo được trồng ở phía Nam Trung
Quốc gồm 4 tỉnh là Hải Nam, Quảng Đông, Quảng Tây và Vân Nam, tốc độ trồng
hàng năm khoảng 20.000 ha; đã có 179 xuất xứ và 469 gia đình thuộc 21 loài Keo
được khảo nghiệm với tổng diện tích là 130 ha, Kết quả đã xác định được một số
loài gây trồng thích hợp trong đó Keo lá tràm, Keo tai tượng và Keo lá liềm đã
được lựa chọn đưa vào trồng rừng kinh tế trên diện rộng nhằm cung cấp gỗ. Cho
đến nay đã có 40 ha rừng giống được thiết lập gồm cả vườn giống cây con thế hệ 1
và 1,5; vườn giống dòng vô tính và vườn giống lai với sản lượng hàng năm trên
1000 kg hạt giống (dẫn từ Nguyễn Hoàng Nghĩa, 2003) [21].
Tổng hợp các nghiên cứu về sinh trưởng của các xuất xứ, tác giả Kamis
Awang nhận định rằng: sinh trưởng của cây rừng trong các khảo nghiệm xuất xứ là
kết quả của sự tương tác giữa điều kiện lập địa và nguồn gốc xuất xứ. Với các xuất
12
xứ có nguồn gốc từ Papua New Guinea có sinh trưởng tốt nhất cả về đường kính,
chiều cao và dạng thân, kế đến là xuất xứ từ Claudie River của Úc, sinh trưởng thấp
hơn là các xuất xứ vùng Cairns của Queensland nước Úc và hai xuất xứ Ceram và
Irian Jaya của Indonesia (trić h theo Lê Đin
̀ h Khả, 2003 [16].
Nghiên cứu về đa dạng di truyền đã giúp các nhà khoa học rút ngắn quy
trình chọn giống, tạo ra những giống mới có năng suất cao và chất lượng tốt hơn.
Nghiên cứu để so sánh mức độ đa dạng di truyền ở các quần thụ tự nhiên và ở vườn
giống cho thấy chỉ có 56% biến dị di truyền của các quần thể tự nhiên có mặt trong
rừng giống mà thôi [21]. Như vậy, cần phải có một chương trình cải thiện giống
phù hợp nhằm nâng cao chất lượng di truyền của các nguồn giống.
1.4. Các nghiên cứu về lĩnh vực cải thiện giống ở Việt Nam
Công tác chọn giống Keo đã được tiến hành từ những năm 1980, một loạt
các loài Keo đã được nhập khẩu phục vụ các khảo nghiệm loài, xuất xứ và được
tiến hành trên nhiều vùng sinh thái. Nguồn hạt giống chủ yếu do các dự án và tổ
chức quốc tế tài trợ như các dự án của FAO, PAM, SIDA, SAREC, CSIRO… Đây
đều là các lô hạt giống chuẩn có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, có số lượng cây mẹ đủ
lớn để bảo đảm mức độ đa dạng di truyền cao của nguồn giống cung cấp cho trồng
rừng sau này, trong đó Keo lá tràm đã được gây trồng trên diện rộng trong cả nước
và cho kết quả khả quan ở nhiều vùng sinh thái.
1.4.1. Các kết quả về khảo nghiệm xuất xứ
Trong các năm 1982 - 1984, các lô hạt của một số loài Keo vùng thấp trong
đó có cây Keo lá tràm đã được đưa vào trồng thử có tính chất thăm dò ở một số địa
phương của nước ta. Từ kết quả trong thời gian ấy cho thấy Keo lá tràm là một
trong những loài sinh trưởng nhanh chỉ sau Keo tai tượng [19].
