Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

hiv và ung thư tâm lý học trong suốt quá trình bệnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (336.89 KB, 34 trang )

HIV và Ung thư
Tâm lý học trong suốt quá trình bệnh
CHƯƠNG TỔNG QUAN

Hai chương tiếp theo (14 và 15) xem xét vai trò của tâm lý ở từng giai
đoạn bệnh, bệnh khởi phát, tiến triển của nó, với những hậu quả tâm lý và tuổi thọ.
Chúng không thể hiện rõ cái nhìn tổng quan toàn diện về những khái niệm rộng lớn
về bệnh, nhưng để minh họa cho vai trò khác nhau có thể có của tâm lý trong bệnh
tật. Chương này sử dụng các ví dụ về HIV và ung thư, các chương tiếp theo tập
trung vào các bệnh béo phì và bệnh tim mạch vành. Tuy nhiên, những yếu tố tâm
lý có liên quan đến vô số các bệnh mãn tính và cấp tính khác. Nó cho thấy rằng,
thay vì được xem như là một phản ứng thụ động đến yếu tố y sinh học, các bệnh
mãn tính như vậy tốt hơn nên được hiểu như là một tương tác phức tạp của các quá
trình sinh lý và tâm lý.

1


Chương này bao gồm:
➧ HIV là gì? Vai trò của tâm lý học trong việc nghiên cứu HIV
➧ Thái độ đối với AIDS
➧ Tâm lý học và dễ bị nhiễm HIV
➧ Tâm lý học và sự tiến triển đến AIDS
➧ Tâm lý học và tuổi thọ
➧ Ung thư là gì?
➧ Vai trò của tâm lý trong khởi phát ung thư
➧ Hậu quả về tâm lý của ung thư
➧ Tâm lý học và giảm các triệu chứng
➧ Tâm lý và thúc đẩy tuổi thọ và thời gian miễn dịch bệnh

2




HIV AND AIDS
Phần này xem xét lịch sử của HIV, những gì là HIV và làm thế nào nó được truyền đi.
Sau đó đánh giá vai trò của tâm lý học trong việc tìm hiểu HIV, về thái độ đối với HIV và AIDS,
sự nhạy cảm của bệnh HIV và AIDS, tiến triển từ HIV sang AIDS và tuổi thọ khi mắc bệnh. Một
cuộc thảo luận chi tiết về sử dụng bao cao su trong bối cảnh HIV và AIDS có thể được tìm thấy
trong Chương 8.
Nguồn gốc của HIV
AIDS (Acquired Immune Deficiency Syndrome) được xác định như một hội chứng mới
trong năm 1981. Tại thời điểm đó, nó được coi là nguyên nhân của đồng tính luyến ái và được
biết đến như GRID (hội chứng suy giảm miễn dịch liên quan đến đồng tính luyến ái). Kết quả
này dẫn đến một số lý thuyết đã được phát triển để thử và giải thích sự xuất hiện của căn bệnh
mới này giữa người đồng tính. Những dao động từ gợi ý rằng AIDS có thể là một phản ứng do
sử dụng các loại thuốc giải trí như 'poppers' hoặc để qua tiếp xúc với tinh dịch, và họ tập trung
vào lối sống được nhận thức của dân đồng tính. Tuy nhiên trong năm 1982, AIDS xuất hiện ở
bệnh hay chảy máu, căn bệnh này không có trong lối sinh hoạt của người đồng tính. Các nhà
khoa học bắt đầu thay đổi lý thuyết của họ về AIDS, và lần đầu tiên có người nói: có lẽ AIDS đã
được gây ra bởi một loại virus. Loại virus này có thể là nguyên nhân dẫn đến bệnh hay chảy
máu thông qua việc sử dụng yếu tố VIII, một nhân tố làm máu đông.
Virus HIV đầu tiên được cách ly vào năm 1983. Tuy nhiên, đã có tranh luận về phát hiện
này được đưa ra bởi Gallo ở Mỹ hay Montagnier ở Pháp. Cả hai nhà nghiên cứu đang tìm kiếm
một loại virus tên là retro, kiểm tra virus retro trong máu của con mèo gây ra bệnh bạch cầu và
dường như là tương tự những gì họ nghĩ rằng nó đã gây ra căn bệnh mới này. Năm 1984, virus
loại 1 gây ra suy giảm miễn dịch cho con người (HIV1) đã được tìm thấy, và vào năm 1985, HIV
2 đã được tìm thấy ở châu Phi.
HIV là gì?
Cấu trúc của HIV
Virus HIV là một retrovirus, một loại virus chứa RNA. Có ba loại retrovirus: retrovirus gây
ung thư, retrovirus bọt không có một hiệu ứng nào ở tất cả các mặt về tình trạng sức khỏe của

