Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Sự đối lập giữa đêmôcrit và platôn về vấn đề bản thể luận nguyên nhân của sự đối lập đó

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.91 KB, 15 trang )

MỤC LỤC
III. Nguyên nhân của sự đối lập giữa Đêmôcrit và Platôn về vấn đề bản thể luận.............10
4. Điều kiện tư tưởng........................................................................................................13
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................15

MỞ ĐẦU
Bản thể luận là một khái niệm căn bản của triết học, đó là thuật ngữ chỉ rõ
quan điểm của con người nhìn nhận thế giới. Bản thể luận cũng là một khuynh
hướng chủ đạo của triết học phương Tây, nghiên cứu các khái niệm về thực tại
và bản chất của sự tồn tại, bản thể luận được hình thành nên cơ sở của siêu hình
học. Trong bản nhạc giao hưởng đầy tính bác học của triết học phương Tây về
bản thể luận, khúc dạo đầu rực rỡ âm sắc trang hoàng đó là những trường phái
triết học Hy Lạp cổ đại. Một trong những nhà triết học tiêu biểu thời bấy giờ
phải kể đến là Platôn và Đêmôcrit. Hai ông được sinh ra trong cùng một thời
đại, sự khác chênh lệch chỉ kéo dài khoảng 30 năm nhưng những tư tưởng triết
học của hai ông lại đi theo những hướng hoàn toàn khác nhau, trong đó phải kể
đến đầu tiên là sự đối lập trong quan điểm về bản thể luận. Vậy sự đối lập đó
như thế nào và nguyên nhân của nó là gì? Vấn đề này sẽ được làm rõ trong bài
viết với đề tài: “Sự đối lập giữa Đêmôcrit và Platôn về vấn đề bản thể luận.
Nguyên nhân của sự đối lập đó”.


NỘI DUNG
I. Khái niệm cơ bản về bản thể luận trong triết học
Tên gọi “bản thể luận” chỉ xuất hiện vào thế kỷ XVII, nhưng tư tưởng bản
thể luận đã xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử triết học, ngay từ thời Cổ đại. Nói
một cách chung nhất, bản thể luận được hiểu là học thuyết về tồn tại và khái
niệm “tồn tại” là một trong các khái niệm cơ bản của triết học phương Tây.
Khái niệm này liên hệ mật thiết và hữu cơ với quá trình hình thành triết học
phương Tây tới mức chính nó, chính sự lý giải về nó đã tạo thành bản chất của
phương pháp tư duy triết học Tây Âu. Chính vì vậy mà việc nghiên cứu lịch sử


bản thể luận, lịch sử các quan niệm, học thuyết triết học về tồn tại, về khái niệm
tồn tại là con đường duy nhất để làm sáng tỏ nội dung của khái niệm này.
Thuật ngữ bản thể luận có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp, nó là sự kết hợp
giữa hai từ on (ỹv) – “cái thực tồn”, cái đang tồn tại và logos (ởỹóùũ) – lời lẽ,
học thuyết, tạo thành “học thuyết về tồn tại”.
Trong triết học trước Mác, người ta hiểu bản thể luận, hay “triết học đầu
tiên”, là học thuyết để chỉ những cái đang tồn tại trong toàn bộ thế giới khách
quan. Theo ý nghĩa đó, bản thể luận cùng nghĩa với siêu hình học – một hệ
thống những định nghĩa phổ biến về tồn tại.
Vấn đề tồn tại là vấn đề căn bản nhất mà mỗi một quan niệm về bản thể
luận đều phải lý giải, đồng thời việc lý giải ấy cũng tạo nên nội dung và tính đặc
thù của bản thể luận nói chung và của mỗi bản thể luận nói riêng. Thực chất của
vấn đề này là ở chỗ, phải lý giải xem cái gì là cái chung của tất cả những cái
thực tồn, cái gì là “tồn tại của những cái thực tồn”.
Và đến quan điểm của Mác về bản thể luận, bản thể luận là một học thuyết
chỉ những cái đang tồn tại và quy luật của sự tồn tại, sự vận động phát triển của
sự tồn tại.
II. Sự đối lập giữa Đêmôcrít và Platôn về vấn đề bản thể luận
1. Nội dung cơ bản về bản thể luận trong triết học Đêmôcrit
Đêmôcrit (460-370 TCN) là nhà văn, nhà triết học, tâm lý học, toán học,
sinh vật học, vật lý học, mỹ học, ngôn ngữ học, âm nhạc và nhà kỹ thuật.
Đêmôcrít kiên định lập trường duy vật vô thần. Ông có quan điểm duy vật khi
giải quyết vấn đề cơ bản của triết học.