Đến năm 1990 - 1991, thông qua dự án UNDP, một bộ giống gồm 39 xuất
xứ của 5 loài Keo vùng thấp gồm Keo lá tràm (A. auriculiformis), Keo tai tượng
(A. mangium), Keo lá liềm (A. crasscicarpa), Keo nâu (A. aulacocarpa), Keo quả
xoắn (A. cincinnata) đã được xây dựng tại Đá Chông (Hà Nội), Đông Hà (Quảng
13
Trị), Đại Lải (Vĩnh Phúc) và La Ngà (Đồng Nai). Kết quả nghiên cứu trong giai
đoạn đầu cho thấy sau 4 đến 5 tuổi các loài có sinh trưởng cao nhất là: A.
crasscicarpa, A. auriculiformis, A. mangium, A. cincinnata và A. aulacocarpa có
sinh trưởng kém nhất. Trong đó, các xuất xứ đáng chú ý đối với loài Keo lá tràm là
Coen River, Manton River, Mibini, Elizabeth và Kings Plains. Đối với khảo
nghiệm tại Đông Hà cho 5 loài Keo với 34 xuất xứ sau 52 tháng tuổi, thứ tự xếp
hạng về sinh trưởng Keo tai tượng tốt nhất, sau đến Keo lá liềm, đứng thứ ba là
Keo lá tràm, xếp thứ tư là Keo quả xoắn và cuối cùng là Keo nâu. Kết quả về sinh
trưởng của các xuất xứ tương tự như ở Đá Chông. Với khảo nghiệm ở La Ngà cho
4 loài Keo với 34 xuất xứ (không có loài Keo quả xoắn A. cincinnata) kết quả thu
được sau 16 tháng cho thấy Keo lá tràm là loài có sinh trưởng nhanh nhất, kế đến
là Keo lưỡi liềm, Keo tai tượng, kém nhất là Keo nâu [11]; [17]; [18].
Sau đó, trong các năm 1992 - 1994 một số khảo nghiệm khác được thực
hiện tại Sông Mây (Đồng Nai), Bầu Bàng (Bình Dương), Măng Giang (Gia Lai) và
Bãi Bằng (Phú Thọ). Kết quả khảo nghiệm đã cho thấy trong 5 loài Keo được khảo
nghiệm thì chỉ có 3 loài sinh trưởng nhanh là Keo lá tràm, Keo tai tượng và Keo lá
liềm. Về sinh trưởng của các xuất xứ đã có sự khác biệt rõ rệt, những xuất xứ tốt
nhất có thể tích cây bình quân gấp đôi những xuất xứ kém nhất. Sau 3 năm khảo
nghiệm đã chọn được 3 xuất xứ Keo lá tràm có triển vọng là Morehead River
(Australia), Mai kusa (PNG) và Noogoo Swamp (NT). Kết quả khảo nghiệm cho
thấy ở các tỉnh miền Bắc các xuất xứ Mibini (PNG), Coen River (Qld), Manton
(NT) và Kings Plains (Qld) là có triển vọng; trong khi đó tại Mang Giang (Gia Lai)
xuất xứ Coen River (Qld) và Kings Plains (Qld) có sinh trưởng nhanh hơn so với
hai xuất xứ còn lại [13] ; [21].
Năm 1994, khảo nghiệm các xuất xứ Keo lá tràm được tiến hành theo dự án
ACIAR 9310. Khảo nghiệm được tiến hành tại Cẩm Quỳ (Ba Vì), Đông Hà (Quảng
Trị) và Sông Mây (Đồng Nai). Kết quả chọn được xuất xứ Morehead (PNG) có
sinh trưởng tốt tại Sông Mây và Đông Hà, Goomadeer (Qld) sinh trưởng tốt tại
Cẩm Quỳ và Đông Hà, trong khi đó xuất xứ Coen River (Qld) sinh trưởng tốt ở cả
14
ba nơi. Riêng nòi địa phương Đồng Nai thuộc nhóm sinh trưởng trung bình và kém
ở cả ba nơi khảo nghiệm. Kết quả khảo nghiệm cũng cho thấy rằng trong các lô hạt
của xuất xứ Coen River thì lô hạt số 16142 là có sinh trưởng và hình dáng thân cây
đẹp nhất. Điều này chứng tỏ rằng các quần thể khác nhau và lô hạt khác nhau của
cùng một địa phương vẫn có sinh trưởng rất khác nhau [15].
