Tải bản đầy đủ (.docx) (45 trang)

Vốn trong nước giữ vai trò quyết định, vốn ngoài nước giữ vai trò quan trọng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (339.4 KB, 45 trang )

MỤC LỤC

DANH MỤC BẢNG BIỂU
Tên bảng

Trang

Bảng 1: Tỉ trọng vốn đầu tư phát triển trên GDP giai đoạn 2011 - 2015

18

Bảng 1: Cơ cấu vốn đầu tư phát triển toàn xã hội giai đoạn 2011 – 2015

19

Bảng 2: Cơ cấu vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước trong tổng vốn đầu tư
của nhà nước giai đoạn 2011 – 2015
Bảng 3: Chi đầu tư phát triển trong tổng chi ngân sách nhà nước giai đoạn
2011 - 2015

20

Bảng 4: Kết quả thu cân đối ngân sách nhà nước giai đoạn 2011 – 2015

21

Bảng 6: Cơ cấu đầu tư công giai đoạn 2008 – 2012
Bảng 7: Tình hình thu hút vốn ODA giai đoạn 2011 – 2015
Bảng 8: Đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp phép giai đoạn 2011 – 2015

22


28
29

Tên biểu đồ

Trang

20

Biểu đồ 1: Vốn đầu tư các khu vực kinh tế từ 2011 – 2015

24

Biểu đồ 5: Kiều hối của Việt Nam giai đoạn 2011 – 2015

25

Biểu đồ 6: Cam kết, ký kết và giải ngân vốn ODA qua các thời kì

27


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1.

Tính cấp thiết của đề tài

Tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội luôn là mục tiêu hướng tới của nhiều quốc gia trên
thế giới, trong đó có Việt Nam. Từ khi thống nhất đất nước năm 1975 và đặc biệt là từ sau năm
1986,Việt Nam thực hiện chính sách đổi mới, Đảng và Nhà nước ta luôn đặt mục tiêu phát triển

kinh tế lên hàng đầu với định hướng đến năm 2020 Việt Nam cơ bản sẽ trở thành nước công
nghiệp. Để đạt được mục tiêu đó thì đầu tư là yếu tố không thể thiếu để xây dựng và phát triển
kinh tế. Nói cách khác, một xã hội muốn tồn tại và phát triển cần phải đầu tư, đầu tư đó được biểu
hiện dưới dạng tiền gọi là vốn đầu tư. Vốn là điều kiện hàng đầu của tăng trưởng và phát triển ở
mọi quốc gia. Riêng đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, để đạt được tốc độ tăng
trưởng cao và ổn định, cần phải có một khối lượng vốn rất lớn. Điều này càng được khẳng định
chắc chắn khi nghiên cứu vai trò của vốn đầu tư với tăng trưởng và phát triển của mọi đất nước.
Xét trên góc độ toàn bộ nền kinh tế, nguồn vốn đầu tư bao gồm nguồn vốn đầu tư trong nước và
nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Trong đó, điều quan trọng là phải đảm bảo mối tương quan hợp lý
giữa nguồn vốn trong và ngoài nước với nguyên tắc: vốn trong nước là quyết định và vốn nước
ngoài là quan trọng. Vì vậy, việc nhận thức rõ vai trò và tác động của từng loại nguồn vốn sẽ giúp
hoạch định và có các chính sách phù hợp để huy động và sử dụng có hiệu quả phục vụ nhu cầu
tăng trưởng của nền kinh tế.
Đối với việc huy động vốn trong nước thì đây chính là nguồn vốn đóng vai trò quan trọng,
quyết định. Trong khi đất nước nghèo nàn, khả năng tích luỹ còn thấp thì việc tiết kiệm những
phần chi tiêu không mang lại hiệu quả không những là quốc sách mà chúng ta cần có các giải
pháp để hoàn thiện dần. Nhà nước, các doanh nghiệp, hộ gia dình, các tổ chức tài chính… phải
gắn tiết kiệm với tích luỹ trong sự tác động của các các nhân tố kích thích về lợi ích kinh tế để
huy động tối đa các nguồn vốn trong nước. Không chỉ vậy, quá trình toàn cầu hóa đang thúc đẩy
mạnh mẽ sự hội nhập của các nước vào nền kinh tế thế giới và khu vực. Có thể nói, hiện nay hầu
như không có quốc gia nào đứng ngoài quá trình hội nhập quốc tế nếu không muốn tự cô lập mình
và rơi vào nguy cơ tụt hậu. Xu thế hiện nay của thế giới là tự do hóa thương mại và đầu tư, vì vậy
nguồn vốn ngoài nước đóng vai trò quan trọng không thể thiếu đối với nước ta, một quốc gia đang
phát triển. Khai thác và sử dụng nguồn vốn đầu tư nước ngoài một cách có hiệu quả cũng đang là
mục tiêu ưu tiên hàng đầu của nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam, giúp Việt Nam
ngày càng hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế quốc tế.
Trong những năm gần đây, nền kinh tế nước ta có những bước phát triển đáng kể, tốc độ tăng
trưởng kinh tế hàng năm cao, GDP đầu ngườ hàng năm tăng. Thêm vài đó, môi trường đầu tư ở
nước ta ngày càng hấp dẫn đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước, góp phần làm cho nguồn
vốn trong nước và nước ngoài đổ vào Việt Nam ngày càng tăng mạnh. Đặc biệt, từ năm 2008,

việc chính thức gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO đã làm cho lượng vốn đầu tư đổ về
Việt Nam càng nhiều hơn, đặc biệt là nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Tuy vậy, Việt Nam cũng còn
không ít điều phải làm để nâng cao khả năng cạnh tranh môi trường đầu tư nhằm tận dụng những
cơ hội mới, biến những tiềm năng trở thành hiện thực.
Qua đó, việc nghiên cứu đề tài: “Vốn trong nước giữ vai trò quyết định, vốn ngoài nước giữ
vai trò quan trọng” sẽ cung cấp các kiến thức về vai trò và mối quan hệ giữa hai loại nguồn vốn
trong việc thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế nước ta, đồng thời đi đến những giải pháp
thiết thực nhất nhằm phát huy lợi ích tối ưu của hai nguồn vốn này.
2


Tổng quan về lịch sử nghiên cứu của đề tài

1.2.

Ta cần xem xét mối quan hệ giữa 2 nguồn vốn này đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh
tế. Đây cũng là đề tài được khá nhiều đối tượng tham gia tìm hiểu. Ở Việt Nam đã có nhiều tác
giả thực hiện các công trình nghiên cứu cũng như các bài báo liên quan đến vai trò và giải pháp
bảo đảm cân đối hợp lí giữa hai loại nguồn vốn, góp phần đạt mục tiêu tăng trưởng và phát triển
kinh tế đất nước. Nhìn chung trong phạm vi tài liệu tiếp cận được cho đến nay thì vai trò của các
loại nguồn vốn đầu tư cũng được đề cập nhiều trên các báo hay các bài nghiên cứu lí luận. Có thể
kể đến như:
-

Bài: “Vốn đầu tư vào hoạt động kinh tế - Một bộ phận lớn nhất, quan trọng nhất của vốn
đầu tư nói chung” của tác giả Vũ Văn Tuấn (Vụ Thống kê Công nghiệp, TCTK) đã đề cập và
phân tích rõ đặc điểm và vai trò của vốn đầu tư trực tiếp vào nền kinh tế, từ đó đưa ra phương
pháp huy động cụ thể.
- Trong tài liệu bồi dưỡng đại biểu dân cử cũng có bài: “Vai trò của nguồn vốn đầu tư trong
nước đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế” (2015) đã nêu ra những vai trò to lớn mang tính

quyết định của vốn trong nước như: đóng góp lớn vào GDP, định hướng thay đổi cơ cấu kinh tế,
cân bằng thị trường hàng hóa, đảm bảo sự phát triển toàn diện, tạo nền tảng vững chãi cho sự tăng
trưởng của nền kinh tế,…
- Bài nghiên cứu của PGS.TS. Phùng Xuân Nhạ (Trường ĐH Kinh tế, ĐH Quốc gia Hà
Nội) về: “Nhìn lại vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài trong bối cảnh phát triển mới của Việt
Nam” đã làm sáng tỏ vai trò của FDI và giải pháp nâng cao vai trò của nguồn vốn quan trọng này
đối với thực hiện các mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Việt Nam trong bối cảnh hội
nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới.
- Bàn về thực trạng huy động vốn trong nước và ngoài nước, bài “Những thời ki biến động
của kinh tế Việt Nam: bản chất của vấn đề và giải pháp cho tương lai” của Phạm Minh Chính,
Vương Quân Hoàng và Trần Chí Dũng (Tạp chí cộng sản, số 792, tháng 10/2008) đã cho thấy một
cái nhìn toàn cảnh về hoạt động đầu tư qua dòng vốn trong và ngoài nước ở Việt Nam, qua đó nêu
lên các giải pháp thu hút vốn đầu tư để phát triển.
- Ông Trần Bắc Hà, Tổng giám đốc Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam cũng có bài
viết: “Giải pháp huy động vốn đầu tư (trong và ngoài nước) cho phát triển kinh tế ” (2006) đã
đánh giá tổng thể cơ chế, chính sách quản lý điều hành vĩ mô của Chính phủ trong huy động vốn
đầu tư trong và ngoài nước cho phát triển kinh tế và nêu các kiến nghị đối với Chính phủ, các bộ,
ngành và cộng đồng doanh nghiệp về việc đẩy mạnh huy động vốn trong và ngoài nước. Những
đề tài này chỉ đề cập được một phần, chưa nghiên cứu được một cách đầy đủ và toàn diện cả về lí
luận lẫn thực tiễn khiến cho bài viết còn nhiều vướng mắc trong nghiên cứu và ứng dụng.
- Về giải pháp để huy động vốn hiệu quả, luận văn Thạc sĩ: “Tạo nguồn vốn trong nước để
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam” (2007) của tác giả Hoàng Dương, Trường
Đại học Kinh tế Quốc dân đã nghiên cứu những vấn đề lí luận cơ bản về vốn đầu tư phục vụ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và thực trạng tạo nguồn vốn trong nước, trên cơ sở đó đưa ra quan điểm
định hướng và giải pháp cơ bản nhằm tạo ra nguồn vốn trong nước ổn định và tăng trưởng.
Xem xét một cách tổng quát, những vấn đề về vai trò của nguồn vốn trong và ngoài nước đã
có nhiều tác giả nghiêm túc nghiên cứu trong các công trình nghiên cứu khoa học. Những công
trình này đã đóng góp tích cực trong việc xây dựng các nền tảng lí luận về vai trò của mỗi nguồn
vốn và các giải pháp tổ chức huy động trong thực tiễn. Tuy nhiên, vai trò của các loại nguồn vốn
3



có phạm vi nghiên cứu rộng và liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau. Vì vậy, các công trình
nghiên cứu trước đây chưa bao quát hết hoặc chưa giải thích và phân tích hết được vai trò quyết
định của nguồn vốn trong nước cũng như vai trò quan trọng của nguồn vốn ngoài nước.
Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lí luận cơ bản như các khái niệm liên quan của nguồn vốn huy động
đầu tư, vai trò và mối quan hệ của vốn đầu tư trong nước và vốn đầu tư ngoài nước đối với sự
phát triển kinh tế
Đánh giá thực trạng huy động vốn hiện nay ở Việt Nam trên số liệu thu thập và tổng hợp được
- Phân tích các tác động tích cực và tiêu cực của từng loại nguồn vốn, cơ hội và thách thức
của việc huy động vốn ở Việt Nam. Từ đó đề xuất các giải pháp huy động vốn có hiệu quả hơn
1.3.
-

-

1.4.

Câu hỏi nghiên cứu

Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu như trên đề ra, đề tài tập trung giải quyết các câu hỏi
nghiên cứu sau:
-

Tại sao nói vốn trong nước đóng vai trò quyết định và vốn ngoài nước đóng vai trò quan trọng?
Tác động của mỗi loại nguồn vốn đến tăng trưởng và phát triển kinh tế Việt Nam ra sao? Ưu,
nhược điểm của chúng là gì?
Mối quan hệ giữa chúng như thế nào là tối ưu nhất để phát huy tiềm lực về vốn đầu tư cho phát
triển kinh tế?

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: vai trò của nguồn vốn đầu tư trong nước và ngoài nước; tình hình huy
động vốn trong nước và ngoài nước tại Việt Nam
Phạm vi nghiên cứu:
1.5.