2


Ông cho rằng, cội nguồn của thế giới là nguyên tử , là vật chất. Ông đã phát
triển thuyết nguyên tử của Lơxíp – người thầy của ông – lên trình độ mới. Theo
Đêmôcrít bản nguyên của thế giới gồm hai thứ là nguyên tử và chân không. Tất

cả mọi vật đều sinh ra từ nguyên tử. Nguyên tử (atomon) là vật chất nhỏ nhất,
không nhìn thấy được, không phân chia được, không mùi, không vị, không có
âm thanh màu sắc, không nóng lên, không lạnh đi, không khô, không ướt, không
thể bị hủy hoại, và do đó là vĩnh cửu. Chúng đồng nhất về chất, chỉ khác nhau về
hình thức, trật tự và tư thế (hình thức: A, B; trật tự: 123, 213; tư thế: N – Z. M –
W…). Tính muôn màu muôn vẻ của sự vật được quyết định bởi hình thức cấu
tạo, trật tự sắp xếp và tư thế của các nguyên tử khi kết hợp với nhau. Trong
“chân không rộng lớn”, trong không gian vô tận của vũ trụ, những nguyên tử tự
vận động mãi mãi, “rung chuyển về mọi phía”; chúng xô đẩy lẫn nhau và làm
thành một cơn lốc nguyên tử lôi cuốn tất cả những nguyên tử ngày càng tươi
mới. Vận động không tách rời vật chất, vận động của nguyên tử là tự thân, vĩnh
viễn, theo chiều hướng tạo thành những cơn lốc nguyên tử.
Đêmôcrít nêu lên ba bước luận chứng để chứng minh nguyên tử và chân
không là bản nguyên của thế giới:
Thứ nhất, lấy sự vật có thể cảm giác được làm tiêu chuẩn thì sự vật là có
nhiều, vô cùng, vô tận và luôn vận động. Xuất phát từ kinh nghiệm thì chúng ta
có thể chia tách các vật tồn tại, do đó giữa các vật phải có khoảng không, và vì
có khoảng không thì các sự vật mới có thể sinh thành và biến hóa được.
Thứ hai, chia tách phải có điều kiện, điều kiện đó chính là chân không. Vì
nếu không có chân không thì giữa các vật sẽ không có không gian, nếu không có
không gian thì không những sự vật không thể chia tách được mà còn không thể
phát triển được. Do đó chân không là tiền đề cho tồn tại và sự vận động của sự
vật. Tồn tại và chân không có mối quan hệ mật thiết với nhau, không tách rời
nhau. Tồn tại giải thích nguyên tắc hiện hữu của sự vật, chân không giải thích
tính nguyên tắc đa dạng và vấn đề của sự vật.
Thứ ba, nguyên tử là đơn vị nhỉ nhất của tồn tại. Không phải vật nào cũng
có thể làm bản nguyên được mà bản nguyên phải tồn tại bất sinh bất diệt. Mọi sự
vật đều có thể chia tách nhưng không mất đi vì tồn tại không thể biến thành phi