Giai đoa ̣n 1996-1999, dự án FORTIP (Regional Project on Forest Tree
Impovement) về cải thiện giống cây rừng do Trung tâm nghiên cứu giống cây rừng
hợp tác với CSIRO của Australia đã trồng 8 ha vườn giống Keo lá tràm tại Ba Vì
(Hà Nội) và Chơn Thành (Bình Phước) từ hạt giống được thu ở các cây trội đã
được chọn lọc tại Papua New Guinea (PNG), các bang của Australia và từ Thái
Lan. Các vùng lấy giống là những xuất xứ đã được khảo nghiệm trước đây tại Việt
Nam và Thái Lan được đánh giá là những xuất xứ tốt nhất. Sau 3 năm tiến hành
đánh giá sinh trưởng giữ lại những gia đình tốt đồng thời tỉa bỏ những cá thể và
những gia đình xấu để chuyển thành vườn giống lấy hạt cung cấp giống trồng rừng
ở Việt Nam [29]. Đánh giá sinh trưởng sau 4 năm cho thấy các xuất xứ có triển
vọng nhất tại hai vườn giống là Rocky Creek (Qld) và Coen River (Qld). Ngoài ra,
một số xuất xứ khác thuộc nhóm đứng đầu về sinh trưởng là Olive River (Qld),
Archer River & Tribs (Qld) và Sakaerat (Thái Lan) [15].
1.4.2. Các nghiên cứu về chọn lọc cây trội và nhân giống vô tính
Năm 1996, nghiên cứu chọn cây trội và khảo nghiệm dòng vô tính cho Keo
lá tràm đã được thực hiện, qua đánh giá sớm xác định được một số dòng có triển
vọng ở Ba Vì (Hà Nội) như 81, 82, 83, 84, và 85. Tuy nhiên, việc đánh giá để
chọn lọc cây ưu việt vẫn đang được tiếp tục [8].
Nghiên cứu nhân giống giâm hom Keo lá tràm cho thấy: giâm hom vào
tháng 7, với hom lấy từ cây mẹ 1 năm tuổi cho tỷ lệ ra rễ rất cao. Nếu không xử lý
thuốc kích thích vẫn đạt tỷ lệ ra rễ hơn 90%. Việc xử lý thuốc IBA làm tăng số
lượng rễ trong tất cả các trường hợp và tăng chiều dài rễ ở một số trường hợp.
Nồng độ thuốc bột TTG thích hợp nhất cho Keo lá tràm là 0,75% (TTG là một loại
15
thuốc kích thích ra rễ). Trong đoạn thân cây non, đoạn ngọn cho tỷ lệ ra rễ cao nhất,
đoạn gốc thấp nhất [25].
Như vậy, trong những năm gần đây, qua những công trình nghiên cứu, các
báo cáo và các tài liệu khoa học đã công bố về Keo lá tràm, có thể thấy rằng:
- Keo lá tràm là một loài cây mọc nhanh, sinh trưởng tốt và có vùng sinh
thái rất rộng, có thể trồng ở nhiều nơi khác nhau, nhiều hoàn cảnh khác nhau.
- Keo lá tràm là một loài cây vừa đáp ứng được nhu cầu phong phú, đa dạng
của xã hội, vừa có tác dụng cải tạo đất, bảo vệ cảnh quan môi trường.
- Keo lá tràm là một loại cây có nhiều ưu điểm, để khai thác hết tác dụng
của loài cây này cần phải có các công trình nghiên cứu sâu hơn, toàn diện hơn,
nhất là các công trình về cải thiện giống một số cá thể tốt nhất trong các vườn
giống được xây dựng trước đây. Việc đánh giá khả năng di truyền của chúng là hết
sức cần thiết nhằm tìm ra các dòng vô tính có triển vọng nhất đưa vào sản xuất.
