Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

TRUYỆN cổ TÍCH tấm cám

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (321.03 KB, 33 trang )

TRUYỆN CỔ TÍCH TẤM CÁM
Cô Tấm, bống bống bang bang, quả thị thơm, lá trầu têm hình
cánh phượng… những hình ảnh trong câu truyện cổ tíchTấm
Cám đã trở nên vô cùng quen thuộc với tuổi thơ của trẻ em
Việt Nam.
Truyện kể về cô Tấm hiền lành nết na, bị mụ dì ghẻ và con gái
bà là Cám hãm hại. Trải qua bao gian nan, được ông Bụt giúp
đỡ, cuối cùng Tấm cũng có cuộc sống hạnh phúc bên nhà vua.
Khi đọc truyện cổ tích Tấm Cám, các bé và các phụ huynh có
thể sẽ bắt gặp những phiên bản có đoạn kết truyện với nội
dung hơi khác so với phiên bản mà các bé sắp được nghe dưới
đây. Đó là do Vườn Cổ tích đã lựa chọn nội dung sao cho phù
hợp nhất với sự hồn nhiên và trong sáng của các bé. Mời các
bé cùng lắng nghe câu chuyện để cùng so sánh và rút ra những
bài học sâu sắc cho riêng mình nhé
CHUYỆN CỔ TÍCH TẤM CÁM
Ngày xửa ngày xưa, có hai chị em cùng cha khác mẹ là Tấm
và Cám. Mẹ Tấm mất sớm, cha Tấm cưới thêm mẹ Cám, cha
Tấm hết mực yêu thương cô, nhưng rồi ông bệnh nặng, không
lâu sau thì qua đời. Tấm phải sống với dì ghẻ là mẹ của Cám.
Bà mẹ ghẻ là người cay nghiệt, hàng ngày bắt Tấm làm hết
mọi công việc trong nhà còn Cám thì được lêu lổng vui chơi
tối ngày.
Một hôm bà mẹ bảo 2 chị em Tấm và Cám ra đồng bắt cá. Bà
mẹ dặn: “Hễ đứa nào bắt được nhiều cá hơn sẽ được thưởng”.
Tấm vâng lời dặn, chăm chỉ siêng năng bắt cá, chẳng chốc mà
giỏ cá đã đầy, còn Cám mải rong chơi hái hoa bắt bướm nên
đã xế chiều àm vẫn chưa được con nào. Thấy chị Tấm bắt
được nhiều cá, Cám mới nảy ra ý bảo Tấm:
1



– Chị Tấm ơi chị Tấm. Đầu chị lấm, chị hụp cho sâu kẻo về
mẹ mắng.
Tấm tin lời em, để giỏ cá nhờ em coi, lội xuống ao gội đầu.
Trên bờ Cám trút giỏ cá của Tấm vào giỏ mình rồi chạy về
nhà trước. Khi Tấm bước lên thì giỏ cá không còn. Tấm ngồi
Tấm khóc nức nở, bỗng đột nhiên ông Bụt hiện lên hỏi:
– Tại sao con khóc?
Tấm kể hết sự tình cho ông Bụt nghe, ông Bụt bảo Tấm tìm
xem trong giỏ còn con nào không thì còn duy nhất một con cá
bống. Ông Bụt mới cất lời:
– Thôi con hãy nín đi. Con đem con cá bống này về bỏ xuống
giếng nuôi, mỗi ngày đem cơm cho bống ăn. Khi cho ăn con
nhớ gọi bống: “Bống bống bang bang, Lên ăn cơm vàng cơm
bạc nhà ta, chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người.”
Nói xong Bụt biến mất. Tấm nghe lời Bụt dặn đem Bống về
bỏ xuống giếng nuôi. Hàng ngày cứ đến bữa Tấm lại mang
cơm ra cho bống ăn, hai bát cơm thì Tấm chỉ ăn một, để dành
một bát lại cho cá bống. Chẳng bao lâu sau, cá bống đã lớn
nhanh như thổi. Thấy Tấm mỗi ngày đem cơm ra giếng, dì
ghẻ đem lòng sinh nghi, sai Cám rình xem thế nào. Cám về kể
hết chuyện cho mẹ biết. Sáng ngày hôm sau mẹ ghẻ cho Tấm
đi chăn trâu ở đồng xa, bà ngọt ngào dặn Tấm :
– Con ơi, đồng làng mình cấm chăn trâu. Con đi chăn trâu thì
chăn đồng xa, chớ chăn đồng nhà làng bắt mất trâu.
Tấm nghe lời mẹ dẫn trâu đi thật xa. Ở nhà mẹ con Cám ra
giếng gọi y như Tấm, cá nghe tiếng trồi lên miệng giếng, hai
2



mẹ con Cám bắt bống đem làm thịt. Đến chiều chăn trâu về,
Tấm đem cơm ra giếng kêu mãi không thấy Bống lên, chỉ thấy
nổi lên một cục máu đỏ. Thấy vậy Tấm ngồi khóc nức nở, Bụt
hiện lên và hỏi:
– Làm sao con khóc?
Tấm lại kể hết cho Bụt nghe, lúc này Bụt mới bảo:
– Bống của con bị người ta ăn thịt rồi. Thôi con hãy nín đị! Về
nhà lượm lấy xương cá bỏ vào bốn cái hũ và chôn dưới bốn
chân giường.
Tấm nghe lời vào nhà tìm xương bống, nhưng tìm mãi không
thấy. Bỗng có con gà ở đâu chạy ra: “cục ta cục tác, cho ta
nắm thóc, ta bới xương cho”. Tấm lấy nắm thóc cho gà ăn, gà
vào trong bếp, bới đống tro ra thì thấy xương bống. Tấm nhặt
lấy đem bỏ vào 4 lọ chôn bốn chân giường
Ít lâu sau nhà Vua mở hội, mọi người nô nức đi xem hội. Mẹ
con Cám chuẩn bị đi từ sớm, Tấm xin mẹ cho đi xem thì dì
ghẻ trộn một đấu thóc với một đấu gạo, bắt Tấm ngồi nhặt,
khi nào nhặt xong thì mới được đi xem hội. Tấm lại khóc nức
nở. Bụt lại hiện lên và hỏi:
– Làm sao con khóc?
Tấm kể rõ sự tình cho Bụt nghe, Bụt sai một đàn chim sẻ
xuống nhặt cho Tấm, chỉ một loáng là đã xong. Nhưng Tấm
không có quần áo đẹp đi xem hội, thế là cô lại ôm mặt khóc.
Bụt lại hiện lên:
– Làm sao con khóc?
Tấm sụt sủi:
– Quần áo con rách rưới thế này sao có thể đi xem hội được?
3



