Tải bản đầy đủ (.docx) (124 trang)

Nhận diện và miêu tả “cái tôi” trữ tình trong thơ tố hữu qua năm tập thơ từ ấy, việt bắc, gió lộng, ra trận, máu và hoa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (485.03 KB, 124 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA NGỮ VĂN


Tiểu Luận

Nhận diện và miêu tả “cái tơi” trữ tình
trong thơ Tố Hữu qua năm tập thơ :
Từ ấy, Việt Bắc, Gió lộng, Ra trận, Máu và hoa

GVHD: Thầy Bạch Văn Hợp

Thành phố Hồ Chí Minh - 10/2016

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA NGỮ VĂN


Tiểu Luận:
Nhận diện và miêu tả “cái tơi” trữ tình
trong thơ Tố Hữu qua năm tập thơ :
Từ ấy, Việt Bắc, Gió lộng, Ra trận, Máu và hoa

Thành phố Hồ Chí Minh - 10/2016

MỤC LỤC




Nhận diện và miêu tả “cái tơi” trữ tình trong thơ Tố Hữu qua năm tập thơ
“Từ ấy”, “Việt Bắc”, “Gió lộng”, “Ra trận”, “Máu và hoa”

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Dẫn nhập
Khi bàn về thơ ca trữ tình ta khơng thể khơng nhắc tới “cái tơi trữ tình”.
Theo Nguyễn Minh Sơn “Cái tơi trữ tình là một “hiện tượng nghệ thuật”, là cơ
sở cho hình tượng nhân vật trữ tình, là phương tiện để cho con người cảm thấy
sự tồn tại của họ. Cái tơi nâng con người cao hơn bình thường, hướng con
người đến một lí tưởng nào đó và là cầu nối giữa vô thức và hữu thức” [1]. Thế
kỉ XX thơ ca Việt Nam xuất hiện thêm một dạng thức của cái tơi trữ tình là “cái
tơi trữ tình cách mạng”. Cái tơi ấy là cái tơi của cộng đồng rộng lớn, thường
được hịa tan trong tiếng nói chung, tiếng nói của những con người chung hồn
cảnh, cùng số phận, chí hướng là lời ca của những con người yêu lí tưởng, yêu
quê hương, yêu cuộc đời.
Thơ Tố Hữu là một biểu hiện của cái tơi trữ tình phong phú, đa dạng.
Chính cái tơi đó đã đưa thơ chính trị lên đến trình độ thơ rất đỗi trữ tình. Nó có
sự hài hịa, hồn chỉnh giữa cá nhân và tập thể, là tiếng nói của cả cộng đồng
được lịng qua một cái bản ngã. Chính cái tơi đặc sắc đó đã đem tên tuổi Tố Hữu
lên một tầm cao vĩ đại, trở thành “ngọn cờ đầu của thơ ca cách mạng”. Do vậy
các nhà nghiên cứu đều nhất trí cho rằng thơ Tố Hữu là sự kiện văn học quan
trọng trong lịch sử văn học Việt Nam và đã có rất nhiều nhà phê bình văn
chương đã chọn thơ ông làm đề tài nghiên cứu.
Dù rất được chú trọng tìm hiểu tuy nhiên chúng tơi nhận ra rằng những
bài viết về thơ Tố Hữu còn rất hạn chế về mặt dung lượng và hầu như chỉ lướt
qua một số vấn đề lớn, cịn cái tơi trữ tình trong thơ Tố Hữu thì gần như chưa
được khai thác nhiều, các bài viết chưa thật sự hoàn chỉnh sắc sảo. Ở tiểu luận
này chúng tôi ý thức được rằng cái tơi trữ tình trong thơ Tố Hữu là một đề tài

rộng lớn chính vì vậy chúng tơi sẽ chỉ nhận diện và miêu tả cái tơi trữ tình trong

4


Nhận diện và miêu tả “cái tơi” trữ tình trong thơ Tố Hữu qua năm tập thơ
“Từ ấy”, “Việt Bắc”, “Gió lộng”, “Ra trận”, “Máu và hoa”

thơ ơng qua năm tập thơ tiêu biểu là: “Từ ấy”, “Việt Bắc”, “Gió lộng”, “Ra
trận”, “Máu và hoa”.
Khơng tham vọng có thể làm rõ được mọi vấn đề liên quan đến cái tôi trữ
tình trong thơ Tố Hữu, vì vậy, trong tiểu luận này, chúng tôi chỉ tập trung vào
nhận diện và miêu tả cái tơi trữ tình thơ Tố Hữu qua năm tập thơ lớn nêu trên.
Với mong muốn đem đến cho những người quan tâm đến thơ Tố Hữu có thêm
cái nhìn cận cảnh, mới mẻ về cái tơi trữ tình trong thơ ơng trước, trong và sau
thời kì cách mạng, chúng tơi xin đóng góp một phần cơng sức nhỏ bé của mình
vào cơng việc nghiên cứu thơ ca Tố Hữu - vốn là một công việc cần thiết, hấp
dẫn và rất đáng được quan tâm hiện nay.

2. Bố cục tiểu luận
Ngoài phần dẫn nhập và kết luận, bài luận gồm ba chương:
Chương 1:
Chương này nêu khái quát về cuộc đời, sự nghiệp và các yếu tố ảnh
hưởng đến hồn thơ Tố Hữu và giới thiệu về các tập thơ “Từ ấy”, “Việt Bắc”,
“Gió lộng”, “Ra trận”, “Máu và hoa”. Đồng thời đề cập những nét chính về “cái
tơi” và “cái tơi” trữ tình
Chương 2:
Chương này làm rõ và miêu tả “cái tơi” trữ tình trong thơ Tố Hữu qua
năm tập thơ “Từ ấy”, “Việt Bắc”, “Gió lộng”, “Ra trận”, “Máu và hoa” cùng các
biểu hiện.