-

+ Về không gian: đề tài nghiên cứu về vai trò và thực trạng của nguồn vốn đầu tư tại Việt
Nam
+ Về thời gian: phân tích số liệu nguồn vốn đầu tư trong nước và nước ngoài tại Việt Nam với
giai đoạn nghiên cứu trọng tâm là từ năm 2011 đến năm 2015, bên cạnh đó, các giai đoạn khác
cũng được đề cập đến để hỗ trợ nghiên cứu các vấn đề được nêu trong đề tài.
1.6.

Phương pháp nghiên cứu

Bài nghiên cứu sử dụng phương pháp đi từ trừu tượng đến cụ thể, tức là đi từ phân tích lí luận
cơ bản về vai trò của nguồn vốn trong nước và ngoài nước đến thực trạng hoạt động huy động vốn
đầu tư ở Việt Nam.
Trong phân tích thực trạng huy động vốn, bài viết sử dụng một số phương pháp đặc thù khác
như:
-

-

Phương pháp phân tích tổng hợp: dựa trên những số liệu sẵn có để tiến hành so sánh, đối chiếu,
đánh giá các sự kiện. Từ đó tìm ra cách lí giải và đề xuất giải pháp tăng tính hiệu quả của việc huy
động vốn
Phương pháp so sánh: đối chiếu các chỉ tiêu đã được lượng hóa có cùng một nội dung, một tính

chất tương tự nhau qua các kì phân tích để biết được sự biến động của chỉ tiêu phân tích. Từ đó có
thể phân tích sâu hơn nhằm tìm ra nguyên nhân của hiện trạng đó

4


-

Phương pháp thống kê học để rút ra thành tựu, những tồn tại, nguyên nhân, từ đó đưa ra giải pháp
cơ bản huy động vốn trong và ngoài nước để huy động có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư, góp
phần tăng trưởng và phát triển kinh tế
1.7.

Ý nghĩa thực tiễn của đề tài

Kết quả nghiên cứu là cơ sở dữ liệu về đặc điểm và nguồn hình thành của nguồn vốn đầu tư
trong và ngoài nước, đồng thời đánh giá vai trò và mối quan hệ giữa nguồn vốn đầu tư trong và
ngoài nước đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế. Qua đó làm rõ nhận định “Vốn trong nước
giữ vai trò quyết định, vốn ngoài nước giữ vai trò quan trọng”.
Kết quả nghiên cứu có thể được dùng làm nguồn tham khảo để nhìn nhận khách quan cả hai
mặt tích cực và tiêu cực tình hình huy động vốn ở Việt Nam. Đồng thời kết quả nghiên cứu cũng
đề xuất các giải pháp để huy động có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư, giúp cải thiện các vấn đề
còn tồn đọng hiện nay.
1.8.

Kết cấu đề tài

Bài làm nghiên cứu đề tài phân tích nhận định: “Vốn trong nước giữ vai trò quyết định, vốn
ngoài nước giữ vai trò quan trọng” và đánh giá trong trường hợp của Việt Nam có kết cấu gồm 4
chương lớn như sau:

Chương 1: Tổng quan về đề tài nghiên cứu
Chương 2: Những vấn đề lí luận cơ bản về vai trò của nguồn vốn đầu tư trong nước và ngoài
nước
Chương 3: Thực trạng hoạt động huy động vốn đầu tư ở Việt Nam
Chương 4: Giải pháp huy động có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư ở Việt Nam

CHƯƠNG 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CƠ BẢN
2.1.

Tổng quan về nguồn vốn huy động đầu tư
5


2.1.1. Bản chất của các loại nguồn vốn đầu tư

Xét về bản chất, nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tiết kệm hay tích lũy mà nền kinh
tế có thể huy động được để đưa vào quá trình tái sản xuất xã hội.

-

Theo quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại:
Trong nền kinh tế đóng: Y = C + I
S=Y-C

Như vậy:

I=S

Nhận xét: sự cân bằng giữa tiết kiệm và đầu tư xuất phát từ tính chất song phương của giao
dịch giữa một bên là nhà sản xuất và bên kia là người tiêu dùng. Thu nhập chính là chênh lệch

giữa doanh thu từ bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ với tổng chi phí. Mặt khác, đầu tư hiện
hành chính là phần tăng thêm năng lực sản xuất trong kì. Vì vậy, xét về tổng thể phần dôi ra của
thu nhập so với tiêu dùng (tiết kiệm) không khác gì phần gia tăng năng lực sản xuất (đầu tư).
-

Trong nền kinh tế mở: CA = S - I

Nhận xét: mức chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư được thể hiện trên tài khoản vãng lai. Nếu
nhu cầu đầu tư lớn hơn tích lũy nội bộ của nền kinh tế và tài khoản vãng lai bị thâm hụt thì có thể
huy động vốn đầu tư từ nước ngoài. Nếu tích lũy của nền kinh tế lớn hơn nhu cầu đầu tư trong
nước trong điều kiện thặng dư tài khoản vãng lai thì quốc gia có thể đầu tư vốn ra nước ngoài
hoặc cho nước ngoài vay vốn nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của nền kinh tế.
2.1.2. Khái niệm và đặc điểm của các loại nguồn vốn đầu tư
2.1.2.1.
Nguồn vốn đầu tư trong nước
• Khái niệm

Nguồn vốn đầu tư trong nước là phần tích lũy của nội bộ nền kinh tế bao gồm tiết kiệm của
khu vực dân cư, các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp và tiết kiệm của chính phủ được huy động
vào quá trình tái sản xuất của xã hội.1


Đặc điểm

Nguồn vốn đầu tư trong nước bao gồm: Nguồn vốn đầu tư nhà nước và nguồn vốn của dân cư
và tư nhân
a) Nguồn vốn nhà nước

Nguồn vốn đầu tư nhà nước (tiết kiệm của chính phủ) gồm:
-


-

Vốn ngân sách nhà nước: đây là nguồn chi ngân sách nhà nước cho đầu tư, là một nguồn vốn đầu
tư quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế mỗi quốc gia. Nguồn vốn này thường được sử
dụng trong các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội, quốc phòng, an ninh, hỗ trợ các dự án của
doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực cần sự tham gia của nhà nước…
Vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước: cùng với quá trình đổi mới và mở cửa, tín dụng đầu
tư phát triển của nhà nước ngày càng đóng vai trò đáng kể trong chiến lược phát triển kinh tế xã
hội. Nguồn vốn này có tác động tích cực trong việc giảm đáng kể bao cấp vốn trực tiếp nhà nước.
Với cơ chế tín dụng, các đơn vị sử dụng nguồn vốn này phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả vốn
vay, giúp chủ đầu tư là người vay vốn phải tính kĩ hiệu quả đầu tư, sử dụng vốn tiết kiệm hơn.
1 Giáo trình Kinh tế đầu tư, Nxb. ĐH KTQD, 2012, tr92

6


-

Vốn đầu tư phát triển của các doanh nghiệp nhà nước: nguồn vốn này chủ yếu từ khấu hao tài sản
cố định và thu nhập giữ lại tại doanh nghiệp nhà nước. Những năm gần đây, nguồn vốn này có xu
hướng giảm nhưng vẫn là một nguồn vốn quan trọng, đóng vai trò đầu tàu trong nhiều lĩnh vực,
nhiều ngành kinh tế.
b) Nguồn vốn của dân cư và tư nhân

Nguồn vốn trong dân cư: phụ thuộc vào thu nhập và chỉ tiêu các hộ gia đình. Quy mô của
nguồn tiết kiệm này phụ thuộc vào: trình độ phát triển mỗi quốc gia, tập quán tiêu dùng của dân
cư, chính sách động viên của nhà nước thông qua chính sách thuế thu nhập và các khoản đóng
góp của xã hội.
Nguồn vốn của khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư và phần tích lũy của các

doanh nghiệp dân doanh, hợp tác xã… Đầu tư của các doanh nghiệp tư nhân và hộ gia đình có vai
trò quan trọng, đặc biệt trong phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn, mở mang ngành nghề,
phát triển công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp.
2.1.2.2.
Nguồn vốn đầu tư ngoài nước
• Khái niệm

Có thể xem xét nguồn vốn đầu tư ngoài nước trên phạm vi rộng hơn đó là dòng lưu chuyển
vốn quốc tế (international capital flows). Về thực chất, các dòng lưu chuyển vốn quốc tế là biểu
thị quá trình chuyển giao nguồn lực tài chính giữa các quốc gia trên thế giới. Trong các dòng lưu
chuyển vốn quốc tế, dòng từ các nước phát triển đổ vào các nước đang phát triển thường được các
nước thế giới thứ ba đặc biệt quan tâm.2


Đặc điểm

Dòng vốn này diễn ra với nhiều hình thức. Mỗi hình thức có đặc điểm, mục tiêu và điều kiện
thực hiện riêng, không hoàn toàn giống nhau. Theo tính chất lưu chuyển vốn, có thể phân loại các
nguồn vốn nước ngoài chính như sau:
-

-

Tài trợ phát triển vốn chính thức (ODF - official development finance). Nguồn này bao gồm: Viện
trợ phát triển chính thức (ODA - offical development assistance) và các hình thức viện trợ khác.
Trong đó, ODA chiếm tỷ trọng chủ yếu trong nguồn ODF
Nguồn tín dụng từ các ngân hàng thương mại
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Nguồn huy động qua thị trường vốn quốc tế
a) Nguồn vốn ODA


Đây là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế và các chính phủ nước ngoài cung cấp với
mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển. So với các hình thức tài trợ khác, ODA mang tính ưu
đãi cao hơn bất cứ nguồn vốn ODF nào khác.
-

- Lãi suất thấp (dưới 2%, trung bình từ 0.25%/năm)
Thời gian cho vay cũng như thời gian ân hạn dài (25-40 năm mới phải hoàn trả và thời gian ân
hạn 8-10 năm)
Trong nguồn vốn ODA luôn có một phần viện trợ không hoàn lại, thấp nhất là 25% của tổng số
vốn ODA.
2 Giáo trình Kinh tế đầu tư, Nxb. ĐH KTQD, 2012, tr96

7


Mặc dù có tính ưu đãi cao, song sự ưu đãi cho loại vốn này thường di kèm các điều kiện và
ràng buộc tương đối khắt khe (tính hiệu quả của dự án, thủ tục chuyển giao vốn và thị trường…).
Các nước giàu khi viện trợ ODA đều gắn với những lợi ích và chiến lược như mở rộng thị trường,
mở rộng hợp tác có lợi cho họ, đảm bảo mục tiêu về an ninh - quốc phòng hoặc theo đuổi mục
tiêu chính trị... Vì vậy, họ đều có chính sách riêng hướng vào một số lĩnh vực mà họ quan tâm hay
họ có lợi thế (những mục tiêu ưu tiên này thay đổi cùng với tình hình phát triển kinh tế - chính trị
- xã hội trong nước, khu vực và trên thế giới). Ví dụ:
-