Cũng qua các nghiên cứu của TTNCGCR thấy rằng, từ chọn lọc cây trội và
khảo nghiệm dòng vô tính có thể cho ̣n tạo ra một số dòng có năng suất cao, chất
lượng thân cây tốt hơn giống địa phương hiện có cũng như giống đại trà của những
xuất xứ tốt nhất khi nhập nội. Tuy vậy, đối với Keo lá tràm những nghiên cứu này
mới được tiến hành trong 4 - 5 năm đầu ở Ba Vì (Hà Nội) và Sông Mây (Đồng
Nai). Do đó việc xây dựng và đánh giá các khảo nghiệm dòng vô tính ở một số nơi
khác là cần thiết. Xuất phát từ đòi hỏi của thực tiễn, để tiếp tục chọn lọc được
những dòng Keo lá tràm có năng suất cao, đề tài này góp phần hoàn thiện công
trình đó.
Tóm lại:
Điểm qua các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước cho thấy các loài
Keo Acacia nói chung và loài Keo lá tràm (A. auriculiformis) nói riêng đã và đang
là những cây trồng rất được quan tâm hiện nay, điều đó thể hiện qua nhiều công
trình nghiên cứu từ công tác chọn giống cải thiện giống cho đến các biện pháp kỹ
16
thuật thâm canh rừng trồng các loài cây này. Một trong những hướng đi mang lại
hiệu quả tốt nhất cho mục tiêu nâng cao sản lượng rừng là : hướng trọng tâm vào
công tác chọn tạo giống có năng suất cao, nhằm tạo ra rừng trồng năng suất ngày
càng cao thì công tác nghiên cứu chọn tạo giống mới càng trở nên cần thiết. Chính
vì vậy, công tác chọn tạo giống cần phải thường xuyên và liên tục nhằm cung cấp
nguồn giống chất lượng tốt cho trồng rừng. Xuất phát từ những quan điểm đó mà
nghiên cứu này được tiến hành nhằm góp phần nâng cao năng suất và chất lượng
rừng trồng.
17
Chương 2
MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
1/ Đánh giá khả năng sinh trưởng của các dòng Keo lá tràm đưa vào thử
nghiệm cho từng khu vực nghiên cứu làm cơ sở đề xuất giống mới cho trồng rừng
tại mỗi vùng sinh thái.
2/ Chọn được 2 – 3 dòng Keo lá tràm có năng suất, chất lượng cao nhất cho
trồng rừng dòng vô tính ở mỗi vùng sinh thái để bổ sung vào danh mục giống cây
trồng lâm nghiệp của Việt Nam.
2.2. Nội dung nghiên cứu
1/ Các chỉ tiêu sinh trưởng (D1,3, Hvn,, Vcây) và chất lượng sinh trưởng của
các dòng vô tính Keo lá tràm đưa vào khảo nghiệm.
2/ So sánh, đánh giá quá trình sinh trưởng của các dòng vô tính Keo lá tràm
tại 2 địa điểm khảo nghiệm và giữa 2 khu vực nghiên cứu với nhau.