Chương 3:
Chương này chỉ ra những điểm tiếp nối và thay đổi của “cái tôi” trữ tình
thơ Tố Hữu trong hai thời kì là trước và sau khi đất nước ta giành được độc lập

5


Nhận diện và miêu tả “cái tơi” trữ tình trong thơ Tố Hữu qua năm tập thơ
“Từ ấy”, “Việt Bắc”, “Gió lộng”, “Ra trận”, “Máu và hoa”

nhằm thấy được sự chuyển mình, đổi mới và những điều làm nên nét đặc sắc
riêng của tác giả.

6


Nhận diện và miêu tả “cái tơi” trữ tình trong thơ Tố Hữu qua năm tập thơ
“Từ ấy”, “Việt Bắc”, “Gió lộng”, “Ra trận”, “Máu và hoa”

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Vài nét về tác giả Tố Hữu
1.1.1. Cuộc đời nhà thơ Tố Hữu
Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành, sinh ngày 4/10/1920 tại làng Phù
Lai, huyện Quảng Ðiền, tỉnh Thừa Thiên (nay là Thừa Thiên Huế). Ông là một
nhà thơ tiêu biểu của thơ cách mạng Việt Nam, đồng thời là một chính trị gia.
Cha ông là một nhà nho nghèo, không đỗ đạt và phải kiếm sống rất chật
vật nhưng lại thích thơ, thích sưu tập ca dao tục ngữ. Ông đã dạy Tố Hữu làm
thơ cổ. Mẹ ông cũng là con của một nhà nho, thuộc nhiều ca dao dân ca Huế và
rất thương con. Cha mẹ đã góp phần ni dưỡng tâm hồn thơ Tố Hữu. Mẹ ông

mất vào năm ông lên 12 tuổi. Năm 13 tuổi, ông vào trường Quốc học Huế. Tại
đây, được trực tiếp tiếp xúc với tư tưởng Cộng sản qua sách báo tiến bộ của
Mác, Ăngghen, Lênin, Hồ Chí Minh, Goocki… kết hợp với sự vận động, giác
ngộ của các Ðảng viên ưu tú bấy giờ (Lê Duẩn, Phan Ðăng Lưu, Nguyễn Chí
Diểu), người thanh niên Nguyễn Kim Thành sớm nhận ra lý tưởng đúng đắn.
Gia nhập Ðoàn thanh niên, hăng hái hoạt động, được kết nạp Ðảng năm 1938.
Tháng 4/1939, Tố Hữu bị bắt, bị tra tấn dã man và đày đi nhà lao Thừa
Phủ (Huế) rồi chuyển sang nhà tù Lao Bảo (Quảng Trị) và nhiều nhà tù khác ở
Tây Nguyên. Trong tù, người chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi ln giữ vững khí tiết,
tiếp tục hoạt động cách mạng ở mọi hoàn cảnh.
Cuối 1941, ông vượt ngục, về hoạt động bí mật ở Hậu Lộc – Thanh Hóa.
Khi Cách mạng tháng Tám bùng nổ, Tố Hữu là Chủ tịch Uỷ ban khởi nghĩa của
thành phố Huế. Năm 1946, nhà thơ giữ chức bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa. Cuối
1947, ơng lên Việt Bắc làm cơng tác văn nghệ, tun huấn. Từ đó, nhà thơ luôn

7


Nhận diện và miêu tả “cái tơi” trữ tình trong thơ Tố Hữu qua năm tập thơ
“Từ ấy”, “Việt Bắc”, “Gió lộng”, “Ra trận”, “Máu và hoa”

giữ những trọng trách trong công tác văn nghệ, trong bộ máy lãnh đạo Ðảng và
nhà nước:

• 1948: Phó Tổng thư ký Hội Văn nghệ Việt Nam
• 1952: Giám đốc Nha Tuyên truyền và Văn nghệ thuộc Thủ tướng








phủ
1954: Thứ trưởng Bộ Tuyên truyền
1963: Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam
Tại đại hội Đảng lần II (1951): Ủy viên dự khuyết Trung ương
1955: Ủy viên chính thức
Tại đại hội Đảng lần III (1960): vào Ban Bí thư
Tại đại hội Đảng lần IV (1976): Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị, Bí
thư Ban chấp hành Trung ương, Trưởng ban Tuyên truyền Trung

ương, Phó Ban Nơng nghiệp Trung ương
• Từ 1980: Ủy viên chính thức Bộ Chính trị
• 1981: Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, rồi Phó Chủ tịch thứ nhất
Hội đồng Bộ trưởng cho tới 1986. Ngồi ra ơng cịn là Bí thư Ban
chấp hành Trung ương
Ngồi ra, ơng từng đảm nhiệm nhiều chức vụ khác như Hiệu trưởng
Trường Nguyễn Ái Quốc, Trưởng ban Thống nhất Trung ương, Trưởng ban
Tuyên huấn Trung ương, Trưởng ban Khoa giáo Trung ương. Ơng cịn là Đại
biểu Quốc hội khố II và VII.
Trong thời gian phụ trách mảng văn nghệ, ông là người đã phê phán quyết
liệt phong trào Nhân văn - Giai phẩm (1958). Nhiều ý kiến coi ơng là tác giả
chính của vụ án văn nghệ - chính trị này. Sau khi Lê Duẩn mất, có sự thay đổi
mạnh mẽ tiến tới đổi mới nhằm thoát khỏi khủng hoảng kinh tế tồn diện. Ơng
bị mất uy tín vì vai trị "nhà thơ đi làm kinh tế" qua những vụ khủng hoảng tiền

