Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Báo cáo thực tập tại tòa án thành phố đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.14 KB, 20 trang )

THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT VỤ ÁN LY HÔN CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI TẠI TÒA ÁN
NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG GIAI ĐOẠN 2012 – 2015.

I.
Vài nét về Tòa án nhân dân (TAND) thành phố Đà Nẵng
1. Lịch sử hình thành
Có thể nói, lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống Tòa án Việt Nam nói chung và
TAND thành phố Đà Nẵng nói riêng gắn liền với lịch sử xây dựng, củng cố và hoàn thiện bộ máy
nhà nước trong đó, có các cơ quan tư pháp. Sau Cách mạng tháng 8/1945 thành công, cùng với sự
ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày 13/9/1945, Tòa án quân sự trên cả ba miền
Bắc, Trung, Nam đã được thành lập dựa trên Sắc lệnh số 33, với nhiệm vụ xét xử tất cả những
người nào phạm một việc gì có phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
được thực hiện trước hoặc sau ngày 19/8/1945. Tòa án Quân sự là tiền thân, đánh dấu sự ra đời của
TAND ngày nay.
Ngày 29/3/1975, Đà Nẵng được giải phóng, góp phần quan trọng vào thắng lợi của đại
thắng mùa xuân năm 1975; Việt Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, non sông
thu về một mối. Để thực hiện nhiệm vụ xây dựng đất nước, TAND các tỉnh miền Nam lần lượt
được thành lập. Trong bối cảnh hân hoan đó, ngày 12/02/1976, TAND cách mạng tỉnh Quảng Nam
– Đà Nẵng được thành lập (sau đổi tên thành TAND tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng) và các TAND
cấp huyện cũng được thành lập tại 16 quận, huyện, thị xã của tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng.
Cùng với việc chia tách, thành lập mới đơn vị hành chính của tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng,
năm 1978, Tòa án Quận Nhất, Tòa án Quận Nhì và Tòa án Quận Ba sáp nhập lại thành TAND
thành phố Đà Nẵng thuộc tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng. Cùng với sự nỗ lực không ngừng của đội
ngũ cán bộ Tòa án và sự giúp đỡ của chính quyền địa phương, TAND tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng
đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Về thẩm quyền, Tòa đã đưa ra xét xử nhiều vụ án đặc
biệt nghiêm trọng, các tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; góp phần ổn
định an ninh trật tự xã hội. Về cơ cấu, tổ chức, ngành TAND tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng không
ngừng trưởng thành và đổi mới cùng sự phát triển của đất nước. Khi mới thành lập, TAND tỉnh
1



Quảng Nam – Đà Nẵng chỉ có 02 Tòa chuyên trách là Tòa Hình sự và Tòa Dân sự. Sau khi Luật
Tổ chức Tòa án nhân dân 2002 có hiệu lực thi hành thay thế Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 1988,
dựa trên những quy định hoàn thiện bộ máy ngành Tòa án, TAND tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng đã
có những bước phát triển. Ngày 01/7/1994, Tòa Kinh tế TAND tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng được
thành lập để giải quyết các tranh chấp kinh tế thay cho chức năng của Trọng tài Kinh tế Nhà nước.
Sau đó, năm 1996, Tòa Lao động và Tòa Hành chính cũng được thành lập giải quyết các tranh
chấp theo quy định pháp luật. Đội ngũ cán bộ công chức ngày càng được bổ sung có chất lượng
nhằm đáp ứng nhiệm vụ xét xử thời kỳ mới.
Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội khóa IX về việc chia tách tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng
thành 02 đơn vị hành chính trực thuộc trung ương là tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng, ngày
31/12/1996, ngành TAND tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng đã tiến hành chia tách. Theo đó, TAND
thành phố Đà Nẵng được thành lập với 06 Tòa án cấp huyện gồm: TAND quận Hải Châu, TAND
quận Thanh Khê, TAND quận Sơn Trà, TAND quận Liên Chiểu, TAND quận Ngũ Hành Sơn,
TAND huyện Hòa Vang. Đến năm 2005, TAND quận Cẩm Lệ được thành lập trên cơ sở chia tách
từ TAND huyện Hòa Vang. Kể từ đó, TAND thành phố Đà Nẵng tích cực xây dựng cơ sở vật chất,
ổn định tổ chức, chuyên tâm nâng cao chất lượng xét xử.
Thực hiện Nghị quyết 08 – NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ
trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”, Nghị quyết 49 – NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ
Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, ngành TAND thành phố Đà Nẵng đã đạt
được những kết quả tích cực. Trong công tác cải cách thủ tục hành chính, TAND thành phố và các
quận huyện đã luôn chú trọng thực hiện, thực hiện công khai, đơn giản hóa thủ tục hành chính.
Trong công tác xét xử, Tòa cũng đã đẩy mạnh thực hiện tranh tụng, lấy kết quả tranh tụng tại phiên
tòa làm căn cứ ra phán quyết. Trong xây dựng cơ sở vật chất – kĩ thuật, Tòa cũng đã tiếp nhận các
công nghệ hiện đại như hệ thống mạng nội bộ, hệ thống camera, ghi âm phiên tòa; trụ sở của Tòa
thành phố và quận huyện cũng được đầu tư xây mới, sửa chữa. Đặc biệt, công trình xây mới trụ sở
TAND thành phố Đà Nẵng được lãnh đạo TAND tối cao xác định là công trình trọng điểm ưu tiên
về vốn xây dựng theo yêu cầu đảm bảo cơ sở vật chất cho hoạt động tư pháp theo Nghị quyết số
49. Công trình đã được hoàn thành và đưa vào sử dụng từ đầu năm 2013.
2



