Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Vai trò của khoa học công nghệ đối với quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (406.84 KB, 30 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
----------

VAI TRÒ CỦA KHOA HỌC CÔNG NGHỆ ĐỐI
VỚI QUÁ TRÌNH
CÔNG NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA
Ở VIỆT NAM

TIỂU LUẬN MÔN KINH TẾ HỌC PHÁT TRIỂN

Tp.Hồ Chí Minh, tháng 5 năm 2017


MỤC LỤC


3

LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Lịch sử đã để lại cho chúng ta một nền sản xuất nghèo nàn và lạc hậu,
lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, lực lượng sản xuất thấp kém. Nhưng ngày
nay khi độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là một xu thế tất yếu của
lịch sử thì cũng là lúc bắt đầu cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cách mạng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta là một quá trình biến đổi cách mạng toàn diện, sâu sắc
và triệt để. Đó là một quá trình vừa xóa bỏ cái cũ, vừa xây dựng cái mới. Do
đó, trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội chúng ta phải tiến hành công nghiệp
hóa - hiện đại hóa đất nước. Theo quan điểm của Ban chấp hành Trung ương
Đảng khóa VII đã khẳng định Công nghiệp hóa- hiện đại hóa là quá trình
chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ, quản
lý kinh tế xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách


phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến
hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ
tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Quan điểm này đã gắn công nghiệp hóa
với hiện đại hóa đồng thời đã xác định vai trò của khoa học công nghệ là then
chốt đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã xác định: “Con
đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta cần và có thể rút ngắn thời
gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có những bước nhảy vọt. Phát huy những
lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến,
đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng
ngày càng nhiều hơn, ở mức độ cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới
về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức”.
Khoa học công nghệ chính là một trong những nhân tố quyết định đến
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta. Vậy khoa học công nghệ
đã có những đóng góp như thế nào? Tại sao khoa học công nghệ được đặt quan


4

trọng hàng đầu đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh
toàn cầu hóa hiện nay?
Để làm rõ vấn đề này thì nhóm xin chọn đề tài “Vai trò của khoa học
công nghệ đối với quá trình Công nghiệp hóa- hiện đại hóa ở Việt Nam.”. Tiểu
luận ra đời với mong muốn làm rõ vai trò của khoa học công nghệ đối với lộ
trình Công nghiệp hóa- hiện đại hóa , những ưu - khuyết điểm, những tồn tại
và hướng phát triển …mang đến một cái nhìn tổng quan, cụ thể và rõ ràng hơn.


5


Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VAI TRÒ CỦA KHOA
HỌC CÔNG NGHỆ ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA – HIỆN
ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM
1. Khoa học công nghệ
1.1. Khái niệm
Khoa học được hiểu là hệ thống tri thức của con người về tự nhiên, xã hội
và tư duy với bản chất và quy luật vận động của chúng được thể hiện bằng những
khái niệm, phán đoán, học thuyết định hướng hoạt động của con người. Còn công
nghệ là sự ứng dụng, vật chất hóa các tri thức khoa học vào thực tiễn sản xuất và đời
sống, đó là tập hợp các giải pháp, phương pháp, quy trình, kỹ năng, phương tiện kỹ
thuật,… được sử dụng tạo ra sản phẩm vật chất và dịch vụ cụ thể.
Thuật ngữ khoa học và công nghệ là sự thể hiện, đồng hành gắn bó giữa lý
luận, lý thuyết và thực tiễn, thực hành, giữa nghiên cứu và ứng dụng thực tế.
1.2. Sự ra đời của khoa học công nghệ
Khoa học công nghệ ra đời do những nguyên nhân sau:
Do những đòi hỏi của cuộc sống, của sản xuất nhằm đáp ứng những yêu
cầu ngày càng cao của cuộc sống con người, nhất là trong tình hình bùng nổ về dân
số và sự cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên. Việc tạo ra những công cụ sản xuất
mới, những nguồn năng lượng mới và những vật liệu mới được đặt ra một cách bức
thiết.
Để phục vụ cho chiến tranh hiện đại, các bên tham chiến đều phải nghĩ tới
việc giải quyết tính cơ động của binh sĩ, các phương tiện thông tin, liên lạc và vũ khí
hiện đại…; phải đi sâu vào nghiên cứu khoa học, kĩ thuật và cuộc cách mạng khoa
học - kĩ thuật hiện đại được mở đầu bằng những phát minh như rađa, hoả tiễn, bom
nguyên tử… vào nửa đầu những năm 40 nhằm phục vụ chiến tranh.


6

Những thành tựu về khoa học, kĩ thuật cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX đã

