Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về cách mạng bạo lực – giá trị lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.02 KB, 25 trang )

Đề tài: Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng bạo lực – giá
trị lý luận và thực tiễn
Phần 1: Phần mở đầu:
Nước Việt Nam là một nước anh hùng, suốt chiều dài lịch sử mấy nghìn năm
dựng nước và giữ nước, dân tộc ta dù nhỏ bé nhưng luôn phải gồng mình đấu
tranh chống lại các thế lực ngoại bang xâm lược. Trong quá trình đấu tranh
chống giặc ngoại xâm, biết bao chiến công hiển hách của cha ông ta đã được lưu
danh muôn thuở. Chắc chắn là người Việt Nam, chúng ta không bao giờ quên
những vị anh hùng như: Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô Quyền, Hưng Đạo Vương,
Trần Quốc Tuấn, Vua Quang Trung Nguyễn Huệ,…và rất nhiều vị anh hùng
trong lịch sử oai hùng của dân tộc. Các vị ấy đều là những vị tướng tài giỏi về
võ nghệ, tinh thông binh pháp, nghệ thuật dụng binh như thần,…tài thao lược
của các thế hệ cha ông đã được nhân dân ta đúc kết lại thành truyền thống đánh
thắng giặc ngoại xâm của dân tộc ta. Đó không chỉ là truyền thống quý báu của
dân tộc mà còn là nghệ thuật quân sự của một nước nhỏ nhưng rất đỗi anh hùng.
Như lịch sử đã chứng kiến, bạo lực xuất hiện cùng với giai cấp đối kháng; các
giai cấp, dân tộc có lợi ích không thể điều hoà và được giải quyết thông qua đấu
tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc. Bạo lực là sức mạnh, là ý chí của một giai cấp,
nhà nước hoặc lực lượng chính trị dùng để cưỡng bức hoặc chống lại sự nô dịch,
xâm lược của một giai cấp, dân tộc này đối với một giai cấp, dân tộc khác. Quân
đội, công an, toà án, nhà tù... là những công cụ bạo lực chủ yếu của Nhà nước.
Là một hiện tượng chính trị - xã hội nên bạo lực trong lịch sử hoặc từng giai
đoạn có tính chất không thuần nhất: có bạo lực tiến bộ, cách mạng và cũng có
bạo lực phản động, phản cách mạng.
Tiếp thu truyền thống đánh giặc giữ nước hào hùng của dân tộc, đứng trước
cảnh nước mất nhà tan, nhân dân đói khổ lầm than, người thanh niên yêu nước
Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm đường cứu nước. Và Người đã giúp nhân dân
Việt Nam lựa chọn đúng đắn con đường cách mạng nước mình: “Muốn cứu
nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách
mạng vô sản”. Theo chủ nghĩa Mác-Lênin, cách mạng vô sản ở thuộc địa phải
gắn liền với cách mạng chính quốc và phải tiến hành bằng con đường bạo lực.


Vận dụng một cách khoa học và sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin về con đường
bạo lực trong cách mạng vô sản vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam,
Hồ Chí Minh đã trở thành một nhà quân sự thiên tài với nghệ thuật sử dụng bạo
lực cách mạng chống lại bạo lực cách mạng, quyết định đúng đắn con đường
1


khởi nghĩa vũ trang, toàn dân đánh giặc của nhân dân Việt Nam, đem lại hòa
bình độc lập tự do cho cả dân tộc.
Với những kiến thức và những tài liệu thu thập được, chúng em mong rằng bài
tiểu luận này sẽ cung cấp thông tin cụ thể, đúng đắn và hệ thống về “Thất nghiệp
và mối quan hệ giữa thất nghiệp và tăng trưởng kinh tế.” Do thời gian và trình
độ còn hạn chế nên không thể tránh khỏi những thiếu sót, vì vậy chúng em xin
kính mong nhận được sự giúp đỡ và chỉ bảo tận tình từ cô giáo.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!

2


I: Lý do chọn đề tài:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng bạo lực chiếm một vị trí quan trọng trong
hệ thống tư tưởng . Đây là một vấn đề cơ bản của đường lối cách mạng việt nam
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng bạo lực là sự kết hợp tinh hoa văn hóa dân
tộc và trí tuệ thời đại, vừa thể hiện tinh thần dân tộc, tự chủ, sáng tạo của người
trong việc vận dụng những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác- Lênin vào
hoàn cảnh Việt Nam. Chính vì vậy là tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng bạo
lực là bước phát triển mới của học thuyết Mác –Lênin về cách mạng thuộc địa ở
thời điểm dâm tộc bị áp bức vùng lên đấu tranh
Dân tộc Việt Nam là 1 dân tộc có truyền thống yêu nước vì vậy việc tìm hiểu tư
tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng bạo lực giúp ích rất hiều cho quá trình học tập

tìm hiểu về lịch sử dân tộc. Vì vậy nhóm tôi xin được chọn đề tài này vì đây là
một vấn đề quan trọng cần thiết và luôn mang tính thời đại

3


II: Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu:
II.1: Mục đích:
Làm rõ, nghiên cứu tư tưởng Hồ CHí Minh về cách mạng bạo lực – giá trị lý
luận và thực tiễn
II.2: Nhiệm vụ:
-Nghiên cứu và làm rõ quan điểm về bạo lực cách mạng theo quan điểm của
Mác và Ăngghen.
-Nguyên cứu và làm rõ quan điểm về bạo lực cách mạng theo quan điểm của Hồ
Chí Minh.
-Giá trị lý luận và thực tiễn
II.3: Pham vi nghiên cứu:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng bạo lực trong thời chiến và thời bình.

4


III: Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:
III.1: Cơ sở lý luận:
Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lênin và các quan điểm
phương pháp luận của Hồ Chí Minh.
III.2: Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp phân tích, chứng minh, giải thích.
- Phương pháp logic và lý luận chính trị.
IV: Ý nghĩa của đề tài:

Thông qua việc tìm hiểu cách mạng giải phóng dân tộc phải thực hiện bằng con
đường cách mạng bạo lực ta thấy được việc dùng bạo lực cách mạng là cần thiết
và tất yếu trong mọi cuộc cách mạng của quần chúng, nhằm lật đổ một chế độ
chính trị lỗi thời và phản động, thiết lập nên một chế độ chính trị tiên tiến và
cách mạng nào mà còn hiểu được tầm quan trọng của quan điểm đối với đường
lối chủ trương của Đảng và nền độc lập của dân tộc cũng như định hướng phát
triển đất nước.

5


I.5: Kết cấu đề tài:
Phần 1: Phần mở đầu
Giới thiệu chung về đề tài
Phần 2: Nội dung đề tài
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lenin về bạo lực cách mạng
2. Cách mạng bạo lực trong tư tưởng của Hồ Chí Minh
3. Giá trị lý luận và thực tiễn
Phần 3: Kết luận

6


Phần 2: Nội dung nghiên cứu:
I. Quan điểm bạo lực cách mạng theo quan điểm của Mác-Awngghen và Hồ
Chí Minh.
Mác và Ăngghen khẳng định vai trò của bạo lực khi nó phục vụ cho mục đích
cải tạo xã hội bằng cách mạng và do giai cấp tiên tiến sử dụng để khắc phục sự
chống đối của lực lượng phản động.
- C.Mác đã từng khẳng định:

+ Bạo lực là bà đỡ của một chế độ xã hội mới đang thai nghén trong lòng xã hội
cũ vì giai cấp thống trị, bóc lột không bao giờ tự giao chính quyền cho lực lượng
cách mạng. Bạo lực là công cụ mà sự vận động xã hội dùng để tự mở đường cho
mình và đập tan những hình thức cứng đờ hóa đá. Giai cấp công nhân là giai cấp
có sứ mệnh lịch sử xây dựng xã hội mới tất yếu phải sử dụng bạo lực cách mạng
với nhiều hình thức khác nhau kể cả hình thức vũ trang nhằm thiết lập chính
quyền của giai cấp vô sản và thủ tiêu chế độ tư bản. Đó là cách mạng vô sản,
cách mạng vô sản ở thuộc địa phải gắn liền với cách mạng chính quốc và phải
tiến hành bằng con đường bạo lực.
-Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bạo lực cách mạng ở Việt Nam:
Trên cơ sở mục đích chính trị của chiến tranh, Hồ Chí Minh đã xác định tính
chất xã hội của chiến tranh, chiến tranh xâm lược là phi nghĩa, chiến tranh chống
xâm lược là chính nghĩa, từ đó xác định thái độ của chúng ta là ủng hộ chiến
tranh chính nghĩa, phản đối chiến tranh phi nghĩa.
Kế thừa và phát triển tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin về bạo lực cách mạng,
Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo vào thực tiễn chiến tranh cách mạng Việt
Nam. Người khẳng định: "Chế độ thực dân, tự bản thân nó đã là một hành động
bạo lực, độc lập tự do không thể cầu xin mà có được, phải dùng bạo lực cách
mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính
quyền. Bạo lực cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh được tạo bởi sức mạnh
của toàn dân, bằng
cả lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh
chính trị và đấu tranh vũ trang.
- Hồ Chí Minh Khẳng định: Ngày nay chiến tranh giải phóng dân tộc của nhân
dân ta là chiến tranh nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Hồ Chí Minh luôn coi con người là
nhân tố quyết định thắng lợi trong chiến tranh. Người chủ trương phải dựa vào
dân, coi dân là gốc, là cội nguồn của sức mạnh để "xây dựng lầu thắng lợi". Tư
7



tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh nhân dân là một trong những di sản quý báu
của Người. Tư tưởng này được Hồ Chí Minh trình bày một cách giản dị, dễ hiểu
nhưng sinh động và rất sâu sắc. Chiến tranh nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng
là cuộc chiến tranh toàn dân, phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân và đặt
dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản.
II. Tìm hiểu về tính cấp thiết của cách mạng giải phóng dân tộc phải thực
hiện bằng con đườngcách mạng bạo lực.
II.1: Bạo lực cách mạng là một phạm trù dùng để chỉ một phương pháp
giành chính quyền của quần chúng:
-Việc dùng bạo lực cách mạng là cần thiết và tất yếu trong mọi cuộc cách mạng
của quần chúng, nhằm lật đổ một chế độ chính trị lỗi thời và phản động, thiết lập
nên một chế độ chính trị tiên tiến và cách mạng.
Ở giai đoạn này, khi nước ta đang bị chế độ thực dân đô hộ thì việc dung cách
mạng bạo lực để giải phóng dân tộc là một vấn đề cấp thiết và đòi hỏi được giải
quyết. C.Mác và Ph.Ăngghen là những người đã đặt nền móng cho học thuyết
của giai cấp vô sản về chiến tranh và quân đội. Qua quá trình nghiên cứu các
cuộc cách mạng xã hội, Mác và Ăngghen khẳng định vai trò của bạo lực khi nó
phục vụ cho mục đích cải tạo xã hội bằng cách mạng và do giai cấp tiên tiến sử
dụng để khắc phục sự chống đối của lực lượng phản động. C.Mác đã từng khẳng
định: Bạo lực là bà đỡ của một chế độ xã hội mới đang thai nghén trong lòng xã
hội cũ vì giai cấp thống trị, bóc lột không bao giờ tự giao chính quyền cho lực
lượng cách mạng. Bạo lực là công cụ mà sự vận động xã hội dùng để tự mở
đường cho mình và đập tan những hình thức cứng đờ hóa đá. Giai cấp công
nhân là giai cấp có sứ mệnh lịch sử xây dựng xã hội mới tất yếu phải sử dụng
bạo lực cách mạng với nhiều hình thức khác nhau kể cả hình thức vũ trang nhằm
thiết lập chính quyền của giai cấp vô sản và thủ tiêu chế độ tư bản. Đó là cách
mạng vô sản, cách mạng vô sản ở thuộc địa phải gắn liền với cách mạng chính
quốc và phải tiến hành bằng con đường bạo lực.
+Trên cơ sở nắm vững những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin, Chủ tịch Hồ

Chí Minh đã nhận thức sâu sắc bản chất của chế độ thực dân: “Trong cuộc đấu
tranh gian khổ chống lại kẻ thù của giai cấp và dân tộc, cần dùng bạo lực cách
mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành chính quyền và bảo vệ chính
quyền” và bởi: “Chế độ thực dân, tự bản thân nó, đã là một hành động bạo lực
của kẻ mạnh đối với kẻ yếu rồi”. Người đã xây dựng nên một hệ thống về vấn đề
“Cách mạng giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng con đường cách mạng
8


bạo lực”. Hệ thống luận điểm này đã có ý nghĩa lí luận và ý nghĩa thực tiễn lớn
đối với dân tôc ta.
II.2 Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường
cách mạng bạo lực.
-Đánh giá đúng bản chất cực kỳ phản động của bọn đế quốc tay sai, Hồ Chí
Minh vạch rõ tính tất yếu của bạo lực cách mạng. "Trong cuộc đấu tranh gian
khổ chống kẻ thù của giai cấp và của dân tộc, cần dùng phản cách mạng, giành
lấy bạo lực cách mạng, chống lại bạo lực chính quyền và bảo vệ chính quyền.
-Đối với các nước thuộc địa, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải
được thực hiện bằng con đường bạo lực. Đây là bạo lực của quần chúng gồm lực
lượng chính trị và lực lượng vũ trang với hai hình thức đấu tranh kết hợp chặt
chẽ với nhau đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang.
-Các thế lực đế quốc sử dụng bạo lực để xâm lược và thống trị thuộc địa, đàn áp
dã man các phong trào yêu nước. "Chế độ thực dân tự bản thân nó, đã là một
hành động bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu rồi"
+Thực tiễn đã chứng minh điều đó, năm 1858, thực dân Pháp đã dùng bạo lực
phản cách mạng để xâm lược nước ta, chúng dùng quân đội - “một công cụ to
dùng để áp bức” với hạm đội, tàu chiến, binh lính tinh nhuệ và các loại vũ khí
hiện đại thời bấy giờ để uy hiếp, xâm lược một triều đình phong kiến với vài
khẩu súng thần công và những anh lính khố. Sau khi chiếm được nước ta, chúng
tiếp tục dùng bạo lực phản cách mạng để bóc lột nhân dân ta tới tận xương tủy,

không những thế chúng còn đàn áp đẫm máu những phong trào đấu tranh của
nhân dân ta dù cho đó có là đấu tranh theo phương pháp hòa bình hay dấy binh
khởi nghĩa. Vì vậy, để thực hiện cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, cũng như
cuộc đấu tranh để bảo vệ độc lập dân tộc, bảo vệ chủ nghĩa xã hội, tất yếu phải
“Dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính
quyền và bảo vệ chính quyền”.
Đó là quan điểm mấu chốt trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, đã được thể
hiện trong Khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 cũng như trong hai cuộc kháng
chiến chống Pháp và chống Mỹ.
- Chưa đánh bại được lực lượng và đè bẹp ý chí xâm lược của chúng thì chưa thể
có thắng lợi hoàn toàn. Vì thế, con đường để giành và giữ độc lập dân tộc chỉ có
thể là con đường cách mạng bạo lực.
-Theo học thuyết Mác- Lê-nin, có nhiều phương thức giành chính quyền cách
mạng từ tay giai cấp thống trị, song kẻ thù không bao giờ tự nguyện giao chính
9


quyền cho nhân dân. Vì vậy, cách mạng muốn thắng lợi phải dùng bạo lực của
quần chúng nhân dân.
+Để đi tới giành chính quyền cách mạng thì con đường bạo lực trước hết phải là
cuộc khởi nghĩa vũ trang của quần chúng. Và trong thời đại mới, thời đại cách
mạng vô sản thì cuộc vũ trang khởi nghĩa đó phải có sự liên kết, ủng hộ của cách
mạng vô sản thế giới.
III. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc phải thực
hiện bằng cách mạng bạo lực.
III.1: Tính tất yếu của bạo lực cách mạng
- Theo Mác: bạo lực là bà đỡ của mọi chính quyền cách mạng, vì giai cấp thống
trị bóc lột không bao giờ tự giao chính quyền cho lực lượng cách mạng.
- Theo Hồ Chí Minh: đánh giá đúng bản chất của bọn xâm lược Hồ Chí Minh
khẳng định tính tất yếu của con đương đấu tranh bằng bạo lực cách mạng Việt