Với những thành tích đạt được trên các mặt công tác, TAND thành phố Đà Nẵng và các Toà
án quận huyện nhiều năm được tặng Cờ Thi đua của Chính phủ, Cờ thi đua ngành của Bộ Tư pháp,
Cờ thi đua ngành TAND nhân dân và của Uỷ ban nhân dân thành phố Đà Nẵng và nhiều Bằng
khen của Thủ tướng Chính phủ, của Chánh án TAND tối cao và của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân
thành phố Đà Nẵng. Đặc biệt, năm 2010, kỷ niệm 65 năm ngày thành lập ngành TAND, TAND
thành phố Đà Nẵng được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân Chương Lao động hạng I. Đến nay
TAND quận Hải Châu, TAND quận Thanh Khê và TAND huyện Hoà Vang đã được tặng thưởng
Huân Chương Lao động hạng II; Tòa Hình sự TAND thành phố Đà Nẵng và TAND quận Cẩm Lệ
được tặng thưởng Huân chương Lao động hạng III của Chủ tịch nước.
2. Cơ cấu cơ quan, tổ chức của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng
Theo Điều 27 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2002, cơ cấu tổ chức của TAND thành phố Đà
Nẵng gồm:
<1>. Uỷ ban Thẩm phán TAND thành phố Đà Nẵng;
<2>. Tòa Hình sự, Tòa Dân sự, Tòa Kinh tế, Tòa Lao động, Tòa Hành chính. Trong trường hợp
cần thiết khác, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập các Tòa án chuyên trách khác
theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao;
<3>. Bộ máy giúp việc: Phòng Tổ chức cán bộ, phòng Giám đốc kiểm tra, Tổ Hành chính tư pháp
và Văn phòng.
Có thể khái quát cơ cấu tổ chức của TAND thành phố Đà Nẵng thành sơ đồ sau:
ỦY BAN THẨM PHÁN

Tòa

Tòa

Tòa

Tòa


Hình
Sự

Dân

Kinh

Lao

Sự

Tế

Động

Tòa
Hành
Chính

3

Phòng
Tổ
chức
cán bộ

Phòng
Giám
đốc
kiểm

tra

Văn

TAND

Phòng

Quận
Huyện


(Nguồn: www.danang.toaan.gov.vn)
Với cơ cấu trên, TAND thành phố Đà Nẵng có chức năng, nhiệm vụ theo Khoản 1 Điều 18
Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2002, gồm:
<1>. Sơ thẩm những vụ án theo quy định của pháp luật tố tụng;
<2>. Phúc thẩm những vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án
cấp dưới bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định pháp luật tố tụng;
<3>. Giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa
án cấp dưới bị kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng;
<4>. Giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật.
Theo Điều 30 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2002, đối với các Tòa chuyên trách trong TAND
thành phố Đà Nẵng có cơ cấu gồm có Chánh tòa, Phó Chánh Tòa, Thẩm phán, Thư ký Tòa án. Và
về thẩm quyền:
- Tòa Hình sự, Toà Dân sự và Tòa Hành chính có nhiệm vụ và quyền hạn sau:
a) Sơ thẩm những vụ án theo quy định của pháp luật tố tụng;
b) Phúc thẩm những vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của
Tòa án cấp dưới bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng.
- Tòa Kinh tế có nhiệm vụ và quyền hạn sau:
a) Sơ thẩm những vụ án kinh tế theo quy định của pháp luật tố tụng;

b) Phúc thẩm những vụ án kinh tế mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật
của Tòa án cấp dưới bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng;
c) Giải quyết việc phá sản theo quy định của pháp luật.
- Tòa Lao động có nhiệm vụ, quyền hạn sau:
a) Sơ thẩm những vụ án lao động theo quy định của pháp luật tố tụng;
b) Phúc thẩm những vụ án lao động mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp
luật của Tòa án cấp dưới bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng;
c) Giải quyết các cuộc đình công theo quy định của pháp luật.
3. Lãnh đạo TAND thành phố và các Tòa chuyên trách Đà Nẵng hiện nay
3.1. Lãnh đạo TAND thành phố Đà Nẵng hiện nay
1) Đồng chí Nguyễn Thành – Chánh án TAND thành phố Đà Nẵng
2) Đồng chí Đặng Ánh – Phó Chánh án TAND thành phố Đà Nẵng
3) Đồng chí Trần Huy Đức – Phó Chánh án TAND thành phố Đà Nẵng
4) Đồng chí Lê Tự - Chánh tòa Kinh tế TAND thành phố Đà Nẵng
5) Đồng chí Trương Chí Trung – Chánh tòa Dân sự TAND thành phố Đà Nẵng
4


6) Đồng chí Đặng Văn Mạnh – Thẩm phán, Chánh Văn phòng TAND thành phố Đà
3.2.

II.

Nẵng
Lãnh đạo các tòa chuyên trách và bộ máy giúp việc
 Tòa Hình sự
1) Đồng chí Nguyễn Thị Cảnh – Thẩm phán, Chánh tòa
2) Đồng chí Nguyễn Tấn Anh – Thẩm phán
 Tòa Dân sự
1) Đồng chí Trương Chí Trung – Thẩm phán, Chánh tòa

2) Đồng chí Hồ Quang Hùng – Thẩm phán, Phó Chánh tòa
3) Đồng chí Bùi Trọng Danh – Thẩm phán
4) Đồng chí Thái Thị Phi Yến – Thẩm phán
 Tòa Kinh tế
1) Đồng chí Lê Tự - Thẩm phán, Chánh tòa
2) Đồng chí Nguyễn Thị Hạnh – Thẩm phán, Phó Chánh tòa
3) Đồng chí Cao Văn Hiếu – Thẩm phán
 Tòa Lao động
Đồng chí Bùi Thị Hương - Thẩm phán, Phó Chánh tòa
 Tòa Hành chính
1) Đồng chí Nguyễn Thị Liên Hương - Thẩm phán, Chánh tòa
2) Đồng chí Trần Thị Khánh Nguyệt - Thẩm phán, Phó Chánh tòa
 Phòng Tổ chức cán bộ
1) Đồng chí Phan Tiến Sỹ - Trưởng phòng
2) Đồng chí Nguyễn Thị Lê – Phó trưởng phòng
 Phòng Giám đốc kiểm tra
1) Đồng chí Phạm Tồn - Trưởng phòng
2) Đồng chí Mai Vương Thảo - Phó trưởng phòng
 Văn phòng
1) Đồng chí Đặng Văn Mạnh – Chánh Văn phòng
2) Đồng chí Huỳnh Thị Minh Vụ - Phó Chánh Văn phòng
3) Đồng chí Nguyễn Thị Hồng Nguyên – Phó Chánh Văn phòng.