tạo tiền đề và thúc đẩy sự bùng nổ của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ hai
của nhân loại.
Thời gian ra đời của khoa học công nghệ:
Vào đầu thế kỷ XX, loài người đã tích lũy được một kho tàng trí tuệ về
khoa học và kỹ thuật đồ sộ. Karl Marx (1818 - 1883) đã từng có một luận điểm nổi
tiếng: “tri thức xã hội phổ biến đã chuyển hóa thành lực lượng sản xuất trực tiếp”.
Tuy nhiên do điều kiện lịch sử nên lực lượng sản xuất phát triển không đồng đều,
không dưới 80 - 90% dân số thế giới vẫn sống trong nghèo nàn lạc hậu.
Khoa học và công nghệ (KHCN) giai đoạn mới hiện nay bắt đầu phát triển
mạnh và đặc trưng rõ nét nhất từ khi vệ tinh nhân tạo đầu tiên chinh phục không gian
vũ trụ (1957) tiếp đó là con người bay vào vũ trụ, đặt chân lên mặt trăng, cũng như
các công trình nghiên cứu vũ trụ khác đến nay hầu như là chuyện “hàng ngày”. Được
sự kích thích và sự hỗ trợ của công nghệ vũ trụ, các ngành công nghệ mới, có tầm
cao mới liên tiếp ra đời, đặc biệt là công nghệ thông tin, viễn thông, công nghệ năng
lượng tái tạo,… với những phát minh kỳ diệu như lade (1967), truyền hình qua vệ
tinh nhân tạo (1964), tổng hợp gien (1973), mạch tổ hợp cho (1965), máy tính điện
tử, máy tính điện tử sinh học dựa trên cấu tạo bộ óc con người (1994), bộ vi xử lý
(1971), rệp điện tử, máy gia tốc, v.v…
Đến cuối thế kỷ XX, có thể khẳng định rằng nền sản xuất xã hội đang biến
đổi sâu sắc, mạnh mẽ cả về cơ cấu, chức năng và phương thức hoạt động tạo nên một
sự phát triển nhảy vọt, một bước ngoặt lịch sử có ý nghĩa trọng đại sang một thời đại
kinh tế mới (thường gọi là thời đại kinh tế tri thức) quá độ sang một nền văn minh
mới (thường gọi là nền văn minh trí tuệ) mà nguyên nhân và động lực chính là cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ mới hình thành từ mấy chục năm qua.
2. Công nghiệp hóa - hiện đại hóa


7

2.1. Khái niệm

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện
cáchoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao
động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ,
phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển công nghiệp và
tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
2.2. Tính tất yếu của sự ra đời công nghiệp hóa - hiện đại hóa
Mỗi phương thức sản xuất xã hội nhất định có một cơ sở vật chất - kỹ thuật
tương ứng. Cơ sở vật chất - kỹ thuật của một xã hội là toàn bộ hệ thống các yếu tố
vật chất của lực lượng sản xuất xã hội, phù hợp với trình độ kỹ thuật (công nghệ)
tương ứng mà lực lượng lao động xã hội sử dụng để sản xuất ra của cải vật chất đáp
ứng nhu cầu xã hội.
Chỗ dựa để xem xét sự biến đổi của cơ sở vật chất - kỹ thuật của một xã hội
là sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất; sự phát triển khoa học - kỹ thuật;
tính chất và trình độ của các quan hệ xã hội, đặc biệt là quan hệ sản xuất thống trị.
Nói cơ sở vật chất - kỹ thuật của một phương thức sản xuất nào đó là nói cơ
sở vật chất kỹ thuật đó đã đạt đến một trình độ nhất định làm đặc trưng cho phương
thức sản xuất đó.
Đặc trưng của cơ sở vật chất - kỹ thuật của các phương thức sản xuất trước
chủ nghĩa tư bản là dựa vào công cụ thủ công, nhỏ bé, lạc hậu. Đặc trưng của cơ sở
vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản là nền đại công nghiệp cơ khí hoá.
Chủ nghĩa xã hội đòi hỏi một cơ sở vật chất - kỹ thuật cao trên cả hai mặt:
trình độ kỹ thuật và cơ cấu sản xuất, gắn với thành tựu của cách mạng khoa học và
công nghệ hiện đại.


8

Do vậy, cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội là nền công nghiệp
lớn hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, có trình độ xã hội hóa cao dựa trên trình độ
khoa học và công nghệ hiện đại được hình thành một cách có kế hoạch và thống trị

trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Đối với các nước có nền kinh tế kém phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội
như nước ta, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội phải thực hiện
từ đầu, từ không đến có, từ gốc đến ngọn thông qua công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Mỗi bước tiến của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một bước tăng cường
cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất
và góp phần hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
3. Tác động của khoa học cồng nghệ vào quá trình CNH – HĐH
KHCN là nền tảng, động lực và then chốt đối với quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, biểu hiện trên những mặt cụ thể sau đây:
Một là, khoa học và công nghệ có vai trò quyết định trong việc trang bị lại
các máy móc, trang thiết bị kỹ thuật, công nghệ hiện đại, tiên tiến cho nền sản xuất
xã hội nói riêng, cho tất cả các ngành kinh tế quốc dân nói chung.
Hai là, khoa học và công nghệ đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc
giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, khai thác và phát huy nguồn lực con người, đặc biệt là
nguồn lực trí tuệ - một nguồn lực to lớn, có tính chất quyết định đối với sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Ba là, khoa học và công nghệ giữ vai trò động lực trong việc tạo ra môi
trường thông tin và thị trường thông tin - huyết mạch của công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và của cả nền kinh tế.
Bốn là, khoa học và công nghệ có vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện
cơ chế tổ chức, quản lý sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và xã hội.
Năm là, khoa học và công nghệ đóng góp phần quan trọng vào chiến lược
phát triển lâu bền của xã hội.