8



Nhận diện và miêu tả “cái tơi” trữ tình trong thơ Tố Hữu qua năm tập thơ
“Từ ấy”, “Việt Bắc”, “Gió lộng”, “Ra trận”, “Máu và hoa”

tệ những năm 1980 nên bị miễn nhiệm mọi chức vụ, chỉ còn làm một chức
nghiên cứu hình thức.
Năm 1996, ơng được Nhà nước phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về
Văn học nghệ thuật (đợt 1).
Tố Hữu mất lúc 9 giờ 15 phút 7 giây, ngày 9 tháng 12 năm 2002 tại Bệnh
viện 108.
1.1.2. Những yếu tố chính tác động đến hồn thơ Tố Hữu
Nhắc đến cái tơi trữ tình của Tố Hữu, chắc hẳn chúng ta sẽ khơng thể chối
cãi được chính quê hương là nơi ươm mầm cho hồn thơ dạt dạt dào tình cảm ấy,
bởi lẽ xứ Huế mang trong mình một vẻ đẹp đầy thơ mộng, lại có truyền thống
văn hóa lâu đời. Q hương – nơi chơn nhau cắt rốn bao giờ cũng là nơi có ảnh
hưởng lớn đến cuộc đời của mỗi con người, và với nhà thơ Tố Hữu điều đó cũng
khơng phải là ngoại lệ. Xứ Huế mộng mơ, hữu tình, nên thơ dường như cũng đi
vào lòng người, vào trái tim, đem đến cho người nghệ sĩ sự rung động với cuộc
đời từ rất sớm. Đây là một vùng đất có thiên nhiên nhiên nên thơ, cũng là một
vùng đất nhiều truyền thống văn hóa, kể cả văn hóa dân gian và văn hóa cung
đình. Trong các sáng tác của Tố Hữu ta khơng ít lần bắt gặp những câu thơ như:
Huế ơi, quê mẹ của ta ơi!
Nhớ từ ngày xưa, tuổi chín mươi
Mây núi hiu hiu, chiều lặng lặng
Mưa nguồn gió biển, nắng xa khơi…
(Quê mẹ - “Gió lộng”)
Huế là quê hương, là cội nguồn dân tộc, là nơi chất chứa bao kỉ niệm và
cũng là nơi vun đắp tình yêu cho những người con với trái tim đơn hậu một tình
cảm nồng nhiệt với đất nước, quê hương.

9



Nhận diện và miêu tả “cái tơi” trữ tình trong thơ Tố Hữu qua năm tập thơ
“Từ ấy”, “Việt Bắc”, “Gió lộng”, “Ra trận”, “Máu và hoa”

Nền tảng gia đình cũng chính là động lực thơi thúc chất trữ tình trong thơ
của Tố Hữu. Ông sinh ra trong một gia đình có truyền thống văn hóa và sinh
hoạt tinh thần phong phú. Thân sinh ông là một nhà nho nghèo nhưng yêu thơ,
hay sưu tầm ca dao, tục ngữ. Mẹ ông là con gái trong một gia đình nhà Nho,
cũng yêu ca dao, dân ca xứ Huế và giàu lòng thương con. Yếu tố truyền thống
văn hóa gia đình đã sớm định hình trong ơng tình u với văn học và ngôn ngữ
dân tộc. Ta bắt gặp điều nay trong những tác phẩm của ông, khi ông thường
xuyên sử dụng lồng ghép các thể thức văn học dân gian trong sáng tác của
mình. Những bài thơ lục bát mang cả sắc thái lục bát ca dao và lục bát cổ điển,
dạt dào những âm hưởng nghĩa tình của hồn thơ dân tộc. Chẳng hạn như trong
bài thơ nổi tiếng “Việt Bắc”, Tố Hữu sử dụng thể thơ lục bát cùng kết cấu đối
đáp dân gian quen thuộc:
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ khơng
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sơng nhớ nguồn?
(Việt Bắc – “Việt Bắc”)
Như vậy, ta thấy rằng yếu tố truyền thống văn hóa gia đình và sinh hoạt
tinh thần phong phú đã góp phần định hướng và ảnh hướng lớn đến thơ Tố Hữu.
Bên cạnh đó, trong giai đoạn trước 1945, nhà thơ còn chịu ảnh hưởng của phong
trào Thơ Mới đương thời về hình thức thơ ca.Trong sự nghiệp sáng tác của mình
Tố Hữu có tiếp thu những tinh hoa của phong trào Thơ mới như những tiến bộ
về mặt thể thơ, về đề tài. Những bài thơ theo thể thất ngôn trang trọng nhưng
không khuôn sáo, trái lại, hơi thơ rất liền mạch, tự nhiên, diễn tả được hiện thực
đa dạng và nhiều trạng thái cảm xúc khác nhau. Điểm nổi bật của Tố Hữu so với

các nhà thơ đương thời là ông chịu tiếp cận cái mới, biến cái mới sao cho phù

10


Nhận diện và miêu tả “cái tơi” trữ tình trong thơ Tố Hữu qua năm tập thơ
“Từ ấy”, “Việt Bắc”, “Gió lộng”, “Ra trận”, “Máu và hoa”

hợp với nền tảng và nét đẹp văn hóa dân tộc. Chính yếu tố này đã tạo nên sự
thành công của nhà thơ trong sự nghiệp văn chương.
Năm 13 tuổi Tố Hữu vào học tại trường Quốc học Huế, tại đây ông được
tiếp xúc với lí tưởng Cộng sản và nhận ra lí tưởng đúng đắn. Tố Hữu sớm giác
ngộ Cách mạng và hăng say hoạt động, kiên cường đấu tranh trong các nhà tù
thực dân. Thơ ca Tố Hữu gắn liền và phản ánh phong trào đấu tranh giành độc
lập dân tộc. Mỗi bước biến chuyển trong thơ ông đều gắn liền sự nghiệp cách
mạng của đất nước. Quãng thời gian học tập tại trường Quốc học Huế, được tiếp
cận với sách báo tiến bộ của Mác và Ănghen đã ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp
sáng tác của nhà thơ trong việc định hướng nội dung, tư tưởng cho các tác
phẩm. Như vậy, ảnh hưởng của sách báo tiến bộ, của phong trào cách mạng, của
Đảng cũng là một yếu tố góp phẩn hình thành nên cái tơi trữ tình đặc sắc của tác
giả.
1.2. Giới thiệu các tập thơ “Từ ấy”, “Việt Bắc”, “Gió lộng”, “Ra trận”,
“Máu và hoa”
1.2.1. Tập thơ “Từ ấy”
Tâp thơ “Từ ấy” (1937 – 1946) là chặng đường đầu mười năm thơ của Tố
Hữu, cũng là mười năm hoạt động sôi nổi, say mê từ giác ngộ qua thử thách đến
trưởng thành của người thanh niên cách mạng trong một giai đoạn lịch sử diễn
ra nhiều biến cố to lớn làm rung chuyển và thay đổi xã hội Việt Nam.
Tập thơ gồm ba phần tương ứng với ba chặng đường trong mười năm đầu
hoạt động của người thanh niên cách mạng là Máu lửa, Xiềng xích và Giải

phóng.
Máu lửa gồm hai mươi bảy bài, được viết từ cuối năm 1937 đến đầu năm
1939. Trong thời gian này mặt trận Đông Dương phát triển mạnh dưới sự lãnh
đạo của Đảng cộng sản Đông Dương, đồng thời đây cũng là những năm tháng
11