3



tồn tại. Sự vật có thể chi tách nên nó không thể là bản nguyên, nó phải lấy cái
không thể chia tách làm bản nguyên. Cái duy nhất không thể chia tách, bất sinh
bất diệt chính là nguyên tử, vì vậy, nguyên tử là bản nguyên của thế giới.
Trong quan niệm về vũ trụ của ông cũng không có chỗ cho thần thánh.
Trong đó chỉ có những nguyên tử vận động theo những cơn lốc xoáy. Các
nguyên tử cùng loại cố kết với nhau làm thành những vòng lớp nguyên tử, càng
nặng càng ở gần tâm, càng nhẹ càng ở xa tâm. Đất, nước, lửa, không khí là
những vòng ở trung tâm cơn lốc. Từ đó hình thành các hành tinh và trái đất.
Nguyên tử có những tính chất sau:
Một là, lúc ban đầu, nguyên tử lưu động khắp nơi theo mọi hướng trong
không gian, từ những đơn vị đơn độc, chúng va chạm với nhau, gắn kết với nhau
mà hợp thành vạn vật.
Hai là sự lưu động của nguyên tử được Đêmôcrít giải thích à “tính tất
nhiên”. Ông nói “Mọi vật đều sinh ra dựa trên tính tất nhiên”. Tính tất nhiên ở
đây hiểu ngược với nghĩa “tùy tiện” chứ không phải ngược với nghĩa “ngẫu
nhiên”, vì sự lưu động của nguyên tử không theo một trật tự nguyên tắc nào cả.
Ba là, nguyên tử có hình cầu vì “hình cầu là trạng thái vận động dễ dàng
nhất.
Bốn là, vị trí và trật tự sắp xếp các nguyên tử khác nhau sẽ quyết định nên
các sự vật khác khau.
Năm là, chúng ta không thể quan sát được nguyên tử. Bằng quan niệm này
nguyên tử với tư cách bản nguyên thế giới đã được trừu tượng hóa đến cao độ.
Cái ngẫu nhiên là một hiện tượng không có nguyên nhân, là một khái niệm
chủ quan che dấu cái ngu dốt của con người. Khi ta biết được nguyên nhân của
cái ngẫu nhiên thì nó không còn là cái ngẫu nhiên nữa. Thế giới là sự thống nhất
giữa “tồn tại” (phần đặc, phần đầy) và “không-tồn tại” (phần rỗng, chân không,
không gian, hư vô). Không gian có giới hạn. Cảm giác là bước đầu của tri thức,
nhưng cảm giác là nhận thức “mờ tối”, vì nó không cho ta biết được nguyên tử

và chân không. Cần phải có sự tham gia của lý tính vì đó là nhận thức “chân
thực”, tinh tế và sâu sắc hơn. Lý tính lấy “những dẫn chứng” trong cảm giác. Sự
sống phát sinh từ vật thể ẩm ướt gặp nhiệt độ thích hợp. Con người được sinh ra
do quá trình phát triển lâu dài của sinh vật thô sơ.

4


Sinh vật và con người khác với sự vật vì có linh hồn. Linh hồn làm cho
sinh vật vận động. Linh hồn được cấu tạo bởi nguyên tử hình cầu rất nhỏ, vận
động với tốc độ lớn. Linh hồn cũng chết như cơ thể. Thần thánh là do con người
sáng tạo ra (thần Dớt là nhân cách hóa mặt trời, thần Athêna là sự nhân cách hóa
lý tính con người). Mục đích sống của con người là hướng tới tự do hạnh phúc.
Hạnh phúc là ở sự than thản của tâm hồn được tự do, là sự bằng lòng với sự
hưởng lạc vừa phải. Sự bắt chước tự nhiên có một vai trò to lớn trong quá trình
phát triển văn hóa. Nghệ thuật là “sự bắt chước” tự nhiên.
Đêmôcrit là nhà duy vật lớn nhất thời cổ đại, đã dẫn đầu cuộc đấu tranh
chống chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo, xây dựng nên “đường lối Đêmôcrit”.

