Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

tìm hiểu về hiệp định tài trợ và các biện pháp chống tài trợ của wto (hiệp định scm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.43 KB, 24 trang )

KINH TẾ QUỐC TẾ NÂNG CAO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA KINH TẾ & LUẬT


Nhóm 4

Đề tài 4 :
TÌM HIỂU VỀ HIỆP ĐỊNH TÀI TRỢ VÀ
CÁC BIỆN PHÁP CHỐNG TÀI TRỢ CỦA WTO
(HIỆP ĐỊNH SCM)

GVHD : TS. Nguyễn Văn Sơn
Lớp KI11 – Sáng thứ 4


NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
........................................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................................


........................................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................................

Phần I : TỔNG QUAN VỀ HIỆP ĐỊNH TÀI TRỢ VÀ CHỐNG TÀI TRỢ
(HIỆP ĐỊNH SCM)


1.

Hoàn cảnh ra đời của Hiệp định SCM:

Trong một thời gian dài, tài trợ được coi là trở ngại lớn đối với một thị trường hiệu
quả và tự do. Do đó, vấn đề tài trợ đã được đưa vào những cuộc đàm phán đầu tiên của
GATT. Sau nhiều cuộc đàm phán, cuối cùng, GATT đã đưa ra những quy định về những loại
tài trợ có tác động đến thương mại và phương thức để các thành viên GATT có thể đối phó
với những gì mà họ cho là sự hỗ trợ của chính phủ gây tổn hại cho họ. Cách thức này được
gọi là các biện pháp chống tài trợ.
Trong vòng đàm phán Tokyo (1974-1979), vấn đề về sự nhất trí đặc biệt đối với cả
hai điều khoản trên lần đầu tiên được nêu lên. Đối với nhiều nước đang phát triển, tài trợ
vẫn là một công cụ, một thành tố quan trọng trong phát triển kinh tế và xã hội. Quan niệm
này đôi khi trở nên mâu thuẫn nhau giữa các nước phát triển và làm nặng nề thêm những
vấn đề về chính sách thương mại. Các quy định của GATT cũng cho thấy là không thích
hợp để giải quyết những vấn đề nảy sinh từ tài trợ. Bởi vậy, với tinh thần này, các cuộc đàm

phán được bắt đầu bằng việc thỏa thuận về tài trợ.
Trong đó, vòng đàm phán Uruguay là một loạt các cuộc đàm phán thương mại nối
tiếp nhau từ tháng 9 năm 1986 cho đến tháng 4 năm 1994. Đây là vòng đàm phán thứ 8 của
Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT) với sự tham gia của 125 nước.
Vòng đàm phán này mang tính chất lịch sử vì nó đã chuyển GATT thành Tổ chức Thương
mại Thế giới (WTO). Vòng đàm phán này bắt đầu diễn ra tại Punta del Este, Uruguay (vì
thế có tên là Vòng đàm phán Uruguay) và tiếp theo là các cuộc đàm phán tại Montréal,
Genève, Brussel, Washington, D.C. và Tokyo. Cuối cùng, các hiệp định của vòng đàm phán
đã được ký trọn gói tại Marrakesh, Maroc bao gồm một hiệp định về thành lập Tổ chức
Thương mại Thế giới và các phụ lục đi kèm là các hiệp định quy định về các vấn đề khác
nhau trong thương mại quốc tế.
Trong các phụ lục đó, là hiệp định SCM. Điều này đã chứng tỏ tầm quan trọng của
các vấn đề về tài trợ. Trước khi hiệp định này được ký kết, tài trợ vẫn được coi là một công
cụ bảo hộ quan trọng trong thời kỳ suy thoái kinh tế và thất nghiệp cao. Các quan điểm khác
nhau về căn cứ xét tài trợ đã gây ra tình trạng căng thẳng nặng nề trong thương mại thế giới.
Đối với nhiều nước đang phát triển, tài trợ vẫn là 1 công cụ quan trọng để đẩy mạnh phát
triển. Quan điểm một số nước đang phát triển cho rằng tài trợ là 1 thành tố quan trọng trong
phát triển kinh tế và xã hội đã đối nghịch lại với yêu cầu của các nước phát triển đòi phải có
tính trung lập về cạnh tranh thương mại quốc tế. Các quy định của GATT cũng đã bộc lộ là
không thích hợp để giải quyết những vấn đề nảy sinh từ tài trợ. Bởi vậy, hiển nhiên, các
cuộc đàm phán được bắt đầu bằng việc thoả thuận về tài trợ.
Hiệp định SCM đầu tiên có hiệu lực từ năm 1979 và chỉ có một số lượng hạn chế
thành viên của GATT tham gia ký kết. Một đặc điểm quan trọng là, trong cùng một hiệp
định đã nêu lên cả vấn đề tài trợ và những tác động có hại của tài trợ đối với thương mại,
cũng như khả năng bồi thường cho những tác động có hại mà tài trợ gây ra thông qua cái
gọi là các biện pháp chống tài trợ.
Tuy nhiên, hiệp định này - một trong những kết quả của Vòng đàm phán Tokyo - đã
chứng tỏ là rất không hiệu quả và khó diễn giải. Sự không rõ ràng của hiệp định đã dẫn đến



xung đột và các cáo buộc nhau về sự tuỳ tiện khi áp dụng tài trợ của nhà nước và sử dụng
các biện pháp chống tài trợ. Trong giai đoạn cuối của Vòng đàm phán Uruguay (19861994), các bên đã chấp thuận một hiệp định mới với sự tham gia của tất cả các thành viên
tương lai của WTO và có hiệu lực kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1995. Tuy vậy, các điều khoản
vẫn còn hạn chế khi quy định các điều kiện tài trợ hàng hoá. Ngoài ra, còn có những ngoại
lệ cho hàng nông sản và ngành hàng không dân dụng. Vấn đề này quy định đối với hỗ trợ và
các biện pháp chống tài trợ liên quan đến dịch vụ vẫn chưa được giải quyết. Một Uỷ ban
đặc biệt đã được thành lập để tư vấn cho những vấn đề liên quan đến việc vận dụng hiệp
định này.
2.

Mục tiêu của Hiệp định SCM:
Hiệp định SCM ra đời với hai mục tiêu chính:



Thứ nhất, để điều chỉnh việc tài trợ công trong nước của các thành viên.
Thứ hai, hiệp định mô tả chi tiết những tài trợ nào gây hại trực tiếp và gián tiếp
hoặc được coi là phá vỡ ngành, lợi ích thương mại của một thành viên khác mà có
thể là đối tượng áp dụng biện pháp chống tài trợ.

Ngoài ra, Hiệp định SCM có thể làm giảm bớt đáng kể nguy cơ lạm dụng và đánh giá
độc đoán trong việc sử dụng tài trợ và cách thức điều tra tài trợ. Điều này có lợi cho cả các
nước đang phát triển và cả các nước phát triển. Đồng thời với một quy trình khai báo dẫn
đến công khai hơn và kỷ cương hơn trong việc sử dụng tài trợ và các biện pháp chống tài
trợ.
3.

Nội dung chủ yếu của Hiệp định SCM:

Hiệp định SCM là một trong các hiệp định của Tổ chức Thương mại Thế giới

(WTO). Hiệp định được ký cùng với các hiệp định khác của WTO tại Vòng đàm phán
Uruguay. Hiệp định có hiệu lực kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1995.
Hiệp định đưa ra các quy định về việc sử dụng các biện pháp tài trợ cũng như các quy
định về những hành động một thành viên WTO có thể sử dụng để đối phó lại ảnh hưởng của
các biện pháp tài trợ. Theo Hiệp định, một thành viên WTO có thể sử dụng cơ chế giải
quyết tranh chấp của WTO để yêu cầu một thành viên khác rút lại biện pháp tài trợ mà họ
đang áp dụng, hoặc có những phương thức khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của biện pháp tài
trợ đó. Thành viên bị ảnh hưởng cũng có thể thực hiện điều tra riêng của mình và có thể áp
một mức thuế nhập khẩu bổ sung (được gọi là thuế chống tài trợ) đối với hàng nhập khẩu
được tài trợ mà theo kết quả điều tra gây tổn hại đến ngành sản xuất trong nước.
Hiệp định SCM gồm 9 phần chính, 36 điều khoản và 7 phụ lục.
Trong khuôn khổ của Hiệp định SCM, tài trợ được dựa trên ba điều kiện căn bản:



Trước hết, tài trợ phải được xuất phát từ một chính phủ hoặc một cơ quan nhà
nước trong lãnh thổ của một thành viên WT0.
Thứ hai, tài trợ phải là một sự đóng góp tài chính. Sự đóng góp tài chính có thể
là các khoản vay ưu đãi, bảo lãnh vay vốn, giảm thuế, hỗ trợ thu nhập hoặc trợ


giá, cũng như hàng hóa dịch vụ do nhà nước cấp (ngoại trừ dành cho cơ sở hạ
tầng của nhà nước).

a)


Thứ ba, nguồn lợi phải được dành cho một bên tiếp nhận thông qua tài trợ.