Nam “trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù của giai cấp và dân tộc cần
dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành chính quyền
và bảo vệ chính quyền”, và bởi “ chế độ thực dân tự bản than nó đã là một hành
đọng bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu rồi”
Cách mạng giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng con đường cách mạng
bạo lực được quy định bởi các yếu tố:
+ Sự thống trị của thực dân đế quốc ở thuộc địa vô cùng hà khắc, không hề có
một chút quyền tự do dân chủ nào, không có cơ sở nào cho thực hành đấu tranh
không bạo lực.
+ “Chế độ thực dân, tự bản thân nó, đã là một hành động bạo lực của kẻ mạnh
đối với kẻ yếu rồi. Vì thế, con đường để giành và giữ độc lập dân tộc chỉ có thể
là con đường cách mạng bạo lực.
+ Cách mạng giải phóng dân tộc là lật đổ chế độ thực dân phong kiến, giành
chính quyền về tay cách mạng, nó phải được thực hiện bằng một cuộc khởi
nghĩa vũ trang. Như ở Việt Nam là khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi
nghĩa.
Người viết: “Trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù của giai cấp của cả
dân tộc, cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành
chính quyền và bảo vệ chính quyền”.
- Quán triệt quan điểm “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”, Hồ Chí Minh
chỉ rõ, bạo lực cách mạng ở đây là bạo lực của quần chúng, nghĩa là toàn dân
vùng dậy đánh đuổi quân xâm lược.
10


- Hình thức của bạo lực cách mạng gồm cả đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ
trang, nhưng phải “tuỳ tình hình cụ thể mà quy định những hình thức cách mạng
thích hợp, sử dụng đúng và khéo kết hợp các hình thức đấu tranh vũ trang và
đấu tranh chính trị cho cách mạng”,
III.2: Tư tưởng bạo lực cách mạng gắn bó hữu cơ với tư tưởng nhân đạo và

hoà bình:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về bạo lực cách mạng khác hẳn tư tưởng hiếu chiến của
các thế lực đế quốc xâm lược. Xuất phát từ tình yêu thương con người, quý
trọng sinh mạng con người, Hồ Chí Minh luôn tranh thủ mọi khả năng giành và
giữ chính quyền ít đổ máu. Người tìm mọi cách ngăn chặn xung đột vũ trang,
tận dụng mọi khả năng giải quyết xung đột bằng biện pháp hoà bình, chủ động
đàm phán, thương lượng, chấp nhận nhượng bộ có nguyên tắc. Việc tiến hành
chiến tranh chỉ là giải pháp bắt buộc cuối cùng. Chỉ khi không còn khả năng hòa
hoãn, khi kẻ thù ngoan cố bám giữ lập trường thực dân, chỉ muốn giành thắng
lợi bằng quân sự thì Hồ Chí Minh mới kiên quyết phát động chiến tranh.
Tư tưởng bạo lực cách mạng và tư tưởng nhân đạo hòa bình thống nhất biện
chứng với nhau. Yêu thương con người yêu chuộng hòa bình, tự do, công lý,
tranh thủ mị khả năng hòa bình để giải quyêt mọi xung đột, nhưng một khi
không thể tránh khỏi chiến tranh thỳ phải kiên quyết tiến hành chiến tranh, kiên
quyết dùng bạo lực cách mạng , dùng khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng để
giành, gữ, bảo vệ hòa bình vì độc lập dân tộc. Đánh giặc không phải là tiêu diệt
hết lực lượng mà chủ yếu là đánh bại ý chí xâm lược của chúng , kết hợp thắng
lợi với giải pháp ngoại giao để kết thúc chiến tranh.
+ Việc tiến hành các hội nghị Việt - Pháp và ký các Hiệp định trong năm 1946,
việc kiên trì yêu cầu đối phương thi hành Hiệp định Giơnevơ thể hiện rõ tư
tưởng nhân đạo và hoà bình của Hồ Chí Minh.
+Người viết: “Tôi không muốn trở về Hà Nội tay không. Tôi muốn khi trở về
nước sẽ đem cho Việt Nam những kết quả cụ thể với sự cộng tác chắc chắn mà
chúng tôi mong đợi ở nước Pháp”.
- Việc tiến hành chiến tranh chỉ là giải pháp bắt buộc cuối cùng. Chỉ khi không
còn khả năng hoà hoãn, khi kẻ thù ngoan cố bám giữ lập trường thực dân, chỉ
muốn giành thắng lợi bằng quân sự, thì Hồ Chí Minh mới kiên quyết phát động
chiến tranh.
Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến 1946 của Người có đoạn: “Chúng ta
muốn hoà bình, chúng ta đã nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng,

11


thực dân Pháp càng lấn tới vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa.
Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất
định không chịu làm nô lệ”.
- Trong khi tiến hành chiến tranh, Người vẫn tìm mọi cách vãn hồi hoà bình.
Trong kháng chiến chống Pháp cũng như chống Mỹ, Người đã nhiều lần gửi thư
cho Chính phủ và nhân dân hai nước này đề nghị đàm phán hoà bình để kết thúc
chiến tranh. Điều này thể hiện trong chiến lược ngoại giao “vừa đánh vừa đàm”
của Người.
III.3: Hình thái bạo lực cách mạng
- Xuất phát từ tương quan lực lượng giữa ta và địch, Hồ Chí Minh chủ trương
khởi nghĩa toàn dân và phát động cuộc chiến tranh nhân dân. Người nói: “Không
dùng toàn lực của nhân dân về đủ mọi mặt để ứng phó thì không thể nào thắng
lợi được”
-Toàn dân khởi nghĩa, toàn dân nổi dậy là nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về hình thái của bạo lực cách mạng.
Phương châm chiến lược là toàn dân, toàn diện, trường kỳ kháng chiến.Trong
chiến tranh, “quân sự là việc chủ chốt”, nhưng đồng thời kết hợp chặt chẽ với
đấu tranh chính trị. “Thắng lợi quân sự đem lại thắng lợi chính trị, thắng lợi
chính trị sẽ làm cho thắng lợi quân sự to lớn hơn”
-Lực lượng toàn dân là điều kiện để đấu tranh toàn diện trên tất cả các mặt quân
sự, chính trị, ngoại giao,kinh tế, văn hóa, tư ưởng. Đấu tranh ngoại giao cũng là
một mặt trận có ý nghĩa chiến lược nhằm thêm bạn bớt thù, phân hoá, cô lập kẻ
thù, phát huy yếu tố chính nghĩa giữa cuộc đấu tranh giữa giải phóng dân tộc và
bảo vệ tổ quốc, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của quốc tế. “vừa đánh vừa đàm”,
“đánh là chủ yếu, đàm là hỗ trợ”.Đấu tranh kinh tế là ra sức tăng sản xuất, thực
hành tiết kiệm, phát triển kinh tế của ta, phá hoại kinh tế của địch. Người kêu
gọi “ hậu phương thi đua với tiền phương ”, coi “ruộng rẫy là chiến trường, cuốc