5


2. Nội dung cơ bản về bản thể luận trong triết học Platôn
Platôn (Platôn, Plato. 427 - 347 TCN) tên thật là Arixtôclét (Aristokles)
sinh tại Eginơ (Egine) một hòn đảo không xa Aten, trong gia đình thuộc dòng
dõi quý tộc. Ông là nhà triết học duy tâm khách quan lớn nhất thời cổ; là học trò
của Xôcrát, tham gia tổ chức triết học do Xôcrát cầm đầu, ủng hộ phái chủ nô
quân chủ, chống lại nền dân chủ chủ nô. Platôn đã thành lập ở Aten một viện
hàn lâm (trường đại học đầu tiên ở châu Âu), một trung tâm triết học duy tâm
chống lại triết học duy vật của Đêmôcrit.

Về mặt bản thể luận, theo Platôn vũ trụ này có hai thế giới là thế giới ý
niệm và thế giới của các sự vật cảm tính (hay cảm biết được bằng giác quan).
Trong đó, thế giới các sự vật cảm tính là không chân thực, không đúng đắn vì
các sự vật không ngừng sinh ra và mất đi, thay đổi và vận động, không ổn định,
bền vững, hoàn thiện; còn thế giới ý niệm là thế giới phi cảm tính phi vật thể, là
thế giới đúng đắn, chân thực, các sự vật cảm biết chỉ là cái bóng của ý
niệm.Theo ông, thế giới của những ý niệm là tồn tại chân thực, vĩnh viễn, tuyệt
đối, bất biến, nó là cơ sở tồn tại của thế giới các sự vật cảm tính. Còn thế giới
các sự vật cảm tính là tồn tại không chân thực, phụ thuộc vào thế giới của các ý
niệm, nó là cái bóng của ý niệm.
Đứng trên lập trường duy tâm thần bí, ông khẳng định rằng, bản nguyên
của thế giới là “thế giới ý niệm”, mà ông gọi là “những ý tưởng có trước”, một
thế giới trừu tượng, bất biến, tĩnh tại, đông lạnh, không có sự sống. Chỉ có chúng
mới tồn tại chân thực. Linh hồn là do thánh tạo ra, có động cơ (“thần tình ái”) và
mục đích rõ ràng. Động cơ và mục đích đã khuyến khích các ý niệm vận động
rồi in dấu ấn vào “không tồn tại”, “hư vô” – cái mà ông gọi là “vật chất” – theo
những “tương quan toán học”, những “hòa điệu” khác nhau mà sinh ra giới tự
nhiên – “thế giới các sự vật cảm tính” muôn hình, muôn vẻ, xấu, đẹp khác nhau.
Thế giới thứ hai, theo Platôn, thế giới các sự vật cảm tính chỉ là sản phẩm
của “thế giới ý niệm”, chỉ là “cái bóng” của chúng nên nó là “tồn tại không chân
thực”. Vì mọi cái trong nó luôn biến đổi, có sinh ra, có mất đi, nó chỉ là cái bóng
của thế giới ý niệm, do thế giới ý niệm quyết định. Ý niệm của Platôn như là
khuôn mẫu để thế giới các sự vật cảm tính mô phỏng theo.

6


Từ quan niệm trên Platônđã đưa ra khái niệm "tồn tại" và "không tồn tại".
Vấn đề tồn tại (bản thể) chiếm vị trí đặc biệttrong triết học Platôn. Tồn tại đích
thực phải là tồn tại như thế nào? Đâu là tồn tại khác, hay “cái bóng của tồn tại”?