Nhận diện và miêu tả “cái tơi” trữ tình trong thơ Tố Hữu qua năm tập thơ
“Từ ấy”, “Việt Bắc”, “Gió lộng”, “Ra trận”, “Máu và hoa”

mà trên thế giới phong trào chống phát xít bảo vệ dân chủ và hịa bình diễn ra
sơi nổi. Máu lửa là tiếng lịng náo nức của một tâm hồn trẻ đang băn khoăn đi
tìm lẽ sống thì gặp gỡ ánh sáng lí tưởng. Có thể thấy qua bài Từ ấy
Từ ấy trong tơi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Hồn tơi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim…
Ánh “Mặt trời chân lí chói qua tim” ấy đã giúp nhà thơ nhận rõ được
những áp bức, bất công trong xã hội, cảm thông sâu sắc với số phận những
người lao động nghèo khó và khơi dậy lịng căm thù giặc, ý chí đấu tranh, niềm
tin tưởng vào một tương lai tốt đẹp.
Nếu Máu lửa khắc họa một tâm hồn trẻ reo vui vì đã gặp gỡ được ánh
sáng lí tưởng thì Xiềng xích lại ghi tạc cuộc đấu tranh gay go của người chiến sĩ
cách mạng trong nhà tù thực dân, mặc dù kề cận bên cái chết mà vẫn gửi những
lời trăng trối đầy tin tưởng cho đời. Xiềng xích với ba mươi bài thơ đã thể hiện
sự trưởng thành, vững vàng của người thanh niên vượt qua bao thử thách nguy
hiểm, khó khăn gian khổ, đồng thời bộc lộ một tâm hồn tha thiết yêu đời, mong
muốn một ngày mai tự do, một tương lai tốt đẹp.
Giải phóng là những bài thơ được sáng tác sau khi tác giả thoát khỏi nhà
tù thực dân, tiếp tục hoạt động cách mạng và những ngày đất nước vui tươi,

phấn khởi trong niềm vui độc lập sau khi Cách mạng tháng tám thành công.
Phần này gồm mười bốn bài là sự ca ngợi nồng nhiệt của nhà thơ đối với thắng
lợi của cách mạng, nền độc lập, tự do của tổ quốc, là sự ngất ngây trong niềm

12


Nhận diện và miêu tả “cái tơi” trữ tình trong thơ Tố Hữu qua năm tập thơ
“Từ ấy”, “Việt Bắc”, “Gió lộng”, “Ra trận”, “Máu và hoa”

hạnh phúc với cảm hứng lãng mạn trào dâng trước cuộc đổi thay vĩ đại của dân
tộc.
“Từ ấy” là tập thơ đánh dấu mười năm thơ đầu của Tố Hữu, đây là tập thơ
hết sức độc đáo và mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc như Đặng Thai Mai đã từng
nhận định rằng: “Từ ấy là tiếng nói cáo trạng nhân danh phẩm giá của con người
lao khổ, nhân danh chủ nghĩa nhân đạo để chống với một chế độ tàn bạo, nhân
danh cái đẹp của thiên nhiên và nghệ thuật của chân lí để phản công cái xấu, cái
giả dối”.
1.2.2. Tập thơ “Việt Bắc”
Hầu hết các bài trong tập thơ “Việt Bắc” được sáng tác trong những năm
kháng chiến chống Pháp và đã được xuất bản trên báo chí trước khi in thành tập
lần đầu tiên vào năm 1954.
Trong lần in đầu tiên năm 1954, tập thơ “Việt Bắc” gồm 24 bài với bài
đầu tiên là Cá nước, sáng tác năm 1947 và kết thúc với bài Lại về, sáng tác năm
1954. Tập thơ cũng có 6 bài thơ dịch, bao gồm thơ của Louis Aragon (Pháp),
Konstantin Mikhailovich Simonov (Nga), thơ kháng chiến của Nam Tư và thơ
tuyệt mệnh của ông bà Rosenberg (Mỹ).
Trong những lần in sau đó, tập thơ “Việt Bắc” được bổ sung thêm 4 bài
Đêm xanh, Lạnh lạt, Tình khoai sắn, Trường tôi, sáng tác vào năm 1946.
Về nội dung, tập thơ đã nhấn mạnh cái ta chung của dân tộc, của giai cấp,

như một bản hợp ca của cả một dân tộc anh hùng không chịu khuất phục trước
bất kì kẻ thù nào, trước bất kì khó khăn gian khổ nào để giành được độc lập tự
do. Bản hợp ca đó được xây dựng trên một nền trữ tình phong phú, nổi bật là
hình tượng quần chúng nhân dân kháng chiến. Nhà thơ tập trung thể hiện hình
ảnh những con người đại diện cho quần chúng với những chi tiết bình dị mà