Bụt đáp:
– Con hãy đào bốn hũ chôn ở bốn chân giường lên đi.
Tấm nghe lời vào đào bốn lọ lên, lọ thứ nhất mở ra là một bộ
váy áo đẹp rực rỡ, lọ thứ hai mở ra là một đôi giày thêu rất
đẹp, lọ thứ 3 là một con ngựa nhỏ xíu, nhưng kì lạ thay khi đặt
xuống đất, con ngựa bỗng chốc biến thành ngựa thật, lọ cuối
cùng là một yên cương vững chắc. Tấm vui mừng khôn xiết,
vội thay đồ rồi lên đường tiến kinh. Ngựa phóng một lúc đã
tới kinh thành, nhưng chẳng may trên đường đi qua chỗ lội,
Tấm vô tình đánh rơi một chiếc giày không kịp nhặt. Đến hội
Tấm lấy khăn gói chiếc giày còn lại và chen vào biển người.
Giữa lúc ấy, đoàn quân hộ tống Vua đi qua chỗ lầy Tấm đánh
rơi giầy, hai con voi ngự đầu đàn cứ cắm đầu xuống, không
chịu đi, vua cho lính lên xem xét thì tìm ra được một chiếc
giầy, nhà Vua đưa lên ngắm nghía: “Giày đẹp thế này, hẳn là
người đi nó cũng rất đẹp”. Nhà vua ban lệnh cho tất cả đàn bà
con gái đi trảy hội thử giày, nếu ai đi vừa thì sẽ lấy về làm vợ.
Ai ai cũng nô nức đến thử giày nhưng không một ai vừa, mẹ
con Cám cũng qua thử nhưng không được, đến lượt Tấm, dì
ghẻ mới bĩu môi:
“Chuông khánh còn chẳng ăn ai
Nữa là mảnh chĩnh mảnh chai bờ rào”
Nhưng trái lại, khi Tấm thử giày, chiếc giày vừa như in, nàng
đưa nốt chiếc thứ hai đang cầm trong tay thì đúng là một đôi,
quân lính reo hò, nhà Vua thấy thế thì mừng khôn xiết, vội
cho người rước nàng về cung.
Từ ngày đó mẹ con Cám căm giận lắm, nhân ngày giỗ cha,
Tấm xin phép nhà vua về nhà làm giỗ. Thấy Tấm về mẹ con
4



Cám sẵn bụng không ưa nên bày mưu giết Tấm. Mẹ ghẻ bảo
Tấm :
– Nay là ngày giỗ cha con, con hãy trèo lên cây cau hái xuống
cúng cha
Tấm vâng lời trèo lên cây cau, ở dưới bà mẹ ghẻ đốn gốc,
Tấm thấy cây rung rung mỡi hỏi.
– Dì ơi dì làm gì dưới đó thế ạ?
Dì ghẻ trả lời:
– Gốc này nhiều kiến quá, dì bắt kiến cho nó khỏi đốt con.
Tấm ngã xuống ao chết chìm. Bà mẹ ghẻ đem quần áo của
Tấm cho Cám mặc về cung nói dối Vua rằng.
– Chị Tấm không may rớt xuống ao chết. Nay Cám là em vào
thế chị.
Nhà Vua giận dữ nhưng không nói lời nào. Tấm chết đi biến
thành con chim Vàng Anh, bay vào cung vua. Một lần, Cám
đang giặt áo cho nhà vua, bỗng nghe tiếng hót:
“Giặt áo chồng tao thì giặt cho sạch
Phơi áo chồng tao phơi lao phơi sào
Chớ phơi bờ rào rách áo chồng tao”
Cám nghe thế thì sợ lắm,Vàng Anh ở trong cung thì hót líu lo,
nhà Vua đi đâu Vàng Anh bay theo đó, thấy chim quyến luyến
theo mình Vua bảo:
“Vàng ảnh vàng anh, có phải vợ anh chui vào tay áo”
Chim bay đến đậu trên tay nhà vua rồi chui vào tay áo. Từ
ngày đó nhà vua chỉ chăm lo cho chim, làm cho chim một cái
chuồng bằng vàng, ngày ngày chăm sóc chim, bỏ quên Cám.
5



Cám tức lắm về nhà hỏi ý mẹ, bà mẹ ghẻ xúi Cám bắt chim ăn
thịt, lông chim mang đem chôn vào góc vườn, nhà vua biết
chuyện thì giận lắm. Góc vườn chỗ chôn lông chim Vàng Anh
mọc ra hai cây xoan đào tỏa bóng sum suê, nhà vua thấy vậy
bèn mắc võng ra nằm nghỉ ngơi. Cám lại về kể chuyện với
mẹ, mẹ Cám xúi chặt hai cây xoan đi làm khung cửi, một lần
ngồi dệt áo cho nhà Vua, nghe tiếng khung cửi kêu:
“Cót ca cót két
Lấy tranh chồng chị
Chị khoét mắt ra”
Cám sợ hãi vội sai người mang khung cửi đi đốt, từ đống tro
mọc lên một cây thị cành lá xanh tốt um tùm, nhưng lại chỉ có
một quả. Một buổi nọ, có một bà cụ đi chợ qua, ngồi nghỉ
dưới gốc cây, thấy quả thị bà mới ngỏ:
“Thị ơi thị rụng bị bà
Bà để bà ngửi
Chứ bà không ăn”
Bà lão nói xong thị rụng vào bị của bà. Bà đem về nhà để trên
gối, chỉ ngửi mà không ăn. Hàng ngày bà ra chợ, về nhà là
cơm nước đã tinh tươm, nhà cửa sạch sẽ, mấy ngày như vậy,
bà sinh nghi, một lần, bà giả vờ đi chợ, nhưng đi đến nửa
đường bà lại quay về. Bà đứng bên ngoài cửa nhìn vào thì
thấy một cô gái chui ra từ quả thị, dọn dẹp nhà cửa, bà vội
vàng chạy vào xé ngay vỏ thị và ôm chầm lấy cô. Bà nhận cô
làm con gái. Từ đó, Tấm ở nhà giúp bà làm việc, bà lão mở
quán nước ngay tại nhà, Tấm giúp bà têm trầu cánh phượng,
quán mỗi ngày lại một đông khách. Một lần vua đi qua, dừng
chân nghỉ bên quán nước, thấy trầu têm giống như Tấm têm
ngày xưa mới ngỏ ý hỏi:
– Bà ơi, trầu này ai têm mà khéo vậy?