-

-

-


-

Về kinh tế, nước tiếp nhận ODA phải chấp nhận dỡ bỏ dần hàng rào thuế quan bảo hộ các ngành
công nghiệp non trẻ và bảng thuế xuất nhập khẩu hàng hoá của nước tài trợ. Nước tiếp nhận ODA
cũng được yêu cầu từng bước mở cửa thị trường bảo hộ cho những danh mục hàng hoá mới của
nước tài trợ; yêu cầu có những ưu đãi đối với các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài như cho phép
họ đầu tư vào những lĩnh vực hạn chế, có khả năng sinh lời cao
Nguồn vốn ODA từ các nước giàu cung cấp cho các nước nghèo cũng thường gắn với việc mua
các sản phẩm từ các nước này mà không hoàn toàn phù hợp, thậm chí là không cần thiết đối với
các nước nghèo. Ví như các dự án ODA trong lĩnh vực đào tạo, lập dự án và tư vấn kỹ thuật, phần
trả cho các chuyên gia nước ngoài thường chiếm đến hơn 90% (bên nước tài trợ ODA thường yêu
cầu trả lương cho các chuyên gia, cố vấn dự án của họ quá cao so với chi phí thực tế cần thuê
chuyên gia như vậy trên thị trường lao động thế giới).
Nguồn vốn viện trợ ODA còn được gắn với các điều khoản mậu dịch đặc biệt nhập khẩu tối đa
các sản phẩm của họ. Cụ thể là nước cấp ODA buộc nước tiếp nhận ODA phải chấp nhận một
khoản ODA là hàng hoá, dịch vụ do họ sản xuất.
Nước tiếp nhận ODA tuy có toàn quyền quản lý sử dụng ODA nhưng thông thường, các danh mục
dự án ODA cũng phải có sự thoả thuận, đồng ý của nước viện trợ, dù không trực tiếp điều hành
dự án nhưng họ có thể tham gia gián tiếp dưới hình thức nhà thầu hoặc hỗ trợ chuyên gia.
Tác động của yếu tố tỷ giá hối đoái có thể làm cho giá trị vốn ODA phải hoàn lại tăng lên.
Ngoài ra, tình trạng thất thoát, lãng phí; xây dựng chiến lược, quy hoạch thu hút và sử dụng
vốn ODA vào các lĩnh vực chưa hợp lý; trình độ quản lý thấp, thiếu kinh nghiệm trong quá trình
tiếp nhận cũng như xử lý, điều hành dự án… khiến cho hiệu quả và chất lượng các công trình đầu
tư bằng nguồn vốn này còn thấp... có thể đẩy nước tiếp nhận ODA vào tình trạng nợ nần. Vì vậy,
để nhận được loại tài trợ hấp dẫn này với thiệt thòi ít nhất, cần phải xem xét dự án trong điều kiện
tài chính tổng thể. Nếu không việc tiếp nhận viện trợ có thể trở thành gánh nặng nợ nần lâu dài
cho nền kinh tế. Điều này có hàm ý rằng, ngoài những yếu tố thuộc về nội dung dự án tài trợ, còn
cần có nghệ thuật thoả thuận để vừa có thể nhận vốn, vừa bảo tồn được những mục tiêu có tính
nguyên tắc.

b) Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại

Điều kiện ưu đãi dành cho loại vốn này không dễ dàng như đối với nguồn vốn ODA. Tuy
nhiên, bù lại nó có ưu điểm rõ ràng là không gắn với các ràng buộc về chính trị, xã hội. Mặc dù
vậy, thủ tục vay đối với nguồn vốn này thường là tương đối khắt khe, thời gian trả nợ nghiêm
ngặt, mức lãi suất cao là những trở ngại không nhỏ đối với các nước nghèo.
Do được đánh giá là mức lãi suất tương đối cao cũng như sự thận trọng trong kinh doanh ngân
hàng (tính rủi ro ở nước đi vay, của thị trường thế giới và xu hướng lãi suất quốc tế), nguồn vốn
tín dụng của các ngân hàng thương mại thường được sử dụng chủ yếu để đáp ứng nhu cầu xuất
khẩu và thường là ngắn hạn. Một bộ phận của nguồn vốn này có thể được dùng để đầu tư phát

8


triển. Tỷ trọng của nó có thể gia tăng nếu triển vọng tăng trưởng của nền kinh tế là lâu dài, đặc
biệt là tăng trưởng xuất khẩu của nước đi vay là sáng sủa.
c) Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)

Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có đặc điểm cơ bản khác nguồn vốn nước ngoài khác
là việc tiếp nhận nguồn vốn này không phát sinh nợ cho nước tiếp nhận. Thay vì nhận lãi suất trên
vốn đầu tư, nhà đầu tư sẽ nhận được phần lợi nhuận thích đáng khi dự án đầu tư hoạt động có hiệu
quả. Đầu tư trực tiếp nước ngoài mang theo toàn bộ tài nguyên kinh doanh vào nước nhận vốn
nên có thể thúc đẩy phát triển ngành nghề mới, đặc biệt là những ngành đòi hỏi cao về trình độ kỹ
thuật, công nghệ hay cần nhiều vốn. Vì thế nguồn vốn này có tác dụng cực kỳ to lớn đối với quá
trình công nghiệp hoá, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tốc độ tăng trưởng nhanh ở các nước nhận
đầu tư.


Các hình thức FDI


Phân theo bản chất đầu tư
-

Đầu tư phương tiện hoạt động

Đầu tư phương tiện hoạt động là hình thức FDI trong đó công ty mẹ đầu tư mua sắm và thiết
lập các phương tiện kinh doanh mới ở nước nhận đầu tư. Hình thức này làm tăng khối lượng đầu
tư vào.
-

Mua lại và sáp nhập

Mua lại và sáp nhập là hình thức FDI trong đó hai hay nhiều doanh nghiệp có vốn FDI đang
hoạt động sáp nhập vào nhau hoặc một doanh nghiệp này (có thể đang hoạt động ở nước nhận đầu
tư hay ở nước ngoài) mua lại một doanh nghiệp có vốn FDI ở nước nhận đầu tư. Hình thức này
không nhất thiết dẫn tới tăng khối lượng đầu tư vào.
Phân theo tính chất dòng vốn
-

Vốn chứng khoán

Nhà đầu tư nước ngoài có thể mua cổ phần hoặc trái phiếu doanh nghiệp do một công ty trong
nước phát hành ở một mức đủ lớn để có quyền tham gia vào các quyết định quản lý của công ty.
-

Vốn tái đầu tư

Doanh nghiệp có vốn FDI có thể dùng lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh trong quá
khứ để đầu tư thêm.
-


Vốn vay nội bộ hay giao dịch nợ nội bộ

Giữa các chi nhánh hay công ty con trong cùng một công ty đa quốc gia có thể cho nhau vay
để đầu tư hay mua cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp của nhau.
Phân theo động cơ của nhà đầu tư
-

Vốn tìm kiếm tài nguyên

Đây là các dòng vốn nhằm khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên rẻ và dồi dào ở nước tiếp
nhận, khai thác nguồn lao động có thể kém về kỹ năng nhưng giá thấp hoặc khai thác nguồn lao
động kỹ năng dồi dào. Nguồn vốn loại này còn nhằm mục đích khai thác các tài sản sẵn có thương
9


hiệu ở nước tiếp nhận (như các điểm du lịch nổi tiếng). Nó cũng còn nhằm khai thác các tài sản trí
tuệ của nước tiếp nhận. Ngoài ra, hình thức vốn này còn nhằm tranh giành các nguồn tài nguyên
chiến lược để khỏi lọt vào tay đối thủ cạnh tranh.
-

Vốn tìm kiếm hiệu quả

Đây là nguồn vốn nhằm tận dụng giá thành đầu vào kinh doanh thấp ở nước tiếp nhận như giá
nguyên liệu rẻ, giá nhân công rẻ, giá các yếu tố sản xuất như điện nước, chi phí thông tin liên lạc,
giao thông vận tải, mặt bằng sản xuất kinh doanh rẻ, thuế suất ưu đãi,điều kiện pháp lí v.v...
-

Vốn tìm kiếm thị trường


Đây là hình thức đầu tư nhằm mở rộng thị trường hoặc giữ thị trường khỏi bị đối thủ cạnh
tranh giành mất. Ngoài ra, hình thức đầu tư này còn nhằm tận dụng các hiệp định hợp tác kinh tế
giữa nước tiếp nhận với các nước và khu vực khác, lấy nước tiếp nhận làm bàn đạp để thâm nhập
vào các thị trường khu vực và toàn cầu.
d) Thị trường vốn quốc tế

Là nơi thực hiện chuyển giao hay mua bán vốn với thời hạn trên một năm giữa những người
cư trú và không cư trú. Đặc trưng của thị trường vốn là nhằm mục đích đầu tư phát triển dài hạn.
Tham gia vào thị trường vốn quốc tế thường gồm chính phủ các nước, các công ty đa quốc gia,
các ngân hàng thương mại lớn và các tổ chức quốc tế
Thị trường vốn quốc tế bao gồm thị trường trái phiếu và thị trường cổ phiếu quốc tế. Hoạt
động của thị trường vốn quốc tế bao gồm tại các trung tâm tài chính quốc tế lớn trên thế giới được
hình thành từ việc quốc tế hoá thị trường vốn của một số nước có nền tài chính mạnh hoặc một số
nước có vị thế kinh tế chính trị đặc biệt
Với xu hướng toàn cầu hoá, mối liên kết ngày càng tăng của các thị trường vốn quốc gia vào
hệ thống tài chính quốc tế đã và đang tạo nên vẻ đa dạng vế các nguồn vốn cho mỗi quốc gia và
làm tăng khối lượng vốn lưu chuyển trên phạm vi toàn cầu.
Vai trò và mối quan hệ của nguồn vốn đầu tư trong nước và ngoài nước đối với tăng trưởng
và phát triển kinh tế
2.2.1. Vai trò quyết định của nguồn vốn đầu tư trong nước đối với tăng trưởng và phát triển kinh
tế
- Nguồn vốn trong nước là nguồn đóng góp lớn vào GDP toàn xã hội, góp phần thúc đẩy tăng
trưởng phát triển kinh tế
2.2.

Thông qua việc đầu tư vào nhiều lĩnh vực của nền kinh tế, nguồn vốn đầu tư trong nước đã
đóng góp phần lớn vào GDP toàn xã hội, cụ thể như việc sử dụng nguồn vốn từ ngân sách nhà
nước để đầu tư cho các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đã tạo môi trường và điều kiện thuận
lợi cho các doanh nghiệp trong mọi lĩnh vực khác phát triển. Các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng
thường đòi hỏi nguồn vốn huy động lớn và khả năng thu hồi vốn chậm, do đó ít doanh nghiệp nào

có đủ tiềm lực kinh tế để thực hiện. Vì thế nguồn vốn trong nước sẽ được đầu tư vào xây dựng các
kết cấu hạ tầng cơ bản như hệ thống điện lưới quốc gia, đường xá, giao thông liên lạc... từ đó tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển và xây dựng hoạt động nhà xưởng, mở rộng hoạt động
kinh doanh, qua đó phát triển kinh tế vùng, miền tạo ra nguồn GDP không nhỏ đóng góp vào tổng
GDP của toàn xã hội.

10


Còn nguồn vốn tín dụng nhà nước với ưu điểm lãi suất thấp đã bổ sung cho các doanh nghiệp
một nguồn vốn rẻ cho hoạt động sản xuất kinh doanh, tranh thủ được các cơ hội tạo thêm lợi
nhuận, vốn để mở rộng qui mô cũng như nâng cao chất lượng sản phẩm. Từ đó làm tăng doanh
thu đồng thời góp phần làm tăng GDP cho toàn xã hội.
-

Nguồn vốn đầu tư trong nước đóng vai trò định hướng cho việc thay đổi cơ cấu kinh tế, cân bằng
thị trường hàng hóa, giúp cho nền kinh tế quốc gia tăng trưởng, phát triển toàn diện, đồng đều
Các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài đa phần lựa chọn cho mình các ngành, lĩnh vực
có vốn đầu tư không quá lớn, thu hồi vốn nhanh chóng để đầu tư thu lợi nhuận. Mặt khác, nền
kinh tế lại có những ngành mà vai trò không thể thiếu nhưng đòi hỏi nguồn vốn đầu tư rất lớn như
điện, xi măng, dầu khí; hoặc những ngành lợi nhuận thu về nhỏ, khả năng thu hồi vốn chậm ví dụ
như các công trình công cộng, các hoạt động của nhà nước nhằm giải quyết những thất bại của thị
trường. Chỉ có thông qua nguồn vốn trong nước cụ thể là nguồn vốn nhà nước mới có thể đầu tư
vào các vấn đề này, vì vậy, nguồn vốn trong nước, đặc biệt nguồn vốn nhà nước lúc này sẽ đóng
vai trò chủ đạo giúp cân bằng thị trường hàng hóa trong nền kinh tế, giúp cho nền kinh tế quốc gia
tăng trưởng, phát triển toàn diện, đồng đều.
Không chỉ có vậy, vai trò quyết định của nguồn vốn đầu tư trong nước đối với tăng trưởng và
phát triển nền kinh tế còn được thể hiện trong việc định hướng cho quá trình thay đổi cơ cấu kinh
tế, bằng việc nguồn vốn đầu tư trong nước tập trung vào những ngành quan trọng như công
nghiệp, dịch vụ, cơ cấu kinh tế của quốc gia sẽ từng bước biến chuyển theo định hướng đã đề ra

của nhà nước: tăng tỉ trọng công nghiệp, dịch vụ; giảm tỉ trọng nông nghiệp. Theo đó, nguồn vốn
nước ngoài được định hướng đầu tư, tiếp tục trợ giúp nguồn vốn trong nước, đẩy nhanh thời kì
quá độ, đưa nền kinh tế quốc gia tiếp tục phát triển lên một trình độ cao hơn

-

Nguồn vốn đầu tư trong nước có vai trò đảm bảo sự phát triển toàn diện, không lệch lạc giữa các
vùng miền của nền kinh tế, góp phần giúp nền kinh tế tăng trưởng, phát triển một cách bền vững
Trong một quốc gia, việc phát triển không đồng đều giữa các vùng miền là khó tránh khỏi, vì
vậy cần có các nguồn vốn đầu tư hợp lí để giảm bớt sự không đồng đều này, làm cho nền kinh tế
trở nên phát triển toàn diện hơn. Đối với những khu vực vùng sâu, vùng xa, nơi mà nền sản xuất
còn chưa phát triển, hệ thống giao thông vận tải, thông tin liên lạc còn lạc hậu thì việc đón nhận
nguồn vốn từ nước ngoài đầu tư vào đây là rất ít có hi vọng. Lí do là nguồn vốn từ nước ngoài
thường chọn những vùng, thành phố trọng điểm nơi mà có hệ thống kết cấu hạ tầng tương đối
phát triển, gần nguồn nguyên liệu và có thị trường tiêu thụ lớn. Lúc này nguồn vốn đầu tư trong
nước sẽ đảm nhận vai trò đầu tư vào các vùng còn khó khăn, kinh tế chưa phát triển, giúp các
vùng miền đó tận dụng và phát huy được thế mạnh, nội lực của mình. Qua đó sẽ giải quyết công
ăn việc làm cho lao động trong vùng, nâng cao mức sống cũng như trình độ dân trí và từ đó sẽ
làm giảm khoảng cách chênh lệch giữa các vùng. Điều này cho thấy nguồn vốn trong nước đóng
vai trò rất quan trọng trong việc đảm bảo sự phát triển và tăng trưởng toàn diện của nền kinh tế.