13


Nhận diện và miêu tả “cái tơi” trữ tình trong thơ Tố Hữu qua năm tập thơ
“Từ ấy”, “Việt Bắc”, “Gió lộng”, “Ra trận”, “Máu và hoa”

chân thực của cuộc sống, trong mọi hoạt động kháng chiến với tâm tình, ý nghĩ
và tiếng nói của họ. Đó là anh vệ quốc quân đã làm nên chiến thắng Việt Bắc
vang dội:
Giọt giọt mồ hôi rơi
Trên má anh vàng nghệ
Anh Vệ quốc quân ơi
Sao mà yêu anh thế!
(Cá nước)
Là những người mẹ nơng dân chất phác gắn bó tình nghĩa với kháng
chiến, hịa làm một tình thương u con với lịng u nước:
Bao bà cụ từ tâm như mẹ
Yêu quý con như đẻ con ra.
Cho con nào áo nào quà
Cho củi con sưởi, cho nhà con ngơi.
(Bầm ơi)
Là em bé liên lạc hồn nhiên, anh dũng ngã xuống trên cánh đồng quê
tháng mười dưới làn đạn giặc mà linh hồn và hình ảnh của em vẫn còn mãi với
quê hương đất nước:

Cháu nằm trên lúa
Tay nắm chặt bông
Lúa thơm mùi sữa
Hồn bay giữa đồng
14


Nhận diện và miêu tả “cái tơi” trữ tình trong thơ Tố Hữu qua năm tập thơ
“Từ ấy”, “Việt Bắc”, “Gió lộng”, “Ra trận”, “Máu và hoa”

(Lượm)
Mặt khác, là tập hùng ca của kháng chiến tồn dân tám năm rịng rã chống
bọn xâm lăng, “Việt Bắc” phản ánh đầy đủ con đường chiến đấu gian lao và sự
trưởng thành của dân tộc Việt Nam qua những dấu ấn, hình ảnh về cuộc kháng
chiến. Đó là tiếng hát mở đường (bài Phá đường); tiếng hò kéo pháo lên chiến
dịch (bài Voi); nỗi lòng bà mẹ nhớ con (bài Bầm ơi); nguồn sáng nơi căn nhà của
cụ Hồ (bài Sáng tháng năm); bước chân người chiến sĩ vào trận tuyến nơi núi
rừng Tây Bắc (bài Lên Tây Bắc); niềm hân hoan trước chiến công lừng lẫy tại
Điện Biên Phủ (bài Hoan hô chiến sĩ Điện Biên); niềm vui chiến thắng và hịa
bình trên bước đường đi tới (bài Ta đi tới); nỗi nhớ nhung và lời hẹn ước giã từ
thủ đơ gió ngàn (bài Việt Bắc)…
Một trong những điểm nổi bật của tập thơ là sự khắc họa chân thực những
nhân vật văn học đại diện cho các tầng lớp nhân dân Việt Nam kháng chiến,
những con người mới của thời đại mới, mà nổi bật trong đó là hình ảnh Hồ Chí
Minh hiện thân cho tinh hoa và trí tuệ của dân tộc. Về mặt nghệ thuật, các bài
thơ trong thi tập sử dụng nhiều thể thơ như thơ tự do, thơ ngũ ngôn, đặc biệt là
các thể thơ dân tộc như thơ lục bát và thơ xen song thất lục bát. Tuy được đánh
giá là bước trưởng thành quan trọng của thơ Tố Hữu, là một thành tựu xuất sắc
của thơ Việt Nam giai đoạn kháng chiến chống Pháp, yếu tố cách tân trong tập
thơ cũng chưa được nhìn thấy.

Tập thơ “Việt Bắc” được tặng giải nhất về thơ của Giải thưởng văn học
giai đoạn 1954-1955 của Hội Văn nghệ Việt Nam.
1.2.3. Tập thơ “Gió lộng”
“Gió lộng” là tập thơ nổi bật của Tố Hữu, gồm 25 bài, được sáng tác trong
khoảng thời gian từ năm 1955 đến 1961. Tập thơ được Tố Hữu viết trong
khoảng thời gian miền Bắc đang xây dựng xã hội chủ nghĩa và miền Nam đang
15


Nhận diện và miêu tả “cái tơi” trữ tình trong thơ Tố Hữu qua năm tập thơ
“Từ ấy”, “Việt Bắc”, “Gió lộng”, “Ra trận”, “Máu và hoa”

tiếp tục đấu tranh chống Mỹ. “Gió lộng” là bài ca vui kiến thiết chủ nghĩa xã hội
trên một nửa nước Việt Nam, là tiếng thét căm thù, đấu tranh với bọn bán nước
và cướp nước ở miền Nam Việt Nam.
Sau năm 1954, ở miền Bắc, nhân dân ta náo nức bắt tay vào công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội, khôi phục và phát triển kinh tế, hàn gắn vết thương
chiến tranh, hợp tác hố nơng nghiệp, cơng nghiệp hố xã hội chủ nghĩa, xây
dựng và phát triển kinh tế, văn hố:
Dân có ruộng dập dìu hợp tác
Lúa mượt đồng ấm áp làng quê
Chiêm mùa, cờ đỏ ven đê
Sớm trưa, tiếng trống đi về trong thơn
(Ba mươi năm đời ta có Đảng)
“Tiếng trống đi về” nghe thật rộn rã, tươi vui, náo nức. Nơng thơn là thế,
cịn thành thị thì
Xn ơi xn, em mới đến dăm năm
Mà cuộc sống đã tưng bừng ngày hội
Như hơm nay giữa cơng trường đỏ bụi
Những đồn xe vận tải nối nhau đi

(Bài ca mùa xuân 1961)
Cuộc sống mới và con người mới trên đất nước Việt Nam cũng như trên
các đất nước xã hội chủ nghĩa anh em đã đưa lại cho “Gió lộng” những vần thơ
tươi vui, đầm ấm, phơi phới lạ thường

16


Nhận diện và miêu tả “cái tơi” trữ tình trong thơ Tố Hữu qua năm tập thơ
“Từ ấy”, “Việt Bắc”, “Gió lộng”, “Ra trận”, “Máu và hoa”