6


Bà lão thật thà:
– Trầu này con gái bà têm.
Nhà vua muốn gặp con gái của bà, bà mới gọi Tấm ra, vua vui
mừng nhận ra Tấm, cho người đem nàng về cung. Về đến
cung,Tấm kể rõ sự tình cho nhà vua nghe, nhà vua tức giận
cho người đem mẹ con Cám lên xử tội, nhưng Tấm thương
cảm, xin nhà vua tha tội. Nhà vua đuổi mẹ con Cám ra ngoài
cung, vừa ra khỏi thành, giông tố ập đến, mẹ con Cám bị sét
đánh chết giữa đồng.
Nội dung và ý nghĩa của truyện cổ tích Tấm Cám có nhiều
nét khá tương đồng với Cô bé Lọ Lem của cổ tích thế giới.
Kết thúc câu chuyện, các bé có rút ra được bài học gì cho
mình không?
Tại sao cô Tấm cũng như Lọ Lem, dù gặp phải biết bao ức
hiếp của người xấu mà cuối cùng vẫn có được hạnh phúc?
Còn bà mẹ ghẻ và Cám dù có giở đủ trò mưu mẹo thì cũng
không bao giờ đạt được mong muốn, thậm chí còn bị ông trời
trừng phạt?
Đó là vì Tấm luôn luôn sống rất hiền từ, nhân hậu, đối xử
tốt với mọi người xung quanh.

Còn bà dì ghẻ và Cám thì lúc nào cũng đố kị, ganh ghét
và có bụng dạ quá độc ác.
Các bạn nhỏ của chúng ta hãy luôn biết đối xử tốt với mọi
người, không được ghen ghét đố kị với ai, làm điều thiện chắc
chắn sẽ được bù đắp xứng đáng, còn nếu chúng ta làm việc
xấu thì sẽ bị ông trời trừng phạt đó nhé.



Chúc bé đọc truyện vui vẻ!
NHỮNG CÁI KẾT KHÁC NHAU CỦA TRUYỆN TẤM
CÁM
7


Kết thúc truyện Tấm Cám mà các bé vừa được đọc ngày hôm
nay chỉ là một trong số rất nhiều những kết truyện khác nhau
của câu chuyện này.
Một số các ấn bản như Truyện cổ tích Việt Nam chọn lọc của
Nhà xuất bản (NXB) Văn hóa – Văn nghệ biên soạn; “Truyện
cổ tích Việt Nam” của NXB Văn học hay cuốn “Truyện Cổ
tích Việt Nam đặc sắc” của NXB Văn học do Phúc Hải tuyển
chọn, kết thúc của truyện là kịch tính. Cô Tấm hiền lành sau
khi được trở lại cung thì trả thù mẹ con Cám. Đầu tiên cô dội
nước sôi cho Cám chết còng queo, sau đó mang Cám đi muối
mắm và gửi hũ mắm đó cho mẹ ghẻ ăn. Bà mẹ ghẻ ăn đến hết
hũ mắm thì thấy đầu lâu của con gái hiện ra mới uất ức quá
mà lăn ra chết. Nhiều người lý giải rằng đây chính là sự trỗi
dậy của cô Tấm – đại diện cho lòng căm thù của dân gian đối
với cái ác và khẳng định cái ác sẽ bị trừng trị thích đáng. Tuy
nhiêu cũng rất nhiều ý kiến khác không ủng hộ đoạn kết này
vì nó làm mất đi hình tượng cô Tấm hiền lành trong mắt trẻ
thơ.
Một số ấn bản khác từ năm 1996 như Tuyển tập truyện cổ tích
Việt Nam của Chu Xuân Diên – Lê Chí Quế (NXB Đại học
Quốc Gia Hà Nội); hay Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, tập
4, NXB Khoa học xã hội của tác giả Nguyễn Đổng Chi, thì

chỉ kết chuyện ở đoạn Cám bị dội nước sôi mà chết, mẹ ghẻ
nghe tin cũng chết theo. Đoạn muối mắm đã được cắt bỏ để
giảm bớt tính “kinh dị” của câu chuyện. Khi Tấm Cám được
đưa vào chương trình học phổ thông, trong SGK Ngữ văn lớp
10 thì đoạn kết truyện được giảm nhẹ đi tương tự.
Còn đoạn kết giống như truyencotichhay.com vừa kể cho các
bé thì cũng được nhiều NXB lựa chọn (cuốn Truyện cổ tích
Việt Nam – Mẹ kể con nghe của NXB Mỹ Thuật; bộ Kho tàng
8


truyện cổ tích Việt Nam cũng của NXB Mỹ Thuật; bộ Truyện
cổ tích Việt Nam dành cho thiếu nhi của NXB Văn Học…)
bởi nó phù hợp với lứa tuổi thiếu nhi của các bé. Kết chuyện,
mẹ con Cám xấu hổ bỏ đi và bị sét đánh chết – một sự trừng
phạt của tự nhiên. Cái kết này vẫn giữ được hình ảnh cô Tấm
tốt bụng vị tha, đồng thời vẫn khẳng định được quan niệm của
dân gian ta “ác giả ác báo”, “lưới trời lồng lộng” làm việc ác
khắc bị trừng phạt theo lẽ tự nhiên.
SỰ TÍCH CÂY KHẾ HAY TRUYỆN CỔ TÍCH ĂN KHẾ
TRẢ VÀNG
Truyện cổ tích Việt Nam “Ăn khế trả vàng” hay còn có tên
gọi khác là “Sự tích cây khế” sẽ là câu truyện mà Vườn cổ
tích dành tặng các bé ngày hôm nay. Mới nghe tên sự tích này
lần đầu chắc hẳn các bé sẽ cảm thấy khá tò mò, tại sao lạ là
“Ăn khế trả vàng” nhỉ? Chỉ xung quanh một cây khế mà
truyện sẽ cho chúng ta rất nhiều bài học về tình cảm anh em
trong một gia đình, về đức tính thật thà, về lòng tham vô đáy
của con người sẽ phải trả giá như thế nào…
Chắc hẳn các bé đang rất nóng lòng được biết nội dung đằng

sau cái tên lạ lẫm kia đúng không? Vậy hãy cùng với Vườn cổ
tích, chúng mình sẽ cùng khám phá và lắng nghe về sự tích
này nhé.
NỘI DUNG SỰ TÍCH CÂY KHẾ
Trong một gia đình nọ, có hai anh em trai, mẹ mất sớm, cùng
sống với người cha già rất hòa thuận. Ít lâu sau khi hai anh em
lập gia đình, người cha bị bệnh nặng, qua đời. Bị vợ súi giục,
người anh viện cớ mình là con cả, chiếm hết tài sản, chỉ chia
cho người em một mảnh đất nhỏ với cây khế trong đó. Dù bị
9