cày là vũ khí, nhà nông là chiến sỹ”. “Chiến tranh về mặt văn hoá hay tư tưởng
so với những mặt khác cũng không kém phần quan trọng”. trước những kẻ thù
lớn mạnh, Hồ Chí Minh chủ trương sử dụng phương châm chiến lược đánh lâu
dài.Về kháng chiến trường kỳ, trong thời kỳ chống Pháp Người nói: “Địch muốn
tốc chiến tốc thắng. Ta lấy trường kỳ kháng chiến trị nó, thì địch nhất định thua,
ta nhất định thắng”. Trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước Người ra Lời kêu gọi
(17/7/1967): “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn
12


nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố khác có thể bị tàn phá, nhưng
chúng ta nhất định phải đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”.
Đấu tranh trong lĩnh vực văn hóa, tư tưởng : triệt để tẩy trừ mọi di tích thuộc đị
và ảnh hưởng nô dịch của văn hóa đế quốc, phát triển truyền thống tốt đẹp của
dân tộc tiếp thu cái mới của văn hóa tiến bộ. Làm cho nhân dân thấy rõ mục đích
của cách mạng và chiến tranh chính nghĩa là vì độc lập tự do làm cho toàn dân
tham gia kháng chiến
- Tự lực cánh sinh cũng là một phương châm chiến lược rất quan trọng nhằm
phát huy cao độ nguồn sức mạnh của nhân dân.
Xuất phát từ hoàn cảnh nước ta là một nước nghèo, kinh tế kém phát triển, vừa
giành được độc lập lại phải đương đầu với thực dân, đế quốc có tiềm lực kinh tế
quân sự mạnh hơn ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương “vừa kháng chiến vừa
kiến quốc” để xây dựng và phát triển lực lượng ta, bảo đảm ta càng đánh càng
trưởng thành. Người chỉ đạo: phải trường kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh,
“trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi”. Trường kỳ là đánh lâu dài, lấy thời
gian làm lực lượng để chuyển hoá so sánh dần dần thế và lực của ta, giành thắng
lợi từng bước, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Tự lực cánh sinh là dựa vào
sức mình, không ỷ lại, “phải đem sức ta mà giải phóng cho ta”, nhưng đồng thời
phải hết sức tranh thủ sự đồng tình giúp đỡ của quốc tế, tạo nên sức mạnh tổng
hợp lớn hơn địch để đánh và thắng chúng.

Tư tưởng cơ bản của Chủ Tịch Hồ Chí Minh về chiến tranh đã trở thành tư
tưởng chỉ đạo xuyên suốt và là nguồn gốc thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ của nhân dân ta. Ngày nay những tư tưởng đó còn
nguyên giá trị, định hướng của Đảng ta trong việc đề ra những quan điểm cơ bản
tiến hành chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
- Độc lập tự chủ, tự lực tự cường kết hợp với tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế
cũng là một quan điểm nhất quán trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
IV. Giá trị lý luận và thực tiễn của đề tài
Giá trị nhân văn trong di sản lý luận, tư tưởng, văn hoá tinh thần của Chủ tịch
Hồ Chí Minh để lại cho nhân loại và dân tộc Việt Nam thật sự vĩ đại và là một
bộ phận vô cùng quan trọng trong nội hàm tư tưởng của Người. Chính các giá trị
nhân văn được sinh ra từ trí tuệ và nhân cách Hồ Chí Minh đã làm đẹp đẽ hơn,
cao thượng hơn, gần gũi hơn hình ảnh của một danh nhân văn hoá nhân loại,
13


một chiến sĩ cộng sản lỗi lạc của phong trào cách mạng thế giới, một anh hùng
giải phóng dân tộc, một lãnh tụ thiên tài của Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và các lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam...
Trong bài viết này, chúng tôi xin trình bày một số nội dung cơ bản thể hiện tính
nhân văn trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về sử dụng bạo lực cách
mạng.
IV.1 Giá trị lý luận
- Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn đúng đắn con đường bạo lực cách mạng để
giải phóng giai cấp công nhân, dân tộc, con người Việt Nam khỏi sự xâm lược
của nước ngoài và sự thống trị, bóc lột của giai cấp phong kiến phản động trong
nước. Nếu xét theo lôgíc hình thức thuần tuý, dường như việc lựa chọn bạo lực
với tính cách một phương pháp để giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp công
nhân, giải phóng xã hội và con người là đi ngược với quan điểm nhân văn. Trên
thực tế, các lãnh tụ của giai cấp vô sản cũng đã nhận thức đầy đủ sự quý giá của

con đường hoà bình để giành thắng lợi trong đấu tranh giai cấp và giải phóng
dân tộc. Nhưng cơ hội đó thật vô cùng hiếm hoi và những người bị áp bức bóc
lột, bị xâm lược không thể trông chờ vào sự "tự giác" trao quyền lực của giai cấp
thống trị cho mình. Lịch sử cách mạng thế giới và Việt Nam đã chứng minh điều
đó. Kinh nghiệm thực tiễn cũng chỉ ra rằng, tiến hành đấu tranh bằng con đường
bạo lực cách mạng sẽ rút ngắn sự khổ đau, quằn quại của quần chúng nhân dân
dưới sự bóc lột hà khắc của giai cấp thống trị, sự xâm lược của chủ nghĩa đế
quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: "... những người cách mạng Việt
Nam đã được tiếp thu ảnh hưởng đầy sức sống của Cách mạng tháng Mười và
chủ nghĩa Mác - Lênin. Điều đó tựa như người đi đường đang khát mà có nước
uống, đang đói mà có cơm ăn". Sử dụng bạo lực trong đấu tranh cách mạng của
giai cấp vô sản khác về bản chất so với việc giai cấp thống trị và những kẻ đi
xâm lược dùng quân đội nhà nghề với súng đạn, phương tiện quân sự để tiêu
diệt những người cách mạng nhằm bóp chết phong trào đấu tranh giai cấp, đấu
tranh dân tộc để thiết lập, duy trì sự thống trị của chúng. Do vậy, việc lựa chọn
bạo lực cách mạng để thực hiện mục tiêu giải phóng giai cấp, giải phóng dân
tộc, giải phóng con người không mâu thuẫn với quan điểm lý luận; trái lại, là
biện pháp tích cực để thực hiện nguyện vọng được giải phóng của quần chúng
cần lao, là con đường đúng đắn nhất để thực hiện mục tiêu cao đẹp - vì lợi ích
của nhân dân lao động. Trong cuộc đụng đầu lịch sử giữa dân tộc Việt Nam và
đế quốc Mỹ xâm lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đại diện cho ý chí của dân tộc
nêu quyết tâm "CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ”có thể còn kéo dài. Đồng
14


bào ta có thể phải hy sinh nhiều của, nhiều người. Dù sao chúng ta phải quyết
tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn".
- Trong tư tưởng về sử dụng bạo lực của Chủ tịch Hồ Chí Minh được thể hiện
sâu sắc, sinh động ở cách tổ chức lực lượng và hình thức tiến hành bạo lực cách
mạng. Trên cơ sở nhận thức vai trò quyết định của quần chúng nhân dân đối với