Xuân ơi xuân, vui tới mơng mênh
Biển vui dâng sóng trắng đầu ghềnh
Thơ đã hát, mắt trong lời chúc:
Đường lên hạnh phúc rộng thênh thênh!
(Bài ca mùa xuân 1961)
Ở “Gió lộng”, cuộc sống xã hội chủ nghĩa là cuộc sống “thiên đường”,
cuộc sống “bình minh dậy”, là “cuộc sống gió lộng đường khơi”. Trên đất nước
mình đã vậy, khi đi trên đất nước anh em, nhà thơ vẫn thấy vẻ đẹp của cuộc
sống và con người xã hội chủ nghĩa là vẻ đẹp và cuộc sống của con người có tự
do. Cuộc sống mới xã hội chủ nghĩa đã đưa lại cho thơ Tố Hữu cảm hứng anh
hùng trong lao động xây dựng sáng tạo. Đôi cánh lãng mạn cách mạng của thơ
Tố Hữu dường như càng bay cao hơn:
Ồ đâu phải, qua đêm dài lạnh cóng
Mặt trời lên là hết bóng mù sương
Ơi đâu phải qua đoạn đường lửa bỏng
Cuộc đời ta bỗng chốc hố thiên đường
(Mùa thu mới)
Đặc biệt, “Gió lộng” đã ghi lại được hình ảnh vị lãnh tụ của cách mạng
Việt Nam trong điều kiện lịch sử mới

Bác đi, muôn dặm đường xa
Hôm nay tuyết lạnh, nay vừa nắng lên
Bác về, tóc có bạc thêm?
17


Nhận diện và miêu tả “cái tơi” trữ tình trong thơ Tố Hữu qua năm tập thơ
“Từ ấy”, “Việt Bắc”, “Gió lộng”, “Ra trận”, “Máu và hoa”

Năm canh, bốn biển, có đêm nghĩ nhiều?
(Cánh chim khơng mỏi)
Hiện thực nước ta trong thời kỳ 1954 – 1961 khơng chỉ có miền Bắc xây
dựng chủ nghĩa xã hội mà cịn có miền Nam đang kiên cường đấu tranh chống
Mỹ - Nguỵ. Cuộc sống mà bè lũ xâm lược dựng nên ở miền Nam là “cõi chết, là
“cơn ác mộng”, cuộc sống mà “thịt rơi máu chảy đêm dài”, có “nghìn hồn oan
bay khắp nhân gian”… Đứng trên đỉnh cao của cuộc sống mới xã hội chủ nghĩa,
nhà thơ giáng xuống đầu bọn Mỹ và tay sai một mỗi căm thù mang sức mạnh
của bão tố
Bão ngày mai là giá nổi hôm nay!
Trời chớp giật, tất đến ngày sét đánh!
(Thù muôn đời muôn kiếp không tan)
Nhưng hiện thực miền Nam trong giai đoạn 1954 – 1961 mà “Gió lộng”
phản ánh chủ yếu khơng phải là bộ mặt của bọn Mỹ - Diệm, không phải là cuộc
sống ngột ngạt, đen tối mà chúng đã dựng nên với những tội ác man rợ mà chủ
yếu chính là hình ảnh những con người và cuộc sống của nhân dân cách mạng
trong máu lửa vẫn kiên trì đấu tranh hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc, dân
chủ ở miền Nam, tiến tới hồ bình thống nhất Tổ quốc. Cuộc đấu tranh vì độc
lập tự do đã được phản ánh với sức sống khơng gì dập tắt nổi
Đước đã mọc thành rừng gỗ cứng
Gió càng lay càng vững thành đồng

(Ba mươi năm đời ta có Đảng)

18


Nhận diện và miêu tả “cái tơi” trữ tình trong thơ Tố Hữu qua năm tập thơ
“Từ ấy”, “Việt Bắc”, “Gió lộng”, “Ra trận”, “Máu và hoa”

Trong kháng chiến, tình cảm Bắc Nam cũng trở thành biểu tượng tươi đẹp
của tình yêu nước thắm thiết. Tình cảm sâu nặng đối với miền Nam thể hiện qua
sự day dứt, canh cánh khôn nguôi :
Tôi viết cho ai bài thơ 61?
Đêm đã khuya rồi, rét về tê buốt
Hà Nội rì rầm... Cịi thổi ngồi ga
Một chuyến tàu chuyển bánh đi xa
Tiếng xình xịch, chạy dọc đường Nam Bộ...
(Bài ca xuân 1961)
Nổi bật lên hết thảy chính là lịng tin phơi phới vào độc lập tự do của
nước nhà
Em sẽ đứng trên đôi chân tuổi trẻ
Đơi gót đỏ lại trở về q mẹ
Em sẽ đi, trên đường ấy thênh thang
Như những ngày xưa, rực rỡ sao vàng!
(Người con gái Việt Nam)
Niềm vui chiến thắng được nhân lên cùng với niềm tự hào của con người
làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình, vững tin vào tương lai đã đem
đến cho tập thơ “Gió lộng” cảm hứng lãng mạn phơi phới cùng với khuynh
hướng sử thi đậm nét. Biểu hiện thành công tình Bắc Nam ruột thịt và lịng tin
sắt đá vào sự nghiệp cách mạng cả nước, “Gió lộng” đã góp phần với các tác


19


Nhận diện và miêu tả “cái tơi” trữ tình trong thơ Tố Hữu qua năm tập thơ
“Từ ấy”, “Việt Bắc”, “Gió lộng”, “Ra trận”, “Máu và hoa”