2.3. Vật liệu nghiên cứu
1/ Vật liệu nghiên cứu là các dòng vô tính Keo lá tràm có mặt trong 2 khu
khảo nghiệm dòng vô tính được xây dựng năm 2005 (bảng 2.1). Khảo nghiệm dòng
vô tính Keo lá tràm tại Trạm thực nghiệm lâm nghiệp Bầu Bàng (Bình Dương) với
30 dòng và Trạm thực nghiệm lâm nghiệp Cẩm Quỳ (Hà Nội) với 25 dòng. Trong
đó: nguồn giống để khảo nghiệm ở cả hai địa điểm được chọn từ các dòng có triển
vọng ở giai đoạn 2 tuổ i của khảo nghiệm 102 dòng vô tính trồng năm 2002 và một
số các lô được trồng từ hạt để so sánh và làm đối chứng, bao gồm: lô hạt nguyên
sản Úc (NS), hỗn hợp cây trội vườn giống FORTIP Ba Vì (CT), lô hạt cây trung
bình vườn giống FORTIP Ba Vì (TB), lô hạt sản xuất công ty giống (DT) và hỗn
18
hợp các dòng 83, 84, 85 (HH). Mật độ trồng 1100 cây/ha (3m x 3m). Phân bón lót
gồm 3 kg phân chuồng và 200g phân NPK. Tất cả các vật liệu thí nghiệm được
thiết kế bởi Trung tâm nghiên cứu giống cây rừng - Viện KHLN Việt Nam.
Bảng 2.1: Các dòng Keo lá tràm được dùng tại các khảo nghiệm
STT
Tại Bầu Bàng
Tại Cẩm Quỳ
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
171
158
147
133
58
57
44
43
26
25
19
18
13
12
9
8
7
6
3
BVT-25
BVT-28
BVT-83
BVT-84
BVT-85
E
K
L
C
Hat–UC (ĐC)
Hat-BV (ĐC)
159
156
155
147
133
98
92
84
63
62
61
60
57
44
43
26
25
18
8
7
HH
DT (ĐT)
TB (ĐC)
NS (ĐC)
CT (ĐC)
19
2/ Khảo nghiệm dòng vô tính Keo lá tràm tại Trạm thực nghiệm lâm nghiệp
Bầu Bàng (Bình Dương) có 30 dòng. Đối chứng gồm: lô hạt nguyên sản úc 19035
(Hat-UC) và hạt giống cây trung bình vườn giống Ba Vì (H-BV). Thí nghiệm được
bố trí theo kiểu hàng cô ̣t với 3 lần lặp lại, trong đó mỗi dòng được bố trí thành một
ô, mỗi ô có 20 cây trồng thành 2 hàng.
3/ Khảo nghiệm dòng vô tính Keo lá tràm tại Trạm thực nghiệm lâm nghiệp
Cẩm Quỳ (Hà Nội) được bố trí gồm 25 dòng trong đó đối chứng gồm: lô hạt sản
xuất đại trà Công ty giống (DT), cây hạt từ cây trung bình vườn giống Ba Vì (TB),
lô hạt nguyên sản úc (NS) và cây trô ̣i vườn giố ng Ba Vi;̀ HH là hỗn hơ ̣p các dòng.
Thí nghiệm được bố trí dưới dạng khối ngẫu nhiên đầy đủ với 4 lần lặp, 10 cây/ô và
trồng thành 1 hàng.
2.4. Hiện trường nghiên cứu
Bảng 2.2: Điều kiện tự nhiên của khu vực nghiên cứu
Khu vực Bầu Bàng
Khu vực Cẩm Quỳ
Vị trí địa lý
Tọa độ địa lý: 110 15 vĩ độ Bắc
và 106 38 kinh độ Đông
0
- Phía Bắc giáp xã Tân Hưng
- Phía Nam giáp Nông trường Chiến
Thắng
- Phía Tây giáp giáp xã Lai Uyên
- Phía Đông giáp xã Lai Hưng
Tọa độ địa lý: 21007’ vĩ độ Bắc và
1050 26’ kinh độ Đông.
- Phía Bắc giáp Suối Hai
- Phía Nam giáp xã Tản Lĩnh
- Phía Tây giáp Ba Trại
- Phía Đông giáp Đầm Long
Địa hình
Đại diện cho loại đất phù sa cổ, địa hình
bằng phẳng, độ cao 50 m so với mực
nước biển.
Thuộc vùng trung du, độ cao bình
quân 150m, gồm những đồi bát úp,
khá đồng nhất, độ dốc trung bình 70 100.