sự phát triển của lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có quan niệm đúng đắn ngay
từ đầu về tổ chức lực lượng, phương thức, hình thức tiến hành bạo lực phù hợp
với điều kiện cụ thể của Việt Nam và tư tưởng đó đã không ngừng phát triển,
hoàn thiện trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Nhờ vậy, trong đấu
tranh cách mạng giành chính quyền cũng như trong các cuộc kháng chiến chống
xâm lược, Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã huy
động sức mạnh của cả dân tộc để chiến đấu và chiến thắng. Để bảo vệ nền độc
lập và chính quyền cách mạng, Người kêu gọi toàn dân, bất kỳ đàn ông, đàn bà,
người già, người trẻ, hễ là người Việt Nam hãy sử dụng mọi thứ vũ khí có trong
tay để chống giặc, cứu nước. Trong thời khắc đặc biệt của cuộc kháng chiến
chống đế quốc Mỹ và tay sai, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi 31 triệu người
Việt Nam phải là 31 triệu dũng sĩ diệt Mỹ, cứu nước. Các tư tưởng trên đây của
Hồ Chí Minh vừa thể hiện sự tin tưởng vào con người, vào nhân dân, nhận thấy
sức mạnh vô địch của nhân dân mà lực lượng vũ trang là nòng cốt; vừa thể hiện
quyết tâm sắt đá của Đảng, dân tộc, quân đội đối với nhiệm vụ giành, giữ độc
lập tự do và chủ nghĩa xã hội.Với mục tiêu phát huy cao nhất sức mạnh của nhân
dân, trong đấu tranh cách mạng, trong kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
lựa chọn các phương thức, hình thức thích hợp như: kết hợp khởi nghĩa vũ trang
của quần chúng cách mạng và chiến tranh nhân dân; thực hiện chiến tranh toàn
dân, toàn diện; quan tâm đặc biệt đến việc xây dựng lực lượng vũ trang với ba
thứ quân; kết hợp tiến công địch về quân sự với đấu tranh về ngoại giao...
Đường lối chiến lược đó bắt nguồn từ tư tưởng "lấy dân làm gốc", coi nhân dân
là lực lượng chính của sự nghiệp đấu tranh cách mạng. Có thể nói, tư tưởng dựa
vào sức mạnh của nhân dân để tiến hành cách mạng giải phóng là nét độc đáo
của tính nhân văn trong tư tưởng Hồ Chí Minh về sử dụng bạo lực cách mạng, là
sự phát triển cao của văn hoá giữ nước, là sự đơm hoa kết trái của văn hiến Việt
Nam được soi sáng bởi chủ nghĩa Mác - Lênin.
IV.2 Giá trị thực tiễn:
-Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về sử dụng bạo lực cách mạng còn thể hiện ở sự
quan tâm của Người đối với việc giáo dục tinh thần yêu nước, nuôi dưỡng chủ

nghĩa anh hùng cách mạng cho nhân dân, cán bộ và chiến sĩ các lực lượng vũ
15


trang nhân dân.Trong di sản lý luận quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vấn đề
sức mạnh của chiến tranh chính nghĩa, của chiến tranh nhân dân, truyền thống
đánh giặc, giữ nước của dân tộc, vai trò của con người, đặc biệt là yếu tố chính
trị - tinh thần... được Người rất quan tâm và coi đó như khả năng thực tế để
chuyển hoá thế và lực trong chiến tranh, trong đấu tranh vũ trang và trong cách
mạng ở Việt Nam nói chung. Niềm tin có cơ sở khoa học vào sự vận động mang
tính quy luật của chiến tranh chính nghĩa, chiến tranh cách mạng, tiến bộ và vai
trò của nó đã giúp Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng tạo ra nhiều nội dung, hình thức
tuyên truyền, giáo dục phù hợp, hiệu quả nhằm nuôi dưỡng truyền thống yêu
nước, phát huy tinh thần quyết chiến quyết thắng trong thực hiện mục tiêu độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Thấm nhuần tư tưởng đó của Người, các địa
phương, các ngành, các cấp, các đơn vị lực lượng vũ trang luôn coi trọng công
tác giáo dục tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng, biến nó thành
những phong trào rộng lớn và thiết thực, như "Tay cày tay súng", "Tay búa tay
súng", "Thi đua giết giặc lập công", "Thóc không thiếu một cân, quân không
thiếu một người", "Thanh niên ba sẵn sàng, phụ nữ ba đảm đang"...Các phong
trào yêu nước cụ thể, tính đa dạng, phong phú của chủ nghĩa anh hùng cách
mạng trong đấu tranh vũ trang, trong chiến tranh là kết quả của sự nhận thức
đúng đắn vai trò quần chúng nhân dân, vai trò con người, sức mạnh của tinh
thần yêu nước... đã được vật chất hoá thông qua hoạt động thực tiễn của con
người. Sự nhất quán trong mục tiêu của chiến tranh chống xâm lược với sự năng
động, sáng tạo trong tuyên truyền, giáo dục, động viên nhân dân và quân đội đã
tạo thành động lực to lớn, sức mạnh kỳ diệu làm nên mọi thắng lợi của cuộc đấu
tranh cách mạng. Điều đó đã làm sâu đậm thêm tính nhân văn trong tư tưởng về
sử dụng bạo lực cách mạng của Hồ Chí Minh.
-Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định một cách rõ ràng, dứt khoát rằng, quân đội

cách mạng từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu; nghĩa là quân đội ta
luôn có sự liên hệ chặt chẽ với nhân dân. Quân đội cách mạng phải khác căn bản
với quân đội nhà nghề của giai cấp thống trị, xâm lược; phải thường xuyên tăng
cường bản chất cách mạng của giai cấp công nhân, mang tính nhân dân và dân
tộc sâu sắc. Sự thống nhất của các yếu tố đó là một giá trị nhân văn đáng tự hào
của quân đội ta nhờ có sự tổ chức, giáo dục, rèn luyện của Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Người dạy rằng, "dân như nước, mình như cá, lực lượng bao nhiêu là nhờ
ở dân hết" nên quân đội phải thương yêu, quý trọng nhân dân như cha, mẹ, anh
em của mình, phải đoàn kết chặt chẽ với dân, giúp nhân dân trong mọi hoàn
cảnh.

16


-Đồng thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng giáo dục cán bộ, chiến sĩ quân đội phải
thương yêu lẫn nhau như những người ruột thịt, chiến sĩ chưa ăn, cán bộ không
được kêu mình đói; chiến sĩ chưa đủ ấm, cán bộ không được kêu mình rét; chính
trị viên phải như chị hiền, chiến sĩ, cấp dưới phải tôn trọng cấp trên, bảo vệ cán
bộ và chấp hành nghiêm mọi mệnh lệnh. Mặt khác, Người rất coi trọng giáo dục
cán bộ chiến sĩ phải có tinh thần đoàn kết quốc tế, phải có lòng nhân đạo, có sự
phân biệt rõ ràng giữa những kẻ xâm lược, hiếu chiến với nhân dân lao động và
yêu chuộng hoà bình, công lý nhằm tăng bạn, bớt thù.Tóm lại, giá trị thực tiễn
trong tư tưởng Hồ Chí Minh về sử dụng bạo lực cách mạng là một giá trị văn
hoá tinh thần của Đảng, dân tộc và quân đội. Giá trị đó vừa là một nét đặc sắc
trong tư tưởng, nhân cách của Người, vừa là một di sản quý báu mà các thế hệ
người Việt Nam hiện nay cần giữ gìn, kế thừa và phát huy trong cuộc đấu tranh
để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
V. Ý nghĩa và việc vận dụng tư tưởng HỒ Chí Minh về vấn đề và cách mạng
giải phóng dân tộc
Có thể nói, bốn nguồn gốc chính yếu ( Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam; Tinh hoa