phẩm thơ ca của các tác giả khác cùng thời viết nên tình cảm yêu nước của con
người Việt Nam trong giai đoạn lịch sử mới.
1.2.4. Tập thơ “Ra trận”
Tập thơ “Ra trận” (1962-1971) được Tố Hữu sáng tác trong những năm
kháng chiến chống Mỹ quyết liệt và hào hùng của cả dân tộc cho tới ngày toàn
thắng. Thơ Tố Hữu lúc này là khúc ca ra trận, là mệnh lệnh tiến công và lời kêu
gọi, cổ vũ hào hùng của cả dân tộc trong cuộc chiến đấu ở cả hai miền Nam,
Bắc. Khẳng định ý nghĩa to lớn, cao cả của cuộc kháng chiến chống Mỹ đối với
lịch sử dân tộc và thời đại, thơ Tố Hữu cũng thể hiện những suy nghĩ, phát hiện
của nhà thơ về dân tộc và con người Việt Nam mà tác giả luôn ngợi ca với niềm
tự hào và cảm phục.
Tập thơ bao gồm 31 bài, sáng tác trong 10 năm, từ 1962 đến 1971. Bài thơ
Có thể nào yên thể hiện cảm hứng chủ đạo của cả tập thơ:
Tơi muốn viết những dịng thơ tươi xanh
Vẫn muốn viết những dòng thơ lửa cháy.
Ra trận là tập thơ sáng tác trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu
nước. Tố Hữu đã tái hiện bức tranh đẫm máu của nhân dân những ngày kháng
chiến, khi mà đồng bào ta cứ lần lượt bị bắt tra khảo, rồi chém giết, tạo nên một
sự thê lương đến não lòng:
Anh ạ, từ hôm Tết tới nay
Giặc đi ruồng bố suốt đêm ngày
Thới Lai, Thới Thuận, liền hai trận
Ba bốn ngàn quân, bảy máy bay.


20


Nhận diện và miêu tả “cái tơi” trữ tình trong thơ Tố Hữu qua năm tập thơ
“Từ ấy”, “Việt Bắc”, “Gió lộng”, “Ra trận”, “Máu và hoa”

Biết khơng anh? Giồng Keo, Giồng Trôm.
Thảm lắm anh à, lũ ác ôn
Giết cả trăm người, trong một sáng
Máu tươi lênh láng đỏ đường thơn.
(Lá thư Bến Tre)
Nhưng lời thơ cũng chính là lời tâm tình với hy vọng về một ngày mai
tươi sáng hơn từ bước chân của những người đi trước:
Anh ở ngồi kia, anh có nghe
Q ta sơng dậy tiếng chèo ghe
Ghe đưa trăm xác đi đời mạng
Rầm rập ngày đêm đi Bến Tre?
Người chết đi cùng người sống dậy
Tử sinh một dạ, trả thù này.
Võ trang mấy trận, vang Bình đại
Cờ phất, bừng tươi đất Mỏ Cày.
Và khi quê nhà thay đổi, tác giả cũng không hết lời ngợi ca với vẻ đầy tự
hào, như khao khát được gói trọn quê hương vào lá thư cho người nhận thấy quê
hương ta đã tốt lên từng ngày:
Anh ạ, quê ta khá lại rồi
Như cây dừa cháy lại xanh chồi
Khổ thì vẫn khổ, nhưng tan giặc
Nhà lại xây nhà, vui lại vui!

21



Nhận diện và miêu tả “cái tơi” trữ tình trong thơ Tố Hữu qua năm tập thơ
“Từ ấy”, “Việt Bắc”, “Gió lộng”, “Ra trận”, “Máu và hoa”

Trong tập thơ này, Tố Hữu cũng dành nhiều tình cảm cho vị lãnh tụ kính
yêu của dân tộc Việt Nam. Khi Bác mất, ông đã thay mặt cả dân tộc Việt Nam
thắp lên một nén hương viếng Bắc với tất cả tấm lòng thương tiếc:
Bác ơi! Tim Bác mênh mơng thế
Ơm cả non sông mọi kiếp người
(Bác ơi)
Thơ Tố Hữu chặng đường này còn là sự khám phá dân tộc trong chiều sâu
lịch sử, trong chiều rộng nhân loại. Truyền thống lịch sử, truyền thống bất khuất,
kiên cường của ông cha ta như luôn tiếp thêm sức mạnh, động viên dân tộc trên
mỗi bước đường đi tới. Hình ảnh người anh hùng kháng chiến lẫm liệt hiên
ngang được ví như chàng Thạch Sanh dũng cảm:
Ta đứng dậy, lẫm liệt đường hoàng
Như Thạch Sanh, khí phách hiên ngang
Lưng đàn, tay búa, tay giương nỏ
Chém Mãng Xà Vương, giết Đại bàng.
(Theo chân Bác)
Tố Hữu cũng chỉ ra điểm giao kết giữa quá khứ và hiện tại với một cảm
hứng lịch sử sâu sắc:
Đường mòn Hồ Chí Minh” là con đường sáng tạo
Trường Sơn cao hay địa đạo âm thầm
Còng linh hồn ta tự bốn ngàn năm
Ta xây đắp để ngang tầm thế kỷ.
(Tuổi 25)
Có thể thấy, Tố Hữu dành nhiều tâm huyết cho việc ngợi ca chủ nghĩa anh
hùng cách mạng, cũng vì vậy mà giọng điệu tập thơ thấm đẫm chất hùng ca.

1.2.5. Tập thơ “Máu và hoa”

22


Nhận diện và miêu tả “cái tơi” trữ tình trong thơ Tố Hữu qua năm tập thơ
“Từ ấy”, “Việt Bắc”, “Gió lộng”, “Ra trận”, “Máu và hoa”

Tập thơ “Máu và hoa” gồm 13 bài, sáng tác từ năm 1972 đến 1977, là bản
tổng kết quá trình phát triển của dân tộc, của cách mạng Việt Nam. Đó là hành
trình “năm mươi năm máu đỏ thành hoa”.
Máu là biểu tượng của nỗi đau uất hận hàng nghìn năm nơ lệ nhục nhằn,
đau khổ của dân tộc Việt Nam, là lòng căm phẫn đến tận cùng lũ bán nước và
cướp nước đã biến một đất nước Việt Nam vốn xinh tươi, hồn hậu trở thành
hoang tàn, lắm đau thương. Máu còn là sự hi sinh khơng tiếc thân mình của
hàng hàng, lớp lớp nhân dân đã xả thân vì nghĩa lớn, rửa sạch vết nhơ nơ lệ của
dân tộc.
Ơi Việt Nam từ trong biển máu
Người vươn lên như một thiên thần
(Việt Nam máu và hoa)
Hoa tượng trưng cho vẻ đẹp lí tưởng cộng sản, của chủ nghĩa anh hùng và
niềm vui ngày chiến thắng. Yêu nước vốn là truyền thống yêu quý báu mà cha
ông ta truyền lại từ ngàn xưa cho đến nay, nhất là khi tổ quốc bị xâm lăng thì
truyền thống đó lại rõ nét hơn bao giờ hết. Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ
cứu nước, chưa bao giờ dân tộc ta lại mất mát nhiều đến vậy. Thế nhưng, với
tinh thần quật cường, không tiếc hi sinh cá nhân vì cái to lớn của dân tộc chúng
ta đã đánh đuổi được được kẻ thù ra khỏi bờ cõi. Chủ nghĩa anh hùng hồ quyện
với lí tưởng cộng sản cao đẹp đã tạo ra niềm vui ngày chiến thắng cho tồn dân
tộc, một niềm vui, hân hoan mà khơng có gì so sánh được.
Ngọc Hà em! Lộng lẫy hoa tươi