Tài trợ :


Khái niệm :

Tài trợ có nhiều cách hiểu và vận dụng khác nhau. Theo Điều 1 Hiệp định SCM, tài
trợ được coi là tồn tại nếu có sự đóng góp tài chính của Chính phủ hoặc một cơ quan công
cộng trên lãnh thổ của một Thành viên và đem lại lợi ích cho đối tượng được nhận tài trợ.


Phân loại:

Căn cứ vào các tiêu chí khác nhau, người ta phân loại tài trợ thành tài trợ chung và tài
trợ riêng; tài trợ trong nước và tài trợ xuất khẩu; tài trợ trực tiếp và tài trợ gián tiếp; tài trợ
nông nghiệp và tài trợ phi nông nghiệp. Tuy nhiên, hiệp định SCM chia tài trợ thành 3 loại
dựa trên mức độ ảnh hưởng đến thương mại của chúng: Tài trợ bị cấm sử dụng, tài trợ có
thể bị đối kháng, tài trợ không bị khởi kiện.


Tài trợ bị cấm:
Theo điều 3-4, phần II, Hiệp định SCM, tài trợ bị cấm gồm những khoản tài trợ
sau:


Khối lượng tài trợ theo luật hoặc trong thực tế, dù là một điều kiện riêng biệt
hay kèm theo những điều kiện khác, căn cứ vào kết quả xuất khẩu



Khối lượng trợ cấp, dù là một điều kiện riêng biệt hay kèm theo những điều
kiện khác, ưu tiên sử dụng hàng nội địa hơn hàng ngoại.


Tài trợ bị cấm là đối tượng của những vụ kiện giải quyết tranh chấp. Điểm nổi
bật là lịch trình giải quyết của Cơ quan Giải quyết tranh chấp (DSB) nhanh gọn,
và nếu cơ quan này nhận thấy rằng khoản tài trợ này là tài trợ bị cấm, ngay lập tức
phải thu hồi lệnh tài trợ. Nếu phán quyết không được thực hiện trong thời gian
quy định, thành viên khiếu nại được quyền áp dụng các biện pháp trả đũa. Đây là
loại tài trợ bị cấm đối với tất cả nước là thành viên của WTO (Khoản 2, điều 3,
Hiệp định SCM).


Tài trợ có thể đối kháng:
Theo điều 5-7, phần III, Hiệp định SCM quy định rằng : Không một thành niên
nào thông qua việc sử dụng tài trợ gây ra tác động có hại đến quyền lợi của thành
viên khác, như gây tổn hại cho một ngành sản xuất nội địa của một thành viên
khác, làm vô hiệu hay gây phương hại đến những quyền lợi mà Thành viên khác
trực tiếp hoặc gián tiếp được hưởng từ Hiệp định GATT 1994 (đặc biệt là những
quyền lợi có được từ những ưu đãi thuế quan có ràng buộc) và gây tổn hại nghiêm
trọng đối với lợi ích của thành viên khác. Hiệp định SCM nêu khá rõ ràng về việc
không áp dụng với những tài trợ được áp dụng với nông sản quy đinh tại Điều 12
Hiệp định nông nghiệp và “Thiệt hại nghiêm trọng” sẽ được xem là tồn tại trong


trường hợp tổng trị giá trợ cấp theo trị giá cho một sản phầm vượt quá 5%. Trong
trường hợp này, bên tài trợ có nghĩa vụ chứng minh rằng những khoản tài trợ đó
không gây ra những thiệt hại nghiêm trọng đối với bên khiếu nại. Những thành
viên bị ảnh hưởng tiêu cực bởi tài trợ có thể đối kháng có thể đưa tranh chấp này
lên cơ quan giải quyết tranh chấp. Trong trường hợp cơ quan giải quyết tranh chấp
đưa ra phán quyết có tồn tại tác động tiêu cực này. Các nước thành viên có thể áp
dụng các hình thức tài trợ này nhưng nếu gây thiệt hại cho nước thành viên khác
hoặc ngành sản xuất sản phẩm tương tự của nước thành viên khác thì có thể bị
kiện ra WTO.



Tài trợ không thể đối kháng:
Tại điều 8-9, phần IV, Hiệp định SCM, tài trợ không thể đối kháng có thể là tài trợ
không mang tính chất riêng biệt tại điều 2 của Hiệp định này hoặc mang tính chất
riêng biệt bao gồm hỗ trợ cho các hoạt động nghiên cứu công nghiệp và hoạt động
phát triển tiền cạnh tranh, hỗ trợ cho các vùng miền khó khăn, hỗ trợ nhắm xúc
tiến nâng cấp những phương tiện hạ tầng hiện có cho phù hợp với yêu cầu mới về
môi trường do luật pháp, hay các quy định đặt ra. Nếu một hành viên cho rằng tài
trợ không thể đối kháng khác sẽ dẫn đến những tác động tiêu cực nghiêm trọng
đến ngành công nghiệp nội địa, thành viên đó có thể áp dụng các hình thức này
mà không bị thành viên khác khiếu kiện (tức là loại tài trợ được phép vô điều
kiện).



Các hình thức tài trợ trong thương mại quốc tế:
Các biện pháp tài trợ trong thương mại quốc tế thường được sử dụng là:





Thưởng xuất khẩu;



Tài trợ thay thế nhập khẩu;




Bù lỗ xuất khẩu;



Ưu đãi tín dụng;



Ưu đãi thuế;



Các hình thức tài trợ khác như cấp lại tiền sử dụng vồn để tái đầu tư, hỗ trợ kinh
phí để xúc tiến thương mại, nghiên cứu khoa học.

Tác động của các biện pháp tài trợ:


Tích cực:
Tài trợ xuất khẩu giúp nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, đẩy mạnh
xuất khẩu; có tác dụng an sinh xã hội. Người tiêu dùng hay các ngành công nghiệp
hạ nguồn sẽ có lợi do mua được hàng hóa cần thiết với giá rẻ hơn.



Tiêu cực:


Tài trợ ngăn cản sự phân bổ tối ưu hiệu quả các nguồn lực quốc gia, có thể gây tổn

hại đến lợi ích xuất khẩu của nước khác. Người tiêu dùng trong nước phải chấp
nhận mua hàng hóa được tài trợ tại nội địa với giá cao.
b)

Biện pháp chống tài trợ :

Khi phát hiện có tài trợ và thiệt hại xảy ra, Chính phủ nước nhập khẩu có thể áp dụng
các biện pháp chống tài trợ như đưa ra một cơ quan giải quyết tranh chấp quốc tế hoặc tiến
hành điều tra đánh thuế chống tài trợ với hàng nhập khẩu được tài trợ.
Một số biện pháp :


Để tránh việc áp dụng biện pháp tài trợ, người xuất khẩu được tài trợ có thể đồng
ý tăng giá xuất khẩu của họ.



Biện pháp tạm thời là biện pháp chống tài trợ áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu
thuộc diện bị điều tra trước khi có kết luận cuối cùng về vụ việc. Biện pháp này
thường được thực hiện khi vụ điều tra có kết luận sơ bộ cho rằng có việc tài trợ
của nước xuất khẩu gây thiệt hại.



Biện pháp cam kết, nếu các nước tự thỏa thuận được thì quá trình điều tra có thể
bị đình chỉ hay chấm dứt mà không cần áp dụng các biện pháp tạm thời.



Đánh thuế chống tài trợ theo quy định của điều 19 hiệp định SCM, trừ khi việc tài

trợ được rút bỏ. Nó được áp dụng trong trường hợp, giả sử sau mọi sự cố gắng
hợp lý để hoàn thành việc tham vấn, một Thành viên xác định chắc chắn rằng có
tài trợ và mức tài trợ, và rằng thông qua tài trợ, hàng nhập khẩu được tài trợ đã
gây ra tổn hại đến ngành sản xuất trong nước. Đây là biện pháp nhằm vào các nhà
sản xuất xuất khẩu nước ngoài được tài trợ.

c)

Thủ tục điều tra và áp dụng đối với thuế chống tài trợ :

Theo Điều VI GATT, “Thuật ngữ thuế chống tài trợ được hiểu là một khoản thuế đặc
biệt áp dụng nhằm mục đích triệt tiêu mọi khoản ưu đãi hay tài trợ dành trực tiếp hay gián
tiếp cho công đoạn chế biến, sản xuất hay xuất khẩu bất cứ hàng hoá nào”.
Thuế chống tài trợ có tác động răn đe đáng kể đối với Chính phủ và nhà sản xuất
nước ngoài. Sử dụng thuế chống tài trợ giúp hạn chế và loại bỏ các tác động tiêu cực của tài
trợ, giúp đảm bảo công bằng thương mại.
Thuế chống tài trợ đem lại nguồn thu cho ngân sách nhà nước; giúp Chính phủ nước
xuất khẩu tránh được việc bảo hộ thái quá hoặc sai đối tượng. Tuy nhiên, doanh nghiêp có
thể bị giảm lượng xuất khẩu và giảm tính cạnh tranh so với các sản phẩm khác; người tiêu
thụ sản phẩm phải mua với giá cao hơn. Nhà sản xuất mặt hàng bị đánh thuế hoặc nhà sản
xuất các mặt hàng trực tiếp cạnh tranh với mặt hàng đó tại nước nhập khẩu sẽ được hưởng
lợi.