văn hoá nhân loại; Chủ nghĩa Mác – Lênin; và Nhân tố chủ quan, bản thân con
người Hồ Chí Minh) hình thành nên tư tưởng của Hò Chủ tịch cũng chính là
những nguồn gốc hình thành nên tư tưởng của Người về vấn đề dân tộc và cách
mạng giải phóng dân tộc, chỉ có sự biểu hiện của nó trong các giai đoạn, các vấn
đề khác nhau là khác nhau thôi. C.Mac, F.Ăngghen, V.I.Lênin Hồ Chí Minh là
những vĩ nhân, có chung một mục tiêu, lý tưởng là giải phóng giai cấp, giải
phóng xã hội, giải phóng con người, xây dựng chế độ xã hội mang bản chất nhân
đạo cao cả, một chế độ xã hội tốt đẹp. Xuất phát từ điều kiện chủ nghĩa tư bản tự
do cạnh tranh châu Âu đầu thế kỉ XIX, C.Mac và F.Ăngghen đã vạch ra con
đường cách mạng tất yếu là đi từ giải phóng giai cấp đến giải phóng nhân loại.
Cuối thế kỉ XIX, trong điều kiện chủ nghĩa tư bản chuyển sang chủ nghĩa đế
quốc, Lênin đã chỉ ra con đường từ giải phóng giai cấp đến giải phóng dân tộc
và giải phóng nhân loại. Đầu thế kỉ XX, sinh ra trong điều kiện một nước thuộc
địa nửa phong kiến, chủ nghĩa thực dân đang bành chướng mạnh mẽ, Hồ Chí
Minh lại xuấy phát từ giải phóng gdân tộc đến giải phóng giai cấp và giải phóng
nhân loại. Từ đó ở người đã hình thành nên tư tưởng về cách mạng giải phóng
dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trước hết, phải nói rằng tư tưởng Hồ Chí
Minh về cách mạng giải phóng dân tộc có nguồn gốc từ sự nhận thức sâu sắc lý
luận Mác – Lênin. C.Mác và Lênin cho rằng cách mạng giải phóng dân tộc phải
được thực hiện bằng con đường cách mạng vô sản, do giai cấp công nhân lãnh
đạo, cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận khăng khít của cách mạng vô
sản thế giới và cách mạng đó phải được thực hiện bằng con đường bạo lực. Bạo
17


lực cách mạng là quy luật phổ biến của cách mạng vô sản. như vậy, lý luận của
Mác – Lênin đã chỉ rõ ở các nước thuộc địa và phu thuộc, vấn đề đánh đổ đế
quốc giành độc lập dân tộc là tất yếu, phải giải phóng các dân tộc bị áp bức để
tiến lên giải phóng con người, xây dựng một xã hội tốt đẹp. Đó là sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân. Thứ hai, tư tưởng của Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc

và cách mạng giải póng dân tộc còn xuất phát từ sự tìm hiểu các cuộc cách mạng
trên thế giới. Qua tìm hiểu, Hồ Chí Minh thấy rõ các cuộc cách mạng trên thế
giới đều không triệt để, ở đó, người lao động vẫn bị áp bức, bóc lột nặng nề,
nhân dân ở đó còn đang muốn tìm kiếm một cuộc cách mạng khác. Hồ Chí Minh
đã khẳng định; chỉ có con đường cách mạng vô sản là cái cần thiết cho dân tộc
ta, là con đường giải phóng nhân dân ta. Sau nà, khi tổng kết về con đường giải
phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã nói một cách rõ ràng hơn: “Muốn cứu nước và
giải phóng dân tộc không có con đường nào kháccon đường cách mạng vô sản”.
VI.Tính nhân văn trong tư tưởng Hồ Chí Minh về sử dụng bạo lực cách mạng:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về sử dụng bạo lực cách mạng chứa đựng giá trị nhân
văn sâu sắc. Nó được khởi nguồn từ sự thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin, từ
nền văn hoá và văn hiến của dân tộc Việt Nam cũng như từ chính nhân cách cao
cả của Người. Tính nhân văn đó thể hiện tập trung ở: sự lựa chọn con đường bạo
lực cách mạng, phương pháp tổ chức lực lượng và tiến hành bạo lực cách mạng,
sự nuôi dưỡng và phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, sự xác định những
nguyên tắc xây dựng, giáo dục và rèn luyện lực lượng vũ trang nhân dân.
VI.1: Ngọn nguồn của tính nhân văn trong tư tưởng Hồ Chí Minh về sử dụng
bạo lực cách mạng.
-Tính nhân văn trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về sử dụng bạo lực
cách mạng trước hết được bắt nguồn từ sự thấm nhuần của Người về lý luận và
thực tiễn bạo lực cách mạng, tiến bộ của giai cấp vô sản, của chủ nghĩa Mác Lênin và kinh nghiệm đấu tranh cách mạng của các Đảng Cộng sản và công
nhân trong phong trào cộng sản quốc tế.
+ Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức sâu sắc sự chỉ dẫn của các nhà kinh điển
mácxít cho rằng, bạo lực cách mạng là bà đỡ cho xã hội mới được thai nghén
trong lòng xã hội cũ; một dân tộc không có vũ khí và không biết sử dụng vũ khí
chỉ xứng đáng làm nô lệ; rằng, để thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình,
giai cấp vô sản phải sử dụng bạo lực cách mạng nhằm thủ tiêu xã hội cũ và xây
dựng xã hội xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã tự khảo
sát thực tiễn đấu tranh đầy máu và nước mắt của giai cấp vô sản thế giới và các
dân tộc bị áp bức, bóc lột và bị xâm lược. Người đã phân tích, tổng kết và đúc

18


rút nên những bài học kinh nghiệm quý báu từ sự thất bại của Công xã Pari, sự
đứng vững của chính quyền Xôviết non trẻ sau Cách mạng tháng Mười Nga và
chiến thắng vĩ đại của Liên Xô trong cuộc chiến tranh vệ quốc chống phát xít
Đức, quân phiệt Nhật Bản... Từ lý luận và thực tiễn cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã khẳng định rằng, muốn cứu nước, giải phóng dân tộc nhất thiết phải đi
theo con đường cách mạng vô sản và chủ nghĩa Lênin; rằng, "trong cuộc đấu
tranh gian khổ chống kẻ thù của giai cấp và của dân tộc, cần dùng bạo lực cách
mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính
quyền".
-Tính nhân văn trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về sử dụng bạo lực
cách mạng còn được bắt nguồn từ văn hoá giữ nước và văn hiến của dân tộc Việt
Nam.
+ Thật hiếm có một dân tộc nào như dân tộc Việt Nam - một dân tộc không
những luôn bị kẻ thù bên ngoài rình rập, nhòm ngó nuôi dã tâm xâm lược, mà
còn phải trải qua biết bao nhiêu cuộc đấu tranh giành và giữ độc lập, tự do. Lịch
sử đấu tranh cải tạo thiên nhiên để phát triển kinh tế, văn hoá; chống kẻ thù xâm
lược để giải phóng, giữ gìn non sông, đất nước của dân tộc ta đã tích hợp thành
những giá trị văn hoá trong lao động sản xuất và đánh giặc giữ nước. Đó chính
là sự nhận thức và ứng xử các mối quan hệ bản chất như: dựng nước và giữ
nước; sức mạnh của quần chúng nhân dân và lực lượng vũ trang; chiến đấu trên
chiến trường và đàm phán về ngoại giao; sức mạnh vật chất và sức mạnh tinh
thần; con người và vũ khí; tiêu diệt địch và sự nhân đạo, khoan hồng đối với sĩ
quan, binh lính địch bị chết, bị thương, bị bắt; về chính sách đãi ngộ đối với
những người có công với Tổ quốc... Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát
huy truyền thống "lấy đại nghĩa thắng hung tàn, lấy trí nhân thay cường bạo"; cả
nước chung sức, toàn dân đánh giặc; thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu
mất nước, không chịu làm nô lệ.