-

Nguồn vốn trong nước góp phần kiềm chế lạm phát trong nền kinh tế, đẩy nhanh tiến trình cổ
phần hóa nhiều doanh nghiệp nhà nước, tạo đà cho tăng trưởng và phát triển kinh tế
Đầu tư quá mức là một trong những nguyên nhân dẫn đến lạm phát và vốn đầu tư là yếu tố vật
chất trực tiếp quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế, nhưng đó là nói về đầu tư có hiệu quả. Còn
nếu đầu tư không có hiệu quả, thì chẳng những tăng trưởng kinh tế phải tốn nhiều vốn đầu tư hơn,
mà còn gây ra lạm phát, xét trên nhiều mặt lạm phát do "chi phí đẩy" và lạm phát do "cầu kéo".
Bản thân vốn đầu tư sẽ dẫn đến lạm phát "cầu kéo"; còn đầu tư kém hiệu quả sẽ dẫn đến lạm phát

11


do "chi phí đẩy". Lạm phát do quan hệ cung - cầu, quan hệ tiền - hàng mất cân đối thường có bề
nổi, dễ nhận thấy, nhưng lạm phát do đầu tư không có hiệu quả thì thường là lạm phát ngầm, lúc
đầu rất khó nhận thấy, nhưng khi nó bộc phát thì rất cao, rất khó trị và việc trị nó thường phải kèm
theo cái giá phải trả không nhỏ, thậm chí còn có thể rơi vào cuộc khủng hoảng. Do đó việc kiểm
soát cả về mặt lượng và mặt chất của việc sử dụng nguồn vốn trong nước đặc biệt là nguồn vốn từ
ngân sách nhà nước và việc kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước là một
trong những biện pháp được nêu ra để chống lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.
Một trong số những vai trò không thể không kể đến của nguồn vốn trong nước đối với tăng
trưởng và phát triển kinh tế đó là: nguồn vốn đầu tư trong nước đặc biệt là nguồn vốn dồi dào của
khu vực dân cư và tư nhân là tác động lớn nhất thúc đẩy quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp
nhà nước diễn ra nhanh chóng và đồng bộ.
-

Nguồn vốn trong nước xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng đạt một trình độ nhất định, tạo điều kiện
thuận lợi để thu hút vốn đầu tư nước ngoài cũng như tăng tính hiệu quả, nhanh chóng của việc sử
dụng vốn đầu tư nước ngoài, tạo nền tảng vững chãi cho sự tăng trưởng của nền kinh tế
Nền tảng cơ sở kiến trúc hạ tầng của quốc gia cũng có ảnh hưởng rất lớn tới khả năng thu hút
nguồn vốn, triển khai thực hiện trong các giai đoạn của quá trình sử dụng vốn đầu tư. Mục tiêu
của phát triển kinh tế là phải xây dựng được các cơ sở kiến trúc hạ tầng kinh tế ở một trình độ
nhất định: điện, nước, đường xá giao thông đi lại, các công trình văn phòng hiện đại, các khu
công nghiệp, khu chế xuất tập trung… để đảm bảo sao cho có thể khai thác tốt nhất các nguồn
nguyên nhiên liệu, nguồn lao động, công nghệ… cần thiết.
Bên cạnh các khu vực kinh tế nổi bật, trọng điểm dễ thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài
luôn có các khu vực có tiềm năng nhưng còn đôi chút hạn chế về địa hình, công nghệ, lực lượng
lao động… thì lúc này vai trò của nguồn vốn trong nước để khắc phục các hạn chế này là rất quan
trọng. Nguồn vốn trong nước sẽ đóng vai trò mở đường, đầu tư vào việc san lấp và giải phóng mặt
bằng, xây dựng các kết cấu hạ tầng cơ bản, đầu tư đổi mới trang thiết bị trong các nhà xưởng và

mở các lớp đào tạo tay nghề cho đội ngũ công nhân. Nhờ có nguồn vốn trong nước mà các vấn đề
về địa điểm, công nghệ, trình độ tay nghề của đội ngũ lao động được giải quyết, tạo nên một môi
trường đầu tư thuận lợi đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Cũng nhờ có nguồn vốn trong nước mà
các vùng có điều kiện chưa thật sự thuận lợi đã có khả năng thu hút và đón nhận vốn đầu tư nước
ngoài, tạo cơ hội phát triển kinh tế của vùng.

-

Sự lớn mạnh, ổn định nguồn lực vốn trong nước giúp hạn chế những mặt tiêu cực của nguồn lực
nước ngoài tới nền kinh tế, đồng thời tạo dựng một khung xương vững chắc cho nền kinh tế,
chống lại những biến động từ thị trường kinh tế quốc tế, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh
tế
Trong tình hình hội nhập với nền kinh tế trên thế giới như hiện nay thì việc bị ảnh hưởng do
các biến động kinh tế từ bên ngoài là điều không thể tránh khỏi. Khi những biến động đó xảy ra
thì nền kinh tế quốc gia sẽ chịu ảnh hưởng ít nhiều, gặp những khó khăn như giá cả tăng cao kéo
theo lạm phát, sản xuất bị đình trệ, xảy ra tình trạng thất nghiệp... Do đó, vai trò của nguồn vốn
trong nước trong lúc này mang tính quyết định đối với sự tăng trưởng phát triển của một quốc gia.
Sự ổn định và lớn mạnh nguồn vốn trong nước sẽ tạo thành một khung xương vững chắc giúp
chúng ta thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô và các biện pháp cần thiết để tránh và khắc phục
các ảnh hưởng do các cú sốc bên ngoài gây ra cho nền kinh tế như điều chỉnh cung cầu, trợ cấp
thất nghiệp, trợ cấp xã hội…
12


Không chỉ vậy, các nguồn vốn và nguồn lực trong nước, quan trọng là các nguồn chi từ ngân
sách nhà nước, các khoản tín dụng, các khoản đầu tư phát triển của các doanh nghiệp nhà nước
phải nắm giữ những vị trí then chốt trong nền kinh tế như tài chính, dầu khí, viễn thông... Mở cửa
cho các nhà đầu tư nước ngoài song các chính sách của chính phủ vẫn phải quy định rõ ràng
những ngành nghề mà nguồn vốn đầu tư nước ngoài có thể tiếp cận. Đó là sự cẩn trọng để kiểm
soát việc tiếp nhận và sử dụng nguồn vốn đầu tư nước ngoài nhằm hạn chế những mặt trái mà

nguồn vốn này có thể đem theo như sự thâu tóm về chính trị, sự phụ thuộc về kinh tế (trở thành
sân sau của các cường quốc...).
2.2.2. Vai trò quan trọng của nguồn vốn đầu tư ngoài nước đối với tăng trưởng và phát triển kinh
-

tế
Nguồn vốn đầu tư ngoài nước góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao năng lực sản xuất
công nghiệp. Tăng tỉ trọng của những ngành quan trọng cho sự tăng trưởng và phát triển của nền
kinh tế
Cơ cấu kinh tế là tổng thể mối quan hệ hữu cơ giữa các yếu tố cấu thành nền kinh tế. Nền kinh
tế một quốc gia muốn phát triển thì phải có được một cơ cấu kinh tế hoàn thiện, hợp lý. Muốn
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của cả một quốc gia để hướng tới sự hoàn thiện và hợp lí đó không
phải là một vấn đề đơn giản; nó cần có sự tham gia của rất nhiều yếu tố trong đó yếu tố nguồn vốn
đầu tư đặc biệt là nguồn vốn đầu tư nước ngoài là yếu tố mang tính quyết định
Nguồn vốn đầu tư nước ngoài nước làm thay đổi: thứ nhất là cơ cấu ngành của nước nhận đầu
tư, từ sản xuất nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp và dịch vụ, sau cùng là sản xuất dịch vụ;
thứ hai là thay đổi cơ cấu bên trong một ngành sản xuất, từ năng suất thấp, công nghệ lạc hậu, lao
động nhiều sang năng suất cao, công nghệ hiện đại, lao động ít nhưng chất lượng trình độ cao; thứ
ba là thay đổi cơ cấu bên trong một lĩnh vực sản xuất, từ sản xuất lĩnh vực có hàm lượng công
nghệ thấp sang lĩnh vực sản xuất áp dụng công nghệ tiên tiến, có hàm lượng khoa học kĩ thuật
cao. Từ đó năng lực sản xuất trong nền kinh tế được nâng cao, thể hiện rõ ràng nhất trong sản
xuất công nghiệp. Những ngành quan trọng cần thiết để phát triển kinh tế vì thế cũng được chú
trọng đầu tư hiệu quả, chất lượng hơn.

-

Nguồn vốn ngoài nước giúp nước nhận đầu tư có một sự quan tâm toàn diện hơn tới các mục tiêu
xã hội, tạo nền tảng vững chắc để nền kinh tế tăng trưởng và phát triển lâu dài
Quá trình mở cửa hội nhập kinh tế làm cho số lượng doanh nghiệp tăng lên đáng kể, cùng với
đó là nhu cầu về việc làm tăng lên. Bằng cách tuyển dụng lao động địa phương vào các doanh

nghiệp trong khu vực vốn đầu tư nước ngoài, công ăn việc làm cho một bộ phận không nhỏ được
giải quyết. Nhìn từ một khía cạnh khác, các nguồn vốn ngoài nước khi vào nước nhận đầu tư có
kèm theo một số lượng lớn các nhà đầu tư nước ngoài. Họ có thể tới nước nhận đầu tư với nhiều
mục đích khác nhau như thăm dò thị trường đầu tư, giám sát quá trình đầu tư, du lịch,... Điều này
tạo ra nhu cầu tiêu dùng lớn về các ngành như dịch vụ, du lịch, nhà ở, giải trí,... tạo ra thị trường
cho nhiều doanh nghiệp cũng như các hộ gia đình khác khai thác; tiếp tục giải quyết thêm một
lượng công ăn việc làm cho người lao động trên quy mô toàn xã hội. Tỉ lệ thất nghiệp trong nền
kinh tế được cải thiện, các vấn đề tệ nạn xã hội, nghèo đói vì thế giảm đáng kể.
Bên cạnh đó nguồn vốn đầu tư ngoài nước còn là công cụ quan trọng hỗ trợ các nước đang và
chậm phát triển thực hiện chiến lược xóa đói giảm nghèo. Công cụ chủ yếu để thực hiện mục tiêu
này là nguồn viện trợ ODA. Đối với các nước nghèo, ODA là một cơ hội nâng cao chất lượng
cuộc sống của những người nghèo. Nhờ có nguồn vốn đầu tư ngoài nước, nước sở tại nhận được
13


nhiều sự hỗ trợ trực tiếp và gián tiếp để có một sự quan tâm đầu tư toàn diện sâu sắc hơn đến các
mục tiêu xã hội, tạo một nền tảng để nền kinh tế có thể tăng trưởng và phát triển bền vững lâu dài.
-

Nguồn vốn đầu tư ngoài nước góp phần thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ, nâng cao
trình độ khoa học công nghệ của nước nhận đầu tư để từ đó tạo đà tăng trưởng phát triển kinh tế
Khoa học công nghệ luôn được coi là yếu tố then chốt tác động đến tăng trưởng phát triển
kinh tế, cải thiện cuộc sống. Trong đó nguồn vốn đầu tư ngoài nước có vai trò đặc biệt quan trọng
đối với quá trình phát triển khoa học kĩ thuật thông qua chuyển giao công nghệ, phổ biến công
nghệ và phát minh công nghệ. Các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài luôn mang theo công nghệ
sản xuất cao vào nước tiếp nhận đầu tư, khi đó nước sở tại sẽ có cơ hội được tiếp cận và học hỏi
các công nghệ cao này. Từ đó năng lực sản xuất và năng suất lao động được cải thiện. Các sản
phẩm sản xuất trong nước sẽ được nâng cao tính cạnh tranh trên thị trường thế giới cũng như là so
với sản phẩm ngoại nhập. Nền tảng công nghệ vững chắc, tiên tiến sẽ là một bệ phóng cho nền
kinh tế của quốc gia tăng trưởng và phát triển đến một trình độ cao hơn.