Căn cứ điều tra chống tài trợ


Hiệp định SCM quy định cuộc điều tra chống tài trợ trên cơ sở những bằng chứng về
sự tồn tại của tài trợ, thiệt hại gây ra bởi tài trợ và mối quan hệ nhân quả giữa nhập khẩu
được tài trợ và thiệt hại đó.



Khởi kiện

Nộp hồ sơ bằng văn bản của ngành sản xuất sản phẩm tương tự tại nước nhập khẩu,
hoặc của một nhóm các nhà sản xuất đại diện cho ngành đó, cơ quan điều tra của nước nhập
khẩu có thể tự quyết định bắt đầu tiến hành điều tra. Hồ sơ chỉ được coi là thoả mãn yêu cầu
về tính đại diện cho ngành sản xuất liên quan.


Quá trình điều tra

Thời hạn điều tra là 12 tháng, và chỉ được kéo dài tới tối đa là 18 tháng kể từ khi
chính thức bắt đầu điều tra. Các bước gồm:





Quyết định điều tra



Điều tra sơ bộ qua bảng câu hỏi gửi cho các bên liên quan, thu thập, xác minh
thông tin, thông tin do các bên tự cung cấp.



Kết luận sơ bộ: Nếu mức tài trợ thấp hơn mức ngưỡng cho phép hoặc không đủ
bằng chứng thì cơ quan điều tra sẽ chấm dứt điều tra. Mức ngưỡng cho phép là

1% đối với nước thành viên phát triển, là 2% với nước thành viên đang phát triển
và 3% với nước thành viên kém phát triển nhất. Ngược lại, có thể tiếp tục điều tra
tại lãnh tHỗ nước xuất khẩu hoặc tại cơ sở của nhà sản xuất hoặc xuất khẩu nước
ngoài.



Kết luận cuối cùng và áp dụng biện pháp chống tài trợ

Các biện pháp tạm thời

Biện pháp tạm thời có thể dưới hình thức thuế chống tài trợ tạm thời được bảo đảm
bằng một khoản tiền đặt cọc hoặc cam kết nộp với giá trị tương đương với mức tài trợ tạm
tính.


Cam kết

Cam kết là sự tự nguyện giữa các nước, nếu các nước thỏa thuận được thì quá trình
điều tra có thể bị đình chỉ hay chấm dứt mà không áp dụng các biện pháp tạm thời hay thuế
chống tài trợ.


Nguyên tắc áp dụng và rà soát thuế chống tài trợ

Mức thuế chống tài trợ không được cao hơn giá trị tài trợ; áp dụng trên cơ sở không
phân biệt đối xử. Hiệp định SCM quy định thời hạn áp dụng thuế chống tài trợ tối đa là 5
năm kể từ ngày bắt đầu áp dụng hoăc kéo dài thêm 5 năm nếu cơ quan điều tra tiến hành rà
soát thấy vẫn cần áp dụng thuế chống tài trợ.
d)



Các đối xử đặc biệt đối với các thành viên :

Nhóm các Thành viên đang phát triển:


Những ưu đãi này bao gồm: Ưu đãi về việc sử dụng tài trợ bị cấm và phải đình chỉ
điều tra nếu mức “de minimis” không vượt quá 2%, 3% đối với các nước trong Phụ lục VII;
hoặc nếu khối lượng hàng nhập khẩu được tài trợ chỉ chiếm dưới 4% tổng sản phẩm nhập
khẩu hàng hóa tương tự.


Các nước có nền kinh tế chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường:

Đối với các chương trình tài trợ bị cấm, các Thành viên này được loại bỏ dần và điều
chỉnh cho phù hợp trong vòng 7 năm, kể từ ngày Hiệp định WTO bắt đầu có hiệu lực.
Ngoài ra, các chương trình trực tiếp xoá nợ như xoá một khoản nợ Nhà nước hay cấp kinh
phí để thanh toán nợ không coi là tài trợ có thể đối kháng. Ngoài ra, cơ quan điều tra sẽ sử
dụng giá và chi phí sản xuất của hàng hóa tại một nước thứ ba hay một nước thay thế nào
đó để làm cơ sở tính toán cho giá thông thường.
4.

Vai trò của Hiệp định SCM đối với các thành viên WTO:
a)

Vai trò của tài trợ:

Chính phủ các nước thường chủ động tiến hành tài trợ cho các doanh nghiệp và sản
phẩm của nước mình. Điều này nhằm đạt được một số mục tiêu kinh tế - xã hội nhất định

như bảo hộ sản xuất trong nước, hỗ trợ phát triển ngành non trẻ hay ngành trọng điểm của
nền kinh tế, khuyến khích đầu tư, cải thiện thu nhập của nhà sản xuất, bù đắp chi phí đầu tư
ban đầu quá lớn. Hơn thế nữa, nó còn có thể ngăn cản, hạn chế hàng nhập khẩu, tài trợ sản
xuất nội địa; đồng thời còn có thể khiến cho cam kết ràng buộc thuế quan trọng trong khuôn
khổ WTO mất tác dụng, duy trì bảo hộ sản xuất nội địa. Đối với những ngành công nghiệp
non trẻ, bước đầu còn non bé về quy mô, yếu kém về năng lực cạnh tranh thì tài trợ từng
bước nâng cao khả năng cạnh tranh, mở rộng quy mô, góp phần khởi động và đẩy nhanh sự
phát triển của ngành.
Ngoài ra, tài trợ còn góp phần duy trì ổn định công ăn việc làm, hạn chế thất nghiệp,
bảo đảm trật tự và ổn định xã hội, đặc biệt là những khoản tài trợ dành cho các doanh
nghiệp làm ăn thua lỗ, đứng trước nguy cơ đóng cửa, phá sản. Sự hỗ trơ của chính phủ có
thể giúp nhóm này thoát khỏi nguy cơ bị sụp đổ, thúc đẩy doanh nghiệp tái cơ cấu sản xuất,
tự điều chỉnh khả năng thích nghi và cạnh tranh trong thời kì quá độ do những khó khăn mà
môi trường thương mại quốc tế gây ra.
Tài trợ cũng có thể được sử dụng nhằm khuyến khích những ngành sản xuất kém sức
cạnh tranh, giảm công sức dư thừa hoặc rút khỏi những lĩnh vực hoạt động không hiệu quả
hoặc không sinh lời. Nhờ đó, quá trình điều chỉnh cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu lao
động được diễn ra suôn sẻ hơn, góp phần thúc đẩy phân bổ nguồn lực thích hợp, hiệu quả.
Ngoài ra, tài trợ còn làm cho hàng xuất khẩu của nước đó có lợi thế cạnh tranh hơn.
Và đồng thời, tài trợ cũng làm tăng lợi thế cạnh tranh của hàng xuất khẩu được tài trợ so với
hàng xuất khẩu không được tài trợ của các nước khác vào thị trường thứ ba và can ngăn
hàng xuất khẩu của các nước khác vào thị trường này.
b)

Vai trò của các biện pháp chống tài trợ:


Các biện pháp chống tài trợ hay cũng chính là các biện pháp chống tài trợ, theo
GATT, là biện pháp cứu trợ được một nước thực hiện do họ phải chịu thiệt hại vì nước khác
thực hiện tài trợ gây ra.

Cụ thể hơn, GATT quy định rằng, khi hàng nhập khẩu được sản xuất với sự tài trợ thì
bên nhập khẩu có quyền thu thuế chống tài trợ hoặc những biện pháp cứu trợ khác. Thuế
chống tài trợ là loại thuế đặc biệt được thu nhằm mục đích hạn chế việc tài trợ cho hàng hóa
trong khâu chế chế tạo, sản xuất và nhập khẩu. Thuế chống tài trợ còn được gọi là thuế bồi
hoàn hay thuế trả đũa. Khi hàng hóa nhập khẩu được tài trợ trực tiếp hay gián tiếp vượt quá
mực tài trợ,
Mục đích của tài trợ xuất khẩu của các nước xuất khẩu là để tăng khả năng cạnh tranh
của hàng hóa ở nước ngoài. Mục đích của việc thu thuế chống tài trợ của nước nhập khẩu
lại là để những hàng hóa được tài trợ mất khả năng cạnh tranh. Giá thành của hàng hóa nhập
khẩu sau khi đánh thuế sẽ tăng lên, và như vậy sẽ làm giảm hiệu quả của khoản tài trợ mà
hàng hóa này nhận được. Từ đó, nó sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh, khiến cho chúng
không bán được với giá thành thấp hoặc bán phá giá trên thị trường của nước nhập khẩu.
PHẦN II: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG HIỆP ĐỊNH SCM
TẠI VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ NƯỚC
1. Một số quy định của Việt Nam về tài trợ và chống tài trợ:
a)

Hệ thống pháp luật của Việt Nam vế chống tài trợ:

Pháp lệnh về việc chống tài trợ hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam năm 2004: Nghị
định 89/2005/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh chống tài trợ
hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam và các văn bản phụ trợ khác.
Nhằm thực hiện Hiệp định SCM, Việt Nam đã đưa ra 17 chương trình tài trợ, cụ thể:








Ưu đãi thuế nhập khẩu theo tỷ lệ nội địa hóa đối với sản phẩm cơ khí, điện và
điện tử (QĐ 1944/1998/QĐ-BTC ngày 25/12/1998, Thông tư 176/198)
Hỗ trợ triển khai thực hiện các dự án sản xuất sản phẩm công nghiệp trọng
điểm (QĐ 37/2000/QĐ-TTg ngày 24/3/2000, QĐ 19/2001/QĐ-TTg ngày
20/2/2001 và một số thông tư hướng dẫn)
Ưu đãi đầu tư đối với doanh nghiệp trong nước sản xuất kinh doanh hàng xuất
khẩu ( luật khuyến khích đầu tư trong nước năm 1998, Nghị định 51/1999/NĐCP, Nghị định 35/2002/NĐ-CP,Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, Nghị định
164/2003/NĐ-CP)
Ưu đãi đầu tư đối với các doanh nghiệp trong nước hoạt động trong các lĩnh
vực ngành nghề và địa bàn khuyến khích đầu tư (không dựa trên tiêu chí xuất
khẩu hoặc tiêu chí sử dụng nguyên liệu trong nước (Luật khuyến khích đầu tư
trong nước, luật thuế thu nhập doanh nghiệp, nhiều Nghị Định).




















b)

Khuyến khích đầu tư vào hoạt động khoa học công nghệ

Cơ quan thực hiện chống tài trợ





c)

Ưu đãi đầu tư dựa trên tiêu chí xuất khẩu áp dụng cho các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài (Luật đầu tư nước ngoài năm 2000, Luật 65 thuế thu nhập
doanh nghiệp năm 2003)
Ưu đãi đầu tư với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động trong
các lĩnh vực ngành nghề và địa bàn khuyến khích đầu tư ( không dựa trên tiêu
chí xuất khẩu hoặc tiêu chí sữ dụng nguyên liệu trong nước) (Luật đầu tư nước
ngoài năm 2000, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp và một số nghị định)
Ưu đãi về tín dụng đầu tư phát triển dựa trên tiêu chí xuất khẩu (Nghị định
43/1999/ND-CP, Nghị định 106/2004/NĐ-CP, Qđ 133/2001/QĐ-TTg, QĐ
80/2002/QĐ-TTg)
Ưu đãi tín dụng đầu tư phát triển dựa trên tiêu chí sử dụng hàng hóa trong
nước sản xuất (NĐ 43/1999/NĐ -CP, Nghị định 106/2003/NĐ-CP)
Các ưu đãi tín dụng đầu tư phát triển khác của nhà nước ( không thuộc nhóm
ưu đãi về tín dụng để phục vụ xuất khẩu hoặc nội địa hóa sản xuất trong nước)
Hỗ trợ phát triển ngành dệt may (QĐ 55/2001/QĐ-TTg, QĐ 17/2002/QĐ-TTg)
Hỗ trợ xuất khẩu thông qua thường xuất khẩu (QĐ 1116/2003/QĐ-BTM và
QĐ 1462/2003/QĐ-BTM)

Hỗ trợ xúc tiến thương mại thông qua hỗ trợ tìm kiếm thị trường và hỗ trơ kinh
phí thực hiện các hoạt động xúc tiến thương mại khác.
Hỗ trợ đối với mặt hàng cơ khí
Hỗ trợ đối với ngành công nghiệp đóng tàu
Hỗ trợ phát triển thương mại miền núi, hải đảo và vùng đồng bào dân tộc
Hỗ trợ cho các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh gặp khó khăn do các
nguyên nhân khách quan

Cục quản lý cạnh tranh thuộc Bộ Công thương: Chịu trách nhiệm điều tra,
trình kết quả điều tra về đề xuất cách thức xử lý cho cơ quan có thẩm quyền.
Hội đồng xử lý vụ việc chống tài trợ thuộc Bộ Công Thương: Xem xét, nghiên
cứu kết quả điều tra của Cục quản lý cạnh tranh, thảo luận và kiến nghị Bộ
Trưởng Bộ Công thương về cách thức xử lý.
Bộ trưởng Bộ công thương: Quyết định có hoặc không áp dụng biện pháp
chống tài trợ.
Hải quan: có trách nhiệm thu số thuế chống tài trợ tạm thời, hoặc các khoản
bảo đảm thanh toán thuế chống tài trợ

Trình tự, thủ tục điều tra chống tài trợ

Bước 1: Tiếp nhận và thụ lý hồ sơ
Bước 2: Thẩm định hồ sơ
Bước 3: Tổ chức tham vấn:


Bước 4: Quyết định điều tra vụ việc chống tài trợ
Bước 5: Cục quản lý cạnh tranh Thông báo quyết định điều tra vụ việc chống tài trợ
Bước 6: Kết luận sơ bộ
Bước 7: Quyết định áp thuế chống tài trợ tạm thời:
Bước 8: Áp dụng biện pháp cam kết

Bước 9: Kết luận cuối cùng
Bước 10: Quyết định của Hội đồng xử lý vụ việc chống tài trợ
Bước 11: Khiếu nại quyết định áp dụng thuế chống tài trợ
Thời hạn điều tra để áp dụng biện pháp chống tài trợ là không quá 12 tháng, kể từ
ngày có quyết định điều tra trong trường hợp đặc biệt bộ trưởng Bộ Công thươngng có thể
quyết định nhưng trong thời gian không quá 6 tháng.
2. Tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam từ sau khi kí kết Hiệp định SCM:
Sự kiện Việt Nam chính thức trở thành thành viên Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO) vào ngày 11/01/2007 đánh dấu một mốc phát triển trong lĩnh vực ngoại thương của
Việt Nam.
Số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan ghi nhận tổng giá trị xuất nhập khẩu hàng
hóa của Việt Nam năm 2007 đã tăng mạnh 31,3%, mức tăng về số tương đối cao nhất trong
giai đoạn 2003-2012, tương đương tăng 26,52 tỷ USD so với năm 2006.
Sau 6 năm là thành viên của WTO, thương mại hàng hóa của Việt Nam trong năm
2012 đã đạt 228,31 tỷ USD, cao gấp hơn 2 lần so với kết quả thực hiện của năm 2007.
Trước đó xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam đã cán mốc 200 tỷ USD vào những
ngày cuối cùng của năm 2011.
Biểu đồ: Thống kê xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam
5 năm trước và sau khi gia nhập WTO


Nguồn: Tổng cục Hải quan
Sự phát triển về ngoại thương hàng hóa của Việt Nam không chỉ được thể hiện bằng
mức tăng trưởng của kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu và còn được khẳng định qua bảng
xếp hạng về giao dịch thương mại hàng hóa của Việt Nam qua các năm.
Theo xếp hạng của Tổ chức Thương mại Thế giới, thứ hạng của Việt Nam xét theo
kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa trong năm 2002 lần lượt ở vị trí 48 và 43 trên
toàn thế giới. Tuy nhiên, cho đến năm 2012, cũng theo nguồn số liệu của WTO thì thứ hạng
xuất khẩu hàng hóa của nước ta đã được tăng 11 bậc và xếp ở vị trí thứ 37 trong số các
nước, vùng lãnh thổ trên toàn thế giới, trong khi nhập khẩu của Việt Nam cũng được tăng 9

bậc và xếp ở vị trí thứ 34.
Bảng: Thứ hạng xuất khẩu, nhập khẩu của Việt Nam trên toàn thế giới
theo thống kê của Tổ chức Thương mại thế giới giai đoạn 2003-2012
Năm

200
2

200
3

200
4

200
5

200
6

200
7

200
8

200
9

201

0

Xuất khẩu

48

50

50

49

50

50

50

40

40

41

37

Nhập
khẩu

43


42

44

44

44

41

42

36

34

33

34

2011 2012

Nguồn: wto.org
3. Cơ hội và thách thức của Việt Nam khi tham gia Hiệp định SCM:
a)

Cơ hội:



Một là, việc bãi bỏ một số tài trợ sẽ làm cho doanh nghiệp phải tự bơi bằng
thực lực, phải tự cải thiện mình nếu không sẽ bị loại khỏi cuộc cạnh tranh.
Nhất là trong hoàn cảnh thuế nhập khẩu giảm, một số mặt hàng còn có thể
được tài trợ và bán phá giá vào thị trường Việt Nam. Điều này có tác dụng đưa
nền kinh tế nước ta phát triển nhanh và rộng khắp, theo đó, tạo thêm nhiều
công ăn việc làm, góp phần xóa đói giảm nghèo.



Hai là, việc áp dụng hiệp định SCM khiến hàng hóa nước ngoài “tự do” hơn
khi tham gia thị trường Việt Nam.Trước hết, là do thuế nhập khẩu giảm,giá bán
của các sản phẩm này cũng trở nên “mềm” hơn và nằm trong khả năng mua
sắm của người dân. Thêm vào đó, khi bãi bỏ tài trợ cho các mặt hàng nội địa,
các mặt hàng này sẽ tăng giá, làm cho sức ép cạnh tranh xét về mặt giá cả sẽ
giảm rõ rệt đối với các mặt hàng ngoại cùng loại. Điều này khiến cho người


dân được lợi, vì có thể tiếp cận với các mặt hàng tốt hơn mà giá cả chênh lệch
nằm trong khoảng có thể chấp nhận được.

b)



Ba là, việc cắt giảm chi ngân sách cho tài trợ sẽ tiết kiệm một khoản đáng kể
cho Chính phủ. Tuy đã nói ở trên, tài trợ cho một ngành, một doanh nghiệp nào
đó có thể không lớn, nhưng cộng tất cả lại là một con số không hề nhỏ. Do đó
tiết kiệm được khoản này khiến cho Chính phủ có thể đầu tư nhiều hơn vào các
chương trình khác nhằm phát triển sản xuất, phát triển xã hội.