cá nhân, và các lentivirus, hoặc virus chậm, gây ra hệ quả sức khỏe trong thời gian dài. HIV là
một lentivirus.
Virus HIV được cấu tạo nên bởi một chiếc "'áo khoác" bên ngoài và một lõi bên trong.
Các RNA nằm trong lõi và chứa tám gen virus, trong đó mã hóa các protein có trong cả bên
ngoài lẫn cốt lõi, chúng cũng chứa các enzyme rất cần thiết cho việc phát triển tế bào.
Sự lây truyền của HIV:

3


Để được truyền từ người này đến người tiếp theo, virus HIV nói chung cần phải tiếp xúc
với các tế bào có các phân tử CD4 trên bề mặt của chúng. Các tế bào này được tìm thấy trong
hệ thống miễn dịch và được gọi là tế bào T-helper. Quá trình lây truyền của virus HIV liên quan
đến các giai đoạn sau đây:
1. HIV liên kết với các phân tử CD4 của tế bào T-helper.
2. Virus HIV thâm nhập sâu vào tế bào chất của tế bào.
3. Các tế bào chính nó tạo ra một DNA pro-virus, là một bản sao của các tế bào chủ.
4. Các pro-virút này xâm nhập vào nhân tế bào chủ.
5. Các tế bào chủ tạo ra các hạt virus mới có thể thay thế được mã virus của DNA virus.
6. Những hạt virus phát sinh và lây nhiễm các tế bào mới.
7. Cuối cùng, sau nhiều lần sao chép, các tế bào T-helper sẽ chết.

Quá trình chuyển biến từ HIV sang AIDS:
Tiến triển từ HIV đến bệnh HIV và AIDS thay đổi theo thời gian. AIDS là giai đoạn phản
ánh sự suy giảm trong các tế bào T-helper và cụ thể đối với những tế bào T CD4 dương tính.
Điều này gây ra sự suy giảm miễn dịch và sự xuất hiện của các bệnh cơ hội. Sự tiến triển từ
chuyển đổi huyết thanh HIV ban đầu đến AIDS có xu hướng đi qua các giai đoạn sau đây:
1. Bệnh chuyển đổi huyết thanh virus ban đầu;
2. Giai đoạn không triệu chứng;
3. Phì đại hạch bạch huyết, khởi phát của bệnh cơ hội;

4. Hội chứng liên quan đến AIDS (ARC);
5. AIDS.
Tỷ lệ nhiễm HIV và AIDS
Do gần đây mới phát hiện về bệnh HIV và AIDS và do khoảng thời gian ủ bệnh dài từ
giai đoạn chuyển đổi huyết thanh sang AIDS nên số liệu về tỷ lệ mắc HIV và AIDS còn hạn chế.
Tuy nhiên, ước tính số lượng các trường hợp trên toàn cầu cho thấy: 30,6 triệu người đang
sống chung với HIV / AIDS và 11,7 triệu người đã chết vì HIV / AIDS. Tính theo châu lục, các
dữ liệu liên quan đến tỷ lệ mắc về AIDS từ cuối năm 1970 đến cuối năm 1994, báo cáo số liệu
thống kê cho thấy: Châu Phi, 350.000 người mắc bệnh; Mỹ, 400.000; Châu Âu, 127.000; Châu
Mỹ (trừ Mỹ), 123.000; Châu Á, 20.000; Châu Đại Dương, 5000; Tổng cộng, có 1.025.000 người
mắc bệnh. Ở Anh, từ năm 1982 đến tháng ba năm 1997, có 32.200 người đã được chẩn đoán
là nhiễm HIV, trong đó 15.500 đã tiến triển đến AIDS và 12.800 đã chết vì căn bệnh HIV / AIDS.
Về các số liệu hiện tại, ở Anh có 16.000 người sống chung với một người nhiễm HIV. Năm
1997, con số về các trường hợp mới được báo cáo trên toàn thế giới: Bắc Mỹ, 44.000;
Caribbean, 47.000; Mỹ Latin, 180.000; Tây Âu, 30.000; Bắc Phi và Trung Đông, 19.000; châu

4


Phi cận Sahara, 4 triệu; Đông Âu và Trung Á, 100.000; Đông Á và Thái Bình Dương, 180.000;
Đông Nam Á và Nam Á, 1,3 triệu; Úc và New Zealand, 600; Tổng số hơn 5,9 triệu người mắc
bệnh.