9


10


Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Thực trạng sử dụng ứng dụng khoa học công nghệ ở Việt Nam. Quá
trình đổi mới khoa học công nghệ
1.1. Thực trạng khoa học - công nghệ Việt Nam
KHCN đã tập trung vào sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ
môi trường. Đã áp dụng các công nghệ và phương pháp nghiên cứu tiên tiến : viễn
thám, địa vật lý… vào công tác điều tra, thăm dò tài nguyên thiên nhiên. Nhiều kết
quả nghiên cứu môi trường được đánh giá cao: nghiên cứu chính sánh và biện pháp
bảo vệ sự đa dạng sinh học, cân bằng sinh thái và xử lý ô nhiễm nước, không khí ở
các khu công nghiệp tập trung, các thành phố lớn… các biện pháp trồng rừng, chống
suy thái đất, cải tạo đất…
KHCN đã chú ý phát triển các ngành khoa học tự nhiên và công nghệ cao.
Nhiều thành tựu toán học, cơ học, vật lý … được đánh giá cao ở nước ngoài. Công
nghệ thông tin đã phát triển và mở rộng ứng dụng trong hệ thống ngân hàng, quản lý
hành chính, sản xuất, kinh doanh. Đồng thời, công nghệ chế tạo vật liệu mới, công
nghệ sinh học, tự động hoá… đã từng bước được quan tâm.
Nhờ áp dụng những tiến bộ KHCN về giống cây trồng, quy trình kỹ thuật
thâm canh và chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, chúng ta đã tuyển chọn, lai tạo hàng chục
giống lúa mới, phù hợp các vùng sinh thái khác nhau, tạo mức tăng trưởng quan
trọng. Nghiên cứu và tạo nhiều loại giống gia súc, gia cầm, có giá trị kinh tế cao,
thúc đẩy chăn nuôi phát triển. Hơn 10 năm qua, năng suất lúa bình quân đã tăng hơn
2 lần. Tổng sản lượng lương thực 1998 đạt hơn 31 triệu tấn. Nhiều loại phân vi sinh,
thuốc trừ sâu vi sinh, chất kích thích tăng trưởng thực vật … đã được sử dụng vào
sản xuất, bảo vệ, phát triển các loại cây lương thực. Cơ cấu cây trồng đã được thay
đổi cơ bản. Trước năm 1989, từ chỗ còn thiếu lương thực, Việt Nam đã trở thành
nước xuất khẩu gạo đéng thứ 3 thế giới, sau Thái Lan, Mỹ.



11

Về thuỷ sản, nhờ áp dụng kỹ thuật mới, nhiều năm nay, nuôi ba ba, sinh sản
đã thành nghề giàu có ở nông thôn. Đặc biệt, kỹ thuật nuôi tôm đã được ứng dụng
khắp nơi, tạo công ăn việc làm cho 350.000 ngư dân ven biển góp phần cải thiện và
tăng kim ngạch xuất khẩu của ngành thuỷ sản, năm 1993 đạt 368 triệu USD, 1994
đạt 551,2 triệu USD, 1996 đạt 670 triệu USD, 1997 đạt 750 triệu USD và 2000 đạt
1000 triệu USD, tăng kơn 10 lần so với 1980. Việc nuôi trồng hải sản đã có sự đầu tư
khoa học thích đáng trong việc tận dụng mặt nước ao, hồ, nước biển, nước lợ, kết
hợp sản xuất nông nghiệp với nuôi tôm cá, phát triển nuôi trồng với giữ gìn môi
trường, môi sinh, nuôi xen ghép, quảng canh, chọn giống tốt… toàn ngành hiện có
59 cơ sở đủ tiêu chuẩn sản xuất hàng xuất khẩu
Trong công nghiệp, hàng loạt kỹ thuật tiên tiến được áp dụng, tạo nhiều sản
phẩm chất lượng cao: hàng may mặc, thuốc lá, đồ nhựa, cao su, đồ điện máy, điện
tử… nhất là trong chế tạo máy móc, thiết bị phụ tùng và đổi mới công nghệ, kinh
doanh sản xuất ô tô, xe máy, nhằm giải quyết nguyên vật kiệu, thiết bị thay thế.
Trong công nghiệp đầu khí… đội ngũ cán bộ khoa học trong nước, đã có khả năng
tiếp thu và làm chủ công nghệ mới. Công nghiệp chế biến nông - lâm - hải sản cũng
được đẩy mạnh đáng kể.
Trong lĩnh vực năng lượng, nhiều công trình nghiên cứu KHCN đã tập
trung vào công tác quy hoạch, sử dụng hợp lý các nguồn năng lượng. Hệ thống năng
lượng đã phát triển nhanh chóng: 80% địa bàn xã ở khu vực nông thôn, hơn 50% hộ
gia đình đã có điện sử dụng.
Trong giao thông vận tải, KHCN đã góp phần quan trọng vào việc nâng cấp
và phát triển mạng lưới, đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, đường sông… đã xây
dựng một số công trình quan trọng bằng việc áp dụng các công nghệ mới: đóng tàu
biển trọng tải 3.000 tấn, công trình hạ tầng cất cánh sân bay Tân Sơn Nhất, thắng
thầu nhiều công trình giao thông ở Lào, Campuchia… với việc áp dụng công nghệ
mới trong gia cố nền móng và thi công mặt đường.
Trong viễn thông, đã xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng thông tin hiện đại