thiệt thòi, người em vẫn nín nhịn, nhận lấy phần của mình mà
không một lời trách móc. Người em dựng một cái chòi gần
gốc cây khế và ngày ngày, lên rừng đốn củi, đem ra chợ bán
hoặc là, gánh nước làm thuê, sinh sống cho qua ngày.
Tuy cuộc sống vất vả khó khăn, nhưng vợ chồng người em vô
cũng hòa thuận, yêu thương nhau và rất chịu khó làm ăn. Đến
năm, cây khế được mùa, hai vợ chồng vô cùng vui mừng bảo
nhau: “Cây khế năm nay sai quả, quả nào quả nấy chín mọng,
thơm ngọt. Mình mang ra chợ bán chắc cũng kiếm được chút
ít”. Vừa hái quả, người chồng trèo lên cây thả rỏ hái quả nặng
chĩu, đầy ắp xuống, người vợ đón lấy mà miệng mỉm cười vui
mừng.
Thế nhưng, bổng nổi lên trận gió lớn, cả hai vợ chồng lo lắng
và hoảng hốt khi thấy một con chim lạ và to đậu trên cây. Nó
đậu trên cây khiến người chồng chao đảo, phải bám vào một
cành cây to thì mới giữ được thăng bằng, người vợ thì nấp vào
gốc cây để tránh con vật to lớn ấy. Với sức nặng và kích thước
khổng lồ, nó không những khiến cho vợ chồng người em kinh

sợ mà còn làm cho cấy khế gãy cành và rơi rụng dập quả chín.
Người vợ lo lắng cho người chồng, lo lắng cho cả cây khế,
nếu cứ thế này, cây khế sẽ không còn quả nào mất. Người vợ
sót quả chín, chạy vội ra nhặt, vừa khóc than, van nài chim:
“Trời ơi! Chim ơi! Đừng ăn … đừng ăn nữa mà!”
Người chồng trách vợ: “Trời ơi, chốn đi… sao còn ngồi đó
mà lượm khế? Mình mau chốn đi!!!”
“Ê chim, sao mày ăn khế của tao? Đi chỗ khác mau, đi đi…
Trời ơi chim ơi, tao năn nỉ mày mà… Đừng ăn nữa… Gia tài
của tao chỉ có mỗi cây khế này thôi, mày ăn hết thì tao lấy gì
mà sống…? Mày ăn gì mà ăn dữ vậy?” – Người chồng than
trách chim, cầu xin khẩn thiết.
10


“Cây khế của tôi…Chim ơi, tha cho vợ chồng tôi, vợ chồng
tôi nghèo lắm chim ơi…” – Dù người vợ có quỳ lạy van nài
nhưng chim cũng chưa chịu bay đi.
Thế nhưng, bỗng chim lạ cất tiếng nói: “Ăn một quả, trả một
cục vàng – May túi ba gang mang theo mà đựng. Sáng sớm
ngày mai ta sẽ tới đưa ngươi đi. Quạc quạc…quạc…”– Thế
rồi con chim lập tức bay đi luôn.
Người chồng vội trèo xuống, đến bên vợ mình. Hai vợ chồng
định thần lại và suy nghĩ về câu nói của chim. Người chồng
tin lời và cho rằng, đây chắc chắn là con chim thần, nhưng
người vợ quả quyết phủ nhận chim thần sao lại đi phá phách
cây trái như vậy và cho rằng con chim bày trò “ăn khế trả
vàng” để đi lừa phỉnh người khác. Người vợ tiếc cho những
trái khế chín rơi đầy trên sân, dập nát và lo lắng cho ngày mai,
đói nghèo.

Đêm xuống, khi người vợ đã ngủ say, người chồng vẫn chằn
trọc, đắn đó suy nghĩ về câu nói của chim thần: “Liệu có nên
nghe và đi cùng chim để lấy vàng, nếu con chim đó nói thật,
thì mình sẽ có vàng… Nhưng ngộ nhỡ, con chim chỉ lừa gạt
mình, không đưa mình đi lấy vàng mà lấy cớ đó để ăn thịt
mình thì sao?”. Người chồng phân vân lắm. Và cuối cùng,
người chồng quyết định, cởi chiếc áo trên người ra, may một
chiếc túi ba gang, sáng sớm hôm sau sẽ đợi con chim tới.
Sáng hôm sau, chim hạ cánh xuống gốc cây khế, cho người
em ngồi lên lưng rồi bay vút lên trời, để lại người vợ đang lo
lắng cho sự an nguy của người chồng. Chim bay qua bao núi
cao, biển rộng, rồi bay tới 1 hòn đảo. Chim bay chậm lại và hạ
cánh ở trước một cái hang chứa đầy sỏi đá. Người em cứ nghĩ
mình đã bị chim lừa, ấy thế mà, nghe lời chim nói cứ nhặt đã
bỏ vào túi, thì lập tức đá sỏi biến thành vàng. Chim ra hiệu,
bảo người em muốn lấy bao nhiêu thì cứ lấy. Nhưng người em
chỉ nhặt bỏ đầy túi ba gang rồi bảo chim nhanh chóng quay
về.
11


Từ đó, vợ chồng người em trở nên giàu có. Họ mua gỗ về xây
nhà, mua đất, thuê người làm về cày cấy và mua thóc gạo để
giúp đỡ người dân ghèo đói.
Thấy hai vợ chồng người em đột nhiên giàu có, vợ chồng
người anh lại sinh lòng ghen ghét, đố kị, vội vã sang chơi nhà
người em để dò xét.
Sau khi nghe người em thật thà kể lại chuyện con chim thần
ăn khế trả ơn, vợ người anh liền bảo:
“Giờ hai em đã giàu quá rồi! Anh với chị sẽ về ở trong miếng

vườn với cây khế, đổi lại nhà cửa, ruộng vườn, anh chị sẽ
giao hết cho hai em. Có được không?”
Vợ chồng người em cũng hiền lành, luôn chiều ý anh chị,
chấp nhận lời đề nghị, và còn nhắn nhủ thêm: “Nhưng thôi,
cứ coi như tụi em giữ giùm nó cho anh chị. Nếu sau này, anh
chị có đổi ý, muốn đổi lại một lần nữa thì tụi em cũng trả lại
mà.”
Đến ở trong túp lều tranh, vợ chồng người anh ngày đêm túc
trực gốc cây khế, chờ chim thần đến. Một buổi sáng, chim
thần bay đến ăn khế. Người anh liền đứng dưới gốc cây khế,
giả khóc kêu than:
“Cả nhà chúng tôi chỉ trông vào cây khế, bây giờ chim ăn
nhiều như thế thì chúng tôi lấy gì mà sống… ?”
Vẫn chưa thấy chim trả lời gì, cả hai vợ chồng lại kêu la, khóc
lóc to hơn: “Vợ chồng tôi nghèo lắm, khổ lắm chim ơi, chim
ăn thế thì chúng tôi biết trông cậy vào đâu?”
Chim liền đáp:“Ăn một quả, trả một cục vàng – May túi ba
gang mang theo mà đựng. Sáng sớm ngày mai ta sẽ tới đưa
ngươi đi. Quạc quạc…quạc…”. Nói xong, chim vụt bay đi.