20
Khí hậu - Thủy văn
Thuộc vùng Đông Nam Bộ là khu vực Nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, có
nhiệt đới điển hình với 2 mùa khô, mưa hai mùa khá rõ rệt là mùa khô và mùa
chuyển tiếp rõ rệt: Mùa mưa từ tháng 5 mưa, lượng mưa trung bình hàng năm
- 10 và mùa khô từ tháng 11 -4 năm sau. 1600 - 1800 mm. Mùa mưa kéo dài từ
Lượng mưa bình quân hàng năm từ tháng 4 đến tháng 10, có nhiệt độ bình
1800 mm - 2200 mm, tập trung 80% quân là 27.480C. Mùa khô kéo dài từ
vào 6 tháng mùa mưa, nhiệt độ bình tháng 11 đến tháng 3 năm sau với
quân là 26 - 270C; nhiệt độ tối thiểu nhiệt độ bình quân là 18.420C. Nhiệt
trong năm là 21,30C và trung bình tối độ bình quân năm là 23.20C (bảng
cao là 34,70C (bảng 2.2)
2.2)
Điều kiện đất đai nơi khảo nghiệm
Đất cát pha hình thành trên tàn tích phù
sa cổ, thành phần cơ giới nhẹ tầng đất
dày 1,5 - 2,0 m, nghèo dinh dưỡng và bị
glây hoá mạnh, lớp trên có thành phần
cơ giới nhẹ, nhưng phía dưới là tầng sét
nặng nên đất vừa dễ bị khô lại vừa dễ bị
ngập úng, có ống phèn sắt ở tầng sét thể
hiện qua bảng 2.3
Đất có độ phì kém, bị đá ong hoá
nặng ảnh hưởng xấu đến sinh trưởng
của cây trồng. Tại khu vực nghiên
cứu đất thuộc nhóm feralit màu nâu
vàng phát triển trên đá mẹ sa thạch,
độ sâu tầng đất khoảng 30 cm, nghèo
dinh dưỡng, thể hiện tính chất hoá
học và vật lý ở địa điểm khảo nghiệm
giống (bảng 2.3)
Bảng 2.3: Đă ̣c điể m khí hâ ̣u của vùng trồ ng khảo nghiê ̣m
Địa
điểm
nghiên
cứu
Vi ̃ độ
Kinh
đô ̣
Lươ ̣ng
mưa
(mm)
Tháng
mưa
>100
mm
Lươ ̣ng
bố c
hơi
(mm)
960
Ba Vì
21007 105026
1680
4-10
Bầ u
Bàng
11011 106037
1849
5-11
1859
TB
năm
23,2
27
Nhiêṭ đô ̣
Tối cao
Tối thấp
tuyê ̣t
tuyê ̣t đố i
đố i
40,2
39
Nguồ n:Trạm KTTV Sở Sao–Bình Dương và Ba Vì–Hà Nội
5,3
23.4
21
Bảng 2.4: Tính chất hoá học và vật lý của đất ở các khu vực nghiên cứu
Chất dễ tiêu
Cation trao đổi
Thành phần
Độ
Tên
(mg/100g)
(1đl/100mg)
cơ giới
pH
Mùn
Đạm
sâu
0,02KCL (%) (%)
(cm)
P2O5 K2O Ca++ Mg++ Al+++ 2-0,02 0,002 <0,002
phẫu
diện
0-10
3,5 3,70 0,16
2,22 7,24 2,26 1,03 5,87 30,1 41,1 28,8
3,5 2,62 0,14
1,65 6,11 1,03 0,61 5,56 32,3 34,9 32,9
3,6 1,59 0,13
1,42 5,43 0,62 0,64 4,42 36,5 30,7 32,8
11-20
Ba Vì
21-30
Bầu
00-20 3,97 1,25 0,10
4,25 4,80 1,52 1,31 3,05 25,7 28,9 45,4
20-40 3,87 0,63 0,06
3,15 3,00 1,41 1,21 2,92 21,8 32,9 45,3
Bàng
40-60 3,87 0,40 0,04 1,50
1,70 1,62 1,21 2,84 21,8 26,8 41,5
(Nguồn: theo Lê Đình Khả, 2003 [16]; Đỗ Đình Sâm, 1994 [22].)