-

Nguồn vốn đầu tư ngoài nước đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao, nâng cao tiềm lực giúp
nền kinh tế tăng trưởng và phát triển
Không những chuyển giao công nghệ mà các dòng vốn ngoài nước còn tác động gián tiếp tới
sự tăng trưởng và phát triển kinh tế thông qua chất lượng của thị trường lao động. Cụ thể các dự
án có vốn đầu tư nước ngoài phần lớn muốn tận dụng nguồn lao động đông giá rẻ ở nước nhận
đầu tư, khi đó các doanh nghiệp FDI sẽ phải bỏ ra chi phí, công sức và thời gian không nhỏ để
đào tạo một nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao, tay nghề giỏi, có năng lực quản lí để sử
dụng trong doanh nghiệp của họ. Vậy điều đầu tiên nguồn vốn đầu tư ngoài nước đã tác động đến
sự phát triển của quốc gia là tạo công ăn việc làm cho người lao động, giảm tỉ lệ thất nghiệp trong
nền kinh tế, bước đầu góp phần xây dựng một nền kinh tế khỏe mạnh, chất lượng. Đi kèm với đó,
trong sự vận hành của nền kinh tế luôn tồn tại dòng dịch chuyển lao động từ khu vực này sang
khu vực khác. Một số lượng không nhỏ lao động trình độ cao từ khu vực doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài chuyển dịch sang khu vực có vốn đầu tư trong nước. Nguồn lao động khu vực
đầu tư trong nước vì thế cũng được nâng cấp cải thiện. Nguồn vốn đầu tư nói chung cũng vì thế
có thể nâng cao hiệu quả chất lượng sử dụng, từ đó nâng cao tiềm lực giúp nền kinh tế tăng
trưởng và phát triển

-

Nguồn vốn đầu tư ngoài nước tác động làm hoàn thiện, tăng khả năng cạnh tranh, tăng tính hiệu
quả của thị trường tài chính của nước nhận đầu tư
Nguồn vốn đầu tư ngoài nước là một nguồn lực dồi dào thúc đẩy thị trường tài chính nước
nhận đầu tư phát triển đặc biệt, trong đó thể hiện rõ ràng nhất ở thị trường chứng khoán. Vốn đầu
tư nước ngoài vào cổ phiếu trong nước sẽ giúp giảm chi phí vốn và đa dạng hóa rủi ro. Sự có mặt
của các nhà đầu tư nước ngoài vô hình chung tạo một áp lực cải thiện thể chế và chính sách lên
nước nhận đầu tư. Không chỉ có vậy, đi kèm với nguồn vốn đầu tư ngoài nước là các công ty đánh
giá mức độ tín nhiệm sẽ có tác động tích cực góp phần cải thiện chất lượng thông tin trên thị

trường và nhờ đó tăng tính hiệu quả của thị trường chứng khoán. Cơ chế minh bạch sẽ tăng lên và
giúp nước sở tại phát triển các dịch vụ về kế toán, kiểm toán, các dịch vụ môi giới và kinh doanh
chứng khoán. Vậy là với nguốn vốn đầu tư ngoài nước, thị trường tài chính trong nước sẽ từng
bước được cải thiện, hoàn chỉnh, nâng cao chất lượng và hiệu quả trong việc thúc đẩy tăng trưởng
và phát triển kinh tế quốc gia.

14


-

Dòng vốn đầu tư ngoài nước giúp tạo dựng một môi trường cạnh tranh giữa các thành phần kinh
tế, tạo động lực cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế
Điều đầu tiên chúng ta cần khẳng định: cạnh tranh luôn tạo động lực cho sự phát triển. So với
các nhà đầu tư trong nước, các doanh nghiệp có vốn nước ngoài luôn lợi thế hơn do có nguồn vốn
lớn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý hiện đại, và nhiều ưu đãi, khuyến khích mà chính phủ nước
nhận đầu tư dành cho họ. Vì vậy, sức cạnh tranh của các doanh nghiệp nước ngoài là rất cao. Để
có thể cạnh tranh với các đối tác nước ngoài trên sân nhà, các doanh nghiệp nước sở tại buộc phải
tự mình đổi mới, mở rộng quy mô hoạt động, gia tăng số lượng và chất lượng các nguồn vốn đầu
tư (đi vay, liên kết hợp tác giữa các doanh nghiệp...) đồng thời cải tiến công nghệ, học hỏi các kỹ
năng và kinh nghiệm trong quản lý sản xuất. Như vậy, chính nguồn vốn đầu tư ngoài nước đã tạo
ra động lực cạnh tranh làm cho nguồn vốn trong nước phải được sử dụng hiệu quả hơn, hợp lý
hơn. Tóm lại, nền kinh tế của quốc gia nhận đầu tư sẽ có được những bước phát triển đáng kể nhờ
hiệu quả và chất lượng của việc huy động và sử dụng các nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước.

-

Nguồn vốn đầu tư ngoài nước là nguồn cung ngoại tệ đáng kể, đảm bảo cho nhu cầu ngoại tệ của
đất nước, nâng cao năng lực xuất nhập khẩu, đầu tư ra nước ngoài và trả nợ, tạo đà tăng trưởng
và phát triển

Khi đất nước càng phát triển thì nhu cầu hội nhập ngày càng cao, nhu cầu xuất nhập khẩu
càng lớn. Đối với các nước đang phát triển, ngay trong hoạt động sản xuất của doanh nghiệp, nhu
cầu về máy móc công nghệ cao là rất lớn, việc này đòi hỏi phải nhập khẩu từ bên ngoài, muốn
nhập khẩu thì ngoại tệ là thứ không thể thiếu. Mặt khác, việc trả nợ nước ngoài cũng yêu cầu một
lượng ngoại tệ không nhỏ. Lúc đó nguồn vốn đầu tư nước ngoài phát huy vai trò của mình là
nguồn cung ngoại tệ đáng kể; làm gia tăng gián tiếp lượng ngoại tệ tại các ngân hàng trong nền
kinh tế thông qua các nguồn viện trợ bằng ngoại tệ, chuyển trực tiếp vào ngân sách chính phủ, các
nhà đầu tư trực tiếp hay gián tiếp mua bán chứng khoán cũng phải thực hiện đầu tư qua thao tác
chuyển đổi ngoại tệ qua nội tệ. Bên cạnh đó nguồn vốn này cũng có tác động với các khoản tiết
kiệm ngoại tệ quốc gia, có mặt trong chính sách quản lý tỷ giá hối đoái trên thị trường tiền tệ, ổn
định tỉ giá trong nước khi cần thiết; từ đó giúp ổn định vĩ mô nền kinh tế. Nền kinh tế có ổn định
mới đảm bảo môi trường đầu tư an toàn và hoạt động có hiệu quả của các nguồn vốn trong và
ngoài nước.

-

Đầu tư nước ngoài giúp tiếp cận thị trường quốc tế, mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội
nhập kinh tế với khu vực thế giới
Khi có luồng vốn đầu tư nước ngoài vào sẽ tạo ra một thị trường vốn quốc tế mà tại đó các
quốc gia có thể thu hút và huy động vốn một cách dễ dàng và hiệu quả. Không những thế, nguồn
vốn đầu tư ngoài nước còn đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy xuất khẩu, giao lưu, trao
đổi hàng hóa, tạo điều kiện cho việc mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh tế với khu vực
và thế giới.
2.3.

Mối quan hệ của nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư ngoài nước

Sự kết hợp giữa hai nguồn vốn làm gia tăng tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội. Xét về mặt số
lượng, sự kết hợp này có thể nói đơn thuần là phép tính 1+1= 2, nó làm tổng vốn đầu tư của một
quốc gia tăng lên. Các nguồn vốn huy động thường được sử dụng trước hết cho mục tiêu lợi

nhuận kinh tế. Song một nền kinh tế muốn phát triển bền vững và lâu dài thì các vấn đề đầu tư
phát triển xã hội cũng phải được chú trọng. Đối với tất cả các quốc gia, tỷ trọng các khoản chi cho
sự nghiệp phát triển xã hội là không hề nhỏ trong tổng chi của tổng vốn đầu tư. Cũng chính vì thế,
15


khoản vốn cho các dự án đầu tư phát triển kinh tế sẽ bị thu hẹp lại. Với sự bổ sung đóng góp của
các nguồn vốn ngoài nước (như ODA, FDI,…) thì chính phủ có thể phân bổ và sử dụng các
nguồn vốn một cách hợp lý hơn. Chẳng hạn các ưu đãi của nguồn vốn ODA được sử dụng để bổ
sung cho khoản vốn tín dụng cho các doanh nghiệp vay của nhà nước, và một phần dòng vốn này
được sử dụng cho các dự án mang tính chất xã hội cao ở các lĩnh vực như giáo dục, y tế, xóa đói
giảm nghèo, các dự án cung cấp nước sạch, xây dựng các công trình đường giao thông… Chính
nhờ có nguồn vốn này mà trách nhiệm xã hội của các nguồn vốn trong nước được san sẻ. Tính
một cách hợp lý, chúng ta sẽ có phần lớn hơn các khoản vốn đầu tư phục vụ cho đầu tư phát triển
kinh tế, trước hết là từ trong nước, sau là từ các doanh nghiệp hoạt động kinh tế ở khu vực có vốn
đầu tư nước ngoài. Vậy là, từ phép cộng nguồn vốn đầu tư trong nước với nguồn vốn đầu tư nước
ngoài, việc đầu tư cho tăng trưởng phát triển của quốc gia có một tiềm lực lớn mạnh hơn, sẽ có
thêm nhiều lĩnh vực được đầu tư hơn, đồng thời các lĩnh vực sẽ được đầu tư theo chiều sâu hơn,
nâng cao hiệu quả của các dự án.
Song nói đến sự tăng trưởng và phát triển của một quốc gia nhận được gì từ mối quan hệ giữa
nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài, chúng ta có thể khẳng định rằng phép tính 1+1
xét dưới phương diện kinh tế đã làm được nhiều hơn con số 2. Mối quan hệ kết hợp giữa hai
nguồn vốn mà kết quả của nó không chỉ dừng lại ở sự gia tăng về quy mô, số lượng, mà đi kèm
với nó còn là sự ra đời của nhiều loại hình doanh nghiệp mới, nhiều ngành kinh tế mới... Cùng với
sự ra đời của các loại hình doanh nghiệp mới với các hình thức sở hữu phong phú là sự xuất hiện
của các phương thức kinh doanh linh hoạt, đa dạng, ngày càng hiện đại: các hợp đồng hợp tác
kinh doanh, đại lý ủy quyền, hình thức góp vốn cổ phần… Những lĩnh vực, thành phần kinh tế
mới ra đời càng ngày càng mở rộng và tăng thêm tiềm năng phát triển của nền kinh tế.
Không dừng lại ở đó, mối quan hệ giữa hai nguồn vốn còn là một cú hích cho năng lực khoa
học công nghệ quốc gia. Đối với mỗi quốc gia, khoa học công nghệ là nguồn lực phải được xây