VAI TRÒ CỦA TÂM LÝ HỌC TRONG NGHIÊN CỨU HIV
HIV lây truyền chủ yếu là do hành vi của con người (quan hệ tình dục, sử
dụng chung kim tiêm). Tâm lý sức khỏe đã nghiên cứu HIV và thái độ đối với HIV,
thay đổi những thái độ này, và những dự đoán về hành vi. Các quan sát sau đây cho
thấy tâm lý có vai trò bổ sung đối với HIV:
■ Không phải ai tiếp xúc với vi rút HIV cũng sẽ nhiễm HIV. Điều này cho
thấy rằng các yếu tố tâm lý có thể ảnh hướng đến tính nhạy cảm của một cá nhân

với virus HIV.
■ Thời gian cho sự tiến triển từ HIV sang AIDS có thể thay đổi được. Yếu tố
tâm lý có thể đóng một vai trò trong việc thúc đẩy sự sao chép của virus HIV và
các tiến triển từ khi bị nhiễm HIV đến AIDS.
■ Có lẽ không phải tất cả mọi người nhiễm HIV đều chết ở giai đoạn AIDS.
Yếu tố tâm lý có thể có một vai trò trong việc xác định tuổi thọ của cá nhân. Vai trò
tiềm năng của các yếu tố tâm lý trong sự hiểu biết về HIV và AIDS được thể hiện
trong Hình 14.1.Vai trò của tâm lý trong giai đoạn AIDS (1) thái độ đối với AIDS;
(2) tính nhạy cảm đối với AIDS; (3) sự tiến triển từ HIV đến AIDS; và (4) tuổi thọ
được xác nhận.
Thái độ với AIDS:
Nghiên cứu đã kiểm tra thái độ đối với HIV và các mối quan hệ giữa thái độ
và hành vi. Vì AIDS là một bệnh mới, các nghiên cứu về thái độ ảnh hưởng không
chỉ những khác biệt trong thái độ giữa các cá nhân mà còn là thái độ chung về sau
này.

5


Vai trò tiềm năng của tâm lý học đối với HIV
Các nghiên cứu đã đặt ra những câu hỏi, "Có phải mọi người dễ gặp nguy
hiểm với virus HIV?” 'Temoshok et al. (1987) đã tiến hành một cuộc khảo sát
người sống ở những thành phố khác nhau ở Mỹ và hỏi những người này câu hỏi
đó, cho dù lúc đó AIDS đã được xem như là một mối quan tâm sức khỏe cá nhân.
Tỷ lệ trả lời "có" như sau: San Francisco, 33 phần trăm; New York, 57 phần trăm;
Miami, 50 phần trăm; và Los Angeles, 47 phần trăm.
Thật là thú vị khi phải lưu ý rằng ở San Francisco, nơi mà có tỷ lệ người mắc
bệnh HIV dương tính cao nhất ở Mỹ lại ít xem HIV như một vấn đề quan tâm sức
khỏe cá nhân hơn những người sống ở các thành phố khác. Có hai cách giải thích
cho điều này, trong đó đưa ra các câu hỏi về mối quan hệ tương quan phức tạp giữa