Nhận xét về việc áp dụng pháp luật trong giải quyết ly hôn có yếu tố nước ngoài tại

TAND thành phố Đà Nẵng
1. Căn cứ pháp luật để TAND thành phố Đà Nẵng thụ lý và giải quyết các vụ án ly hôn có
yếu tố nước ngoài
1.1. Căn cứ pháp luật để TAND thành phố Đà Nẵng thụ lý các vụ án ly hôn có yếu tố
nước ngoài.

5


Có thể nói rằng, ly hôn là giải pháp cuối cùng trong đời sống vợ chồng khi các giải pháp
khác không còn tác dụng. Ly hôn là chấm dứt quan hệ vợ chồng do Tòa án công nhận hoặc quyết
định theo yêu cầu của vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng. Ly hôn có yếu tố nước ngoài là quan
hệ ly hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài; giữa người nước ngoài với nhau thường
trú tại Việt Nam; giữa công dân Việt Nam với nhau mà căn cứ để chấm dứt quan hệ đó theo pháp
luật nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ ly hôn ở nước ngoài và bản án, quyết định ly
hôn của Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài đã được công nhận và cho thi hành tại
Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam. Đơn xin ly hôn do Tòa án thụ lý theo quy định
của pháp luật tố tụng dân sự. Vậy TAND cấp huyện hay cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết loại vụ
án này?
Về nguyên tắc chung, căn cứ vào điểm a Khoản 1 Điều 33 Bộ luật Tố tụng dân sự
(BLTTDS) 2004 (sửa đổi, bổ sung 2011) ly hôn, là tranh chấp hôn nhân gia đình, thuộc thẩm
quyền giải quyết của TAND cấp huyện. Tuy nhiên, nếu ly hôn có đương sự hoặc tài sản ở nước
ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp cho Cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam ở nước ngoài, cho Tòa án nước ngoài (ly hôn có yếu tố nước ngoài) thì không thuộc thẩm
quyền giải quyết của TAND cấp huyện (khoản 3 Điều 33 BLTTDS); mà thuộc thẩm quyền giải
quyết của TAND cấp tỉnh (điểm c khoản 1 Điều 34 BLTTDS).
TAND thành phố Đà Nẵng là TAND cấp tỉnh, vì thế, căn cứ vào các quy định pháp luật
được nêu ở trên, TAND thành phố Đà Nẵng có thẩm quyền thụ lý và giải quyết các vụ án ly hôn có
yếu tố nước ngoài.
1.2.

Căn cứ pháp luật để TAND thành phố Đà Nẵng áp dụng giải quyết các vụ án ly hôn
có yếu tố nước ngoài

Việc ly hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam
được giải quyết theo quy định của luật Hôn nhân – Gia đình. Do đó, giống như việc giải quyết ly

hôn thông thường, ly hôn có yếu tố nước ngoài được giải quyết dựa trên luật Hôn nhân – Gia đình,
các văn bản hướng dẫn thi hành, mà cụ thể là Luật Hôn nhân – gia đình 2000 (sửa đổi, bổ sung
2010); Nghị quyết 02/2000/NQ – HĐTP, ngày 23/12/2000 Hướng dẫn áp dụng một số quy định
của Luật Hôn nhân gia đình 2000; mới đây nhất là Luật Hôn nhân – gia đình 2014, có hiệu lực
6


ngày 01/01/2015. Đồng thời, giải quyết vụ án này còn phải tuân theo quy định của Nghị định
68/2002/NĐ – CP, ngày 10/7/2002 Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và
Gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài (sau được bổ sung bằng Nghị định
số 69/2006/NĐ – CP, ngày 21/7/2006); Nghị quyết 01/2003/NQ – HĐTP, ngày 16/4/2003 Hướng
dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết một số loại tranh chấp dân sự, hôn nhân gia đình…Cụ
thể, việc giải quyết ly hôn có yếu tố nước ngoài phải giải quyết cả ba quan hệ: quan hệ hôn nhân;
quan hệ cha, mẹ, con; quan hệ tài sản.
Đối với quan hệ hôn nhân: theo Điều 89, Điều 91 Luật Hôn nhân – gia đình 2000; Điều 51,
Điều 56, Điều 126, Điều 127 Luật Hôn nhân – gia đình 2014.
Đối với quan hệ cha mẹ con: Điều 92 – Điều 94, Điều 53 – Điều 56 Luật Hôn nhân – gia
đình 2000; Điều 58, Điều 81 – 83 Luật Hôn nhân – gia đình 2014. Thực tiễn xét xử tại TAND
thành phố Đà Nẵng cho thấy, đối với con đang ở Việt Nam thường giao cho người ở Việt Nam
nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục nhằm đảm bảo ổn định cuộc sống, tạo điều kiện phát triển mọi
mặt cho con.
Đối với quan hệ tài sản: Bên cạnh việc tuân theo các quy định đối với một vụ án ly hôn
thông thường (Điều 95 – Điều 99 Luật Hôn nhân – gia đình 2000; Điều 59 – 64 Luật Hôn nhân –
gia đình 2014) thì đối với tài sản là bất động sản ở nước ngoài phải tuân theo pháp luật của nước
nơi có bất động sản đó (khoản 3 Điều 104 Luật Hôn nhân – gia đình 2000; khoản 3 Điều 127 Luật
Hôn nhân – gia đình 2014).
Việc giải quyết các quan hệ này theo trình tự tố tụng dân sự được quy định cụ thể tại Bộ luật
Tố tụng dân sự 2004 (sửa đổi, bổ sung 2011).
2. Nhận xét về việc áp dụng pháp luật trong giải quyết vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài tại
TAND thành phố Đà Nẵng.