Xin thơm khắp miền Nam, miền Bắc
Chắc bác Hồ vui, xin kính dâng người
Và tặng cả anh em cùng ta đánh giặc

23


Nhận diện và miêu tả “cái tơi” trữ tình trong thơ Tố Hữu qua năm tập thơ
“Từ ấy”, “Việt Bắc”, “Gió lộng”, “Ra trận”, “Máu và hoa”

(…)
Khơng nỗi đau nào của riêng ai
Của chung nhân loại chiến công này
Việt Nam ơi máu và hoa ấy
Có đủ mai sau thắm nhừng ngày
(Việt Nam máu và hoa)
“Máu và hoa” là chặng đường thơ Tố Hữu trong những năm kháng chiến
chống Mĩ cứu nước cho tới ngày toàn thắng. Thơ Tố Hữu lúc này là khúc ca ra
trận, là mệnh lệnh tiến công và lời kêu gọi, cổ vũ trong cuộc chiến đấu quyết liệt
và hào hùng của cả dân tộc.
1.3. Cơ sở lý thuyết
1.3.1. “Cái tôi”
Trong triết học, "cái tôi" được hiểu là cái tôi ý thức hay đơn giản là tôi,
bao hàm trong đó những đặc tính để phân biệt tơi với những cá nhân khác.
Trong phân tâm học, "cái tôi" (ego) là phần cốt lõi của tính cách liên quan
tới thực tại và chịu ảnh hưởng của tác động xã hội. Theo Sigmund Freud, "cái
tơi" cùng với "nó" (id) và "cái siêu tôi" (superego) là ba miền của tâm thức. "Cái
tơi" được hình thành ngay từ khi con người sinh ra và qua tiếp xúc với thế giới
bên ngoài, "cái tơi" học cách cư xử sao cho kiểm sốt được những ham muốn vô
thức không được xã hội chấp nhận. "Cái tơi" có vai trị trung gian hịa giải giữa

những ham muốn vô thức và những tiêu chuẩn nhân cách và xã hội.
Trong triết lý Phật giáo, "cái tôi", thường gọi là "ngã", là "cái tôi" được
thiết thuyết với một thể tính trường tồn, khơng bị ảnh hưởng của tụ tán, sinh tử.
Theo Giáo sư Trần Đình Sử thì con người trong văn học chịu ảnh hưởng
sâu đậm của tư tưởng triết học, thần học mỗi thời. Cũng như con người trong

24


Nhận diện và miêu tả “cái tơi” trữ tình trong thơ Tố Hữu qua năm tập thơ
“Từ ấy”, “Việt Bắc”, “Gió lộng”, “Ra trận”, “Máu và hoa”

văn học trung đại châu Âu đã mang dấu ấn rõ rệt của đạo Cơ Đốc, con người
trong văn học trung đại của văn học Trung Quốc và các nước chịu ảnh hưởng
văn hoá Trung Quốc mang đậm dấu ấn của tam giáo. Nghiên cứu quan niệm con
người trong văn học không giống với việc tìm hiểu quan niệm con người trong
các học thuyết triết học. Con người trong văn học là sự ý thức về con người, là
cách hiểu về con người và cuộc đời làm cơ sở cho việc sáng tạo ra các hình
tượng nghệ thuật, hịa tan trong sự miêu tả các hình tượng sống động.
1.3.2. “Cái tơi” trữ tình
Cái tơi trữ tình là chủ thể của hành trình sáng tạo thi ca, có vai trị quan
trọng trong thơ với tư cách là trung tâm để bộc lộ lại tất cả suy nghĩ, tình cảm,
thái độ được thể hiện bằng một giọng điệu riêng. Cái tơi trữ tình là sự thể hiện
một cách nhận thức và cảm xúc đối với thế giới và con người thông qua việc tổ
chức các phương tiện của thơ trữ tình, tạo ra một thế giới tinh thần độc đáo
mang tính thẩm mỹ nhằm truyền đạt tinh thần đến người đọc. Đặc điểm của cái
tôi trữ tình phụ thuộc vào phong cách của mỗi nhà thơ, của các trào lưu, khuynh
hướng. Chính vì vậy, mỗi thời đại có một kiểu cái tơi trữ tình đóng vai trị chủ
đạo.
Bản chất của cái tơi trữ tình là một khái niệm tổng hoà nhiều yếu tố hội tụ

theo quy luật nghệ thuật bao gồm cả ba phương tiện: bản chất chủ quan cá nhân,
đây là mối liên hệ giữa tác giả với cái tơi trữ tình được thể hiên trong tác phẩm;
bản chất xã hội của cái tôi trữ tình là mối quan hệ của cái tơi trữ tình và cái ta
cộng đồng; bản chất thẩm mỹ của cái tơi trữ tình là trung tâm sáng tạo và tổ
chức văn bản.
Cả ba phương tiện: cá nhân, xã hội, thẩm mỹ đều nằm trong hình thức thể
loại trữ tình. Cái tơi trữ tình có quan hệ chặt chẽ với cái tôi nhà thơ nhưng từ cái
tôi nhà thơ đến cái tơi trữ tình cịn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác. Ta không

25


×