bằng việc áp dụng kỹ thuật số, thông tin vệ tinh, cáp sợi quang… đủ mạnh để hoà


12

nhập mạng thông tin quốc tế và khu vực. Viễn thông nước ta hiện được xếp vào một
trong những nước có tốc độ phát triển nhanh nhất thế giới. Bên cạnh mạng lưới hữu
tuyến điện phát triển rộng khắp với các loại hình dịch vụ đa dạng, các hệ thống thông
tin di động, máy sóng ngắn, cực ngắn, cũng phát triển mạnh, được các tổ chức kinh
tế, cơ quan trong và ngoài nước sử dụng.
Trong y tế, hàng loạt các thành tựu chăm sóc sức khoẻ ban đầu, miễn dịch
học, cắt giảm, tỷ lệ mắc các chứng bệnh nguy hiểm: lao, phong, sốt rét, ho gà, bại
liệt, sởi… Kết hợp y học truyển thống với y học hiện đại, sản xuất nhiều mặt hàng
thuốc mới. Nâng cao trình độ trong phòng và chuẩn đoán bệnh, ngăn ngừa bệnh
truyền nhiễm : viêm gan, viêm não Nhật Bản…
Đến nay nước ta đã có đội ngũ cán bộ KHCN hơn 800.000 người trình độ
đại học, 8.775 phó tiến sĩ - tiến sĩ, gần 3.000 giáo sư - phó giáo sư, hơn 45.000 cán
bộ nghiên cứu triển khai thuộc hơn 300 viện nghiên cứu - trung tâm và hơn 20.000
nhà khoa học vừa nghiên cứu, vừa giảng dạy trong 105 trường đại học, cao đẳng, hơn
80 cơ sở đào tạo sau đại học. Đây thực sự là một vốn quý cho sự nghiệp CNH, HĐH,
được đào tạo từ nhiều nguồn khác nhau.
1.2. Những bước phát triển khoa học công nghệ
Trong quá trình hội nhập hiện nay thì khoa học - công nghệ sẽ làm cho đất
nước ngày càng văn minh hiện đại , đẩy nhanh, mạnh và vững chắc cho sự phát triển
của đất nước. Chính vì vậy mà khoa học - công nghệ là một trong lĩnh vực trọng tâm
mà Đảng và Nhà nước luôn coi trọng và tăng cường thúc đẩy phát triển trong thời kì
công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay và cũng là lĩnh vực luôn được chú trọng
xuyên suốt quá trình CNH - HĐH và tiến trình đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đảng ta đã có một số nghị quyết về khoa học và công nghệ như nghị quyết
37 của Bộ Chính trị (khoá IV), Nghị quyết 26 của Bộ Chính trị ( khoá VI), Nghị

quyết 01 của Bộ Chính trị và Nghị quyết Trung ương 7 (khoá VII). Việc thực hiện
các nghị quyết này đã bước đầu nâng cao tiềm lực khoa học và công nghệ của đất
nước, thúc đẩy việc đưa các tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất và đời sống,


13

góp phần đưa nước ta ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo ra những
tiền đề cần thiết để bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Khoa học tự nhiên có những thành tựu trong nghiên cứu, điều tra điều kiện
tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên và môi trường, góp phần tạo luận cứ cho việc xây
dựng chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế xã hội, tạo cơ sở cho quá trình tiếp
thu và làm chủ công nghệ mới. Một số nghành nghiên cứu cơ bản đã xây dựng được
đội ngũ cán bộ khoa học có khả nǎng tiếp cận trình độ hiện đại trên thế giới.
Các ngành khoa học và công nghệ gắn bó hơn với sản xuất và đời sống.
Nhiều thành tựu khoa học và công nghệ mới đã được ứng dụng, góp phần rất quan
trọng vào việc nâng cao nǎng suất, chất lượng và hiệu quả trong các nghành sản xuất
nông nghiêp, y tế, bưu chính viễn thông, giao thông vận tải, xây dựng, nǎng lượng,
dầu khí, hành tiêu dùng, hàng xuất khẩu..., xây dựng và củng cố quốc phòng - an
ninh.

Phòng nuôi cấy mô tại Trung tâm Công nghệ sinh học TP.HCM. (Ảnh: Mạnh
Linh/TTXVN)


14

Việc nghiên cứu về chính sách, biện pháp bảo vệ và cải thiện môi trường
bước đầu được quan tâm, Luật Môi trường đã được ban hành.
Đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ có bước trưởng thành, được tập

hợp, có thêm điều kiện để phát huy khả nǎng và công hiến cho sự nghiệp chung. Đây
là một yếu tố quan trọng cho sự phát triển của đất nước.
Có được những thành tựu trên đây, trước hết là do đường lối đúng đắn của
Đảng, do nhu cầu phát triển kinh tế đòi hỏi đưa tiến bộ khoa học và công nghệ vào
sản xuất, nhờ sự đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, khoa học và công nghệ. Mặt khác
đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ đã trưởng thành một bước và có nhiều cố
gắng và thích nghi với cơ chế mới; quan hệ đối ngoại, hợp tác quốc tế về kinh tế,
khoa học và công nghệ được mở rộng.
Định hướng chung cho chiến lược khoa học và công nghệ từ nay đến nǎm
2020 là:
Một là, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, kế thừa những giá trị vǎn hoá truyền thống của dân tộc, tiếp thu tinh hoa
trí tuệ của nhân loại, đi sâu điều tra, nghiên cứu thực tế, tổng kết sâu sắc quá trình đổi
mới đất nước. Xây dựng và không ngừng phát triển, hoàn thiện hệ thống lý luận về
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam; cung cấp luận cứ khoa học cho việc
tiếp tục bổ xung, hoàn thiện đường lối, chủ trương chính sách của đảng và Nhà nước
nhằm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa.
Hai là, đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng các thành tựu khoa học và công
nghệ trong tất cả các nghành sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, quản lý quốc phòng - an
ninh, nhanh chóng nâng cao trình độ công nghệ của đất nước. Coi trọng nghiên cứu
cơ bản. làm chủ và cải tiến các công nghệ nhập từ nước ngoài, tiến tới sáng tạo ngày
càng nhiều công nghệ mới ở những khâu quyết định đối với sự nghiệp phát triển của
đất nước trong thế kỷ XXI.