Cái gì là cơ sở, nền tảng của mọi tồn tại? “ Theo tôi , -Platônviết , -trước tiên cần
phải phân biệt cái gì luôn luôn tồn tại và không giờ sinh thành và cái gì luôn
luôn sinh thành nhưng không bao giờ tồn tại”."Tồn tại" theo ông là cái phi vật
chất, cái nhận biết được bằng trí tuệ siêu tự nhiên là cái có tính thứ nhất. Còn
"không tồn tại" là vật chất, cái có tính thứ hai so với cái tồn tại phi vật chất.
Như vậy, ông đã có tư tưởng duy tâm khách quan về thế giới, cả hai thế
giới này theo ông đều là sản phẩm của thần.
Platôn là nhà triết học duy tâm khách quan lớn của thời cổ mà về sau nhiều
nhà triết học (trung cổ và cận đại) lặp lại dưới hình thức cải biên. Ông tuyên
truyền cho chế độ cộng hoà quân chủ của chủ nô thượng lưu, chống lại chế độ
dân chủ. Các học thuyết của ông về “ý niệm”, “vũ trụ”, “nhà nước lý tưởng”,
“nhận thức luận”, đạo đức, nghệ thuật, lôgíc học đều được các nhà triết học duy
tâm về sau phát triển thành triết học “Platôn mới” với khẩu hiệu “Hãy trở về với
Platôn”.

7


3. Sự đối lập giữa Đêmôcrit và Platôn về vấn đề bản thể luận
Thông qua nội dung, quan điểm về triết học nói chung và về bản thể luận nói
riêng, có thể thấy, quan điểm của Đêmôcrit và Platôn là hoàn toàn đối lập nhau.
Một bên theo lập trường duy vật và một bên đứng trên lập trường duy tâm. Cuộc
đấu tranh giữa hai đường lối triết học duy vật và duy tâm, giữa lập trường duy
vật vô thần của Đêmôcrít với đường lối triết học duy tâm thần bí của Platôn là
cuộc đấu tranh điển hình trong lịch sử triết học.
Đêmôcrit đứng trên lập trường duy vật vô thần, ông cho rằng khởi nguyên
của thế giới là nguyên tử, là dạng vật chất nhỏ nhất, không thể phân chia được
nữa, nó là cơ sở của thế giới, của sự vật hiện tượng. Nguyên tử này không màu,
không mùi, không vị, không nóng, không lạnh, nó không khác nhau về chất, nó
chỉ khác nhau về hình dáng, về cấu tạo, về tư thế sắp xếp và các nguyên tử này

luôn luôn vận động trong chân không. Các sự vật hiện tượng khác nhau là do sự
liên kết giữa các nguyên tử có hình dáng khác nhau, tư thế khác nhau, cấu tạo
khác nhau. Các nguyên tử vận động không ngừng và chính sự đa dạng của các
nguyên tử tạo nên sự đa dạng của thế giới sự vật và sự hình thành của vũ trụ.
Đêmôcrít là đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa duy vật cổ đại. Thuyết nguyên
tử là cống hiến nổi bật của ông đối với chủ nghĩa duy vật. Ngoài ra ông còn có
nhiều đóng góp quý giá về lý luận nhận thức. Triết học của ông thể hiện tinh
thần của giới chủ nô dân chủ có tư tưởng cấp tiến trong triết học Hy Lạp cổ đại.
Hầu hết các tác phẩm của ông đã bị tiêu hủy, các tư tưởng của ông đều được biết
thông qua các nhà tư tưởng khác.
Đối lập với Đêmôcrit, Platôn đứng trên lập trường duy tâm, ông khẳng định
rằng bản nguyên của thế giới là “thế giới ý niệm”, thế giới ý niệm tồn tại một
cách chân thật, vĩnh cửu và bất biến. Ông chia thế giới thành hai bộ phận là thế
giới ý niệm và thế giới vật cảm tính. Thế giới ý niệm là thế giới có trước và sinh
ra thế giới vật cảm tính. Thế giới vật cảm tính là thế giới không chân thật, không
đúng đắn và luôn luôn thay đổi, là thế giới có sau và là cái bóng của thế giới ý
niệm.
Chính sự triệt để và quyết liệt của sự đấu tranh trong vấn đề bản thể luận
giữa hai nhà triết học thời Hy Lạp cổ đại là cơ sở cho sự đối lập về những vấn đề