2.1. Ưu điểm
Thực tiễn giải quyết vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài tại TAND thành phố Đà Nẵng giai
đoạn 2012 – 2014 đã đạt được nhiều thành tựu:

7


Thứ nhất, số lượng các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài được thụ lý và giải quyết tại
TAND thành phố Đà Nẵng ngày càng tăng. TAND thành phố Đà Nẵng cũng đã tích cực giải quyết
triệt để loại vụ án này. Cụ thể ta có thể tìm hiểu thành tựu này qua các bảng số liệu sau:
Bảng 1.1: Bảng thống kê tình hình xét xử vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài tại TAND thành
phố Đà Nẵng từ năm 2012 – 2014
Năm 2012

Năm 2013

(1/10/2011 – 30/9/2012) (1/10/2012 – 30/9/2013)
Vụ án ly hôn có
yếu tố nước ngoài

51

68

Năm 2014
(1/10/2013 – 30/9/2014)
79

[Nguồn: TAND thành phố Đà Nẵng (2012, 2013, 2014), Thống kê tình hình xét xử vụ án ly
hôn có yếu tố nước ngoài]

Qua bảng số liệu này có thể thấy, số lượng các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài được
TAND thành phố Đà Nẵng thụ lý theo thủ tục xét xử sơ thẩm ngày càng tăng. Cụ thể: năm 2013,
tăng 17 vụ so với năm 2012; năm 2014 tăng 11 vụ so với năm 2013, 28 vụ so với năm 2012.
Bảng 1.2: Bảng thống kê tình hình thụ lý và giải quyết các vụ án ly hôn có yếu tố nước
ngoài tại TAND thành phố Đà Nẵng từ năm 2012 – 2014
Vụ án ly hôn có yếu tố
nước ngoài

Năm 2012

Năm 2013

Năm 2014

Thụ lý

51

68 (66 vụ thụ lý mới 79 (78 vụ thụ lý mới
và 02 vụ còn lại)
và 01 vụ còn lại)

Giải quyết

- 03 vụ đình chỉ

- 03 vụ đình chỉ

- 01 vụ đình chỉ


- 01 vụ công nhận sự - 03 vụ công nhận sự - 01 vụ công nhận sự
thỏa thuận của đương thỏa thuận của đương thỏa thuận của đương
sự
sự
sự
- 45 vụ ly hôn
Còn lại

- 61 vụ ly hôn

02 vụ trong đó 01 vụ - 01 vụ tạm đình chỉ
tạm đình chỉ

- 75 vụ ly hôn
- 02 vụ tạm đình chỉ

[Nguồn: TAND thành phố Đà Nẵng (2012, 2013, 2014), Thống kê tình hình thụ lý và giải
quyết các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài]
8


Qua bảng số liệu 1.2 này, ta thấy mặc dù gặp nhiều khó khăn trong việc giải quyết, song
TAND thành phố Đà Nẵng đã nổ lực giải quyết, hạn chế án quá hạn, án tồn đọng.
Nguyên nhân của thực trạng này là do: Hầu hết các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài đều
có nội dung là một trong hai bên vợ chồng là người Việt Nam ra nước ngoài làm việc hoặc định cư
ở nước ngoài, do đó, khoảng cách là một nguyên nhân cơ bản khiến tình cảm của vợ chồng rạn
nứt, không có đời sống chung hôn nhân và mục đích của cuộc hôn nhân không đạt được.
Hoặc cũng có thể là do việc kết hôn không lấy mục đích xây dựng gia đình làm căn bản, có
thể xuất phát từ những nguyên nhân như muốn người ở nước ngoài bảo lãnh nhằm xuất ngoại theo
diện đoàn tụ gia đình, hay vì tài sản… Đây là thực trạng phổ biến hiện nay. Và khi những mục đích

đó không đạt được thì yêu cầu ly hôn. Vì thế, qua thực tiễn giải quyết tại TAND thành phố Đà
Nẵng, đối với những vụ án này, thời kỳ hôn nhân rất ngắn mà thường không có con chung, tài sản
chung hay nợ chung.
Sự khác biệt về lối sống, quan điểm, văn hóa giữa vợ chồng cũng là nguyên nhân khiến vợ
chồng đặc biệt là giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài trở nên xa cách nhau dẫn đến đời
sống hôn nhân không tồn tại, nguy cơ hôn nhân tan vỡ cao.
Ngoài ra, những suy nghĩ bồng bột, chưa chín chắn của một bộ phận thanh niên trẻ cũng là
một trong những nguyên nhân khiến cho các cuộc hôn nhân nhanh chóng tan vỡ không chỉ đối với
các hôn nhân có yếu tố nước ngoài. Qua nghiên cứu hồ sơ được lưu trữ tại TAND thành phố Đà
Nẵng, tác giả nhận thấy, có nhiều cuộc hôn nhân được xây dựng sau vài tháng, quen biết chỉ qua
chat trên mạng, gặp gỡ đôi ba lần, không hề hay biết đến gia đình của đối phương…
Thứ hai, tình trạng án quá hạn, án tồn đọng đã không xảy ra khi giải quyết các vụ án ly hôn
có yếu tố nước ngoài. Các bản án được xây dựng hợp tình hợp lý, vừa căn cứ trên quy định pháp
luật vừa sát với thực tế hôn nhân của các bên.
Thứ ba, các Thẩm phán, Hội đồng xét xử có năng lực chuyên môn, kinh nghiệm xét xử tích
cực nghiên cứu hồ sơ vụ án, các quy định pháp luật không chỉ của Việt Nam mà của các quốc gia
khác để đưa ra các phán quyết thấu tình đạt lý.

9


Thứ tư, TAND thành phố Đà Nẵng đã có sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan nhà nước
hữu quan như Sở Tư pháp, cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài, UBND các
cấp nơi đương sự trong nước thường trú hoặc đương sự đang ở nước ngoài trước đó thường trú
nhằm xác định yếu tố nước ngoài của vụ án, xác minh được các chứng cứ mà đương sự cung cấp,
đảm bảo giải quyết vụ án theo đúng quy định pháp luật.
Thứ năm, TAND thành phố Đà Nẵng, mà trực tiếp là Thư ký Tòa án đã có những hướng dẫn
cụ thể về thủ tục, trình tự tố tụng dân sự nhằm đảm bảo đương sự được thực hiện quyền của mình.
2.2.