15

Ba là, nâng cao nǎng lực nội sinh, xây dựng, phát triển tiềm lực khoa học
và công nghệ của nước nhà: đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ cán bộ khoa học và

công nhân lành nghề, trẻ hoá và phát triển đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ có
đủ đức, tài, kiện toàn hệ thống tổ chức, tǎng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật, mở rộng
các nguồn cung cấp thông tin, từng bước hình thành một nền khoa học và công nghệ
hiện đại của Việt Nam có khả nǎng giải quyết phần lớn những vấn đề then chốt được
đặt ra trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Công nghệ thông tin, bưu chính viễn thông ta đã có những bước phát triển
nhảy vọt và đạt trình độ cao, phục vụ ngày càng nhiều và có hiệu quả cho phát triển
sản xuất và nâng cao đời sống của nhân dân.
2. Tác động của khoa học công nghệ đối với tăng trưởng kinh tế ở Việt
Nam.
Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là một chủ trương nhất
quán của Đảng ta, được Đại hội XII tiếp tục khẳng định. Vì thế, quán triệt sâu sắc
chủ trương này, nhằm phát huy sức mạnh toàn dân tộc, để sớm đưa nước ta trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại là vấn đề cơ bản hiện nay.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là con đường tất yếu để đưa sản xuất nhỏ lên
sản xuất lớn và cũng là một trong những nhiệm vụ kinh tế cơ bản của các nước quá
độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
Trong quá trình phát triển và thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, khoa học công nghệ đã có những đóng góp rất to lớn.


16

2.1. Tích cực
Theo một số số liệu thống kê:
Bảng: Tăng trưởng kinh tế thế giới giai đoạn 2015-2017
Giá
dầu thế
giới
(USD/th

ùng)

Tăng trưởng kinh tế (%)

Nă Th OE
m ế
CD
gi
ới

M


EU
28

Eu Tru
ro ng
Qu
zo
ốc
ne

Nh A Ng
ật nh a
Bả
n


n

Đ


Bra
zil

20
15

3, 2,18 2, 2,1
20
60 3

1,9 6,9
3
3

0,5 2, (3,7 7, (3,8 2,3
9
22 0)
24 5)
4

51,82

20
16

2, 1,62 1, 1,7
97

45 8

1,6 6,6
1
6

0,5 2, (0,5 7, (3,2 2,6
1
00 8)
39 4)
2

42,75

20
17

3, 1,79 2, 1,5
22
11 7

1,4 6,3
9
0

0,3 1, 0,8
9
36 4

51,82


6, 0,3
70 7

Tru
ng
Đô
ng

2,9
7

(Nguồn: Tính toán theo mô hình NiGEM V4.16-b của Bộ kế hoạch và đầu tư)
Tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2017 so với 2015 tăng nhẹ từ 3.2%
lên 3.22%.
Trong 5 năm đầu thế kỷ XXI, GDP của thế giới tăng 40,5% (44 nghìn tỷ
USSD/31,6 nghìn tỷ USD - Niên giám thống kê/ TCTK 2006).
Ở Việt Nam, Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, nền khoa học - kỹ
thuật Việt Nam mới được hình thành và từng bước phát triển theo hướng hiện đại hóa
nhằm đáp ứng yêu cầu của cách mạng phấn đấu đạt đến mục tiêu xây dựng nước Việt
Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, nhân dân ấm no, hạnh phúc.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, Đảng và nhà nước ta
đặc biệt quan tâm phát triển khoa học và công nghệ phục vụ đắc lực cuộc cách mạng


17

kỹ thuật thời chiến, giành thắng lợi trong chiến tranh và xây dựng tiềm lực sẵn sàng
tiến hành cuộc cách mạng khoa học trên quy mô lớn với trình độ cao sau khi kết thúc
chiến tranh.

Song do xuất phát điểm từ nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu lại bị chiến tranh
tàn phá nặng nề, nên trình độ khoa học - công nghệ - kỹ thuật tuy có phát triển nhưng
vẫn chậm chạp và thua kém so trình độ chung của các nước trong khu vực. Tốc độ
tăng trưởng GDP qua các năm từ 2011 – 2015 có sự tăng giảm không ổn định.

Từ khi chúng ta bắt đầu sự nghiệp đổi mới và mở cửa và đặc biệt là từ khi
có Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII (1996), nhận thức về vai trò của KHCN đã
được nâng cao rõ nét và ngày càng khẳng định vai trò động lực của KHCN trong
phát triển kinh tế. Phương châm phát triển kinh tế phải dựa vào KHCN và KHCN
phải hướng vào xây dựng kinh tế. Đặc biệt trong trào lưu hội nhập quốc tế và khu