dựng lâu dài, nếu chỉ dựa vào nội lực (nguồn vốn đầu tư trong nước) thì quá trình phát triển rất
chậm, không theo kịp với trình độ phát triển chung của khu vực và thế giới, vì thế cần có sự bổ
sung từ nguồn vốn nước ngoài. Sự bổ sung đó làm nguồn vốn dành cho việc đầu tư khoa học công
nghệ trở nên phong phú đa dạng hơn, không chỉ từ ngân sách Nhà nước mà còn từ các quỹ, tổ
chức trong và ngoài nước. Khoa học công nghệ vì thế có một nền tảng vững chãi hơn để phát
triển, từ đó gia tăng năng lực sản xuất, năng suất lao động, cải tiến và nâng cao chất lượng của các
sản phầm, đưa nền kinh tế lên một trình độ cao hơn.
Tuy vậy, không phải lúc nào sự kết hợp giữa nguồn vốn trong nước và nguồn vốn ngoài nước
cũng đem lại cho sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế những thuận lợi và ưu thế. Đó là lúc
phép cộng trong mối quan hệ của hai nguồn vốn này thể hiện giá trị 1+1 < 2. Một điều hiển nhiên
là các khoản vay từ nước ngoài mang lại một gánh nặng nợ rất lớn cho nước nhận vốn, có nhiều
trường hợp, khoản nợ này kéo dài nhiều năm, nhiều thập kỷ, gây nên tình trạng thâm hụt ngân
sách kéo dài, gây ảnh hưởng tiêu cực đến việc đầu tư phát triển trong tương lai. Mặt khác, các
khoản viện trợ, vay ưu đãi không bao giờ đi một mình, các khoản này luôn luôn đi kèm với các
điều kiện ràng buộc về chính trị. Điều này gây nên tình trạng phụ thuộc, mất tự chủ của quốc gia
tiếp nhận vốn trong một số lĩnh vực xã hội cũng như là chính trị. Không chỉ tạo điều kiện cho việc
hội nhập sâu hơn với kinh tế thế giới, mặt trái của việc này là làm cho nền kinh tế trong nước dễ
bị ảnh hưởng bởi các cuộc khủng hoảng kinh tế trên thế giới.
Các nguồn vốn đầu tư nước ngoài, một mặt làm gia tăng nguồn dự trữ ngoại tệ quốc gia, đồng
thời lại có những ảnh hưởng không nhỏ tới đồng nội tệ, đến cán cân thương mại của nước nhận
đầu tư, từ đó ảnh hưởng tới chính sách tiền tệ, tỷ giá hối đoái của đất nước đó. Đặc biệt, các
16


nguồn vốn này có mức biến động cao, và có mức độ tự do lưu thông trên thị trường lớn, điều này
trước hết đặt ra những khó khăn cho sự quản lý giám sát của nhà nước với nguồn ngoại tệ trên thị
trường, sau đó nó chính là một thực tế khó khăn lớn đối với các chính sách quản lí kinh tế, cách ra
quyết định kinh tế của Nhà nước nhằm đảm bảo sự tăng trưởng và phát triển ổn định, đồng đều và
bền vững của một quốc gia. Chính vì thế, trong mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước và nguồn
vốn đầu tư nước ngoài, mặc dù nguồn vốn đầu tư nước ngoài có vai trò rất quan trọng song nguồn

vốn đầu tư trong nước phải đặc biệt phát huy vai trò quyết định của mình, định hướng cho dòng
chảy nguồn vốn đầu tư nước ngoài và hạn chế những tiêu cực của nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
Tóm lại, nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài có một mối quan hệ hữu cơ, bổ sung
cho nhau, tác động trực tiếp và gián tiếp đến quá trình tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế
một quốc gia. Có rất nhiều những tác động tích cực mà chính mối quan hệ này đã giúp hỗ trợ và
thúc đẩy vai trò của từng nguồn vốn riêng biệt. Bên cạnh đó vẫn còn nhiều vấn đề bất cập mà mỗi
quốc gia cần giải quyết để phát huy hơn nữa những đóng góp tích cực kể trên. Tuy vậy, chúng ta
vẫn cần phải khẳng định lại một lần nữa vai trò quyết định của nguồn vốn đầu tư trong nước và
vai trò quan trọng của nguồn vốn đầu tư nước ngoài trong mối quan hệ giữa hai nguồn vốn tác
động đến tăng trưởng và phát triển nền kinh tế.

17


CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN ĐẦU TƯ
Ở VIỆT NAM
Trong những năm trở lại đây, với việc chuyển sang cơ chế thị trường mở của nền kinh tế
thị trường, nền kinh tế nước ta đã thu được nhiều thành tựu đáng khích lệ. Từ chỗ khủng
hoảng thiếu trầm trọng, ngày nay đời sống nhân dân đã được nâng cao, Việt Nam hiện được
đánh giá là một quốc gia an toàn cho đầu tư với tốc độ tăng trưởng cao trong một thời kì dài,
nền chính trị ổn định. Đạt được kết quả đó là nhờ chủ trương đúng đắn của Đảng và nhà nước
ta trong việc khơi thông nguồn lực trong nước, tận dụng nguồn lực nước ngoài.Vốn đầu tư
trong nước và ngoài nước đã góp phần quan trọng tạo nên tốc độ tăng trưởng và sự phát triển
kinh tế nước ta. Tìm hiểu về thực trạng hai nguồn vốn trong thời gian qua sẽ cho chúng ta
cách nhìn đúng đắn hơn về vai trò của hai nguồn vốn cũng như mối quan hệ giữa chúng. Từ
đó ta có thể đưa ra các biện pháp về huy động hai nguồn lực này cho sự phát triển kinh tế
nước ta trong thời gian tới.
3.1.

Thực trạng hoạt động huy động vốn trong nước và ngoài nước ở Việt Nam


Trong thời gian từ 2011 đến 2015, tỷ trọng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội luôn chiếm
rất cao trong GDP (cao nhất là năm 2011 với 34,6%). Tuy nhiên, tỷ trọng này có xu hướng
giảm mạnh đến năm 2013 chỉ còn 30,4% trong GDP và bắt đầu tăng trở lại từ năm 2014, đến
năm 2015 chiếm 32,6% GDP (bảng 1).
Bảng 1: Tỉ trọng vốn đầu tư phát triển trên GDP giai đoạn 2011 - 2015
Năm
2011
2012
2013
2014
2015

Tỉ trọng vốn so với GDP
34,6%
33,5%
30,4%
31%
32,6%
Nguồn: tổng cục thống kê

Tỷ trọng vốn đầu tư toàn xã hội so với GDP đã giảm từ 38,7% giai đoạn 2001 - 2010
xuống còn 34,6% năm 2011, và khoảng 31,875% giai đoạn 2012 - 2015. So với thời kỳ 20062010, tỷ lệ vốn đầu tư phát triển/GDP thời kỳ 2011-2015 đã giảm xuống tương đối nhanh, từ
34,6% xuống còn 30,4%. Đây là một sự đổi mới tư duy về việc chuyển đổi mô hình tăng
trưởng, tức là chuyển từ việc tăng trưởng chủ yếu dựa vào tăng vốn đầu tư, tăng số lượng lao
động, tăng trưởng theo số lượng, tăng trưởng theo chiều rộng, sang tăng trưởng chất lượng,
tăng trưởng theo chiều sâu, tăng trưởng bền vững. Theo đó, việc giảm tỷ lệ vốn đầu tư/GDP
đã góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên, sự sụt giảm tỷ lệ vốn đầu
tư/GDP lại là một trong những yếu tố làm cho tăng trưởng GDP giảm (từ 6,32%/năm trong
thời kỳ 2006-2010, xuống còn 5,63%/năm trong thời kỳ 2011-2015), dẫn đến nguy cơ tụt hậu

xa hơn về kinh tế giữa Việt Nam với nhiều nước, đặc biệt là khoảng cách về quy mô tuyệt
đối vẫn còn lớn. Bên cạnh đó, tiền đề vật chất để thực hiện mục tiêu về xã hội, nhất là lao
động việc làm, kể cả mục tiêu về môi trường cũng bị hạn chế, nếu tăng trưởng suy giảm.
Từ diễn biến và tác động của quy mô vốn đầu tư như trên có thể thấy, việc giảm tỷ lệ vốn
đầu tư phát triển/GDP về lâu dài là đúng hướng và cần thiết. Nhưng nếu đang từ mức rất cao
mà giảm quá nhanh, giảm đột ngột như mấy năm nay có thể lợi bất cập hại, làm cho kinh tế
rơi vào trì trệ, giảm phát. Mà trì trệ, giảm phát thường kéo dài và khó khắc phục hơn là tăng
18


trưởng nóng. Do vậy, cần giữ tỷ lệ vốn đầu tư/GDP ở mức 30% bằng với mức để dành trong
vài ba năm nữa.
3.1.1. Thực trạng huy động vốn trong nước

Để không lệ thuộc nước ngoài về kinh tế, Đảng luôn xác định nhiệm vụ và giải pháp quan
trọng phát triển kinh tế xã hội là “huy động tối đa nguồn lực để phát triển kinh tế xã hội, nhất
là nội lực, nguồn lực trong dân và tăng sức thu hút đầu tư nước ngoài. Trong đó cần sử dụng
có hiệu quả vốn đầu tư, đặc biệt là vốn đầu tư của nước ngoài, tăng cường quản lý sử dụng
đất đai, đề cao kỉ luật tài chính, đẩy mạnh thi đua sản xuất, thực hành tiết kiệm, phấn đấu
giảm bội chi”. Thực tế cho thấy tỉ lệ vốn đầu tư khu vực trong nước luôn chiếm khoảng trên
70% so với tổng vốn đầu tư toàn xã hội và hiện nay có xu hướng ngày càng tăng.
a) Thực trạng huy động từ nguồn vốn nhà nước

Với chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì đầu tư từ
khu vực nhà nước luôn chiếm tỉ lệ cao trong tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội, tỉ lệ này
đạt khoảng 30 - 35% và hiện nay có xu hướng giảm do kết quả của việc tái cơ cấu đầu tư
công, chủ trương giảm vốn đầu tư của nhà nước nhưng tăng cường khả năng kích hoạt các
nguồn đầu tư khác, nhằm phát huy đúng chức năng của vốn đầu tư nhà nước, là vốn mồi và
kích hoạt các nguồn vốn khác. Giai đoạn 2001 - 2010 tỉ trọng vốn đầu tư phát triển khu vực
kinh tế nhà nước chiếm 45,7% so với tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội. Đến giai đoạn

2011 – 2015 là 39%, riêng vốn đầu tư thực hiện của khu vực nhà nước năm 2015 ước tính
chiếm 38% tổng vốn đầu tư phát triển.
Bảng 2: Cơ cấu vốn đầu tư phát triển toàn xã hội giai đoạn 2011 – 2015
Đơn vị: nghìn tỷ đồng
Năm

Khu vực
nhà nước

Tỉ
trọng

2011
2012
2013
2014
2015

341,6
374,3
440,5
486,8
519,5

38,9%
37,8%
40,4%
39,9%
38%


Khu vực
ngoài nhà
nước
309,4
385,0
410,5
468,5
529,6

Tỉ
trọng
35,2%
38,9%
37,6%
38,4%
38,7%

Khu vực có
vốn đầu tư
nước ngoài
226,9
230,0
240,1
265,4
318,1

Tỉ trọng

Tổng
vốn đầu


25,9%
877,9
23,3%
989,3
22%
1091,1
21,7%
1220,7
23,3%
1367,2
Nguồn: Tổng cục thống kê

Số liệu tại bảng 2 cho thấy, tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội đã liên tục tăng từ 877,9
nghìn tỷ đồng năm 2011 lên 1367,2 nghìn tỷ đồng năm 2015 (tăng lên 1,56 lần). Trong đó,
khu vực ngoài nhà nước tăng nhanh nhất (1,71 lần). Đặc biệt trong năm 2015, tổng vốn đầu
tư nhà nước đã không còn chiếm ưu thế mà đứng sau khu vực kinh tế ngoài nhà nước.
-

Thực trạng huy động vốn từ ngân sách nhà nước

Trong tổng giá trị vốn đầu tư nhà nước từ 2011 - 2015, vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước
có xu hướng giảm nhưng vẫn chiếm tỷ trọng cao trên tổng vốn đầu tư của Nhà nước (trung
bình cả giai đoạn chiếm 47,7%). Điều này thể hiện rõ tầm quan trọng của vốn ngân sách nhà
nước, là công cụ thực hiện vai trò của nhà nước trong quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Tỷ lệ giữa vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước/ tổng vốn đầu tư từ khu vực nhà nước luôn
19


chiếm tỷ trọng cao nhất tuy tăng giảm không đều (năm 2011 - 2012 chiếm bình quân tới