Bốn là, chúng ta phải nhắc đến tác động hai mặt của hiệp định SCM. Nó quy
định nhiệm vụ cho các nước thành viên, đồng thời cũng có kèm theo những
điều khoản bảo vệ quyền lợi của các nước này. Việt Nam không chỉ phải tuân
theo quy định, mà bên cạnh đó, còn có thể dùng chính các quy định này để bảo
vệ chính mình trong khi vươn ra thế giới.

Thách thức:


Thứ nhất : sẽ có nhiều doanh nghiệp bỡ ngỡ do đó gặp nhiều khó khăn trong
chính sách sản xuất, chính sách giá cả…



Thứ hai : hàng nước ngoài có thể chiếm tỉ lệ lớn trong thị phần nội địa, nếu
không chịu được cạnh tranh, nền kinh tế nội địa sẽ bị biến thành sân sau cho
nước ngoài.
Với Việt Nam chúng ta, kể từ khi trở thành thành viên chính thức của WTO,
theo lộ trình cắt giảm hàng rào thuế quan của tổ chức này, mức thuế nhập khẩu
của rất nhiều loại hàng hóa đã bị cắt giảm lớn, thậm chí ở mức thuế suất bằng
0.



Thứ ba : khi các doanh nghiệp làm ăn ở nước ngoài sẽ dễ bị kiện hơn rất
nhiều, gây tổn thất cho doanh nghiệp nói riêng, và cho nền kinh tế nói chung.
Trong các vụ kiện bán phá giá cá tra, cá ba sa ầm ĩ một thời gian dài, một trong
những luận điểm Mỹ đã “bám” chắc vào đó là “nền kinh tế Việt Nam không

phải là nền kinh tế thị trường do còn tài trợ…”.Yếu tố này cùng với nhiều
nguyên nhân khác đã khiến cho lợi thế nghiêng hẳn về phía Mỹ. Còn chúng ta
đành phải chịu thua kiện và học được bài học đắt giá về “nền kinh tế thị
trường” và “tài trợ”.



Thứ tư : không chỉ nền kinh tế phải tìm cách thích ứng đối với tình hình mới,
các bộ luật trong nước cũng phải thay đổi cho phù hợp với quy định chung.
Đây là một vấn đề đòi hỏi nhiều thời gian, tiền bạc, và đôi khi là những cái giá
cực kì đắt phải trả cho những chính sách, điều luật mới không hợp lý…
Hơn nữa, trên lí thuyết có nói là bỏ tài trợ bị cầm, nhưng trên thực tế Chính
phủ không thể hoàn toàn “đem con bỏ chợ” mà phải nghĩ cách “lách”, giúp đỡ
ít nhiều. Đó cũng là một vấn đề cần xem xét trong tình hình mới.

4. Một số vụ kiện về chống tài trợ ở Việt Nam:




Vụ kiện chống tài trợ đối với mắc áo thép

Ngày 29/12/2011, Công ty M&B Metal Products (Leeds, AL), Công ty Innovative
Fabrication/Indy Hanger (Indianapolis, IN) và Công ty Mắc áo Hoa Kỳ (Gardena, CA) đã
đệ đơn tới DOC yêu cầu cơ quan này khởi xướng điều tra chống bán phá giá, chống tài trợ
đối với các sản phẩm mắc áo bằng thép nhập khẩu từ Việt Nam và điều tra chống bán phá
giá đối với hàng nhập khẩu này từ Đài Loan.
Ngày 18/01/2012: Khởi xướng điều tra. Ngày 22/02/2012, ITC ra phán quyết sơ bộ
về việc lựa chọn Tổng công ty Cổ phần XK Đông Nam Á Hamico làm đại diện bị đơn bắt
buộc. Công ty sẽ phải hoàn tất hồ sơ đối với vụ kiện tài trợ trước ngày 19-3-2012.



Sản phẩm bị điều tra:
Sản phẩm mắc áo bằng thép được sử dụng trong các ngành may mặc, giặt là.
Sản phẩm mắc áo thép được làm từ dây thép cacbon, không tính tới việc có được
sơn hay mạ, có được bọc nhựa hay các chất liệu tương tự.
Sản phẩm thuộc phạm vi điều tra không bao gồm (a) các mắc áo được làm từ
gỗ, nhựa hoặc các chất liệu khác mà không phải là dây thép; (b) mắc áo bằng thép
gắn móc xoay; (c) các mắc áo bằng thép có kẹp cố định; và (d) các mắc áo bằng
thép mạ chrome với đường kính lớn hơn 3.4mm. Sản phẩm mắc áo bằng thép có
mã HS: 7323.99.9060; 7326.20.0020 và 7323.99.9080.



Biên độ phá giá bị cáo buộc:
 117.48% - 220.60% đối với hàng nhập khẩu từ Việt Nam




18.90% - 125.43% đối với hàng nhập khẩu từ Đài Loan

Bất lợi của Việt Nam trong vụ kiện này:
Đối với một ngành chưa từng có kinh nghiệm kháng kiện chống bán phá
giá, chống tài trợ như ngành thép thì việc trong một khoảng thời gian ngắn (3
tháng) phải đối phó liên tiếp với bốn vụ kiện đối với hai nhóm sản phẩm cùng
ngành là điều khó khăn. Trong khi đó, các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu mặt
hàng mắc áo thép ở Việt Nam đều là các doanh nghiệp vừa và nhỏ nên hệ thống kế
toán chứng từ thường không đạt tiêu chuẩn và nguồn lực dành cho những vụ kiện
như thế này cũng không có nhiều để theo kiện đầy đủ và hiệu quả.

Ngành thép Hoa Kỳ có "truyền thống" bảo hộ rất mạnh thông qua các biện
pháp phòng vệ thương mại: Trong số 365 vụ điều tra phòng vệ thương mại của
Hoa kỳ tính đến tháng 6/2011 thì có tới 136 vụ điều tra - tức là hơn 1/3 số vụ liên
quan đến thép và các sản phẩm từ thép. Trong đó, sản phẩm mắc áo thép đã từng
bị Hoa Kỳ điều tra chống bán phá giá đối với hàng nhập khẩu từ Trung Quốc (năm
2007) cũng bắt nguồn từ đơn kiện do Công ty M&B Metal Product đệ trình; kết
quả là sản phẩm mắc áo thép của Trung Quốc bị áp thuế chống bán phá giá
15.44% - 186.98%.
Mắc áo thép Việt Nam đã từng bị kiện phòng vệ thương mại tại Hoa
Kỳ. Năm 2010, sản phẩm mắc áo thép Việt Nam đã từng bị Bộ Thương mại Hoa


Kỳ tiến hành điều tra chống lẩn tránh thuế chống bán phá giá, xuất phát từ nghi
ngờ hàng mắc áo thép từ Trung Quốc được chuyển qua Việt Nam và lấy xuất xứ
sản phẩm của Việt Nam để lẩn tránh thuế chống bán phá giá hiện đang áp dụng
đối với Trung Quốc. Kết quả của vụ điều tra này không áp dụng cho toàn bộ các
sản phẩm mắc áo thép của Việt Nam nói chung, mà chỉ áp dụng kết quả đối với
các bị đơn bắt buộc của vụ kiện. Mặc dù vậy, vụ điều tra này cũng đã tạo ra một
tiền lệ không tốt cho sản phẩm mắc áo thép Việt Nam khi xuất khẩu vào thị trường
Hoa Kỳ (sẽ bị chú ý nhiều hơn và rủi ro bị kiện phòng vệ cao hơn).
Riêng đối với vụ kiện chống tài trợ, rủi ro và phạm vi tác động có thể vượt
ra ngoài phạm vi của sản xuất mắc áo thép, như có thể áp dụng cùng lúc (hoặc có
những điểm tương đồng với các chương trình khác) cho nhiều sản phẩm khác
trong ngành hoặc thậm chí với nhiều ngành. Do đó kết quả kháng kiện chống tài
trợ ở vụ thép có thể sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả các vụ kiện chống tài trợ
trong tương lai ở Hoa Kỳ đối với hàng hóa xuất khẩu Việt Nam. Vì vậy dù ống
mắc áo thép không phải là mũi nhọn xuất khẩu của Việt Nam, việc kháng kiện
chống tài trợ trong vụ việc này vẫn cần phải được thực hiện cẩn trọng, tránh tạo ra
những "án lệ" bất lợi cho Việt Nam trong tương lai.