Những vướng mắc, hạn chế

Những vướng mắc, hạn chế trong việc giải quyết các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài cần
được tìm hiểu trong suốt quá trình giải quyết vụ án này; bắt đầu từ việc thụ lý vụ án.
Trước hết, có nhiều phương thức để TAND thành phố Đà Nẵng tiếp nhận đơn xin ly hôn của
nguyên đơn; đó có thể là nộp trực tiếp tại Tòa hoặc thông qua đường bưu điện. Hoặc, có thể do
TAND cấp huyện, trong quá trình giải quyết phát hiện thấy không thuộc thẩm quyền giải quyết nên
chuyển lên.
Sau khi tiếp nhận đơn, Tòa thu thập các chứng cứ bước đầu để xác định vụ án này có thuộc
thẩm quyền giải quyết hay không làm căn cứ tiến hành thủ tục thụ lý theo quy định của pháp luật.
Cụ thể, bên cạnh việc thu thập các tài liệu của một vụ án ly hôn thông thường như Giấy đăng ký
kết hôn (bản gốc hoặc bản sao theo mẫu) hoặc nếu không cung cấp được thì cần có xác nhận của
UBND cơ sở nơi hai vợ chồng thường trú, có chữ ký và đóng dấu, Giấy chứng minh nhân dân,
Giấy khai sinh hoặc Giấy khai sinh có công chứng, chứng thực của các con, Sổ hộ khẩu, các loại
giấy tờ về tài sản như Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Sổ tiết kiệm, Ngân phiếu, Tín phiếu…;
đối với vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài, các đương sự cần xuất trình Hộ chiếu, Giấy miễn thị
thực…
Nếu thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND thành phố Đà Nẵng thì các thủ tục tiếp theo
như thụ lý, hòa giải, đưa vụ án ra xét xử được thực hiện giống như việc giải quyết một vụ án dân
sự thông thường. Tuy nhiên, xuất phát từ việc có một trong các đương sự đang ở nước ngoài hoặc
là người nước ngoài, nên việc thực hiện các thủ tục trên có nhiều vướng mắc:
10


Thứ nhất, hoạt động ủy thác tư pháp gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến việc thực hiện các
thủ tục tố tụng giải quyết vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài.
Theo Điều 6 Luật Tương trợ tư pháp 2007, ủy thác tư pháp là yêu cầu bằng văn bản của cơ
quan có thẩm quyền của Việt Nam hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài về việc thực hiện
một hoặc một số hoạt động tương trợ tư pháp theo quy định của pháp luật nước nơi có liên quan
hoặc điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Cụ thể, ủy thác tư pháp là một trong các hoạt

động của tương trợ tư pháp nhằm thực hiện một số hoạt động trong quá trình tố tụng giải quyết các
vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài, trong đó có ly hôn có yếu tố nước ngoài. Các hoạt động này
có thể là tống đạt giấy tờ, hồ sơ, tài liệu liên quan đến tương trợ tư pháp dân sự; triệu tập người
làm chứng, người giám định; thu thập, cung cấp chứng cứ và các yêu cầu dân sự…Đối với các vụ
án ly hôn có yếu tố nước ngoài, hoạt động ủy thác tư pháp rất quan trọng, bởi thông qua đó, Tòa án
mới có các tài liệu, chứng cứ để giải quyết vụ án.
Song, thực tế, việc ủy thác tư pháp có kết quả rất thấp xuất phát từ nguyên do:
- Việc ủy thác tư pháp chỉ được thực hiện giữa Việt Nam và các nước có ký kết Hiệp định tương
trợ tư pháp; đối với trường hợp Việt Nam với nước ngoài chưa ký kết các Hiệp định này thì dựa
trên nguyên tắc có đi có lại nhưng không được trái với pháp luật Việt Nam, phù hợp với pháp luật
và tập quán quốc tế. Như vậy, hoạt động ủy thác tư pháp bị hạn chế về số quốc gia hợp tác trong
khi thực tiễn xét xử vô cùng đa dạng đã khiến việc giải quyết càng khó khăn hơn. Việc ủy thác tư
pháp với các quốc gia chưa ký Hiệp định tương trợ tư pháp hầu như không có kết quả.
- Thông tin của đương sự ở nước ngoài còn thiếu hoặc chưa chính xác nên không ủy thác được.
- Xuất phát từ việc ủy thác tư pháp phụ thuộc vào thông tin (địa chỉ, tên nước ngoài, tài sản) do
đương sự cung cấp, trong khi những thông tin đó chưa được kiểm chứng, một số trường hợp
đương sự không hợp tác để cung cấp thông tin chính xác của người cần ủy thác dẫn đến hồ sơ gửi
đi nhiều lần nhưng đều bị trả lại.
- Đương sự cần ủy thác không còn sinh sống ở địa chỉ cũ, trong khi các đương sự trong nước lại
không biết địa chỉ mới làm Tòa án bối rối trong việc tống đạt các giấy tờ.

11


- Theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2011, đối với các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài
thì thời hạn tối đa để giải quyết là 04 tháng và có thể gia hạn thêm 02 tháng đối với những trường
hợp phức tạp. Nhưng trên thực tế, thời hạn này khó được đảm bảo, xuất phát từ việc ủy thác tư
pháp kéo dài; lời khai của đương sự, tống đạt giấy tờ hoặc xác định tài sản ở nước ngoài không
thực hiện được khiến vụ án kéo dài, vi phạm thời hạn xét xử.
Thứ hai, thời gian giải quyết vụ án thường kéo dài không phải vì tính chất vụ án phức tạp