kiến thức, giáo dục, kinh nghiệm cá nhân và thái độ. Đầu tiên, vì phải sống trong
một thành phố với mức độ nhiễm HIV và sự phổ biến rông rãi thông tin về
HIV/AIDS trong giáo dục sức khỏe, kiến thức về căn bệnh được gia tăng. Những
kiến thức này làm cho mọi người cảm thấy ít bị nguy hiểm bởi vì họ tin rằng họ có
thể làm điều gì đó để phòng tránh nó. Tuy nhiên, có lẽ do tiếp xúc với bệnh nhân
AIDS và HIV và chứng kiến họ tử vong sau AIDS, làm tăng cảm giác sợ hãi và sự
phủ nhận trong các cá nhân sống ở các thành phố, nơi có một tỷ lệ cao của bệnh.
Cảm thấy ít bị tổn thương có thể ảnh hưởng đến sự phủ nhận này.
Nhiều nghiên cứu ở Anh cũng đã kiểm tra nhận thức của cá nhân về nguy cơ
mắc bệnh và mối quan hệ của nó với kiến thức. Nghiên cứu trong những năm 1980
và đầu những năm 1990 chỉ ra rằng mặc dù kiến thức về đường lây truyền của HIV
là rất cao, nhiều sinh viên đại học được phỏng vấn tin là tương đối bất khả xâm
phạm đối với HIV. Abrams et al. (1990: 49) báo cáo rằng 'Người trẻ có một ý thức
mạnh mẽ về khả năng không thể tấn công được của AIDS dường như liên quan đến
một nhận thức rằng họ có thể kiểm soát các nguy cơ mắc phải căn bệnh này'.
Woodcock et al. (1992) nghiên cứu về cách hiểu này của thanh niên về nguy cơ bị
nhiễm bệnh và cho rằng mặc dù một số đối tượng đã thừa nhận rằng họ có nguy
cơ, điều này thường bị bác bỏ bởi vì nó ở trong quá khứ và 'nó đã được nói trước
6


đây'. Tuy nhiên, nhiều đối tượng trong nghiên cứu này đã phủ nhận rằng họ có
nguy cơ và biện minh điều này bằng những niềm tin như 'nó được thổi phồng',
'AIDS là một rủi ro bạn có trong cuộc sống ", "bạn tình có hoặc không lăng nhăng',
hoặc những đối tượng đến từ các khu vực địa lý mà không được coi là có nguy cơ
cao (ví dụ như New Forest ở miền Nam nước Anh được coi là một khu vực có
nguy cơ thấp và Glasgow, một khu vực có nguy cơ cao) (xem Chương 8 nghiên
cứu về cuộc thảo luận về nguy cơ nhận thức và sử dụng bao cao su).
Một câu hỏi khác đã được hỏi về HIV là, 'Liệu tình dục và hành vi tình dục
của các cá nhân ảnh hưởng đến lòng tin của họ về HIV?' Temoshok et al. (1987) đã

kiểm tra quan điểm của những người đàn ông đồng tính, lưỡng tính và dị tính về
HIV. Kết quả cho thấy những người đàn ông đồng tính và lưỡng tính tin rằng AIDS
là quan trọng hơn so với những người đàn ông dị tính. Nhóm này cho thấy mức độ
cao của kiến thức về HIV, báo cáo là có quan tâm về HIV trong một khoảng thời
gian dài, báo cáo cũng cho thấy họ nhảy cảm hơn đối với HIV, và chỉ ra rằng nguy
cơ bị nhiễm HIV của người đồng tính và lưỡng tính là cao hơn so với thành phần
còn lại.
Một số nhà nghiên cứu cũng đã xem xét bằng cách nào thanh thiếu niên và
học sinh xem xét HIV, vì họ có xu hướng hoạt động tình dục rất mạnh mẽ. Price et
al. (1985) nhận thấy rằng nhóm các cá nhân này, mặc dù là có nguy cơ mắc bệnh
cao và hoạt động tình dục mãnh liệt, báo cáo chỉ ra mức độ thấp về kiến thức và
nói rằng họ ít có khả năng mắc bệnh AIDS.
Thái độ và sự thay đổi về hành vi
Nghiên cứu đã kiểm tra một cách cụ thể về mối quan hệ giữa quan điểm nhìn
nhận về HIV và sự thay đổi hành vi. Temoshok et al. (1987) báo cáo rằng rủi ro
nhận thức của AIDS không liên quan đến những thay đổi trong hành vi tình dục.
Tuy nhiên, chúng cũng chỉ ra rằng thái độ chống người đồng tính và lo sợ có liên
quan đến một sự thay đổi trong hành vi tình dục. Một số nghiên cứu cũng đã xem
xét các thay đổi trong hành vi tình dục nguy hiểm ở nam giới đồng tính. Curran et
al. (1985), McKusick et al. (1990) và Martin (1987) cho rằng đã có một sự giảm
trong hành vi như vậy trong những người đàn ông đồng tính, phản ánh thái độ và
lòng tin của họ về HIV. Tương tự như vậy Simpkins và Ebenhage (1984) đã kiểm
tra các hành vi tình dục của sinh viên đại học khác giới và báo cáo không có thay
7


đổi trong hành vi của họ. Điều này một lần nữa lại phản ánh thái độ của họ đối với
HIV và báo cáo mắc bệnh của họ ở tỷ lệ thấp.