-Tính nhân văn trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về sử dụng bạo lực
cách mạng cũng là sản phẩm chủ quan được bắt nguồn từ nhân cách, đạo đức,
văn hoá của Người.
+ Hồ Chí Minh từng mong muốn được làm trò nhỏ của Khổng Tử, Giêsu, Thích
Ca Mâu Ni... Trên thực tế, Người đã sống, làm việc, học tập, đấu tranh theo một
lý tưởng cao đẹp, không bao giờ mơ hồ, thoả hiệp; đồng thời, luôn có sự điều
chỉnh để các nguyên tắc chung phù hợp với điều kiện cụ thể. Hồ Chí Minh là
tấm gương sáng về lòng độ lượng, khoan dung, thương yêu, quý mến con người
và có nỗi vui buồn đồng loại. Chính tình thương và lòng nhân ái bao la đó đã
dẫn dắt Người đến đỉnh cao của các giá trị về chính trị, văn hoá, đạo đức, nghệ
19


thuật quân sự cách mạng... Các giá trị cao đẹp của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt
nền móng tinh thần - văn hoá để dân tộc ta không ngừng nâng cao vị thế quốc tế
của mình; tích cực chủ động hội nhập vào cộng đồng thế giới, với những quan
hệ hợp tác song phương, đa phương.
VI.2: Một số nội dung cơ bản của tính nhân văn trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ
Chí Minh về sử dụng bạo lực cách mạng.
Xét cả mặt lịch sử lẫn lôgíc, tính nhân văn chỉ có trong bạo lực cách mạng và
không thể có trong bạo lực phản cách mạng chống lại tiến bộ lịch sử, chống lại
con người. Nội dung nhân văn trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về bạo
lực cách mạng có thể được khai thác từ nhiều góc độ khác nhau. Theo chúng tôi,
có thể tập trung vào những vấn đề cơ bản sau đây:
-Thứ nhất, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn con đường bạo lực cách mạng để
giải phóng giai cấp công nhân, dân tộc, con người Việt Nam khỏi sự xâm lược
của nước ngoài và sự thống trị, bóc lột của giai cấp phong kiến phản động trong
nước.
+Nếu xét theo lôgíc hình thức thuần tuý, dường như việc lựa chọn bạo lực với
tính cách một phương pháp để giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp công

nhân, giải phóng xã hội và con người là đi ngược với quan điểm nhân văn. Trên
thực tế, các lãnh tụ của giai cấp vô sản cũng đã nhận thức đầy đủ sự quý giá của
con đường hoà bình để giành thắng lợi trong đấu tranh giai cấp và giải phóng
dân tộc. Nhưng cơ hội đó thật vô cùng hiếm hoi và những người bị áp bức bóc
lột, bị xâm lược không thể trông chờ vào sự "tự giác" trao quyền lực của giai cấp
thống trị cho mình. Lịch sử cách mạng thế giới và Việt Nam đã chứng minh điều
đó. Kinh nghiệm thực tiễn cũng chỉ ra rằng, tiến hành đấu tranh bằng con đường
bạo lực cách mạng sẽ rút ngắn sự khổ đau, quằn quại của quần chúng nhân dân
dưới sự bóc lột hà khắc của giai cấp thống trị, sự xâm lược của chủ nghĩa đế
quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: "... những người cách mạng Việt
Nam đã được tiếp thu ảnh hưởng đầy sức sống của Cách mạng tháng Mười và
chủ nghĩa Mác - Lênin. Điều đó tựa như người đi đường đang khát mà có nước
uống, đang đói mà có cơm ăn". Sử dụng bạo lực trong đấu tranh cách mạng của
giai cấp vô sản khác về bản chất so với việc giai cấp thống trị và những kẻ đi
xâm lược dùng quân đội nhà nghề với súng đạn, phương tiện quân sự để tiêu
diệt những người cách mạng nhằm bóp chết phong trào đấu tranh giai cấp, đấu
tranh dân tộc để thiết lập, duy trì sự thống trị của chúng. Do vậy, việc lựa chọn
bạo lực cách mạng để thực hiện mục tiêu giải phóng giai cấp, giải phóng dân
tộc, giải phóng con người không mâu thuẫn với quan điểm nhân văn; trái lại, là
biện pháp tích cực để thực hiện nguyện vọng được giải phóng của quần chúng
20


cần lao, là con đường đúng đắn nhất để thực hiện mục tiêu cao đẹp - vì lợi ích
của nhân dân lao động
-Thứ hai, tính nhân văn trong tư tưởng về sử dụng bạo lực của Chủ tịch Hồ Chí
Minh được thể hiện sâu sắc, sinh động ở cách tổ chức lực lượng và hình thức
tiến hành bạo lực cách mạng. Trên cơ sở nhận thức vai trò quyết định của quần
chúng nhân dân đối với sự phát triển của lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có
quan niệm đúng đắn ngay từ đầu về tổ chức lực lượng, phương thức, hình thức

tiến hành bạo lực phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam và tư tưởng đó đã
không ngừng phát triển, hoàn thiện trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt
Nam. Nhờ vậy, trong đấu tranh cách mạng giành chính quyền cũng như trong
các cuộc kháng chiến chống xâm lược, Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã huy động sức mạnh của cả dân tộc để chiến đấu và
chiến thắng. Để bảo vệ nền độc lập và chính quyền cách mạng, Người kêu gọi
toàn dân, bất kỳ đàn ông, đàn bà, người già, người trẻ, hễ là người Việt Nam hãy
sử dụng mọi thứ vũ khí có trong tay để chống giặc, cứu nước. Trong thời khắc
đặc biệt của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ và tay sai, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã kêu gọi 31 triệu người Việt Nam phải là 31 triệu dũng sĩ diệt Mỹ, cứu
nước. Các tư tưởng trên đây của Hồ Chí Minh vừa thể hiện sự tin tưởng vào con
người, vào nhân dân, nhận thấy sức mạnh vô địch của nhân dân mà lực lượng vũ
trang là nòng cốt; vừa thể hiện quyết tâm sắt đá của Đảng, dân tộc, quân đội đối
với nhiệm vụ giành, giữ độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội.

Với mục tiêu phát huy cao nhất sức mạnh của nhân dân, trong đấu tranh cách
mạng, trong kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn các phương thức,
hình thức thích hợp như: kết hợp khởi nghĩa vũ trang của quần chúng cách mạng
và chiến tranh nhân dân; thực hiện chiến tranh toàn dân, toàn diện; quan tâm đặc
biệt đến việc xây dựng lực lượng vũ trang với ba thứ quân; kết hợp tiến công
địch về quân sự với đấu tranh về ngoại giao... Đường lối chiến lược đó bắt
nguồn từ tư tưởng "lấy dân làm gốc", coi nhân dân là lực lượng chính của sự
nghiệp đấu tranh cách mạng. Có thể nói, tư tưởng dựa vào sức mạnh của nhân
dân để tiến hành cách mạng giải phóng là nét độc đáo của tính nhân văn trong tư
tưởng Hồ Chí Minh về sử dụng bạo lực cách mạng, là sự phát triển cao của văn
hoá giữ nước, là sự đơm hoa kết trái của văn hiến Việt Nam được soi sáng bởi
chủ nghĩa Mác - Lênin.
-Thứ ba, tính nhân văn trong tư tưởng Hồ Chí Minh về sử dụng bạo lực cách
mạng còn thể hiện ở sự quan tâm của Người đối với việc giáo dục tinh thần yêu
21



nước, nuôi dưỡng chủ nghĩa anh hùng cách mạng cho nhân dân, cán bộ và chiến
sĩ các lực lượng vũ trang nhân dân.
Trong di sản lý luận quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vấn đề sức mạnh của
chiến tranh chính nghĩa, của chiến tranh nhân dân, truyền thống đánh giặc, giữ
nước của dân tộc, vai trò của con người, đặc biệt là yếu tố chính trị - tinh thần...
được Người rất quan tâm và coi đó như khả năng thực tế để chuyển hoá thế và
lực trong chiến tranh, trong đấu tranh vũ trang và trong cách mạng ở Việt Nam
nói chung. Niềm tin có cơ sở khoa học vào sự vận động mang tính quy luật của
chiến tranh chính nghĩa, chiến tranh cách mạng, tiến bộ và vai trò của nó đã giúp
Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng tạo ra nhiều nội dung, hình thức tuyên truyền, giáo
dục phù hợp, hiệu quả nhằm nuôi dưỡng truyền thống yêu nước, phát huy tinh
thần quyết chiến quyết thắng trong thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội. Thấm nhuần tư tưởng đó của Người, các địa phương, các ngành,
các cấp, các đơn vị lực lượng vũ trang luôn coi trọng công tác giáo dục tinh thần
yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng, biến nó thành những phong trào
rộng lớn và thiết thực, như "Tay cày tay súng", "Tay búa tay súng", "Thi đua giết
giặc lập công", "Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người",
"Thanh niên ba sẵn sàng, phụ nữ ba đảm đang"...
Các phong trào yêu nước cụ thể, tính đa dạng, phong phú của chủ nghĩa anh
hùng cách mạng trong đấu tranh vũ trang, trong chiến tranh là kết quả của sự
nhận thức đúng đắn vai trò quần chúng nhân dân, vai trò con người, sức mạnh
của tinh thần yêu nước... đã được vật chất hoá thông qua hoạt động thực tiễn của
con người. Sự nhất quán trong mục tiêu của chiến tranh chống xâm lược với sự
năng động, sáng tạo trong tuyên truyền, giáo dục, động viên nhân dân và quân
đội đã tạo thành động lực to lớn, sức mạnh kỳ diệu làm nên mọi thắng lợi của
cuộc đấu tranh cách mạng. Điều đó đã làm sâu đậm thêm tính nhân văn trong tư
tưởng về sử dụng bạo lực cách mạng của Hồ Chí Minh.