Kết quả :
Đối với vụ việc chống tài trợ, DOC khẳng định rằng, hai doanh nghiệp bị
đơn bắt buộc của Việt Nam là Tổng Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Đông Nam
Á Hamico (Hamico) và Công ty TNHH công nghiệp móc áo Cao Quý (Cao Quý)
đều đã nhận được các khoản tài trợ trái với quy định của WTO từ Chính phủ.
Các khoản này gồm: Ưu đãi tiền thuê đất; Ưu đãi thuế thu nhập doanh
nghiệp; Ưu đãi thuế xuất nhập khẩu; Ưu đãi cho vay xuất khẩu.
Từ những căn cứ này, DOC đã xác định biên độ tài trợ với từng bị đơn, cụ
thể: Công ty Hamico 21,25% biên độ tài trợ sơ bộ và 31,58% biên độ tài trợ cuối
cùng; Công ty Cao Quý 11,03% biên độ tài trợ sơ bộ và 90,42% biên độ tài trợ
cuối cùng. Mức xác định trên toàn quốc là 16,14% biên độ tài trợ sơ bộ và 31.58%
biên độ tài trợ cuối cùng.
Riêng đối với bị đơn Cao Quý, do doanh nghiệp này đã rút lui vụ kiện tại
thời điểm thẩm tra nên DOC đã sử dụng “dữ liệu sẵn có bất lợi” để tính toán biên
độ tài trợ nên công ty Cao Quý đã bị áp mức thuế rất cao.
Trong vụ việc chống tài trợ, DOC kết luận rằng các nhà sản xuất và xuất
khẩu Việt Nam được hưởng lợi từ khoản tài trợ xuất khẩu. Vì vậy, theo quy định
pháp luật Hoa Kỳ, DOC sẽ phải điều chỉnh mức thuế chống bán phá giá có tính
đến các khoản tài trợ xuất khẩu này.


Theo thông lệ, DOC sẽ yêu cầu các khoản đặt cọc bằng tiền mặt trong vụ
việc chống bán phá giá bằng với biên độ phá giá trừ đi 6,17% (là mức tài trợ xuất
khẩu).
DOC sẽ ra lệnh tiếp tục dừng việc thanh khoản đối với các lô hàng và yêu
cầu phải nộp khoản tiền đặt cọc tương đương với mức thuế chống tài trợ cuối
cùng nếu Ủy ban thương mại Quốc tế Hoa Kỳ (ITC) đưa ra quyết định là có thiệt
hại đối với ngành sản xuất mắc áo trong nước.
Đối với vụ việc chống bán phá giá đối với mặt hàng mắc áo bằng thép,

DOC xác định mức thuế chống bán phá giá riêng rẽ đối với bị đơn gồm Công ty
TNHH CTN, Công ty TNHH Ju Fu và Công ty mắc áo Triloan là 135,81% biên độ
phá giá sơ bộ, 157,00% biên độ phá giá cuối cùng.
Do bị đơn TJ Group rút lui khỏi cuộc điều tra nên đã được DOC đưa vào
danh sách các doanh nghiệp phải chịu thuế suất toàn quốc (cao hơn thuế suất riêng
rẽ rất nhiều).
Doanh nghiệp bị đơn bắt buộc Hamico cũng không được áp thuế suất riêng
dành cho bị đơn bắt buộc do Hamico đã không hoàn thành việc trả lời những bản
câu hỏi của DOC, theo đó Hamico cũng phải chịu thuế suất toàn quốc.


Ngoài ra còn có một vụ kiện chống tài trợ khác :


Vụ kiện chống tài trợ với túi nhựa PE
Ngày 4/5/2010: Biên độ tài trợ cuối cùng được áp dụng cho công ty API là
52,56%; với Fotai là 5,28%; với Chin sheng là 0,44%; với các công ty khác của
Việt Nam là 5,28%.



Vụ kiện chống tài trợ đối với tuabin điện gió
Ngày 29/12/2011 Liên minh Thương mại Tháp điện gió Hoa Kỳ yêu cầu khởi
xướng điều tra chống bán phá giá và chống tài trợ. 18/01/2012, Bộ Thương mại
Hoa Kỳ quyết định chỉ khởi xướng điều tra chống bán phá giá mà không điều tra
chống tài trợ.



Vụ kiện chống tài trợ đối với ống thép

Ngày 27/03/2012, DOC sơ bộ quyết định mức thuế suất cho 2 bị đơn bắt buộc của
Việt Nam là 0,04% (mức không đáng kể) và 8,06%. Mức thuế suất dành cho các
nhà sản xuất/xuất khẩu khác là 8,06%.



Vụ kiện Ống dẫn dầu (Oil Country Tubular Goods)
Đây là vụ kiện chống bán phá giá và chống tài trợ do Cơ quan Biên mậu Canada
(Canada Border Services Agency) khởi xướng ngày 21/07/2014 đối với sản phẩm
ống dẫn dầu nhập khẩu từ Việt Nam và một số quốc gia khác căn cứ vào đơn kiện
mà cơ quan điều tra nhận được ngày 29/04/2014 trước đó.


Các quốc gia cùng là bị kiện gồm có: Ấn Độ, Indonesia, Philippines, Thái Lan,
Thổ Nhĩ Kỳ, Ukraina, Việt Nam và Đài Loan (riêng Đài Loan không bị kiện
chống tài trợ trong vụ việc này).
5. Kinh nghiệm cho Việt Nam :


Kinh nghiệm để phòng tránh một vụ kiện chống tài trợ

Doanh nghiệp nên đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, tránh phát triển quá nóng một
thị trường, tăng cường cạnh tranh bằng chất lượng và giảm dần việc cạnh tranh bằng giá…


Kinh nghiệm đối phó với các vụ kiện chống tài trợ

Doanh nghiệp phải phối hợp với cơ quan chức năng trong thủ tục điều tra vì nếu
doanh nghiệp từ chối hợp tác với cơ quan điều tra thì sẽ bị áp dụng các thông tin có sẵn,
thường rất bất lợi cho doanh nghiệp.

Các doanh nghiệp phải tìm hiểu kĩ lưỡng quy trình, thủ tục, thời hạn của cuộc điều tra
nhằm đáp ứng đầy đủ và kịp thời yêu cầu của cơ quan điều tra.
Chuẩn bị thông tin sẵn sàng để cung cấp và chứng minh cho cơ quan điều tra khi cần
thiết.
Cần có sự liên kết với các doanh nghiệp khác vì biên độ chống phá giá được tính gộp
bởi nhiều doanh nghiệp xuất khẩu. Hơn nữa, nếu doanh nghiệp bị kết luận có hành vi bán
phá giá, thuế chống bán phá giá sẽ được áp dụng cho toàn bộ sản phẩm tương tự xuất khẩu
từ Việt Nam, bất kể do doanh nghiệp nào xuất khẩu.
Khởi kiện tại toà án của nước điều tra. Để khởi kiện, doanh nghiệp cần phải có sự hỗ
trợ từ luật sư để chuẩn bị tốt nhất những chứng cứ và lập luận bảo vệ rằng, việc doanh
nghiệp bị áp thuế chống bán phá giá là không hợp lý.
6. Pháp luật của một số nước về chống tài trợ:
Nội dung
Hoa Kỳ
Hệ thống văn Hiện nay, hai văn bản pháp lý cơ
bản pháp luật bản điều chỉnh vấn đề thuế chống
tài trợ của Hoa Kỳ là Luật Thuế
quan 1930 và Luật về các Hiệp
định của Vòng đàm phán Uruguay
(URAA) áp dụng từ 1995.

EU
Hiện nay quy định pháp lý chủ yếu
của EU về tài trợ và thuế chống tài
trợ được tập trung ở Quy định của
Hội đồng số 2026/97 ngày
6/10/1997 về bảo vệ sản xuất nội
bộ khối chống lại hàng nhập khẩu
được tài trợ từ các nước ngoài
khối và Hướng dẫn tính toán mức

độ tài trợ của các nước ngoài khối
trong các cuộc điều tra để đánh
thuế chống tài trợ. Về cơ bản, các
quy định này có nội dung dựa trên
nền tảng các quy định của Hiệp
định SCM.


Xác định mức Hoa Kỳ sử dụng phương pháp
độ tài trợ
“chọn mẫu ngẫu nhiên” trong việc
lựa chọn các bị đơn bắt buộc.
Ngoài ra, mức trợ cấp không đáng
kể “de minimis” chỉ áp dụng trong
giai đoạn điều tra, còn khi rà soát
lại thuế chống tài trợ thì áp dụng
mức 0,5%.