8


khác trong triết học cơ bản như quan điểm về sự sống và con người, về vận
động.
Trong quan niệm về sự sống và con người, Đêmôcrít cho rằng: Sự sống và
con người, theo ông, là kết quả tất yếu của tự nhiên phát triển từ thấp đến cao: từ
sự vật tới sinh vật, từ sinh vật tới con người. Con người có linh hồn, còn sự vật
không có linh hồn. Linh hồn của con người được cấu tạo từ những nguyên tử
hình cầu, giống như nguyên tử lửa vận động với tốc độ lớn. Linh hồn mất đi

cùng với sự chết của con người. Như vậy ông đã bác bỏ thuyết linh hồn bất tử
của tôn giáo, chủ nghĩa duy tâm khách quan của Platôn.
Platôn lại cho rằng: Bàn về sự sống của con người, Platôn đưa ra thuyết
linh hồn bất tử. Cơ thể con người do nước, lửa, không khí và đất tạo ra, còn linh
hồn do thần thánh ban nên bất tử. Nô lệ, theo ông không phải là con người, chỉ
là công cụ biết nói, không có linh hồn.
Và trong quan điểm về vận động, tuy Đêmôcrít chưa tìm ra nguyên nhân
của sự vận động và ông còn tách không gian (“không tồn tại”) ra khỏi sự vật,
nhưng ông đã cố gắng giải thích sự vận động gắn với vật chất, vận động có động
cơ tự thân của nguyên tử, còn không gian là điều kiện của vận động. Kết luận
của ông cho rằng thế giới là sự thống nhất giữa tồn tại của nguyên tử với không
tồn tại (không gian) là một kết luận duy vật. Dựa trên sự vận động của nguyên
tử, Đêmôcrít đã khái quát được quy luật nhân quả. Ông nói rằng: “tìm được cách
giải thích hiện tượng theo nguyên nhân của nó còn thích hơn chiếm được ngôi
vua Ba tư”. Trong khi đó, Platôn đi tìm nguyên nhân của sự vận động ở lực
lượng tinh thần, ở “thần tình ái”, ở linh hồn: linh hồn thế giới làm cho vũ trụ vận
động, còn linh hồn riêng biệt làm cho sự vật vận động. Platôn đưa ra thuyết mục
đích luận, cho rằng mọi sự vật được tạo ra phụ thuộc vào mục đích của thần
thánh.
Như vậy, có thể thấy, về vấn đề bản thể luận có sự đối lập hoàn toàn giữa
hai nhà triết học Đêmôcrít và Platôn.

9


III. Nguyên nhân của sự đối lập giữa Đêmôcrit và Platôn về vấn đề bản
thể luận
1. Điều kiện tự nhiên
Triết học Hy Lạp cổ đại chính là cái nôi của nền triết học phương Tây. Đây
là quốc gia rộng lớn, lớn hơn nhiều lần so với đất nước Hy Lạp ngày nay và có