12


Tối hôm đó, vợ chồng người anh bàn nhau khâu một cái túi
chín gang để đựng được nhiều vàng. Rồi hai vợ chồng thức
trăng suốt đêm, ngóng chờ chim đến.
Sáng hôm sau, chim vừa hạ cánh xuống sân, người anh vội
chạy ra ngồi lên lưng chim giục chim đi gấp. Chim cất cánh
bay bổng lên mây xanh, qua núi, qua biển, rồi hạ cánh xuống
đảo vàng lần trước. Từ trên lưng chim bước xuống, người anh

hoa cả mắt với vàng đầy la liệt, rải đầy cả đảo. Người anh chất
đầy cả túi chín gang mà vẫn chưa chịu ra về. Trời sắp tối,
chim cất tiếng ra hiệu hãy nhanh lên để còn trở lại đất liền,
nhưng người anh vẫn cố nhét thêm vàng bạc vào lưng quan,
túi áo rồi mới khệ nệ leo lên lưng chim.
Túi vàng quá nặng, chim phải cố gắng hết sức mới bay lên
khỏi mặt đất được. Khi bay qua biển, bỗng có một cơn gió nổi
lên rất mạnh, chim liền bảo người anh:
“Hãy mau bỏ bớt vàng đi cho nhẹ, kẻo hai ta sẽ cùng rơi
xuống biển đấy!”
Nhưng người anh nhất quyết không nghe, không những vậy
mà còn ôm giữ túi vàng chặt hơn nữa. Chim bay ngược gió rất
mệt, cổ gập hẳn xuống, hai cánh mỗi lúc một yếu dần, một
cơn gió lớn khiến chim nghiêng mình. Vàng trong túi đổ, tuột
khỏi lưng chim, kéo theo người anh rơi xuống. Chỉ trong chớp
mắt, những cuộn sóng khổng lồ đã nhấn chìm người anh tham
lam cùng túi vàng xuống biển sâu.
Ý NGHĨA SỰ TÍCH CÂY KHẾ
Kết thúc Sự tích Cây khế, chắc hẳn các bé đã hiểu vì sao tên
truyện lại là “Ăn khế trả vàng” rồi nhỉ? Bên cạnh đó, các bé
có thấy rằng, Vườn cổ tích muốn nhắn nhủ điều gì không? Đó
là:
13


Anh chị em trong một nhà phải biết yêu thương, đùm bọc,
giúp đỡ nhường nhịn nhau.

Hãy luôn cần mẫn, chăm chỉ làm việc bằng cả tấm lòng
thì mới đạt được thành quả tốt. Sống hiền lành tốt bụng

như vợ chồng người em thì sẽ được đền đáp xứng đáng.

Đừng để lòng tham làm mờ mắt giống như người anh
cuối cùng sẽ phải gánh chịu hậu quả do chính mình gây ra,
dù có ôm một đống vàng nhưng cuối cùng lại rơi xuống
biển sâu.
BÉ ĐỌC THÊM VỀ CÂY KHẾ


Hình ảnh chùm khế ngọt đã trở nên vô cùng quen thuộc với
thiếu nhi Việt Nam, nhất là các bạn ở những vùng quê. Ai đã
từng ngồi trên ghế nhà trường chắc chẳn không thể quên được
những câu thơ thân thuộc trong tác phẩm “Quê hương” của
nhà thơ Đỗ Trung Quân:
“Quê hương là chùm khế ngọt
Cho con trèo hái mỗi ngày
Quê hương là đường đi học
Con về rợp bướm vàng bay”

Các bé biết không, cây khế có nguồn gốc ở tận Sri Lanka xa
xôi nhưng lại được biết đến rộng rãi ở các nước Đông Nam Á.
Cây khế có nhiều cành, cao khoảng 5m, cành khế rất giòn và
14


dễ gãy nên các bạn nhỏ đừng nghịch ngợm trèo cây khế kẻo
ngã nhé. Quả khế có màu xanh hoặc màu vàng, chia thành 5
múi. Nếu dùng dao bổ thành những lát ngang thân quả chúng
ta sẽ có những miếng khế hình ngôi sao rất dễ thương.
Có hai loại khế ngọt và khế chua, khi ăn chúng ta sẽ thấy quả

khế rất giòn và nhiều nước, cho cảm giác mát lịm nơi đầu
lưỡi. Ngoài tác dụng như một loại quả để ăn, khế còn có thể
dùng để nấu canh chua cũng rất ngon đấy các bé.
Chúc bé đọc truyện thật vui và có thêm kiến thức mới về cây
khế chứ không chỉ là trong sự tích nữa nhé!
TRUYỆN CỔ TÍCH THẠCH SANH
Chào các bé, chúng ta đã được kể cho nghe rất nhiều câu
chuyện về người tốt sẽ gặp may mắn, người xấu sẽ bị trừng trị
rồi phải không? Hôm nay vườn cổ tích sẽ kể cho các bé một
câu chuyện cổ tích Việt Nam hết sức thú vị về chàng
traiThạch Sanh nghĩa hiệp giỏi giang và vô cùng tốt bụng, ấy
vậy mà lợi dụng lòng tốt của chàng, Lý Thông hết lần này đến
lần khác đẩy chàng vào chỗ chết. Nhờ sự thông minh mưu trí
của mình, Thạch Sanh cuối cùng đã lấy được công chúa và có
một cuộc sống thật hạnh phúc.
Trong cuộc phiêu lưu của mình, Thạch Sanh đã giao chiến với
trăn tinh, đại bàng, hồ tinh độc ác. Chàng còn cứu mạng con
trai Vua thuỷ tề và được mời xuống thuỷ cung chơi, được Vua
thuỷ tề tặng cây đàn thần và niêu cơm “ăn mãi vẫn không
vơi”. Những tình tiết trong truyện nghe thôi đã thấy thật là thú
vị phải không các bé? Để biết được cụ thể Thạch Sanh đã giao
chiến với các con yêu quái và làm việc trượng nghĩa thế nào
15


chúng ta cùng lắng nghe mẹ kể câu truyện “Thạch Sanh” này
nhé.