2.5. Phương pháp nghiên cứu
2.5.1. Phương pháp kế thừa tài liệu
Kế thừa tài liệu của đề tài “Nghiên cứu cải thiê ̣n giố ng nhằ m tăng năng
suấ t, chấ t lượng cho một số loài cây trồ ng rừng chủ lực” giai đoạn 2005-2010 do
TS. Hà Huy Thinh
̣ làm chủ nhiệm.
Đề tài này là một phần của các thí nghiệm khảo nghiệm giống ở cây Keo lá
tràm của Trung tâm nghiên cứu giống cây rừng (TTNCGCR) thuộc Viện khoa học
Lâm nghiệp Việt Nam. Kết quả nghiên cứu của đề tài được thừa kế từ một phần
thiết kế của TTNCGCR. Tác giả đồng thời là người thực hiện tất cả các khâu của
thiết kế này.
22
2.5.2. Phương pháp bố trí thí nghiệm
Các thí nghiệm khảo nghiệm giống tại 2 địa điểm được tiến hành như trình
bày trong bảng 2.5.
Bảng 2.5: Phương pháp bố trí thí nghiệm tại Bầu Bàng và Cẩm Qùy
Thí nghiệm tại Bầu Bàng
Thí nghiệm tại Cẩm Quỳ
Bế n Cát – Bình Dương
Ba Vi ̀ – Hà Nô ̣i
- Làm đất: Ủi thực bì, cày theo rạch, - Làm đất: Ủi thực bì, cày toàn diện,
cuốc hố kích thước 40x40x40 cm.
cuốc hố kích thước 40x40x40 cm.
- Mật độ trồng: 1100 cây/ ha (khoảng - Mật độ trồng:1100 cây/ ha (khoảng
cách 3x 3m)
cách 3x 3m)
- Bón lót: 3kg phân chuồng + 0.2kg - Bón lót: 3kg phân chuồng + 0.2kg
NPK
NPK
- Cây giống: cây giâm hom cao 25-30 - Cây giống: cây giâm hom cao 25-30
cm, được tạo trong túi bầu PE 7x14 cm cm, được tạo trong túi bầu PE 7x14 cm
- Số lần lặp: 3 lần; mỗi ô trong một lần - Số lần lặp: 4 lần; mỗi ô trong một lần
lặp bố trí trồng 1 dòng với 20 cây, bố lặp bố trí trồng 1 dòng với 10 cây bố trí
trí trồng thành 2 hàng.
trồng thành 1 hàng.
- Số dòng: 30
- Số dòng: 25
- Ô thí nghiệm:
- Ô thí nghiệm:
3 mét
Hàng1: X X X X X X X X X X
3 mét
Hàng2: X X X X X X X X X X
Cây số 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Hàng: X X X X X X X X X X
3 mét
Cây số 1 2
3 4 5 6 7 8 9 10
23
2.5.3. Phương pháp chọn lọc cây trội
Chọn lọc cây trội theo quy phạm xây dựng rừng giống và vườn giống (QPN
15-93), quy phạm kỹ thuật xây dựng rừng giống chuyển hoá (QPN 16-93).
Cây trội cần có độ vượt so với số trung bình của lâm phần từ 1,5 đến 3 lần
độ lệch chuẩn (Bộ Lâm nghiệp, 1994) [1].
Công thức chung là: T =X + 1,5 * Sx đến T =X + 3 * Sx
Trong đó:
(2.1)
T: Tiêu chuẩn cần đánh giá của cây trội
X: Trị số trung bình của đám rừng xung quanh cây trội
Sx: Độ lệch tiêu chuẩn.