18

vực, nhiều doanh nghiệp đã nhận thức là chỉ có đổi mới công nghệ mới đủ sức cạnh
tranh và tồn tại được trong nền kinh tế thị trường. Chủ trương đó đã thúc đẩy và tạo
điều kiện các ngành các cấp, các tầng lớp tri thức, sinh viên, doanh nhân, kể cả nông
dân, nghệ nhân, chủ trang trại,… nghiên cứu ứng dụng tri thức khoa học, kỹ thuật,
tiếp nhận chuyển giao công nghệ với tinh thần làm giàu cho mình, cho quê hương,
cải thiện điều kiện lao động, mới có giá trị cao, phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu.
Doanh nghiệp đã trở thành chủ thể của đổi mới công nghệ, nhân tố quan trọng trong
hệ thống đổi mới quốc gia.
Có những thành tựu KHCN nổi bật trong thời gian gần đây đã được đưa
vào sản xuất đại trà mang lại hiệu quả cao. Điển hình như trong nông nghiệp đã có
hàng chục loại giống lúa lai (nhất là lúa Việt lai 20, Việt lai 24), giống ngô lai, công
nghệ chuyển đổi giới tính trước tiên là cá rô phi, cà mè vinh, lai tạo giống hoa mới,
v.v... Trong công nghiệp và xây dựng: sản xuất xi măng giếng khoan chủng loại G,
chế tạo chất nổ ANFO chịu nước có sức công phá lớn, máy cắt plasma - khí ga, xây
dựng trạm thu vệ tinh NOAA, ứng dụng công nghệ đúc hẫng và đúc đẩy, thi công cầu
dây văng,… Trong y tế: sản xuất một số vacxin (tả, viêm gan B, viêm não Nhật Bản,

…), thụ tinh trong ống nghiệm.
Như vậy, có thể khẳng định là KHCN nước ta, dù mới phát triển nhưng đã
thực sự góp phần đáng kể vào đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đặc
biệt trong những năm gần đây. Điều đó được thể hiện qua kết quả thực hiện một số
chỉ tiêu chủ yếu về kinh tế dưới đây:
- Tốc độ tăng trưởng khá cao và ổn định GDP tăng bình quân/năm năm
2015 là 6.68%, năm 2016 là 6.21%, ước tính năm 2017 sẽ tăng 6.7% so với năm
2016.
- Cả 3 khu vực kinh tế đều phát triển, trong đó công nghiệp và dịch vụ có
tốc độ tăng khá cao (công nghiệp chế biến tăng 13,5%/năm). Nông nghiệp (kể cả lâm
nghiệp và thủy sản) vào loại khá trên thế giới. Năm 2016, Việt Nam đứng thứ ba trên
thế giới về xuất khẩu gạo. An ninh lương thực được giữ vững, chất lượng gạo xuất
khẩu được nâng lên và đã đưa giá xuất khẩu xấp xỉ giá gạo của Thái Lan.


19

Xuất khẩu gạo của một số nước xuất khẩu chính năm 2017 (nguồn: Bộ
Công thương)
- Hàng hóa và dịch vụ chẳng những bảo đảm nhu cầu tiêu dùng trong nước
mà còn tăng nhanh giá trị xuất khẩu. Tính đến hết 12 tháng/2016 tổng kim ngạch
xuất nhập khẩu cả nước đạt hơn 350,74 tỷ USD, tăng 7,1%, tương ứng tăng gần
23,16 tỷ USD so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, xuất khẩu đạt hơn 176,63 tỷ
USD, tăng 9%, tương ứng tăng gần 14,62 tỷ USD; nhập khẩu đạt hơn 174,11 tỷ
USD, tăng 5,2%, tương ứng tăng hơn 8,54 tỷ USD.
Biểu đồ Kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa từ năm 2006-2016


20


Nguồn: Tổng cục Hải quan
- Tiềm lực khoa học và công nghệ nước ta được tăng cường một bước đáng
kể. Hiện nay cả nước ta hiện có khoảng 2,4 triệu người có trình độ cao đẳng và đại
học trở lên, gần đây mỗi năm sinh viên ra trường trên dưới 200 nghìn người là lực
lượng tiềm năng tham gia hoạt động KHCN. tổng số bài báo, công trình khoa học
được công bố quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn 2011 - 2015 tới 11.738, gấp 2.2
lần so với giai đoạn 2006 - 2010, đạt tốc độ tăng bình quân là 19.5%/năm.
Toán học, vật lý và hóa học tiếp tục là những lĩnh vực có thế mạnh của Việt
Nam chiếm 40% tổng công bố quốc tế trong 5 năm qua, trong đó toán học có số
lượng công bố quốc tế đứng đầu khu vực Đông Nam Á.
Tính tổng số công bố quốc tế giai đoạn 2011-2015, Việt Nam xếp thứ 59
trên thế giới và thứ 4 của Đông Nam Á so với thứ 73 của thế giới giai đoạn 20012005 là cả sự nỗ lực đóng góp của ngành khoa học và công nghệ.
Với nhịp độ tăng cao và khá ổn định về các chỉ tiêu kinh tế như hiện nay,
trong điều kiện bình thường, Việt Nam có khả năng rút ngắn thời gian đạt mục tiêu
cơ bản hoàn thành CNH - HĐH trước năm 2020.