Xác định mức
độ thiệt hại

Theo luật Hoa Kỳ, thiệt hại vật chất
phải là những thiệt hại có nguyên
nhân từ tài trợ hữu hình và có quy
mô đáng kể.
Các quy định Phần lớn các quy định về áp dụng
về chống tài thuế chống tài trợ của Hoa Kỳ
trợ
tương đồng với WTO.
Hoa Kỳ quy định thêm sẽ áp dụng

thuế chống tài trợ nếu tài trợ gây
thiệt hại bằng việc làm chậm việc
hình thành ngành sản xuất.
Quy định về những thông tin cần
cung cấp trong hồ sơ, các thông tin
về tài trợ và thiệt hại...
Mức ngưỡng tài trợ khi rà soát lại
áp dụng mức 0,5%.
Nhà bán buôn hoặc hiệp hội gồm
đa số các nhà bán buôn sản phẩm
tương tự của Hoa Kỳ cũng được
coi là bên liên quan.
Trình tự và thủ Hoa Kỳ quy định hồ sơ đề nghị chi
tục áp dụng tiết hơn so với Hiệp định SCM.
thuế chống tài Các bên liên quan cũng có điểm cụ
trợ
thể hơn và mở rộng hơn. Thời
gian cho một vụ kiện là 212 ngày
và chỉ có hiệu lực khi cả ITA và
ITC đều đưa ra phán quyết. Hoa
Kỳ xác định mức thuế cụ thể cho
từng nhà xuất khẩu. Đối với những
nhà xuất khẩu không được điều tra

EU không đánh thuế chống tài trợ
đối với nhà xuất khẩu hợp tác với
EU trong quá trình điều tra nếu
biên độ trợ cấp bằng hoặc thấp
hơn mức “de minimis”. Nếu một số
nước có mức cao hơn, EU sẽ tính

biên độ tài trợ chung cho nước xuất
khẩu. EU đánh thuế chống tài trợ
còn dựa trên căn cứ về lợi ích của
Khối trong việc đánh thuế chống
tài trợ.
EU không định nghĩa khái niệm
“thiệt hại đáng kể” mà nêu ra danh
sách các căn cứ để xác định sự tồn
tại của nó.
Ngoài 3 điều kiện theo quy định
của WTO, EU còn có thêm điều
kiện: lợi ích của Khối trong việc
đánh thuế chống tài trợ (nghĩa là
phải có đa số các nước thành viên
tán thành).
Định nghĩa về tài trợ của EU tương
tự như trong Hiệp định SCM. Tuy
nhiên, EU còn cho phép đánh thuế
chống tài trợ cả đối với người chế
biến (tạo thành phẩm) chứ không
chỉ nhà sản xuất – là người nhận
được tài trợ (tạo nguyên liệu).

Cơ quan điều tra của EU linh hoạt
hơn của Hoa Kỳ. Cả quá trình điều
tra một vụ chống tài trợ của EU
(chưa bao gồm quá trình điều tra rà
soát sau khi áp thuế) kéo dài
khoảng 12 tháng hoặc hơn.
Cơ quan điều tra

Uỷ ban châu Âu (EC): điều tra,
soạn thảo các quyết định cho phép
đánh thuế chống tài trợ và được


riêng, Hoa Kỳ áp dụng mức bình quyền quyết định đánh thuế chống
quân của các mức thuế cụ thể đã tài trợ tạm thời.
xác định.
Hội đồng Bộ trưởng EU: quyết
định đánh thuế chống tài trợ dựa
Cơ quan điều tra
trên đề xuất của EC sau khi tham
Phòng Nhập khẩu thuộc Cục vấn Uỷ ban Tư vấn.
Thương mại Quốc tế của Bộ Uỷ ban Tư vấn của EU: có trách
Thương mại Hoa Kỳ (DOC): xác nhiệm tổ chức các cuộc tham vấn
định sự tồn tại của tài trợ nước nội bộ liên quan đến quyết định
ngoài cho hàng nhập khẩu, mức độ đánh thuế chống tài trợ.
(giá trị) tài trợ và mức thuế chống
tài trợ sẽ được áp dụng.
Uỷ ban Thương mại quốc tế (ITC):
xác định thiệt hại.
Tòa Thương mại Quốc tế của Hoa
Kỳ chịu trách nhiệm xét xử.
Một số vấn đề Hoa Kỳ xác định mức thuế cụ thể
khác
cho từng nhà xuất khẩu/nhà sản
xuất bị điều tra riêng. Nếu không
được điều tra riêng thì sẽ áp dụng
mức thuế bình quân gia quyền của
các mức thuế cụ thể trên .

Nếu tiến hành điều tra đồng thời cả
về tài trợ và bán phá giá đối với
cùng một sản phẩm thì ITC phải
tuân thủ trước tiên thời hạn quy
định của điều tra về tài trợ.
Tài trợ ngược dòng: là một loại tài
trợ có thể bị đánh thuế dành cho
nguyên vật liệu đầu vào dùng để
sản xuất các sản phẩm đang được
điều tra.

Chỉ nên đánh thuế ở mức thấp hơn
nếu đã đủ để loại bỏ thiệt hại gây ra
cho ngành sản xuất liên quan.
Cho phép “chọn mẫu” trong trường
hợp số lượng các bên liên quan
hoặc các giao dịch quá lớn.
Hình thức đặc biệt khác của rà soát
là điều tra “chống né tránh” được
tiến hành trong trường hợp thuế
chống tài trợ áp dụng đã không
phát huy được tác dụng như mong
muốn.
Ngoài ra, EU còn có một số quy
định rộng và chi tiết hơn quy định
SCM như : điều tra bồi hoàn thuế
chống tài trợ được tiến hành giống
như điều tra giữa kỳ; phương pháp
tính giá trị tài trợ để áp dụng thuế
chống tài trợ của EU…


PHẦN III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THỰC HIỆN HIỆU QUẢ
HIỆP ĐỊNH SCM TẠI VIỆT NAM
1. Xu hướng giải pháp chung


Giảm dần tín dụng hỗ trợ xuất khẩu:


Theo Nghị định về tín dụng hỗ trợ xuất khẩu được Chính phủ ban hành, trong giai
đoạn vừa qua (2006-2010) đã có 10 nhóm hàng hóa, dịch vụ được khuyến khích xuất khẩu,
nhưng lượng mặt hàng được hỗ trợ tín dụng xuất khẩu đã và sẽ giảm dần qua nhiều giai
đoạn. Cụ thể:





Các nhóm hàng hóa nông nghiệp và thực phẩm chế biến (trong đó có cá, rau quả và
hàng thủy sản), nhóm hàng công nghiệp tiêu dùng (bao gồm hàng dệt, sợi, vải các
loại) và sản phẩm may mặc, giày dép; xe đạp 2 bánh và phụ tùng xe đạp không còn
nằm trong danh mục hàng hóa, dịch vụ khuyến khích xuất khẩu.
Bên cạnh đó, nhóm hàng thủ công mỹ nghệ, hàng điện tử và máy vi tính; dây và cáp
điện các loại cũng sẽ không được hỗ trợ tín dụng xuất khẩu.
Chấm dứt hỗ trợ xuất khẩu tất cả những mặt hàng như tàu biển xuất khẩu; dịch vụ
phần mềm, công nghệ thông tin; dịch vụ nhà thầu xây dựng; dịch vụ tư vấn thiết kế;
giám sát và nhóm các mặt hàng cơ khí,…

Giải pháp đưa ra là phải thay đổi cơ bản cơ cấu của nhiều ngành và các tổ chức liên
quan nhằm thích ứng với việc cắt giảm hỗ trợ tín dụng xuất khẩu nhiều nhóm hàng, đặc biệt

thay đổi mạnh mẽ trong hoạt động tín dụng ưu đãi của các quỹ hỗ trợ xuất khẩu.
Đặc biệt, cần loại bỏ tất cả các tài trợ cấp phát trực tiếp từ ngân sách nhà nước; cải
cách các ưu đãi đầu tư, ưu đãi về tín dụng, thuế theo nguyên tắc minh bạch, không phân biệt
đối xử, áp dụng thống nhất từ trung ương đến địa phương, tập trung hỗ trợ những ngành
hàng ưu thế (như nông sản, thuỷ sản, hạt tiêu, hạt điều, gạo, hàng thủ công mỹ nghệ, hàng
mây tre lá...) hay những thị trường thế mạnh (thị trường Đông Âu truyền thống, thị trường
Trung Quốc, Nhật Bản, EU, Hoa Kỳ...). Việt Nam cũng cần chú ý phát triển các hình thức
tài trợ thuộc hộp xanh như: tài trợ cho hoạt động nghiên cứu và phát triển hay cho hoạt
động bảo vệ môi trường, phát triển khu vực...
Là một trong những thành viên của WTO, Việt Nam cần phải tuân thủ Hiệp định về
tài trợ và các biện pháp đối kháng (SCM). Do vậy, trong thời gian tới, tín dụng hỗ trợ xuất
khẩu phải thực sự tạo điều kiện thuận lợi để thúc đẩy sản xuất, hỗ trợ các doanh nghiệp xuất
nhập khẩu đối với những ngành ưu thế (như nông sản, thủy sản, hạt tiêu, hạt điều, gạo, hàng
thủ công mỹ nghệ,..) hay những thị trường thế mạnh (thị trường Đông Âu truyền thống, thị
trường Trung Quốc, Nhật Bản, EU, Mỹ, …) đủ sức trụ vững và cạnh tranh trên trường quốc
tế.
Song song với việc hỗ trợ xuất khẩu, Chính phủ cần quan tâm tới việc hỗ trợ hình
thành và phát triển các Hiệp hội làng nghề, ngành nghề hoặc Hiệp hội doanh nghiệp; vì
chúng rất cần đối với doanh nghiệp Việt Nam trong tương lai.
Nhiệm vụ trước mắt và lâu dài của các Quỹ và các tổ chức tín dụng ưu đãi thuộc
Chính phủ là nghiên cứu tiến trình chuyển đổi cho phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế của Việt Nam. Tập trung đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ đảm bảo đủ khả năng
và trình độ đáp ứng được yêu cầu công việc trong hội nhập.