CHUYỆN CỔ TÍCH THẠCH SANH
Ngày xửa ngày xưa, có vợ chồng bác tiều phu Thạch Nghĩa

tuổi đã cao mà không có con phụng dưỡng lúc tuổi già, thấy
nhà nhà sum họp ấm cũng mà nghĩ về nhà mình cô đơn heo
hắt thì buồn lắm, nghĩ thế vợ chồng càng ra sức làm việc, đắp
đập, làm đê, khơi thông mương máng, giúp đỡ mọi người.
Thấy tấm lòng của vợ chồng ông bà, Ngọc hoàng lệnh cho
Thái tử xuống đầu thai làm con trai của ông bà. Không lâu sau
thì bà Thạch có thai, nhưng đau buồn thay, ông Thạch bệnh
nặng qua đời. Bà vất vả một mình sinh con.
Con trai ra đời, thông minh và kháu khỉnh nên bà đặt tên cho
cậu là Thạch Sanh. Chẳng được bao lâu sau, thì bà cũng bệnh
nặng mà qua đời,từ đó Thạch Sanh sống một mình côi cút
trong túp lều nhỏ dưới gốc đa, tài sản chỉ có một chiếc khố
che thân và một chiếc rìu để đốn củi kiếm cơm. Năm Thạch
16


Sanh 13 tuổi, Ngọc Hoàng sai người xuống dậy cho Thạch
Sanh võ nghệ và nhiều phép thần thông biến hóa.
Một ngày nọ, có người bán rượu tên là Lý Thông đi ngang qua
đó ghé lại nghỉ chân. Thấy Thạch Sanh hiền lành, khỏe mạnh
lại mồ côi, Lý Thông ngẫm nghĩ: “Thạch Sanh khỏe mạnh lại
khù khờ thế này, mang nó về nhà giúp việc chắc hẳn đỡ được
bao nhiêu”. Hắn ngỏ ý kết nghĩa anh em với Thạch Sanh,
Thạc Sanh thấy có người thương mình thì vui vẻ nhận lời. Kết
nghĩa xong, Lý Thông mời Thạc Sanh về nhà ở để dễ bề lợi
dụng.
Bấy giờ, trong vùng có một con trăn tinh thường bắt người ăn
thịt, nhà vua đã bao lần cho quan quân vây đánh nhưng vì nó
có nhiều phép thần thông nên không ai làm gì được. Nhà vua
cũng truyền lệnh ai có thể giết được Trăn tinh sẽ có thưởng

hậu hĩnh, đã rất nhiều anh hùng tráng sĩ từ các phương đến
giết Trăn tinh nhưng đều bỏ mạng. Vua không biết làm gì để
ngăn cản trăn tinh nên thỏa thuận sẽ xây miếu thờ và mỗi năm
hiến tế cho nó một mạng người. Năm đó đến lượt Lý Thông đi
hiến mạng. Mẹ con Lý Thông lo lắng không biết phải làm thế
nào, Lý thông liền nghĩ ra âm mưu cho Thạch Sanh đi thế
mạng. Chiều đó, Lý Thông làm một bữa cơm thịnh soạn, thấy
Thạch Sanh đi đốn củi về, hắn ta gọi Thạch Sanh vào ngồi vừa
uống rượu vừa ngon ngọt:
– Em này, em sống với ta đã lâu, anh em đã như keo sơn, hôm
nay đến lượt anh đi canh miếu thờ, ngặt vì cất dở mẻ rượu, tối
nay em đến miếu canh hộ cho anh, rồi đến sáng mai em về.
Thạch Sanh hiền lành, vội tin ngay:
– Được, anh cứ ở nhà lo việc nhà, em sẽ thay anh ra miếu thờ
trông coi.
Đêm đến, Thạch Sanh đang ngồi canh miếu bỗng thấy gió thổi
17


cây rung, không khí lạnh buốt, một con trăn tinh to lớn hiện ra
giơ vuốt, nhe nanh hà hơi tóe lửa, lao tới định ăn thịt Thạch
Sanh. Thạch Sanh bình tĩnh vung búa đánh nhau với trăn tinh,
dùng các phép thần thông đã được dạy chiến đấu với chăn
tinh, cuối cùng Thạch Sanh cũng giết được nó. Chàng chặt
đầu Trăn tinh, đốt xác nó thì bỗng hiện ra một chiếc cung tên
bằng vàng. Thạch Sanh mang cả cung cả đầu trăn hăng hái đi
về.
Thấy Thạch Sanh trở về, mẹ con Lý Thông sợ hãi ngỡ là hồn
Thạch Sanh về báo oán nên quỳ lạy khấn vái:
– Em à, em sống khôn chết thiêng, mai anh sẽ mua hương hoa

khấn cho em, mong em sớm siêu thoát.
Vẫn thấy Thạch Sanh đập cửa:
– Em đây mà, em đã giết được trăn tinh rồi.
Lúc đó mẹ con Lý Thông mới hoàn hồn. Thạch Sanh kể đầu
đuôi câu chuyện giết trăn cho mẹ con Lý Thông nghe, Lý
Thông nghe xong thì nảy ra một kế:
– Chết rồi, trăn tinh là của vua nuôi xưa nay, bây giờ em giết
nó thế nào cũng bị vua phạt tội chết. Thôi thế này đi, em mau
trốn lại vào rừng, mọi việc cứ để anh ở lại đây tìm cách đối
phó. Khi nào mọi chuyện êm xuôi, anh sẽ vào rừng tìm em về.
Nghe lời Lý Thông, Thạch Sanh bỏ trốn về túp lều cũ ở trong
rừng, Lý Thông vội vã mang đầu Trăn tinh lên ngay kinh đô
để báo công. Nhà vua vui mừng, lập tức phong cho Lý Thông
chức đô đốc.
Ít lâu sau, nhà vua mở hội kén chồng cho con gái là công chúa
Quỳnh Nga. Hội mở đã lâu mà vẫn chưa tìm được chàng rể
18


nào ưng ý. Một hôm công chúa đang dạo chơi vườn đào thì
một con chim đại bàng khổng lồ sà xuống cắp đi. Thạch Sanh
đang ngồi nghỉ dưới gốc cây thì nghe tiếng kêu cứu thất
thanh, ngẩng đầu lên thì thấy một con chim đại bàng cắp 1 cô
gái, chàng bèn giương cung bắn trúng một cánh của chim. Đại
bàng bị trúng tên thì máu chảy rớt xuống đất, Thạch Sanh cứ
thé lần theo vết máu đến một hang động. Chàng đánh dấu cửa
hang rồi quay trở lại túp lều cũ.
Nhà vua sai Lý Thông đi tìm công chúa, hứa rằng nếu cứu
được công chúa thì sẽ gả nàng cho hắn và trở thành phò mã
nối ngôi. Lý Thông vừa mừng, vừa lo, y lập kế mở hội hát