21

Qua phân tích trên ta thấy ở đâu và khi nào khoa học và công nghệ cũng
luôn là lực lượng sản xuất số một, là động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế
xã hội.
2.2. Tiêu cực
Toàn cầu hóa khiến cho các sản phẩm khoa học - công nghệ của nước ngoài
đặc biệt là của các nước tiên tiến như Hoa Kỳ, Nhật Bản và các nước Châu Âu xâm
nhập mạnh mẽ vào thị trường trong nước khiến cho nền khoa học công nghệ Việt
Nam bị cạnh tranh gay gắt. Đặc biệt, nó làm nảy sinh các vấn đề tranh chấp mới liên
quan đến sở hữu trí tuệ, bản quyền, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng công nghiệp
- những lĩnh vực mà nước ta đang ở trình độ phát triển rất thấp so với họ.
Sự chênh lệch về trình độ phát triển KHCN quá lớn trong một thị trường

lớn có sự cạnh tranh gay gắt khiến cho sự thua thiệt và yếu thế luôn nằm về phía Việt
Nam.
Hiện nay, các sản phẩm khoa học công nghệ Việt Nam, dù đã được cải tiến
và đổi mới nhiều, song phần lớn vẫn sử dụng những công nghệ cũ, lạc hậu. Việc đổi
mới công nghệ so với mặt bằng chung vẫn còn chậm. Trong điều kiện nền kinh tế
còn nhiều khó khăn, việc đầu tư vào nghiên cứu và đổi mới công nghệ bị hạn chế
khiến cho các sản phẩm khoa học và công nghệ vẫn bị tụt hậu so với thế giới, làm
giảm năng lực cạnh tranh trong lĩnh vực này.
Mặt khác việc đổi mới công nghệ không chỉ đơn giản là thay máy cũ bằng
máy mới mà còn phải đổi mới cả một hệ thống quản lý cũng như nguồn nhân lực
chất lượng cao đi kèm mà những điều này vẫn còn thiếu và yếu. Chiến lược phát
triển KHCN Việt Nam đến 2020 đã đặt ra yêu cầu tốc độ đổi mới công nghệ phải đạt
15-20% mỗi năm, nghĩa là sau khoảng 5 năm các doanh nghiệp Việt Nam phải đổi
mới được một thế hệ công nghệ. Thực tế, đây là con số quá cao nhưng mặt khác cũng
lại được coi là quá thấp đối với khoa học và công nghệ Việt Nam.


22

Khung hành lang pháp lý, việc hoàn thiện thể chế, hệ thống chính sách để
bảo đảm Luật KHCN được triển khai sâu rộng vào cuộc sống, tạo đà cho phát triển
kinh tế - xã hội, đưa KHCN thực sự trở thành lực lượng sản xuất quan trọng để phát
triển kinh tế vẫn còn nhiều bất cập. Việc ban hành các văn bản dưới Luật như Nghị
định, Thông tư hướng chậm chạp, khiến cho quá trình thực hiện Luật KHCN gặp
nhiều khó khăn.
Đầu tư để phát triển khoa học và khoa học tuy đã có nhiều chuyển biến,
được chú trọng nhưng mới chỉ đạt 2% tổng chi ngân sách nhà nước- một con số quá
thấp so với nhu cầu của hoạt động khoa học và công nghệ. Các nước tiên tiến đầu tư
cho phát triển khoa học công nghệ, đặc biệt là nghiên cứu các sản phẩm khoa học
ứng dụng luôn đạt từ 3 – 5% ngân sách. Rõ ràng sự chênh lệch về vốn đầu tư cho

KHCN cũng đã là một thách thức lớn cho nền KHCN Việt Nam .
Đội ngũ cán bộ làm công tác khoa học, đặc biệt là các nhà khoa học đầu
ngành còn thiếu và yếu, thiếu các trung tâm khoa học lớn; hiệu quả sử dụng các
phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia và kết quả hoạt động của các khu công nghệ
cao còn thấp. Thiếu cơ chế quản lý khoa học nhất là cơ chế tự chủ, tự chịu trách
nhiệm, trọng dụng, đãi ngộ nhân tài còn nhiều hạn chế. Việc nâng cao số lượng và
chất lượng đội ngũ làm công tác khoa học không thể thực hiện trong thời gian ngắn
mà đòi hỏi nhiều thời gian và tâm sức cũng là những thách thức không nhỏ cho việc
phát triển nền KHCN nước nhà.


23

Chương 3: GIẢI PHÁP VỀ VẤN ĐỀ ỨNG DỤNG KHOA HỌC
CÔNG NGHỆ VÀO QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA - HIỆN ĐẠI HÓA Ở
VIỆT NAM
Thứ nhất, nhóm giải pháp về chủ trương, chính sách
- Tiếp tục đổi mới thể chế kinh tế để khoa học và công nghệ trở thành lực
lượng sản xuất hàng đầu trong phát triển kinh tế xã hội.
Tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, có cơ chế khuyến khích doanh
nghiệp đầu tư cho đổi mới công nghệ, ứng dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất,
quan tâm tới hiệu quả khi lựa chọn công nghệ nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho mọi
nỗ lực của các doanh nghiệp, trường đại học, viện nghiên cứu và các cá nhân tiếp
cận, vận dụng, nghiên cứu và phát triển khoa học và công nghệ theo mục tiêu phát
triển kinh tế xã hội của đất nước .
- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, xây dựng mô hình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa theo hướng hiện đại.
Trong đó, cần hoàn chỉnh khung tiêu chí nước công nghiệp hiện đại. Đó là
hệ các tiêu chí về tăng trưởng kinh tế vĩ mô, các tiêu chí phản ánh về sự phát triển xã
hội, các tiêu chí đánh giá mức độ hội nhập quốc tế.

Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, tạo môi trường
pháp lý lành mạnh, thúc đẩy sự đổi mới, sáng tạo, phát huy vai trò của khoa học,
công nghệ khuyến khích phát triển năng lực trí tuệ con người.
Đồng thời tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng tăng nhanh các ngành giá trị
gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức, công nghệ mới, tập trung phát triển công nghiệp
năng lượng, công nghiệp chế tạo, công nghiệp tự động, các ngành công nghiệp mũi
nhọn với sự huy động các nguồn lực của tất cả các thành phần kinh tế.


24

Thêm vào đó nên cắt giảm các dự án đầu tư lớn nhưng hiệu quả thấp; phát
triển các ngành công nghiệp chế biến và dịch vụ dựa nhiều vào tri thức, chấm dứt
bán tài nguyên thô; nhập công nghệ thay cho nhập sản phẩm chế biến - FDI phải đi
kèm chuyển giao khoa học, công nghệ; tăng mạnh vốn đầu tư vào giáo dục - đào tạo.
Thực hiện sự chuyển hướng chiến lược từ sự phát triển dựa vào tài nguyên sang phát
triển dựa vào tri thức, năng lực trí tuệ của con người, gia tăng nhanh hàm lượng tri
thức trong GDP, giảm mạnh tiêu hao nguyên liệu, năng lượng.
- Mở rộng và tăng cường hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, hợp tác quốc tế về khoa
học và công nghệ có vai trò hết sức quan trọng, đặc biệt với nước ta hiện nay. Định
hướng giải pháp về hợp tác khoa học và công nghệ trong những năm tới là tạo ra cơ
chế, chính sách thuận lợi để các tổ chức, cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ
được học tập, đào tạo, giao lưu, hợp tác nghiên cứu với thế giới và khu vực. Đồng
thời khuyến khích, thu hút cán bộ khoa học Việt Nam ở nước ngoài đầu tư, liên kết,
hợp tác phát triển khoa học và công nghệ tại Việt Nam.
Nếu không thực hiện có hiệu quả quan hệ hợp tác và trao đổi quốc tế về
nghiên cứu - triển khai ... thì không thể tiếp nhận được khoa học và công nghệ tiên
tiến của nhân loại, không thể tranh thủ nhân tố ngoại sinh hết sức cần thiết để làm
biến đổi các nhân tố nội sinh, thúc đẩy năng lực khoa học và công nghệ quốc gia.

Chúng ta cần coi trọng hợp tác nhằm phát triển các ngành công nghệ cao, ưu tiên hợp
tác đầu tư nước ngoài vào phát triển khoa học và công nghệ, chỉ nhập khẩu và tiếp
nhận chuyển giao những công nghệ tiên tiến phù hợp với khả năng của chúng ta.
- Tạo ra được động lực cho sự phát triển khoa học và công nghệ.
Động lực phát triển khoa học và công nghệ luôn luôn vận động từ hai phía:
khoa học và sản xuất. Do vậy, chúng ta cần phải khuyến khích người sản xuất tự tìm
đến khoa học, coi khoa học và công nghệ là yếu tố sống còn và phát triển của doanh
nghiệp. Chỉ có như vậy mới có thể thúc đẩy nhu cầu về khoa học và công nghệ, các
nhà khoa học mới có cơ hội để phát huy triệt để năng lực của mình . Để tạo được


25

năng lực này, chúng ta cần phải: hình thành cơ chế chính sách thúc đẩy các doanh
nghiệp làm việc có hiệu quả bằng cách ứng dụng khoa học, triển khai công nghệ; cho
phép các doanh nghiệp dùng vốn của mình để sử dụng và phát triển khoa học; sớm
sửa đổi và hoàn thiện các chính sách miễn và giảm thuế cho các doanh nghiệp sử
dụng công nghệ tiên tiến, đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm.
Đối với những người làm khoa học, chúng ta cần phải đảm bảo cho có đựơc
mức thu nhập tương ứng với giá trị lao động mà họ đã bỏ ra, trang bị cơ sở vật chất
cần thiết để làm việc, khuyến khích tạo điều kiện để cán bộ khoa học và công nghệ là
người Việt Nam sống ở nước ngoài chuyển giao tri thức, công nghệ về nước.
- Tạo vốn cho hoạt động khoa học và công nghệ .
Vốn là nguồn lực để phát triển khoa học và công nghệ. Nếu không có hoặc
thiếu vốn thì đều không có đủ điều kiện để thực hiện các mục tiêu khoa học và công
nghệ. Kinh nghiệm ở các nước cho thấy vấn đề phát triển khoa học và công nghệ
thường được huy động từ hai phía nhà nước và khu vực doanh nghiệp, trong đó phần
nhiều là từ các nhà doanh nghiệp. Tại hội nghị ban chấp hành TW khoá VIII lần hai,
Đảng ta đưa ra chính sách đầu tư khuyến khích hỗ trợ phát triển khoa học và công
nghệ, theo đó một phần vốn ở các doanh nghiệp được dành cho nghiên cứu, đổi mới

công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực. Một phần vốn từ các chương trình kinh tế - xã
hội và dự án được dành để đầu tư cho khoa học và công nghệ nhằm đẩy mạnh việc
nghiên cứu, triển khai và đảm bảo hiệu quả của dự án. Tăng dần tỷ lệ chi ngân sách
nhà nước hàng năm cho khoa học và công nghệ đạt không dưới 2 % tổng chi ngân
sách nhà nước .
Thứ hai, nhóm giải pháp về xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao
- Tăng nguồn nhân lực khoa học và công nghệ
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (2011- 2020) khẳng định: “Phát triển
và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là
một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển
đổi mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh dài hạn, bảo đảm kinh tế - xã hội


×