53,4% nhưng từ năm 2013 đã giảm dần, đến năm 2015 chỉ còn là 42,4% (bảng 3).
Bảng 3: Cơ cấu vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước trong tổng vốn đầu tư của nhà nước
giai đoạn 2011 – 2015
Đơn vị: nghìn tỷ đồng
Năm
2011
2012
2013
2014
2015

Vốn đầu tư từ ngân sách nhà
nước
178,0
205,0
205,7
207,7
220,4

Tỷ trọng vốn trên tổng vốn từ khu vực nhà
nước
52,1%
54,8%
46,7%
42,7%
42,4%
Nguồn: Tổng cục thống kê

Có thể thấy, mặc dù vẫn chiếm tỷ trọng hơn một phần ba tổng vốn đầu tư toàn xã hội song
đầu tư từ ngân sách nhà nước vẫn trong xu thế giảm mạnh. Rõ ràng, chương trình tái cơ cấu

đầu tư công đã tạo chuyển biến tích cực trong giảm tỷ trọng đầu tư từ nguồn ngân sách nhà
nước trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội, nỗ lực khắc phục những tồn tại, hạn chế của việc đầu
tư từ ngân sách nhà nước như: đầu tư dàn trải, chậm tiến độ, dự án đầu tư kéo dài, chậm đưa
vào sử dụng, hiệu quả đầu tư thấp,…
Đồng thời, cơ cấu chi ngân sách nhà nước đã có sự chuyển biến tích cực theo ưu tiên cho
đầu tư phát triển, xây dựng các công trình lớn quan trọng của nền kinh tế, các công trình phúc
lợi xã hội, chú trọng chi trả nợ trong và ngoài nước, thực hiện cam kết trả nợ khi đến hạn,
đảm bảo chi cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục, y tế,... từng bước xác định phạm vi ngân sách
nhà nước trong từng lĩnh vực. Chi đầu tư phát triển là một nhiệm vụ quan trọng được quan
tâm đầu tư trong giai đoạn qua. Tỷ lệ chi ngân sách nhà nước cho đầu tư phát triển luôn được
đảm bảo. Được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 4: Chi đầu tư phát triển trong tổng chi ngân sách nhà nước giai đoạn 2011 - 2015
Đơn vị: nghìn tỷ đồng
Năm

2011

2012

2013

2014

2015

Tổng chi NSNN

1.034,244

978,463


1.088,153

1.006,7

1.147,1

Chi ĐTPT

208,306

268,812

271,680

163,000

195,000

20,1%

27,5%

25,0%

16,2%

17,0%

Tỷ trọng chi ĐTPT/

chi NSNN

Nguồn: Bộ Tài chính
Ta nhận thấy trong 3 năm từ 2013 đến 2015, tỷ trọng chi cho đầu tư phát triển giảm mạnh
do tác động từ hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, hạn chế chi tiêu. Xét về cơ cấu
chi đầu tư phát triển cho thấy bên cạnh việc tăng cường chi cho xây dựng cơ sở hạ tầng, chi
hỗ trợ vốn doanh nghiệp Nhà nước, chi giải quyết việc làm, ngân sách nhà nước còn tập trung
20


vào chi cho xoá đói giảm nghèo phát triển nông nghiệp nông thôn, vùng núi khó khăn,... Tuy
nhiên, trong năm 2016 tới đây, dự toán ngân sách nhà nước sẽ tăng chi cho đâu tư phát triển,
dự sẽ tăng trên 25% so với năm 2015, cho thấy quyết tâm của nhà nước trong việc thắt chặt
chi tiêu ngân sách và tập trung nguồn lực cho đầu tư phát triển.
Trong những năm qua quy mô ngân sách nhà nước cũng không ngừng tăng lên, nhờ mở
rộng nhiều nguồn thu khác nhau nhưng chủ yếu huy động từ thuế và chi phí nhiều hơn 90%
tổng thu ngân sách hàng năm. Quy mô thu ngân sách nhà nước giai đoạn 2011-2015 bằng gần
2 lần giai đoạn 2006-2010 và bằng hơn 5 lần giai đoạn 2001-2005. Tỷ lệ huy động từ thuế,
phí vào ngân sách nhà nước bình quân khoảng 21% GDP (không quá 22-23% GDP).
Bảng 5: Kết quả thu cân đối ngân sách nhà nước giai đoạn 2011 – 2015
Đơn vị: nghìn tỷ đồng
Năm

2011

2012

2013

2014


2015

Thu NS

962.982

1.038.451

1.084.064

782.700

911,100

Nguồn: Quyết toán NSNN Bộ tài chính
Với mức thu ngân sách nhà nước hàng năm như vậy, ngân sách nhà nước đã đáp ứng khá
tốt các nhu cầu thu chi thường xuyên cấp bách, tăng khả năng trang trải được cho nhu cầu chi
đầu tư phát triển của ngân sách nhà nước. Mặc dù đã có nhiều biện pháp, nhiều chính sách về
vấn đề nộp thuế, thu thuế phù hợp và đảm bảo công bằng, song vẫn còn nhiều sơ hở, tạo điều
kiện cho nhiều đối tượng vi phạm luật thuế, chốn thuế, lậu thuế. Thêm vào đó đội ngũ cán bộ
làm nhiệm vụ thu thuế còn chưa nghiêm túc, bòn rút thuế một cách khéo léo và tinh vi. Mặt
khác việc thu thuế từ hàng hoá xuất nhập khẩu gặp nhiều khó khăn, chủ yếu do nhân tố khách
quan là kim ngạch nhập khẩu chịu thuế đạt thấp hơn dự kiến và Nhà nước điều chỉnh giảm
thuế xuất nhập khẩu đối với một số mặt hàng do giá quốc tế tăng cao.
Trong vốn đầu tư của khu vực nhà nước, vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước thực hiện năm
2015 ước tính đạt 220,4 nghìn tỷ đồng, bằng 100,6% kế hoạch năm và tăng 6,1% so với năm
2014. Sau 5 năm (2011-2015) thực hiện tái cơ cấu đầu tư công, kết quả bước đầu rõ nét nhất
là tỷ trọng vốn đầu tư toàn xã hội so với GDP đã giảm từ 38,7% giai đoạn 2001-2010 xuống
còn khoảng 31% vào giai đoạn 2012-2015. Tỷ trọng vốn đầu tư từ khu vực kinh tế Nhà nước

trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội giai đoạn 2011-2015 cũng giảm xuống còn 41% (Giai đoạn
2001-2010 là khoảng 45,7%); trong đó, tỷ trọng vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước giảm
xuống 21,3%.
Như vậy, vốn ngân sách nhà nước có vai trò là công cụ thúc đẩy tăng trưởng, ổn định và
điều khiển kinh tế vĩ mô của nhà nước. Đầu tư từ ngân sách nhà nước là một bộ phận quan
trọng trong toàn bộ khối lượng đầu tư, nó tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi nhằm đẩy mạnh
đầu tư của mọi thành phần kinh tế theo định hướng chung của kế hoạch, chính sách và pháp
luật. Đồng thời ngân sách nhà nước cũng góp phần trực tiếp tạo ra năng lực sản xuất của một
số lĩnh vực quan trọng nhất của nền kinh tế, đảm bảo theo đúng định hướng và quy hoạch
phát triển kinh tế xã hội.
Tuy nhiên, với một lượng vốn ngân sách nhà nước lớn nhưng những năm qua chúng ta có
thể thấy hiệu quả đầu tư chưa cao. Một nguyên nhân có thấy là vốn ngân sách nhà nước chi
cho những dự án mang tính chất xã hội (tức là đặt lợi ích xã hội lên trên), lợi nhuận thu về rất
21


thấp hoặc gần như không có. Bên cạnh đó không thể không kể đến việc quản lý, cấp phát và
sử dụng vốn ngân sách nhà nước chưa hiệu quả.
- Hệ thống pháp luật và các văn bản pháp lý liên quan đến đầu tư công còn chưa đầy
đủ, chồng chéo, khó đẩy lùi và kiểm soát được tình trạng đầu tư tùy tiện, dàn trải.
- Hệ thống quản lý phân bổ vốn đầu tư nhà nước, mới chỉ tập trung vào vốn đầu tư
ngân sách, chưa lưu tâm đến năng lực hấp thu của các nguồn vốn và đối tượng tiếp nhận vốn.
- Tình trạng đầu tư dàn trải, nợ đọng, chậm tiến độ về cơ bản vẫn tồn tại và chưa được
xử lý triệt để, gây khê đọng vốn, chậm giải ngân và lãng phí các nguồn lực.
-

Tình trạng đầu tư khép kín và điều chỉnh vốn đầu tư còn phổ biến.

-


Tình trạng thiếu minh bạch trong cấp phát và phân bổ vốn.

Tuy đã có những kế hoạch và chiến lược để cải thiện những hạn chế trên, song vốn ngân
sách nhà nước trong tư tưởng của nhiều người vẫn được xem là “vốn công, vốn chùa” nên
vẫn xảy ra tình trạng lãng phí nghiêm trọng, dễ sinh ra các hiện tượng tham ô, tham nhũng,…
Với những lợi thế và hạn chế như trên, không thể phủ nhận vai trò mang tính chất quyết
định của vốn ngân sách nhà nước, là cơ sở và nền tảng của đầu tư phát triển. Tuy nhiên đây
vẫn chưa phải nguồn vốn sinh lợi hiệu quả, còn lãng phí và thiếu minh bạch.
-

Thực trạng huy động vốn từ doanh nghiệp nhà nước

Về phương diện sử dụng nguồn lực, theo số liệu thống kê chính thức, tỷ trọng vốn đầu tư
và tín dụng của khu vực doanh nghiệp Nhà nước đã giảm một cách đáng kể lần lượt từ 57%
và 30,4% trong giai đoạn 2001-2007 xuống 24,7% và 14,5% trong giai đoạn 2008-2011.
Nguyên nhân của tình trạng này một phần là do chương trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà
nước (quá trình cần huy động nhiều nguồn lực của doanh nghiệp), nhưng quan trọng hơn là
do khu vực dân doanh đã lớn mạnh không ngừng kể từ khi ra đời Luật Doanh nghiệp 2005 và
do dòng vốn FDI ồ ạt chảy vào Việt Nam cùng với tiến trình Việt Nam gia nhập WTO. Điều
này đã góp phần làm tăng số doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, số lượng lao động tăng,
thu nhập bình quân của người lao động cũng được nâng cao, bên cạnh đó tỷ lệ nộp ngân sách
cũng tăng.
Bảng 6: Cơ cấu đầu tư công giai đoạn 2008 – 2012 (%)
Năm

Ngân sách nhà nước

Tín dụng nhà nước

2008

2009
2010
2011
2012

61,8
64,3
44,8
52,1
54,8

13,5
14,1
36,6
33,4
45,2

Doanh nghiệp nhà
nước
24,7
21,6
18,6
14,5
Nguồn: Tổng cục thống kê

Tính đến năm 2015, doanh nghiệp nhà nước chiếm 70% vốn đầu tư toàn xã hội, 50% vốn
Nhà nước, 60% tín dụng, 79% tổng nợ khó đòi của các ngân hàng thương mại và 70% vốn
ODA, thế nhưng chỉ đóng góp khoảng 30% tăng trưởng GDP. Doanh nghiệp nhà nước bao
gồm các tập đoàn, tổng công ty đang nắm giữ những vị trí then chốt trong nền kinh tế như:
22



ngân hàng, năng lượng, cơ khí, hóa chất..., tuy nhiên hiệu quả hoạt động chưa đáp ứng được
kỳ vọng. Vai trò kinh tế của khu vực doanh nghiệp nhà nước trong thời gian qua chưa cao và
đang ngày càng suy giảm. Doanh nghiệp nhà nước nhận được nhiều đầu tư từ ngân sách và
phần lớn tín dụng cho doanh nghiệp. Cũng có tới 70% doanh nghiệp nhà nước sử dụng
khoảng 70% diện tích đất để kinh doanh. Song hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Nhà
nước lại không cao khi năng suất thấp, thua lỗ hoặc có lãi không đáng kể. Vụ việc của
VinaShin năm 2011 để lại một bài học sâu sắc cho các cơ quan nhà nước trong việc giám sát,
kiểm tra, quản lý việc sử dụng và huy động vốn từ doanh nghiệp nhà nước. Vay vốn tràn lan,
buông lỏng quản lý là một trong những nguyên nhân khiến nguồn vốn đầu tư công ngày càng
bị sử dụng một cách kém hiệu quả.
-