khí hậu ôn hòa. Lãnh thổ bao gồm phần lục địa miền Nam bán đảo Balcans,
miền ven biển phía Tây Tiểu Á và nhiều hòn đảo ở miền Egee. Hy Lạp được
chia làm ba khu vực Bắc, Nam và Trung bộ. Khu vực trung bộ có nhiều dãy núi
ngang dọc và những đồng bằng trù phú, có thành phố lớn như Athens. Nam bộ là
bán đảo Peloponnese với nhiều đồng bằng rộng lớn phì nhiêu thuận lợi cho việc
trồng trọt. Vùng bờ biển phía Đông của bán đảo Balcans khúc khuỷu nhiều vịnh,
hải cảng thuận lợi cho ngành hàng hải phát triển. Các đảo trên biển Egee là nơi
trung chuyển cho việc đi lại, buôn bán giữa Hy Lạp với các nước ở Tiểu Á và
Bắc Phi. Vùng ven biển Tiểu Á là đầu mối giao thương giữa Hy Lạp và các nước
phương Đông. Với điều kiện tự nhiên thuận lợi và tách biệt như vậy nên Hy Lạp
cổ đại sớm trở thành một quốc gia chiếm hữu nô lệ có một nền công thương
nghiệp phát triển, một nền văn hóa tinh thần phong phú đa dạng và cũng là nơi
có quan điểm Triết học phong phú, đa dạng và khác biệt mà điển hình là hai
trường phái triết học của Đêmôcrit và Platôn. Đúng như Ăng-ghen đã từng nhận
xét: “…từ các hình thức muôn hình muôn vẻ của triết học Hy Lạp, đã có mầm
mống và đang nảy nở hầu hết tất cả các loại thế giới quan sau này”.

10


2. Điều kiện kinh tế
Chính sự thuận lợi, đa dạng của điều kiện tự nhiên của Hy Lạp đã dấn đến
sự phát triển và khác biệt giữa điều kiện kinh tế của các vùng lãnh thổ khác nhau
của quốc gia này. Hy Lạp cổ đại nằm ở một vị trí vô cùng thuận lợi về khí hậu,
đất đai, biển cả và lòng nhiệt thành của con người là những tài vật, tài lực vô giá
để cho tư duy bay bổng, mở rộng các mối bang giao và phát triển kinh tế. Vào
thế kỷ VIII – VI TCN, đây là thời kỳ quan trọng nhất trong lịch sử Hy Lạp cổ
đại là thời kỳ nhân loại chuyển từ thời đại đồ đồng sang thời đại đồ sắt. Lúc bấy
giờ đồ sắt được dùng phổ biến, năng xuất lao động tăng nhanh, sản phẩm dồi
dào, chế độ sở hữu tư nhân được cũng cố. Sự phát triển này đã kéo theo phân

công lao động trong nông nghiệp, giữa ngành trồng trọt và ngành chăn nuôi. Tuy
nhiên kinh tế phát triển không đồng đều, mạnh nhất vẫn là vùng Athens – nơi
Đêmôcrit sinh sống và nghiên cứu triết học do đó tư tưởng triết học của ông tiến
bộ hơn rất nhiều. Trái lại với Đêmocrit, Platôn thời kỳ ấy sinh sống tại vùng
bình nguyên, điều kiện kinh tế có phần kém phát triển hơn do đó tư tưởng triết
học của ông theo hướng triết học duy tâm khách quan.

11


3. Điều kiện chính trị
Từ điều kiện kinh tế đã dẫn đến sự hình thành chính trị xã hội, xã hội phân
hóa ra làm hai giai cấp xung đột nhau là chủ nô và nô lệ. Lao động bị phân hóa
thành lao động chân tay và lao động trí óc. Đất nước bị chia phân thành nhiều
nước nhỏ. Mỗi nước lấy một thành phố làm trung tâm. Trong đó, Sparta và
Athens là hai thành phố cổ hùng mạnh nhất, nòng cốt nhất trong lịch sử Hy Lạp
cổ đại. Thành bang Athens – nơi sinh sống của triết gia Đêmôcrít - nằm ở vùng
đồng bằng thuộc Trung bộ Hy Lạp, có điều kiện địa lý thuận lợi nên đã trở thành
một trung tâm kinh tế, văn hóa của Hy Lạp cổ đại, và là cái nôi của triết học
Châu Âu. Tương ứng với sự phát triển kinh tế, văn hóa là thiết chế nhà nước chủ
nô dân chủ Athens. Do vậy tư tưởng triết học của Đêmôcrít theo tư tưởng của
nhà nước chủ nô dân chủ tiến bộ.
Ngược lại, Thành Sparta – nơi Pltôn sinh sống - nằm ở vùng bình nguyên,
đất đai rất thích hợp với sự phát triển nông nghiệp. Chủ nô quý tộc thực hiện
theo lối cha truyền con nối. Chính vì thế Sparta đã xây dựng một thiết chế nhà
nước quân chủ, thực hiện sự áp bức rất tàn khốc đối với nô lệ. Tư tưởng triết học
của Platôn vì đó mà theo tư tưởng của đường lối chính trị của tầng lớp chủ nô
quý tộc, mang tính chất khá cực đoan.
Sau này, do sự tranh giành quyền bá chủ Hy Lạp, nên hai thành phố trên
tiến hành cuộc chiến tranh khốc liệt kéo dài hàng chục năm và cuối cùng dẫn