Các mối tương quan giữa kiến thức, thái độ và hành vi:

Mối quan hệ giữa kiến thức và quan điểm xưa về HIV là một điều phức tạp.
Các chiến dịch giáo dục sức khỏe cho rằng nâng cao kiến thức sẽ thay đổi thái độ
và từ đó thay đổi hành vi. Trong giai đoạn HIV, một trong những hành vi được coi
là mục tiêu của chiến dịch giáo dục sức khỏe là quan hệ tình dục an toàn hơn (xem
Chương 8 về việc sử dụng bao cao su). Tuy nhiên, việc thực sự tăng kiến thức làm
tăng thực hành tình dục an toàn hơn vẫn là vấn đề chưa được trả lời thích đáng. Có
rất nhiều kết quả tích cực về khái niệm kiến thức này:
■ Điều có thể làm được là tăng cường kiến thức gia tăng sự lo ngại trong các
cá nhân, mà có thể gây ra từ chối, không gây ra hậu quả hành vi nào hoặc thậm chí
là một hành vi bất lợi.
■ Ngoài ra, cải thiện kiến thức có thể nâng cao nhận thức của cá nhân về
thực tế và nhận thức của họ về rủi ro, mà do đó có thể tạo ra một sự thay đổi trong
hành vi của các cá nhân mà không phải trải qua sự sợ hãi.
■ Hơn nữa nâng cao kiến thức có thể làm tăng nhận thức được sự nghiêm
trọng của căn bệnh, điều đó gây ra cho những cá nhân bị nhiễm bệnh đổ lỗi cho
điều này (hiện tượng đổ lỗi nạn nhân). Sợ hãi và đổ lỗi cho bản thân cũng có thể có
một sự tương tác phức tạp với những niềm tin khác và trên những hành vi tình dục
an toàn hơn của cá nhân. Sợ hãi và hiện tượng đổ lỗi cho nạn nhân có thể liên quan
đến sự từ chối, hoặc thay đổi hành vi, hay thành kiến, hoặc bất lực, hoặc một cảm
giác của sự thiếu kiểm soát.
Do đó, việc thúc đẩy tình dục an toàn có thể phức tạp hơn so với việc đơn
giản là nâng cao nhận thức (xem Chương 8 nói về cuộc thảo luận về sự ảnh hưởng
của giáo dục giới tính.).
Tâm lý học và tính nhạy cảm với virus HIV
Tâm lý cũng có thể đóng một vai trò đối với tính nhạy cảm của một cá nhân
với virus HIV khi một lần tiếp xúc với nó. Một số nghiên cứu đã xem xét các khả
8


năng mà không phải tất cả những cá nhân tiếp xúc với HIV nhiễm HIV +, và đã có

gợi ý một vài lý do cho việc này. Một dòng của tư tưởng cho rằng lối sống của một
cá nhân có thể làm tăng cơ hội bị nhiễm HIV khi tiếp xúc với virus. Van Griensven
et al. (1986) cho rằng việc sử dụng các loại thuốc khác, chẳng hạn như nitrat và cần
sa, làm tăng nguy cơ lây nhiễm HIV khi tiếp xúc với virus. Lifson et al. (1989)
cũng cho rằng sự tồn tại của các loại virus khác, chẳng hạn như herpes simplex và
cytomegalovirus (CMV), trong máu có thể làm tăng nguy cơ lây nhiễm HIV. Các
loại virus này cũng được cho là có liên quan đến quan hệ tình dục không an toàn và
tiêm chích ma túy. Do đó, những hành vi không lành mạnh có thể không chỉ liên
quan đến việc tiếp xúc với virus HIV mà còn có khả năng dương tính với virus
HIV. Tuy nhiên, rất nhiều tài liệu nói về lối sống xung quanh khả năng nhiễm vi rút
HIV được dựa trên niềm tin về HIV tồn tại trong những năm 1980, khi HIV vẫn
được coi là một căn bệnh đồng tính. Do đó, nó tập trung vào lối sống của những
người đồng tính và đã khái quát hóa về lối sống này để giải thích khả năng nhiễm
virus.
Tâm lý học và sự tiến triển từ HIV sang AIDS
Nghiên cứu cũng đã xem xét vai trò của tâm lý trong sự tiến triển từ HIV
sang AIDS. Có lập luận cho rằng HIV cung cấp một cơ sở hữu ích cho nghiên cứu
như vậy vì những lý do sau đây: (1) có một số lượng lớn các cá nhân có thể được
phát hiện ở giai đoạn không có triệu chứng bệnh của họ cho phép đưa ra phân tích
về sự tiến triển bệnh từ một giai đoạn triệu chứng bệnh; (2) những người có HIV
mới mắc các bệnh đồng thời khác là có thể tránh được; và (3) đo lường sự tiến
triển của bệnh bằng số lượng tế bào T-helper CD4 là chính xác (Taylor et al. 1998).
Điểm nghiên cứu này đóng vai trò cho cả lối sống và trạng thái tâm lý đối
với tiếng triển của bệnh. Thứ nhất, về lối sống, có ý kiến cho rằng việc tiêm thuốc
kích thích hệ miễn dịch, trong đó ảnh hưởng đến việc nhân bào, và do đó khiến
việc sử dụng ma túy không chỉ thúc đẩy việc nhiễm virus mà còn đẩy nhanh việc
nhân rộng tế bào HIV nó. Ngoài ra, nghiên cứu cũng đã chỉ ra rằng sự sao chép của
virus HIV có thể là chịu ảnh hýởng bởi việc có tiếp xúc với virus HIV, cho thấy vai
trò của quan hệ tình dục không an toàn và sử dụng ma túy trong sự tiến triển của
nó. Hơn nữa, việc tiếp xúc với ma túy có thể tạo ra hệ quả ức chế miễn dịch, hoặc