Thực trạng huy động vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước

Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước khác về bản chất so với đầu tư bằng
vốn ngân sách nhà nước hay trái phiếu chính phủ. Bởi tín dụng nghĩa là có vay có trả. Song,
không vì thế mà bỏ qua việc sử dụng nguồn vốn này sao cho hiệu quả, đó cũng là để thực
hiện mục tiêu tái cơ cấu đầu tư công. Nguồn vốn tín dụng nhà nước những năm qua tăng khá
cả về lượng tuyệt đối và tỷ trọng, phù hợp với việc chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập
trung, quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường.
Là một thành phần của đầu tư công, vốn tín dụng đầu tư phát triển cũng chiếm tỷ trọng
tương đối lớn trong số đó. Giai đoạn 2001-2010, vốn này chiếm khoảng 22,6% tổng vốn đầu
tư công và chiếm khoảng 4,2% GDP. Sang các năm 2010 – 2012 thì duy trì ở mức khoảng
6% GDP. Tuy nhiên, quy mô vốn tín dụng đầu tư phát triển còn nhỏ bé, thiếu tập trung. Mặc
dù có mức tăng trưởng hàng năm khoảng 17%-18%, song tín dụng đầu tư phát triển mới có
quy mô bằng khoảng 6% tổng vốn đầu tư toàn xã hội cùng thời kỳ. Tổng vốn tín dụng đầu tư
phát triển mới đáp ứng được khoảng 37% nhu cầu vay vốn trong tổng mức đầu tư tài sản cố
định của các dự án có vay vốn tín dụng đầu tư phát triển. Hơn nữa, đối tượng cho vay còn

dàn trải, chưa thật sự tập trung cho vay vào các dự án trọng điểm, các ngành then chốt, các
vùng khó khăn. Vốn tín đụng đầu tư phát triển còn bị phân tán ở nhiều lĩnh vực, ngành nghề
khác nhau.
b) Thực trạng huy động vốn từ dân cư và tư nhân

Theo các nguồn số liệu thống kê, trong giai đoạn 2006-2015, so với khu vực kinh tế nhà
nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI), khu vực kinh tế tư nhân đóng góp hơn 40%
GDP cả nước, 30% giá trị tổng sản lượng công nghiệp, gần 80% tổng mức lưu chuyển hàng
hóa bán lẻ và dịch vụ, 64% tổng lượng hàng hóa và 100% giá trị sản lượng hàng hóa vận
chuyển. Trong thời gian tới, theo dự báo của Tổng cục Thống kê, khu vực kinh tế tư nhân vẫn
đóng góp khoảng 30% ngân sách và khoảng 40% GDP của cả nước.
Xét về cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội từ 2011 - 2015, nguồn vốn tư nhân không chỉ luôn
chiếm vị trí thứ 02 giữa 03 khu vực, mà còn có xu hướng tăng nhẹ từ mức 35,2% năm 2011
lên 38,7% năm 2015, trong khi khu vực kinh tế nhà nước lại giảm rõ rệt từ mức cao nhất
40,4% năm 2013 về mức 38,8% năm 2015 và khu vực FDI giảm từ 25,9% năm 2011 về
khoảng 23,3% năm 2015 (bảng 2). Ngay những giai đoạn kinh tế khó khăn (2008-2009 và
2011-2013) thì vốn đầu tư khu vực tư nhân vẫn tăng cho thấy tính ổn định, bền vững của khu
vực này.

23


Theo cơ quan thống kê Trung ương, vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện năm 2015
theo giá hiện hành ước tính đạt 1367,2 nghìn tỷ đồng, tăng 12% so với năm 2014 và bằng
32,6% GDP. Trong đó, vốn khu vực nhà nước đạt 519,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 38% tổng vốn
và tăng 6,7% so với năm trước; vốn khu vực ngoài Nhà nước đạt 529,6 nghìn tỷ đồng, chiếm
38,7% và tăng 13%; vốn khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 318,1 nghìn tỷ đồng,
chiếm 23,3% và tăng 19,9%.
Biểu đồ 1: Vốn đầu tư các khu vực kinh tế từ 2011 – 2015
Đơn vị: tỷ đồng


Nguồn: tổng cục thống kê
-

Huy động vốn từ dân cư

Theo đánh giá của các chuyên gia Bộ Kế hoạch – Đầu tư, hiện nay nguồn vốn trong dân
còn khoảng trên 100.000 tỷ đồng trong đó: 44% giành cho việc mua vàng và ngoại tệ, 20%
giành cho mua nhà đất và cải thiện điều kiện sinh hoạt, 17% giành gửi tiết kiệm chủ yếu là
tiết kiệm ngắn hạn, 19% để dành của dân là dùng trực tiếp cho các dự án đầu tư. Điều này
cho chúng ta thấy lượng vốn huy động vào đầu tư của khu vực dân cư còn thấp chỉ đạt 36%,
chưa tương xứng với tiềm năng của khu vực này. Lượng vốn tồn đọng lớn trong dân dưới
dạng vàng, ngoại tệ cần được thu hút vào đầu tư trực tiếp cho sản xuất - kinh doanh, vừa có
vốn đầu tư phát triển, vừa hạn chế tình trạng vàng hóa, đô la hóa, vừa hạn chế các cơn sốt giá
trên 2 thị trường này. Tốc độ tăng tiền gửi cao hơn cùng kỳ năm trước và cao hơn tín dụng
cho vay chứng tỏ người dân vẫn chưa trực tiếp đầu tư cho sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng,
mà đầu tư gián tiếp qua việc gửi tiết kiệm. Tăng trưởng tín dụng trong 5 tháng năm nay mới
đạt 3,8%, thấp hơn tốc độ tăng 4,8% của cùng kỳ năm trước, có thể do việc tiếp cận vốn khó
khăn vì lãi suất, nợ xấu và e ngại lạm phát cao trở lại.
Nhận thấy tầm quan trọng của vốn trong dân, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản,
đưa ra nhiều phương thức nhằm thu hút hiệu quả nguồn vốn này. Kết quả là những năm trở
lại đây lượng vốn huy động từ dân vào đầu tư xã hội đã có dấu hiệu đáng mừng. Khủng
hoảng kinh tế thế giới năm 2008 ảnh hưởng nhỏ và chậm tới nền kinh tế Việt Nam. Tâm lý
dân cư ít bị tác động bởi hậu quả của khủng hoảng, tuy lượng vốn huy động còn chiếm tỷ
trọng nhỏ nhưng có xu hướng tăng dần qua các năm. Theo Niên giám thống kê năm 2014,
ngoài tiền tích luỹ của dân ta còn có nguồn tiết kiệm chuyển từ nước ngoài vào: đó là lượng
ngoại hối những người lao động ở nước ngoài mang về, mỗi năm lượng tiền này khoảng
6.000 - 7.000 tỷ đồng. Các chuyên gia, lưu học sinh và cộng đồng người Việt Nam ở nước
ngoài mang về nước: theo thống kê nguồn này khoảng từ 14.000 - 16.000 tỷ đồng, chiếm trên
60% vốn trong dân.

Biểu đồ 2: Kiều hối của Việt Nam giai đoạn 2011 – 2015
Đơn vị: tỷ USD

Nguồn: Tổng cục thống kê

24


Những năm qua, Nhà nước có chủ trương khuyến khích kiều bào về nước đầu tư, cho
phép gửi và nhận kiều hối bằng ngoại tệ, giữ ổn định tỷ giá và không bắt buộc phải gửi tiết
kiệm vào ngân hàng hoặc bán cho ngân hàng. Bên cạnh đó, dịch vụ chuyển kiều hối qua kênh
chính thức rất phát triển, với sự tham gia của nhiều ngân hàng, doanh nghiệp. Thực tế trên
chính là nguyên nhân khiến lượng kiều hối chảy về Việt Nam ngày càng gia tăng. Trong đó,
năm 2015 đã đạt mức kỉ lục với lượng kiều hối chuyển về khoảng 13 tỷ USD, cho thấy đây là
một lượng tiền rất lớn nằm trong dân cần khai thác, đưa vào phục vụ đầu tư sản xuất, kinh
doanh, phát triển kinh tế.
Vốn trong dân bên cạnh những khoản tiết kiệm, khoản tiền cất trữ, họ còn tham gia vào
sản xuất kinh doanh. Ngoài ra còn xuất hiện các hình thức hợp tác xã, các hộ kinh doanh cá
thể,... với mức đóng góp vào vốn đầu tư toàn xã hội tănh nhanh qua các năm.
-

Huy động vốn từ khu vực tư nhân

Nguồn vốn khu vực tư nhân là phần tích lũy của doanh nghiệp: khấu hao, lợi nhuận để lại,
cổ tức chưa chia, hàng tồn kho,… Khu vực ngoài nhà nước chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ
và vừa, quy mô vốn nhỏ, kém lợi thế về nhiều mặt và phải đối diện các chi phí đầu vào không
ngừng tăng nhưng đã có được tốc độ tăng lương, cải thiện đời sống người lao động đáng
khích lệ. Hiện nay, các doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm 75% tổng số doanh nghiệp đang hoạt
động, đóng góp 40% GDP và thu hút hơn 51% lực lượng lao động cả nước.
Tỷ lệ vốn dành cho đầu tư phát triển bình quân tăng 56,43%/năm là khá cao và cho thấy

sự chủ động tích cực về huy động và sử dụng vốn của khu vực này. Đến năm 2014, trong tỷ
trọng vốn đầu tư chiếm 31% GDP thì phần đóng góp tính được của khu vực kinh tế tư nhân là
11,9%, khu vực kinh tế nhà nước là 12,37%; khu vực FDI là 6,73%. Thống kê của Vietnam
Report chỉ ra rằng tỷ lệ nợ/tổng tài sản của khối doanh nghiệp tư nhân trong nước hiện đang ở
mức cao, khoảng 67%, rủi ro tài chính của khối doanh nghiệp này sẽ lớn hơn từ các khối
doanh nghiệp khác. Bên cạnh đó, theo đánh giá của World Bank trong Báo cáo Cập nhật tình
hình phát triển kinh tế Việt nam (12/2014), số doanh nghiệp trong nước đóng cửa hoặc dừng
hoạt động tăng lên, nguyên nhân do các doanh nghiệp khó tiếp cận vốn: tiếp cận nguồn vốn
hạn chế, nhu cầu tiêu dùng trong nước thấp và sân chơi bất bình đẳng so với khu vực doanh
nghiệp nhà nước. Chính vì vậy huy động vốn từ doanh nghiệp tư nhân cũng trở nên khó khăn,
đòi hỏi các chính sách hỗ trợ kèm theo.
Với tính chất trên, đây là khu vực có cơ sở và trách nhiệm sử dụng vốn hiệu quả. Tuy
nhiên khu vực này chứa đựng nhiều hạn chế: trốn thuế, làm ăn không hiệu quả, thua lỗ gây
tổn thất,… Nhưng không thể phủ nhận vai trò của các doanh nghiệp tư nhân đến việc huy
động vốn trong nước
 Như vậy có thể thấy, nguồn vốn trong dân còn rất lớn, nếu nguồn vốn này được khai thác đầy

đủ và có hiệu quả sẽ chiếm một lượng lớn nguồn vốn đầu tư trong nước. Tuy nhiên trên thực
tế thì nguồn vốn này đã và đang bộc lộ những mặt yếu sau: Theo đánh giá của các chuyên gia
Bộ Kế hoạch – đầu tư, hiện nay tỷ lệ huy động vào đầu tư thấp mới chỉ đạt 36% trong khi đó
tỷ lệ cất trữ chiếm tới 44%. Nguyên nhân là do tâm lý người dân còn dè dặt trong vấn đề bỏ
vốn đầu tư trực tiếp, gửi tiết kiệm hay cho Chính phủ vay, mà nếu có gửi, thì chủ yếu tiền gửi
ngắn hạn. Mặt khác lâu nay mới chú trọng huy động vốn bằng tiền, còn vàng đã nhiều lần
được các ngân hàng thương mại huy động thử nghiệm nhưng không thành công. Vàng nhà
nào cũng có (trừ gia đình nghèo khổ), chỉ một phần nhỏ dùng cho “trang sức” còn lại là cất
trữ. Nếu nguồn vốn này huy động được ở mức 70% thì vốn nội tại cho nền kinh tế không thể
25



×