mà do cần thời gian xác minh nơi thường trú ở nước ngoài của đương sự; chờ kết quả của ủy thác
tư pháp; chờ đợi ý chí, nguyện vọng của đương sự được thể hiện trong các bản trình bày. Bởi,
đương sự muốn xác nhận mình đang ở nước ngoài thì cần liên hệ với cơ quan đại diện ngoại giao
của Việt Nam đặt tại nước đó.
Thứ ba, ý chí của đương sự ở nước ngoài khó được thể hiện rõ ràng, thậm chí là không được
thể hiện do không thể gặp trực tiếp đương sự đó cũng như có trường hợp đương sự không phản hồi
lại khi nhận được các thông báo của Tòa án.
Thứ tư, hòa giải tại Tòa án trong tố tụng dân sự là bắt buộc, kể cả các vụ án hôn nhân gia
đình; được quy định cụ thể tại Điều 180 BLTTDS, Điều 88 Luật Hôn nhân – gia đình 2000, Điều
54 Luật Hôn nhân – gia đình 2014. Đây là cơ hội để vợ chồng bày tỏ và giải quyết các mâu thuẫn
nhằm tìm kiếm cơ hội hàn gắn tình cảm, xóa bỏ hiểu lầm và xây dựng lại gia đình. Tuy nhiên, đối
với các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài, thực tiễn giải quyết tại TAND thành phố Đà Nẵng cho
thấy, hầu hết các phiên hòa giải đều không hòa giải được do đương sự ở nước ngoài, đương sự
nước ngoài, dù được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt (căn cứ khoản 2 Điều 182 BLTTDS). Vì thế,
phải đưa vụ án ra xét xử.
Đối với trường hợp các bên gặp được nhau thì buổi hòa giải cũng không mang được kết quả
khả quan. Thực tế giải quyết tại TAND thành phố Đà Nẵng từ năm 2012 đến nay, không có vụ án
ly hôn có yếu tố nước ngoài nào hòa giải thành mà chỉ có thể công nhận thỏa thuận của đương sự.
Điều này làm cho số lượng các vụ án này đưa ra xét xử rất lớn.
Thứ năm, tại phiên tòa

12


Nếu nguyên đơn thường trú ở nước ngoài, về Việt Nam yêu cầu xin ly hôn, với thời gian
giải quyết dài như đã phân tích ở trên, có nhiều trường hợp nguyên đơn phải trở lại nước ngoài, vì
nhiều lý do như công việc, chỗ ở tại Việt Nam, tiền bạc… trước khi vụ án được đưa ra xét xử nên
nguyên đơn vắng mặt dù được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai. Vì thế, Tòa án căn cứ vào điểm e
Khoản 1 Điều 192 BLTTDS, ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự.
Nếu bị đơn thường trú ở nước ngoài, khả năng về Việt Nam tham gia tố tụng là rất ít nên căn

cứ vào quy định pháp luật Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai, bị đơn vắng mặt mà không có
người đại diện tham gia phiên tòa (không vì sự kiện bất khả kháng) thì TAND thành phố Đà Nẵng
tiến hành xét xử vắng mặt họ (điểm b Khoản 2 Điều 199 BLTTDS).
Tại phiên tòa này, hầu hết mọi trường hợp không có sự có mặt của vị đại diện Viện kiểm sát
nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại phiên tòa của những người tiến hành tố tụng, người
tham gia tố tụng. Vì căn cứ vào Khoản 2 Điều 21 BLTTDS, Viện kiểm sát nhân dân chỉ tham gia
các phiên tòa sơ thẩm đối với những vụ án do Tòa án thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp
là tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có một bên đương sự là người
chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất, tâm thần; trong khi các vụ án ly hôn có yếu tố
nước ngoài này thường không có con chung, tài sản chung và nợ chung.
Trong phần xét hỏi tại phiên tòa, do bị đơn vắng mặt nên không thể hiện được ý chí, nguyện
vọng tại phiên tòa. Tòa án chỉ có thể căn cứ vào các tài liệu như bản trình bày, hình ảnh để xác
định nguyện vọng của bị đơn.
Bị đơn vắng mặt và thông thường không có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị
đơn nên phần tranh luận tại phiên tòa không được diễn ra.
III.

Những vấn đề học tập được trong quá trình thực tập tại TAND thành phố Đà Nẵng
Khoảng thời gian được thực tập tại TAND thành phố Đà Nẵng là cơ hội đầu tiên để em từ

những kiến thức thu nhận trên giảng đường đại học bước vào môi trường làm việc thực tế. Quãng
thời gian thực tập gần 08 tuần, em nhận ra mình còn nhiều hạn chế, thiếu sót về kiến thức, kỹ
năng, nhưng nhờ sự hướng dẫn tận tình của các anh chị tại Tòa, em đã được học hỏi được rất nhiều
kiến thức bổ ích.
13


1. Về tác phong làm việc
Được thực tập tại TAND thành phố Đà Nẵng là lần đầu tiên em tiếp xúc với môi trường
công sở, do đó, điều đầu tiên em học hỏi được là về tác phong làm việc. Ở đây, chính là việc chấp

hành đúng kỹ luật về thời gian làm việc cách ăn mặc, đi đứng sao cho phù hợp với hoàn cảnh và
không làm ảnh hưởng đến tiến độ làm việc của các đồng nghiệp. Cần trao dồi cho mình ý thức tự
giác hoàn thành công việc, nhiệm vụ được giao; đồng thời phải không ngừng học hỏi kinh nghiệp
của các thế hệ đi trước, của các đồng nghiệp nhằm hoàn thiện bản thân mình.
Đồng thời, 08 tuần thực tập đã cho em nắm bắt được văn hóa ứng xử, văn hóa giao tiếp giữa
đồng nghiệp với nhau, giữa mình với các đương sự để vừa tạo môi trường làm việc thân thiện vừa
đạt hiệu quả cao trong công việc.
2. Về kiến thức
Quãng thời gian thực tập tại TAND thành phố Đà Nẵng cho em hiểu thêm về lịch sử hình
thành và phát triển của ngành Tòa án thành phố Đà Nẵng; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
TAND cấp tỉnh được quy định trong Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2002; cơ cấu tổ chức, đội ngũ
cán bộ, công chức cũng như quy chế làm việc tại Tòa.
Được thực tập tại Tòa Dân sự thuộc TAND thành phố Đà Nẵng, dưới sự hướng dẫn của Thư
ký Ngô Đức Tài và các cô chú trong Tòa Dân sự, em đã rèn luyện, củng cố được rất nhiều kiến
thức về quá trình tố tụng dân sự sơ thẩm, phúc thẩm mà đã được thầy cô đại học trao dồi thông qua
việc nghiên cứu các hồ sơ vụ án, đi tống đạt giấy tờ, thẩm định tài sản, định giá tài sản, tham dự
các phiên hòa giải. Đồng thời, nhờ tiếp xúc được môi trường làm việc thực tế này, em trang bị
được thêm cho mình những kiến thức thực tế cần thu nhận để định hướng cho công việc sau này
của mình.
Bên cạnh đó, em cũng được quý cơ quan tạo điều kiện tham dự các phiên tòa xét xử các vụ án
dân sự, hình sự, hành chính, kinh tế, lao động. Qua các phiên tòa này, em nắm bắt được các quy
định pháp luật cụ thể đối với từng loại án, quá trình tiến hành tố tụng…
3. Về kỹ năng
14