Các cây trội được chọn lọc là những cây có các chỉ tiêu định lượng như
đường kính, chiều cao, thể tích thân cây đảm bảo độ vượt chuẩn đồng thời có các
chỉ tiêu định tính như độ thẳng thân, độ nhỏ cành, mức độ sâu bệnh hại đạt yêu cầu
của quy phạm xây dựng rừng giống và vườn giống và có sức sinh trưởng tốt.
2.5.4. Phương pháp thu thập số liệu
+ Thu thập số liệu về sinh trưởng
Các chỉ tiêu sinh trưởng của rừng trồng có liên quan đến sinh trưởng thể tích
thân cây, năng suất và chất lượng, nghĩa là cả chỉ tiêu định tính và định lượng cần
quan tâm có thể đo đếm được. Chúng bao gồm: đường kính ngang ngực (D1.3,cm),
chiều cao vút ngọn (Hvn, m) và thể tích thân cây (Vcây, dm3), độ thẳng thân, độ nhỏ
cành và mức độ sâu bệnh (điể m).
Số liệu được thu thâ ̣p đinh
̣ vi ̣ theo định kỳ hàng năm từ năm 2007 đến thời
điểm 2010. Việc thu thập các số liệu sinh trưởng được tiến hành trên toàn bộ các ô
thí nghiệm, trong mỗi ô bố trí trồng một dòng.
Các chỉ tiêu sinh trưởng đường kính, chiều cao (D1.3, Hvn…) được thu thập
theo hướng dẫn từ giáo trình Điều tra rừng của Trường Đại học Lâm nghiệp:
- Đường kính ngang ngực (D1.3): Đo chu vi thân cây nơi độ cao 1,3 m bằng
24
thước dây với sai số 0,1 cm, sau đó quy đổi ra đường kính, đơn vi ̣cm.
- Chiều cao vút ngọn: Đo bằng sào đo cao có chia mét. Đo từ mặt đất đến
đỉnh sinh trưởng cao nhất với sai số là 20 cm. Khi chiều cao cây lớn hơn 10 mét
dùng thước Blume-Leiss với sai số 50 cm.
+ Thu thập các chỉ tiêu chất lượng
Đánh giá về chất lượng cây theo phương pháp cho điểm của Lê Đình Khả và
Dương Mộng Hùng (1998) [12].
Một số chỉ tiêu chất lượng được thu thập như: độ thẳng thân, độ nhỏ cành,
mức đô ̣ sâu bê ̣nh ; Thang điể m được thể hiện ở bảng 2.6
Bảng 2.6: Các tiêu chí cho điểm về chất lượng cây Keo lá tràm
Độ thẳng thân (Đtt)
Điểm
Cây rất cong (75% - 100% đoạn thân bị cong)
1
Cây cong vừa (25% - 50% đoạn thân bị cong)
2
Cây cong nhẹ (< 25% đoạn thân bị cong)
3
Cây hơi cong (rất ít thấy cong)
4
Cây thẳng
5
Độ nhỏ cành (Đnc)
Cành rất lớn:
> 1/3 đường kính gốc cành
Điểm
1
Cành lớn: = ¼ - 1/3 đường kính gốc cành
2
Cành trung bình: = 1/6 – 1/5 đường kính gốc cành
3
Cành nhỏ: = 1/9 – 1/7 đường kính gốc cành
4
Cành rất nhỏ:
5
<1/10 đường kính gốc cành
Sâu bệnh (Sb)
Điểm
Cây bị bệnh rất nặng (75% - 100% thân và tán bị bệnh)
1
Cây bị bệnh nặng (50% - 75% thân và tán bị bệnh)
2
Cây bị bệnh trung bình (25% - 50% thân và tán bị bệnh)
3
Cây bị bệnh nhẹ (< 25% thân và tán bị bệnh)
4
Cây không bị bệnh (toàn bộ thân và tán không bị bệnh)
5