xướng mười ngày để nghe ngóng dò la tin tức. Đến ngày thứ
mười, biết tin Lý Thông mở hội, Thạch Sanh đến thăm và kể
cho Lý Thông nghe toàn bộ chuyện bắn đại bàng tìm thấy cửa
hang động. Lý Thông mừng vui khôn xiết, hậu đãi Thạch
Sanh và nhờ chàng dẫn đường đến hang Đại bàng cứu công
chúa.
Đến đến cửa hang, Lý Thông bảo Thạch Sanh: “Em cầm một
đầu dây thừng trèo xuống, anh trên này giữ dây, khi nào cứu
được công chúa em giật dây anh sẽ kéo em lên”. Thạch Sanh
xuống tới nơi gặp được công chúa, chàng nhân lúc đại bàng
còn đang ngủ say cứu công chúa lên, công chúa hẹn thề sẽ kết
duyên với Thạch Sanh. Lý Thông kéo được công chúa lên thì
sai người đưa công chúa về cung, còn hắn giả vờ ở lại cứu
Thạch Sanh, ngờ đâu hắn rút dây thừng, lấy đá lấp lấy miệng
hang rồi bỏ về cung nhận công. Từ ngày được Thạch Sanh
cứu, công chúa ôm mộng nhớ nhung Thạch Sanh, đã bao lâu
mà chàng vẫn chưa quay về, công chúa đau buồn mà hóa câm,
cũng vì thế nên nhà vua hoãn đám cưới của nàng với Lý
Thông.
19


Về phần Thạch Sanh, thấy cửa hang bị lấp, chàng không có
cách nào lên được, lúc này đại bàng rỉnh dậy không thấy công
chúa đâu, lại thấy Thạch Sanh – người đã bắn trúng nó lần
trước, nó gầm lên giận dữ, lao vào đánh Thạch Sanh, hai bên
giao chiến một hồi, Đại bàng vì vết thương còn nặng nên chỉ
một lúc là nó ngã lăn ra đất, chết. Thạch Sanh tìm cách thoát
khỏi hang đành đi sâu vào trong hang động thì gặp Thái Tử
con vua Thủy Tề đang bị nhốt trong cũi sắt, Thạch Sanh phá

tan cũi sắt giải thoát cho Thái Tử. Để trả ơn Thạch Sanh cứu
mạng, Thái tử ngỏ ý mời Thạch Sanh xuống Thủy cung chơi
và đáp lễ.
Vua Thủy Tề thấy con trai về thì mừng lắm, thiết đãi Thạch
Sanh rất tử tế. Trong thời gian lưu lại thủy cung, một hôm
Thạch Sanh đang cùng Thái tử dạo chơi thì một con Hồ Tinh
xuất hiện, biến thành một cô gái xinh đẹp để cám dỗ, mê hoặc
hại chàng. Thạch Sanh bắt nó phải hiện nguyên hình là một
con cáo chín đuôi và hóa phép giam nó lại. Để bày tỏ lòng
biết ơn Thạch Sanh, vua Thủy Tề mời chàng ở lại Thủy cung
và phong chức tước cho chàng, nhưng chàng từ chối, Vua
Thủy Tề tặng chàng một cây đàn thần và một niêu cơm, dặn
chàng sẽ có khi dùng tới. Thạch Sanh cảm tạ cha con Thái tử
rồi trở về gốc đa xưa.
Vắng bóng Thạch Sanh cây đa buồn ủ ê, khi Thạch Sanh trở
về cây đa lại xanh tươi như cũ. Hồn hai con quái vật bị Thạch
Sanh giết (Trăn Tinh và Đại Bàng) gặp nhau tìm cách hãm hại
Thạch Sanh. Chúng vào kho châu báu của nhà vua lấy cắp
vàng bạc giấu ở gốc đa nơi Thạch Sanh ở. Quân lính tìm thấy
châu báu ở gốc đa thì ngay lập tức bắt trói Thạch Sanh tống
vào ngục tối. Vua sai Lý Thông xử tội Thạch Sanh. Lý Thông
hả hê lắm, hắn quyết bắt ép Thạch Sanh vào tội chết.
20


Trong tù, Thạch Sanh buồn rầu, chàng lấy đàn thần ra gảy,
tiếng đàn lúc trầm lúc bổng, lúc ai oán xót thương cho số
phận, lúc lại oán trách công chúa bội bạc quên lời hẹn thề.
Nghe tiếng đàn, công chúa bừng tỉnh dậy, cười cười, nói nói.
Nhà vua vui mừng nghe công chúa nói rõ ngọn ngành lập tức

hạ lệnh cho gặp Thạch Sanh, Thạch Sanh kể hết lại sự tình từ
khi giết Trăn tinh cho đến đại bàng. Vua cho người bắt mẹ con
Lý Thông, phạt tội chết, Thạch Sanh nể tình xưa nghĩa cũ, nên
xin vua cho mẹ con Lý Thông được sống. Mẹ con Lý thông
được tha thì mừng vui khôn xiết, vội lạy Thạch Sanh rồi cuốn
gói về quê, nào ngờ, vừa ra khỏi kinh thành thì bị sét đánh
chết, hóa thành hai con bọ hung.
Thạch Sanh được nhà vua cảm tạ, và gả công chúa cho, chọn
ngày lễ thành hôn cho hai người. Nghe tin nhà vua gả công
chúa Quỳnh Nga cho một tên nông dân quèn, chư hầu 18
nước láng giềng oán hận lắm, họ quan to chức lớn bao lần
sang ngỏ lời muốn cưới Quỳnh Nga không được nên mang
mối thù, giờ nghe tin công chúa lấy chồng thì nổi giận đùng
đùng. 18 nước họp lại cùng đến kinh thành bao vây đòi nhà
vua giao Quỳnh Nga.
Quân đội người nhiều, nhà vua không biết xoay xở ra sao.
Thạch Sanh mới mang niêu cơm thần lên tuyên bố, nếu các
ngươi ăn hết được niêu cơm này thì ta sẽ giao Quỳnh Nga cho
các ngươi. Quân lính nhìn nồi cơm bé tí teo thì cười khinh bỉ:
– Nhà ngươi mang mỗi niêu cơm bé tí ra thế kia thì làm sao
thắng được chúng ta?
Nào ngờ đâu, quân lính ăn cơm mãi không hết, nồi cơm cứ
vơi rồi lại đầy, quân lính ủ dột. Trong lúc lính ăn, Thạch Sanh
lấy đàn ra gảy, tiếng đàn nỉ non ai oán như tiếng gọi của mẹ ở
nhà mong con về, tiếng vợ khóc mong chồng, tiếng con khóc
21