Được thực tập tại TAND thành phố Đà Nẵng là cơ hội quý báu để em tiếp thu và rèn luyện
các kỹ năng.
Trước hết là kỹ năng soạn thảo văn bản như công văn, thông báo, báo cáo…sao cho vừa đầy
đủ vừa dễ hiểu. Được tiếp xúc với các hồ sơ vụ án giúp em học tập được kỹ năng đọc, sắp xếp hồ

sơ, đánh dấu bút lục, thống kê tài liệu và xác định nội dung cần nghiên cứu.
Cùng với đó, em được rèn luyện các kỹ năng tương tác với máy tính, máy in, máy photo;
được các anh chị hướng dẫn các thao tác vừa đơn giản, dễ nhớ, vừa hiệu quả không chỉ phục vụ
trong 8 tuần thực tập mà còn cần thiết cho bất cứ công việc nào sau này.
Nhờ sự tận tình của các anh chị Tòa án, em đã được đi thực tế nhiều nơi, qua đó, học hỏi
được rất nhiều kỹ năng trong việc tống đạt giấy tờ đến đương sự, thẩm định tài sản, định giá tài
sản…
Tham dự các phiên tòa xét xử thực tế là cơ hội để em học hỏi được nhiều kỹ năng từ các
Thẩm phán, Kiểm sát viên, Thư ký như kỹ năng điều hành phiên tòa; kỹ năng xét hỏi, lấy lời khai;
kỹ năng xử lý các tình huống phát sinh tại phiên tòa…
4. Về phương pháp
Phương pháp đầu tiên có thể kể đến là đọc hồ sơ vụ án: Hồ sơ vụ án thông thường rất nhiều
thông tin; do đó, cần sắp xếp thông tin cần đọc, chọn lọc các thông tin chuẩn xác, trọng yếu để
nắm bắt được quan hệ đang tranh chấp và hướng giải quyết.
Sau khi đọc hồ sơ vụ án, cần thiết áp dụng phương pháp phân tích, tổng hợp nhằm hiểu cặn
kẽ, nguồn cội nội dung tranh chấp; đồng thời vừa tìm được hướng giải quyết hợp tình hợp lý.
Phương pháp thứ ba liên quan đến tìm kiếm thông tin của các đương sự. Phương pháp này
có thể áp dụng trong buổi lấy lời khai, trình bày của các đương sự hay trong các buổi hòa giải và
tại phiên tòa. Theo đó, cần đặt các câu hỏi ngắn gọn, đi vào trọng tâm, sử dụng nhiều dạng câu hỏi
như câu hỏi đóng, câu hỏi mở để có được những thông tin cần thiết.

15


Tiếp theo là phương pháp tra cứu các văn bản quy phạm pháp luật và áp dụng pháp luật. Sử
dụng phương pháp này ta cần tìm hiểu được chính xác văn bản quy phạm pháp luật mình cần đồng
thời hiểu rõ được bản chất nội dung quy phạm để áp dụng giải quyết.
IV.

Kiến nghị, đề xuất

1. Kiến nghị chung
Để nâng cao chất lượng xét xử các vụ án dân sự nói chung và các vụ án ly hôn có yếu tố

nước ngoài nói riêng của TAND thành phố Đà Nẵng, cá nhân em xin được đề xuất các kiến nghị:
Thứ nhất, cần tăng cường quán triệt công tác chỉ đạo, kiểm tra xét xử của các cấp lãnh đạo
TAND cấp huyện, các Tòa chuyên trách và TAND thành phố Đà Nẵng. Cụ thể, đối với hoạt động
phân công Thẩm phán giải quyết các vụ án, một mặt cần căn cứ vào loại án, đối tượng tranh chấp
và tính chất của vụ án, mặt khác, cũng cần dựa trên chuyên môn nghiệp vụ của Thẩm phán và số
lượng vụ án mà Thẩm phán đó đang giải quyết để phân án hợp lý nhằm nâng cao chất lượng xét
xử, giảm áp lực cho Thẩm phán. Đồng thời, các lãnh đạo cần thường xuyên kiểm tra lịch xét xử
hàng tháng của Thẩm phán, đốc thúc giải quyết án tránh để tình trạng án quá hạn, án tồn đọng và
kiểm tra việc áp dụng pháp luật trong giải quyết án.
Thứ hai, cần nâng cao trách nhiệm, vai trò của Thẩm phán, Thư ký trong quá trình giải quyết
án; đảm bảo đưa ra phán quyết vừa công tâm, đúng pháp luật vừa có khả năng thi hành. Thực tiễn
xét xử tại TAND thành phố Đà Nẵng cho thấy, có nhiều bản án đưa ra phán quyết không thể thi
hành được trên thực tế, đặc biệt là các vụ án liên quan đến tranh chấp quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà ở và tài sản gắn liền trên đất hay chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn. Hoạt động
xem xét, thẩm định tài sản và định giá tài sản là rất cần thiết để hạn chế tình trạng trên. Do đó, cần
có những giải pháp như hỗ trợ chi phí đi lại, khuyến khích các Thẩm phán,Thư ký đi thực tế…
Thứ ba, tích cực đào tạo, bồi dưỡng nâng cao đạo đức chính trị, tập huấn nghiệp vụ cho
những người tiến hành tố tụng nhằm giữ vững lập trường chính trị, đáp ứng nhiệm vụ xét xử trong
thời đại mới như khuyến khích các Thẩm phán, Thư ký nâng cao trình độ lên Thạc sĩ, Tiến sĩ; tổ
chức các hội nghị, hội thảo nhằm tổng kết công tác xét xử đối với từng loại án và đưa ra hướng áp
dụng đối với các vụ án có nội dung tranh chấp tương tự, xem xét các quyết định giám đốc thẩm
của Tòa án nhân dân tối cao nhằm rút kinh nghiệm xét xử.
16