các virus khác, chẳng hạn như herpes complex và CMV, cũng có thể liên quan đến
9


sự gia tăng virus HIV. Thứ hai, xét về yếu tố tâm lý, Sodroski et al. (1984) cho
rằng sự căng thẳng hay đau khổ cũng có thể làm tăng sự sao chép của virus HIV,
gây ra một sự tiến triển nhanh đến AIDS. Điều này dự kiến được hỗ trợ bởi các
nghiên cứu của Solomon và Temoshok (Solomon và Temoshok 1987; Solomon et
al 1987.), người lập luận rằng hội chứng sợ và kì thị đồng tính luyến ái cũng có
thể gây ra căng thẳng ở những người bị nhiễm HIV, trong đó có thể làm trầm trọng
thêm bệnh tật của mình. Hơn nữa, nghiên cứu từ (MACS) ở Mỹ đã đề nghị một vai
trò cho các hình thức điều chỉnh nhận thức về sự mất mát và tiến triển bệnh (Reed
et al 1994, 1999;. Bower et al 1998). Trong phần đầu tiên của nghiên cứu này, 72
người đàn ông có HIV dương tính, không có triệu chứng và một nửa trong số đó
gần đây đã trải qua cái chết của một người bạn thân hoặc đối tác chính, hoàn thành
sự đo lường về tâm lý của họ (sự mong chờ, tâm trạng và sự tuyệt vọng) và số
lượng tế bào CD4 helper T của họ đã được ghi lại. Sau đó, họ được theo dõi trong
khoảng thời gian sáu năm. Kết quả là khoảng một nửa số mẫu cho thấy các triệu
chứng trong giai đoạn tiếp theo. Tuy nhiên, tỷ lệ và mức độ tiến triển của bệnh là
không đồng nhất cho tất cả mọi người. Đặc biệt, kết quả cho thấy rằng sự phát triển
triệu chứng đã được dự đoán bởi kỳ vọng HIV ban đầu, đặc biệt là ở những người
đã mất. Do đó, có vẻ như có kỳ vọng tiêu cực của sự tiến triển HIV là tiên đoán
tiến triển thực tế (Reed et al. 1999). Trong phần thứ hai của nghiên cứu này, 40
người đàn ông nhiễm HIV gần đây đã mất đi một người bạn thân hoặc đối tác ở
giai đoạn AIDS đã được phỏng vấn về việc họ cảm thấy như thế nào đối với cái
chết này. Những cuộc phỏng vấn sau đó được phân loại theo liệu cá nhân đã tìm
thấy ý nghĩa về cái chết phù hợp với lý thuyết của Taylor - nhận thức thích ứng đối
phó (Taylor 1983) (xem Chương 3). Một ví dụ về ý nghĩa sẽ là 'những gì cái chết
của anh ấy đã làm là chụp một giá trị nhất định vào hành vi của tôi, mà là "Nghe
này, bạn sẽ sống được bao lâu. Bạn vừa bị mất một số khác. Dành nhiều thời gian