đến sự thất bại của thành Athens. Đó cũng đánh dấu sự suy tàn của Hy Lạp, mở
ra cơ hội xâm lược của đế chế La Mã, đất nước phía Bắc Hy Lạp. Chính vì thế,
đến thế kỷ II TCN, La Mã chinh phục Hy Lạp, tuy nhiên Hy Lạp lại chinh phục
La Mã về văn hóa. Ngoài ra, trong quá trình buôn bán, trao đổi hàng hóa với các
nước phương Đông như Ai Cập, Babylon, Ấn Độ… người
Hy Lạp cổ đại đã kế thừa được rất nhiều kiến thức của người phương Đông
mà trước hết là kiến thức khoa học tự nhiên.

12


4. Điều kiện tư tưởng
Sự đối lập xuyên suốt trong cách nhìn nhận về bản thể luận của Đêmô crít
và Platôn là hai nhà triết học này đi theo hai trường phái triết học khác nhau đó
là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Chủ nghĩa duy vật là trường phái
triết học xuất phát từ quan điểm: bản chất của thế giới là vật chất; vật chất là tính
thứ nhất, ý thức là tính thứ hai; vật chất có trước quyết định ý thức. Ngược lại,
chủ nghĩa duy tâm là trường phái triết học xuất phát từ quan điểm: bản chất thế
giới là ý thức; ý thức là tính thứ nhất, vật chất là tính thứ hai; ý thức có trước và
quyết định vật chất. Nếu như Đêmôcrít là nhà triết học duy vật điển hình với giả
thuyết sự hình thành vũ trụ thông qua cơn lốc nguyên tử thì trái lại Platôn lại là
nhà triết học Duy tâm khách quan với học thuyết ý niệm. Sự khác biệt giữa hai
chủ nghĩa triết học dẫn đến hai con đường nghiên cứu triết học khác nhau của
hai ông. Từ đó dẫn đến sự mâu thuẫn giữa hai nhà triết học trong cách tiếp cận
bản thể luận trong triết học.

13


KẾT LUẬN

Khi nghiên cứu về vấn đề bản thể luận trong nội dung triết học Hy Lạp thời
kỳ cổ đại, ta có thể thấy được sự khác biệt giữa tư tưởng triết học của hai triết
gia nổi tiếng là Đêmôcrít và Platôn thời kỳ bấy giờ. Sự đối lập này xuất phát từ
những lý do căn bản của nó nhưng cả hai quan điểm triết học này đều có sự tiến
bộ nhất định, góp phần đem lại sự phong phú đa dạng của triết học Hy Lạp cổ
đại, là “mầm mống của hầu hết các loại thế giới quan sau này”. Đáng kể nhất là
sự ra đời chủ nghĩa duy vật mộc mạc, chất phác và phép biện chứng tự phát,
ngây thơ – những hình thức đầu tiên của chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng
trong lịch sử nhân loại.

14


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Giáo trình Triết Học (dùng trong đào tạo trình độ thạc sĩ, tiến sĩ các ngành
khoa học xã hội và nhân văn không chuyên ngành Triết học), Bộ giáo dục
và đào tạo, NXB Đại học Sư phạm, 2014.

2.

Các website:

-



-


o/

-

/>
15



×