Thứ tư, đối với các hội thẩm nhân dân, cần thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ
xét xử, giới thiệu các quy định pháp luật mới ban hành hoặc sửa đổi liên quan đến hoạt động xét

xử của các hội thẩm; tăng thêm mức bồi dưỡng cho các hội thẩm khi tham gia xét xử.
Thứ năm, tăng cường phối hợp với các cơ quan hữu quan nhằm giải quyết án nhanh chóng,
kịp thời và đúng pháp luật. Tùy theo đối tượng tranh chấp mà việc phối hợp với cơ quan nào được
xác định. Ví như, nếu đối tượng tranh chấp là quyền sử dụng đất, nhà ở, tài sản gắn liền trên đất thì
cần liên hệ hoặc là Sở Tài Chính, Sở Tài Nguyên – Môi Trường, Sở Xây dựng để thành lập Hội
đồng định giá theo giá nhà nước hoặc liên hệ với các công ty định giá uy tín để định giá theo giá
thị trường. Còn đối với các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài cần liên hệ với Sở Tư pháp nhằm
xác minh yếu tố nước ngoài…
Thứ sáu, cần áp dụng công nghệ thông tin vào hoạt động xét xử, nâng cao nghiệp vụ và
hướng dẫn các cá nhân, cơ quan, tổ chức các thủ tục giải quyết các nhu cầu của mình.
Thứ bảy, tổ chức các phiên tòa thí điểm cải cách tư pháp vừa để rút kinh nghiệm, đưa ra các
giải pháp cụ thể nhằm cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết 49/NQ – TW của Bộ Chính Trị
vừa làm mẫu để TAND cấp huyện học hỏi.
2. Kiến nghị cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết vụ án ly hôn có yếu tố nước
ngoài tại TAND thành phố Đà Nẵng.
Thứ nhất, tăng cường ký kết các Hiệp định tương trợ tư pháp đặc biệt là với các quốc gia có
công dân kết hôn nhiều với công dân Việt Nam, làm căn cứ pháp lý để giải quyết các vụ án ly hôn
có yếu tố nước ngoài hiệu quả hơn.
Thứ hai, bắt buộc tiến hành hợp pháp hóa lãnh sự các giấy tờ, tài liệu ở ngoài lãnh thổ Việt
Nam theo Điều 418 Bộ luật Tố tụng dân sự hiện hành làm chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ
án nhằm đảm bảo tính thống nhất về hình thức cũng như khẳng định giá trị pháp lý của văn bản và
tài liệu của đương sự ở ngoài lãnh thổ Việt Nam.
Thứ ba, Nghị định 24/2013/NĐ – CP, Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn
nhân – gia đình 2000 về quan hệ hôn nhân – gia đình có yếu tố nước ngoài, có hiệu lực từ ngày
15/5/2013 quy định rất chặt chẽ về kết hôn, thủ tục kết hôn, song lại không đề cập đến giải quyết
17


ly hôn có yếu tố nước ngoài. Đây là một sự thiếu sót lớn, chưa đáp ứng được tình hình thực tế. Do
đó, cần sớm ban hành văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ này.

Thứ tư, tiến hành nghiên cứu tính khả thi của việc áp dụng thủ tục rút gọn trong việc giải
quyết các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài.
Thứ năm, tăng cường trách nhiệm của các tổ chức, cơ quan đoàn thể trong việc trang bị hành
trang cho những phụ nữ sắp kết hôn với nước nước ngoài; nắm bắt thực trạng đời sống của các cô
dâu Việt Nam nhằm kịp thời bảo vệ họ.
Thứ sáu, tích cực tuyên truyền, giáo dục pháp luật nâng cao ý thức của người dân nhằm hạn
chế tình trạng kết hôn vì những mục đích vụ lợi, từ đó giảm được số vụ án mà Tòa phải thụ lý và
giải quyết.
Thứ bảy, tăng cường phòng chống môi giới hôn nhân nước ngoài trái pháp luật.

Cũng như hệ thống các TAND cấp tỉnh khác, cơ cấu tổ ch ức của TAND thành ph ố Đà N ẵng
bao gồm Uỷ ban Thẩm phán TAND thành phố Đà Nẵng; Tòa Hình s ự, Tòa Dân s ự, Tòa Kinh
tế, Tòa Lao động, Tòa Hành chính; Bộ máy giúp việc bao gồm Phòng T ổ ch ức cán b ộ, phòng
Giám đốc kiểm tra và Văn phòng. Có thể tóm tắt c ơ cấu t ổ ch ức c ủa TAND thành ph ố Đà
Nẵng theo sơ đồ sau đây:

18


Chánh án
Nguyễn Thành

Tòa
Sự

Phó Chánh án

Phó Chánh án

Đặng Ánh


Trần Huy Đức

Hình

Chánh tòa

Tòa Dân sự

Tòa Kinh tế

Tòa
động

Chánh tòa

Chánh tòa

Chánh tòa

Nguyễn Thị Trương
Cảnh
Trung

Chí Lê Tự

Phó Chánh tòa

Phó Chánh tòa


Nguyễn
Hồ Quang Hùng Hạnh

Bùi
Hương

Thị

Lao

Tòa Hành chính
Chánh tòa

Thị Nguyễn Thị Liên
Hương
Phó Chánh tòa
Trần Thị
Khánh Nguyệt

Chánh Văn phòng

Trưởng Phòng TCCB

Trưởng Phòng GĐKT

Đặng Văn Mạnh

Phạm Tiến Sỹ

Phạm Tồn


19


20



×