Thứ tư, tính nhân văn trong tư tưởng Hồ Chí Minh còn thể hiện ở việc xác định
nguyên tắc xây dựng, rèn luyện, giáo dục quân đội với tính cách là lực lượng
nòng cốt để thực hiện bạo lực cách mạng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định một cách rõ ràng, dứt khoát rằng, quân đội
cách mạng từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu; nghĩa là quân đội ta
luôn có sự liên hệ chặt chẽ với nhân dân. Quân đội cách mạng phải khác căn bản
22


với quân đội nhà nghề của giai cấp thống trị, xâm lược; phải thường xuyên tăng
cường bản chất cách mạng của giai cấp công nhân, mang tính nhân dân và dân
tộc sâu sắc. Sự thống nhất của các yếu tố đó là một giá trị nhân văn đáng tự hào
của quân đội ta nhờ có sự tổ chức, giáo dục, rèn luyện của Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Người dạy rằng, "dân như nước, mình như cá, lực lượng bao nhiêu là nhờ
ở dân hết" nên quân đội phải thương yêu, quý trọng nhân dân như cha, mẹ, anh
em của mình, phải đoàn kết chặt chẽ với dân, giúp nhân dân trong mọi hoàn
cảnh.

Đồng thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng giáo dục cán bộ, chiến sĩ quân đội phải
thương yêu lẫn nhau như những người ruột thịt, chiến sĩ chưa ăn, cán bộ không
được kêu mình đói; chiến sĩ chưa đủ ấm, cán bộ không được kêu mình rét; chính
trị viên phải như chị hiền, chiến sĩ, cấp dưới phải tôn trọng cấp trên, bảo vệ cán
bộ và chấp hành nghiêm mọi mệnh lệnh. Mặt khác, Người rất coi trọng giáo dục
cán bộ chiến sĩ phải có tinh thần đoàn kết quốc tế, phải có lòng nhân đạo, có sự
phân biệt rõ ràng giữa những kẻ xâm lược, hiếu chiến với nhân dân lao động và
yêu chuộng hoà bình, công lý nhằm tăng bạn, bớt thù.

Tóm lại, tính nhân văn trong tư tưởng Hồ Chí Minh về sử dụng bạo lực cách
mạng là một giá trị văn hoá tinh thần của Đảng, dân tộc và quân đội. Giá trị đó

vừa là một nét đặc sắc trong tư tưởng, nhân cách của Người, vừa là một di sản
quý báu mà các thế hệ người Việt Nam hiện nay cần giữ gìn, kế thừa và phát huy
trong cuộc đấu tranh để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Phần 3: Kết luận:
Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn
đề cơ bản nhất của Cách mạng Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm
của thời đại, là tài sản vô giá của dân tộc ta. Trong suốt cả cuộc đời của mình,
Hồ Chí Minh đã đấu tranh, đã cống hiến, nỗ lực hết mình cho sự nghiệp cách
mạng Việt Nam. Ngày nay, tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên giá trị. Và
với bối cảnh hiện nay, vấn đề to lớn được đặt ra là phải làm sao để kế thừa và
phát huy những tư tưởng ấy, làm cho nó ngày càng phát triển sâu rộng giúp cho
đất nước ngày một đi lên. Chúng ta cần phải học tập Người, luôn luôn trau dồi
kỹ năng, đạo đức để luôn luôn” cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” để xứng
đáng là đứa con của dân tộc Việt Nam anh hùng. Đồng thời, không thể quên
công ơn của Bác - vị cha già kính yêu của dân tộc. Cùng với tư tưởng của mình,
23


Bác luôn luôn bất diệt và là biểu tượng cao đẹp về những gì tốt đẹp nhất thuộc
về lương tri và phẩm giá làm người.
Quan điểm dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng của Chủ
tịch Hồ Chí Minh là cơ sở cho đường lối quân sự với phương pháp cách mạng
đúng đắn của Đảng ta trong suốt thời kỳ cách mạng. Đó là một trong những
nguyên nhân dẫn đến thắng lợi của Đảng, của quân và dân ta trong khởi nghĩa
giành chính quyền và trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ xâm lược, đem lại nền hòa bình cho dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ cho
sông núi Việt Nam.
Ngày nay trong điều kiện hòa bình, nước ta được hưởng độc lập tự do, Đảng ta
đã là Đảng cầm quyền, chính quyền đã về tay của toàn thể nhân dân lao động.
Việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh được đẩy mạnh thực hiện và đi vào chiều

sâu. Trong đó quan điểm của Bác về sử dụng bạo lực cách mạng để giành chính
quyền và giữ chính quyền vẫn còn giữ nguyên giá trị trong điều kiện mới. Người
nói: Chiến tranh ngày nay, đánh ở mặt sau, đánh về kinh tế, về chính trị, về tinh
thần không kém quan trọng như đánh ngoài mặt trận. Phải biết phối hợp mọi
phương pháp ấy mới có thể đi tới thắng lợi hoàn toàn. Hiện nay, cả nước ta thực
hiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế sâu
rộng trên tất cả các mặt thì nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc được đặt ra với nhu cầu
ngày càng toàn diện, triệt để và sâu sắc hơn. Trong bối cảnh tình hình quốc tế,
khu vực và trong nước có những diễn biến phức tạp. Các thế lực thù địch luôn
tìm mọi cách để khôi phục lại địa vị của mình, với những nguy cơ của đất nước:
Tụt hậu về kinh tế, chệch hướng xã hội chủ nghĩa, diễn biến hòa bình và tham
nhũng,…Đảng ta ta cần có đủ bản lĩnh và trí tuệ, quân đội ta phải đủ sức mạnh
để đập tan những âm mưu chống phá của kẻ thù. Và việc sử dụng bạo lực cách
mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng nhằm xuyên tạc, nói xấu, chống lại
chế độ, chính phủ, nhà nước và lợi ích chân chính của nhân dân ta là một điều
tất yếu. Chúng ta cần ghi nhớ rằng: Bạo lực cách mạng theo quan điểm của Bác
đó là sức mạnh của quần chúng nhân dân được giác ngộ và tổ chức thành hai lực
lượng, lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang. Biểu hiện thành hai hình thức
đấu tranh là đấu tranh chính trị và đấu tranh quân sự. Trong đó đấu tranh quân
sự là phục vụ cho đấu tranh chính trị bởi “Quân sự mà không có chính trị là vô dụng
mà có hại”.
Với những kiến thức và những tài liệu thu thập được, chúng em mong rằng bài tiểu
luận này sẽ cung cấp thông tin cụ thể, đúng đắn và hệ thống về “Tư tưởng Hồ Chí
Minh về cách mạng bạo lực”. Do thời gian và trình độ còn hạn chế nên không thể

24


tránh khỏi những thiếu sót, vì vậy chúng em xin kính mong nhận được sự giúp đỡ và
chỉ bảo tận tình từ cô giáo.

Chúng em xin chân thành cảm ơn!

25


×