mong cha. Quân lính rũ rượi nằm phủ phục không còn ý chí
chiến đấu nữa. Chư hầu 18 nước đành phải rút quân về nước,

chúc phúc cho Thạch Sanh và công chúa.
Từ đó, Thạch Sanh và công chúa hạnh phúc bên nhau, sau này
vua cha mất, giao lại ngôi báu cho Thạch Sanh, dân chúng
dưới quyền chàng thì hào thuận no ấm, cuộc sống nhộn nhịp
vui vẻ muôn màu.
Câu chuyện ngày hôm nay khá là dài phải không các bé.
Nhưng tới cuối cùng, sau biết bao nhiêu gian khổ và nguy
hiểm, chàng Thạch Sanh của chúng ta đã có cuộc sống vui vẻ
bên công chúa. Chúng ta lại có thêm một bài học mới về cái
thiện và cái ác:

Cái thiện – đại diện là Thạch Sanh – dù là bị Lý Thông
lừa lọc dăm lần bảy lượt, dù phải xuống hang sâu hay đối
mặt với hiểm nguy không biết bao nhiêu lần, Thạch Sanh
vẫn giữ được dũng khí và cốt cách trượng nghĩa của mình,
luôn hết lòng giúp đỡ những người xung quanh và không
đầu hàng trước cái ác.

Cái ác – đại diện là tên Lý Thông dù tham lam độc ác,
mưu sâu kế hiểm nhưng cũng chẳng thế thoát được lưới
trời. Hai mẹ con hắn bị biến thành loài sâu bọ vừa xấu xí
lại bẩn thỉu nhục nhã.
Sau khi đọc xong truyện cổ tích Thạch Sanh, các bé không
những được đắm chìm trong cuộc phiêu lưu đầy tính chất kỳ
thú của chàng Thạch Sanh mà còn rút ra được bài học vô cùng
bổ ích về cái thiện và cái ác. Các bé hãy ghi nhớ thật kỹ và kể
lại cho các bạn cùng nghe nhé!
Chúc bé đọc những câu chuyện cổ tích thật vui nhé!

22



TRUYỆN CỔ TÍCH THÁNH GIÓNG
Hôm nay vườn cổ tích sẽ cùng với các bé đọc truyện cổ
tích hay còn gọi là truyền thuyết Thánh Gióng. Thánh Gióng
hay còn có tên gọi khác là Phù Đổng Thiên Vương – sinh ra
tại xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, Hà Nội, thời Hùng
Vương thứ 6. Ông là người có công giết giặc Ân cứu nước ta,
đem lại hạnh phúc cho nhân dân, sau đó đã tạm biệt trần gian
cưỡi ngựa bay về trời. Trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam,
Thánh Gióng chính là một trong tứ bất tử và được xem như là
23


tượng trưng cho tinh thần chống ngoại xâm và sức mạnh tuổi
trẻ.
Câu chuyện về sự ra đời và lớn lên của cậu Gióng cũng mang
màu sắc kỳ lạ dễ khiến các bé liên tưởng tới truyện Sọ Dừa
mà Vườn cổ tích đã kể trước đây. Để biết câu chuyện cụ thể
về Thánh Gióng như thế nào thì chúng ta cùng tìm hiểu nhé.

TRUYỆN CỔ TÍCH THÁNH GIÓNG
Chuyện kể rằng: vào đời Hùng Vương thứ 6, ở một làng nọ có
hai vợ chồng ông lão rất hiền lành, chăm chỉ làm ăn và có
tiếng là phúc đức hay giúp đỡ mọi người. Hai ông bà tuổi đã
cao mà vẫn không có lấy một mụn con.
Một hôm bà lão ra đồng trông thấy một vết chân rất to, bà tò
mò liền đặt bàn chân mình lên ướm thử để xem thua kém bao
nhiêu. Không ngờ về nhà bà mang thai. Chín tháng mười ngày
sau mà bà vẫn chưa sinh, ông lão mong chờ đứa con nhưng

không được, ông lâm bệnh rồi qua đời. Mười hai tháng sau bà
sinh một thằng bé mặt mũi rất khôi ngô. Bà đặt tên cho con là
Gióng. Nhưng lạ thay! Ðứa trẻ cho đến khi lên ba vẫn không
biết nói, biết cười, cũng chẳng biết đi, cứ đặt đâu thì nằm đấy.
24


Bấy giờ có giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi nước ta, cầm đầu là
Ân Vương, nổi tiếng độc ác, dữ tợn, hắn đi đến đâu là cho
quân đánh chém giết người đốt nhà đến đấy. Dân chúng vừa
sợ hãi vừa căm giận ngút trời. Nhà vua đã bao lần cho quân
vây đánh nhưng không được, bất an về quốc gia, vua bèn
truyền cho sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giỏi cứu nước. Sứ
giả đi đến đâu cũng kêu to:
– Loa loa loa loa! Giặc Ân hung hãn, người tài ở đâu, cứ dân
cứu nước.
Nghe thấy tiếng loa của sứ giả, Gióng đang nằm bỗng bật dậy
gọi mẹ:
– Mẹ ơi, mẹ ra mời sứ giả vào đây cho con.
Mẹ Gióng đang vui mừng vì con đã nói được, nhưng nghe con
nhắc mời sứ giả thì cản lại:
– Con bé thế này, sao có thể ra trận đánh giặc được.
Gióng vẫn cương quyết:
– Mẹ cứ ra mời sứ giả vào đây cho con.
Bà mẹ đành ra mời sứ giả vào, vào đến nơi không thấy tráng
sĩ anh hùng nào, chỉ thấy một cậu bé ba tuổi đang ngồi trên
giường, sứ giả tức giận toan bỏ đi thì Gióng cất lời, dõng dạc
từng chữ:
– Sứ giả hãy về tâu với nhà vua, đúc cho ta một con ngựa sắt,
một áo giáp sắt, một cây roi sắt ta sẽ phá tan lũ giặc này.

Sứ giả lấy làm kinh ngạc, vội vàng về tâu vua. Nhà vua truyền
cho thợ ngày đêm làm gấp những thứ mà Gióng đã dặn. Từ
sau ngày gặp sứ giả Gióng lớn nhanh như thổi. Cơm mẹ nấu
25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×