Sử dụng một cách khéo léo các công cụ thuế nhằm bảo hộ sản xuất trong nước:


Kể từ khi trở thành thành viên chính thức của WTO, theo lộ trình cắt giảm hàng rào
thuế quan của tổ chức này, mức thuế nhập khẩu của rất nhiều loại hàng hóa đã bị cắt giảm

lớn, thậm chí ở mức thuế suất bằng 0. Hàng hóa nước ngoài nhập khẩu vào Việt Nam dễ
dàng hơn khiến nguy cơ bán phá giá là rất hiện hữu, gây khó khăn cho sản xuất trong nước.
Chính vì vậy, song song với việc phải đối phó với luật chống bán phá giá khi xuất
khẩu hàng hóa, chúng ta phải biết bảo vệ sản xuất trong nước để tránh bị nước ngoài bán
phá giá, tạo nên “sân chơi” bình đẳng cho các doanh nghiệp.


Chủ động trong việc áp dụng thuế chống bán phá giá, thuế chống tài trợ ở Việt
Nam:



Hoàn thiện hệ thống pháp luật về kinh tế-thương mại, tài chính, thuế theo hướng xây
dựng nền kinh tế thị trường. Các quy định pháp lý về tài chính tiền tệ, về lao động, về
đầu tư, cải cách doanh nghiệp nhà nước… phải minh bạch, hợp lý.
Ban hành các bộ luật hoàn chỉnh về thuế chống bán phá giá, thuế chống tài trợ.
Trau dồi thêm kinh nghiệm trong việc điều tra chống phá giá, chống tài trợ và kinh
nghiệm đối phó với hàng xuất khẩu của ta khi bị điều tra bán phá giá và tài trợ.
Tăng cường hiểu biết và liên kết giữa các nhà sản xuất, tiêu dùng, các nhà xuất - nhập
khẩu… về lĩnh vực chống bán phá giá và chống tài trợ, đồng thời tăng cường phối
hợp các cơ quan nhà nước trong việc giải quyết tranh chấp thương mại; phối hợp
đồng bộ các cơ quan pháp luật khác có liên quan đến việc điều tra chống bán phá giá
và chống tài trợ nhằm khắc phục hạn chế về kinh nghiệm, kinh phí cho việc tiến hành
điều tra, đàm phán để áp dụng các công cụ chống bán phá giá và chống tài trợ ở nước
ta.








Xây dựng quy tắc xuất xứ hàng hóa một cách đầy đủ và toàn diện, trong đó đặc biệt
là việc quản lý, xác minh, kiểm tra giấy chứng nhận xuất xứ đã được nước ngoài cấp.

2. Một số biện pháp cụ thể:
Thứ nhất, đối chiếu quy định của WTO và cam kết của Việt Nam thì ưu tiên hàng
hóa trong nước hơn hàng nhập khẩu sẽ bị dỡ bỏ. Vì vậy, chúng ta cần phải có những biện
pháp cụ thể về tài trợ xuất khẩu để vừa tuân thủ WTO vừa đạt hiệu quả mục tiêu đề ra, dựa
theo “ nguyên tắc cơ bản “ như sau :



Loại bỏ tất cả các biện pháp tài trợ từ ngân sách (trực tiếp hay gián tiếp).
Tập trung xây dựng và áp dụng các loại hình gián tiếp hoặc các loại tài trợ WTO
được miễn trừ dựa trên việc xem xét đặc điểm cụ thể của Việt Nam.

Như vậy, chúng ta cần phải tập trung vào các hình thức hỗ trợ chủ yếu sau:





Hỗ trợ cho hoạt động nghiên cứu và phát triển sản phẩm xuất khẩu.
Hỗ trợ cho hoạt động tư vấn, đào tạo, kể cả đào tạo chuyên ngành cho các ngành
sản xuất hàng xuất khẩu.
Hỗ trợ cho hoạt động nâng cấp cơ sở hạ tầng phục vụ xuất khẩu.
Hỗ trợ cho hoạt động xúc tiến thương mại không gắn với ngân sách để giảm chi
phí xúc tiến cho các doanh nghiệp.





Hỗ trợ chung để phát triển một số lĩnh vực, ngành nghề địa bàn có điều kiện đặc
biệt để gián tiếp thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu.

Tóm lại, khi thực hiện xúc tiến xuất khẩu thông qua các hình thức tài trợ, chúng ta
cần chú ý không sử dụng những hình thức tài trợ đã bị cấm, để tránh nguy cơ bị “trả đũa”
trong thương mại quốc tế.
Thứ hai, Việt Nam đang trong quá trình hội nhập ngày càng sâu sắc. Khi đã là thành
viên chính thức của WTO, cách làm hữu hiệu duy nhất để thúc đẩy phát triển xuất khẩu là
nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa sản xuất trong nước, thông qua nhiều biện pháp
tổng hợp, từ thực hiện tốt phương châm “sản xuất cho thị trường, vì thị trường” đến nâng
cao nhận thức và tăng hành động thực tiễn của từng doanh nghiệp trong hoạt động
marketing phục vụ xuất khẩu.
Thêm vào đó, cần thực hiện các biện pháp hỗ trợ xuất khẩu phù hợp, nhất là các biện
pháp “ đèn xanh” như:





Hỗ trợ xuất khẩu thông qua các hoạt động xúc tiến xuất khẩu .
Tham gia hội chợ triễn lãm quốc tế, khảo sát thị trường nước ngoài, các chương
trình xúc tiến thương mại trọng điểm.
Hỗ trợ cho vùng sâu vùng xa, hỗ trợ cho các hoạt động nghiên cứu và phát triển
(R&D), hoạt động đào tạo hay bảo vệ môi trường.
Hỗ trợ nông dân thông qua các chương trình thủy lợi, phát triển công nghệ sau thu
hoạch…


Thứ ba, Việt Nam là nước đi sau, chúng ta sẽ học hỏi kinh nghiệm của các nước đi
trước, điển hình là Trung Quốc hay các nước láng giềng trong khu vực ASEAN kết hợp với
lợi thế kinh tế (cả tuyệt đối và so sánh) để duy trì những loại hình tài trợ thích hợp không bị
hạn chế khi gia nhập WTO; đồng thời thúc đẩy sự phát triển kinh tế bền vững.
Hiện các doanh nghiệp Việt Nam đang được hỗ trợ trực tiếp từ Chính phủ bằng
nguồn vốn ưu đãi xuất khẩu từ quỹ hỗ trợ phát triển để giảm chi phí, dẫn tới giảm giá thành
và tăng khả năng cạnh tranh của hàng Việt Nam trên thị trường quốc tế. Trong tương lai sẽ
không còn hỗ trợ thông qua tài trợ cho hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) hay cho
hoạt động bảo vệ môi trường, phát triển khu vực…Khi đó các doanh nghiệp Việt Nam sẽ lại
có khả năng cạnh tranh thông qua khía cạnh khác như chất lượng sản phẩm, mẫu mã sản
phẩm hay thị trường tiêu thụ…
PHẦN IV: KẾT LUẬN
Trong thời kỳ toàn cầu hóa và đặc biệt là trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế hiện
nay cho thấy xu hướng các nước đều gia tăng sử dụng tài trợ và các biện pháp đối kháng.
Hiệp định SCM yêu cầu các thành viên phải sử dụng trợ cấp ở nước mình sao cho trợ cấp
đó là trung lập đối với cạnh tranh. Hơn nữa, hiệp định SCM đã đưa ra được khung pháp lý
điều chỉnh như quy định các loại tài trợ, chế tài tương ứng, thủ tục điều tra, áp dụng thuế
đối kháng... Trên cơ sở đó, các nước cũng đã có những quy định riêng, đặc biệt là pháp luật
của Hoa Kỳ và EU quy định khá cụ thể và chi tiết về thủ tục điều tra, phương pháp tính mức


độ tài trợ, thiệt hại... Nhìn chung, những quy định của SCM về việc sử dụng trợ cấp và
phương thức điều tra trợ cấp đã có tác dụng làm giảm đáng kể nguy cơ lạm dụng và đánh
giá tùy tiện. Thực tế này đúng với cả những nước phát triển và đang phát triển.
Trợ cấp đôi khi giống như con dao hai lưỡi, nếu không khéo xử lý về mức độ và thời
gian áp dụng, trợ cấp có thể gây tâm lý trông đợi và sức ỳ đáng sợ. Gia nhập WTO, Việt
Nam chỉ bãi bỏ trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp nội địa hóa, các loại trợ cấp “ đèn vàng”, “đèn
xanh” vẫn được duy trì. Nhà nước chuyển số tiền trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp nội địa hóa
sang phát triển thủy lợi, kiện toàn giao thông nông thôn, nâng cao chất lượng giống, phát
triển công nghệ sau thu hoạch, xây dựng các kho lạnh cho hàng thủy sản và kho đệm để dự

trữ lúa…Hiệp định SCM cùng với những điều khoản của nó tất yếu có ảnh hưởng đến nền
kinh tế Việt Nam, cả tích cực và tiêu cực. Mọi thứ đều có hai mặt: thuận lợi và khó khăn.
Đó là điều tất yếu trong quá trình hội nhập, Việt Nam phải biết vượt qua khó khăn, nắm bắt
thời cơ để hội nhập và phát triển.



×