với những người có nghĩa đối với bạn". Kết quả cho thấy rằng những người đã
chuẩn bị tâm lý về cái chết duy trì hàm lượng tế bào CD4 T-helper khi theo dõi,
trong khi đó những người ngược lại cho thấy một sự suy giảm .
Nghiên cứu cũng đã tìm hiểu mối liên hệ giữa cách mọi người đối phó với
HIV và sự tiến triển của bệnh với việc tập trung vào cách đối phó loại C mà phản
ánh biểu hiện cảm xúc và sự ghi nhận giảm của nhu cầu và cảm xúc. Ví dụ, Solano
10


et al. (2001, 2002) sử dụng các tế bào CD4 là một thước đo của tình trạng bệnh và
đưa vào làm cơ sở đối phó, đánh giá và theo dõi 200 bệnh nhân sau 6 và 12 tháng.
Kết quả cho thấy loại C dự đoán tiến triển khi theo dõi cho thấy một hình thức đối
phó mà dựa vào sự thiếu biểu hiện tình cảm có thể làm trầm trọng thêm quá trình
bệnh HIV. Tuy nhiên, kết quả cũng cho thấy mức độ rất cao của biểu hiện cảm xúc
cũng là bất lợi. Các tác giả kết luận rằng làm việc thông qua cảm xúc thay vì chỉ
buông thả chúng có thể là chiến lược đối phó mang tính bảo vệ nhất đối với người
được chẩn đoán là nhiễm HIV. Do đó, cả hành vi của cá nhân hay trạng thái tâm lý
của người đó liên quan đến sự phát triển từ HIV sang AIDS.
Tâm lý học và tuổi thọ
Nghiên cứu cũng đã xem xét vai trò của các yếu tố tâm lý trong việc xác
định tuổi thọ sau khi bị nhiễm HIV. Đặc biệt, điều này dựa vào các hệ quả trực tiếp
của niềm tin và hành vi về tình trạng suy giảm miễn dịch của cá nhân (xem chương
11 để thảo luận về PNI). Năm 1987, Solomon et al. nghiên cứu 21 bệnh nhân AIDS
và kiểm tra tình trạng sức khỏe của họ và mối quan hệ của tình trạng sức khỏe này
để tiên đoán các biến tâm lý chuẩn. Khi theo dõi, họ thấy rằng sự tồn tại đã được
dự đoán theo tình trạng sức khỏe chung của họ lúc chuẩn, hành vi sức khỏe của họ,
độ bền, hỗ trợ xã hội, hành vi loại C (tự tử, tự đổ lỗi, không cảm xúc) và những
chiến lược đối phó. Trong một nghiên cứu sâu hơn, Solomon và Temoshok (1987)
báo cáo bổ sung theo dõi bệnh nhân AIDS. Họ lập luận rằng một kết quả tích cực
đã được dự đoán bằng cách điều khiển nhận thức lúc chuẩn, hỗ trợ xã hội, giải

quyết vấn đề, tăng hành vi tìm kiếm giúp đỡ, khả năng mong muốn xã hội thấp và
sự biểu hiện của sự giận dữ và thù địch. Nghiên cứu này chỉ ra rằng hành vi loại C
là không liên quan đến tuổi thọ.
Reed et al. (1994) cũng đã kiểm tra các trạng thái tâm lý của 78 người đàn
ông đồng tính đã được chẩn đoán mắc bệnh AIDS trong tình trạng tự báo cáo sức
khỏe, điều chỉnh tâm lý và phản ứng tâm lý với HIV, hạnh phúc, lòng tự trọng và
mức độ của sự tuyệt vọng. Ngoài ra, họ đã hoàn thành các đo lường về việc 'chấp
nhận thực tế', chẳng hạn như 'Tôi đã cố gắng để chấp nhận những gì có thể xảy ra",
“Tôi đã chuẩn bị cho những điều tồi tệ nhất” và "Tôi đã quyết định được mình sẽ
nói gì và làm gì đối với chuyện này". Khi theo dõi, kết quả cho thấy hai phần ba
trong số những người đàn ông đã chết. Tuy nhiên, sự sống đã đến với những ai
11


được dự đoán là có "sự chấp nhận thực tế" mạnh mẽ hơn. Do đó, trạng thái tâm lý
cũng có thể liên quan đến tuổi thọ.

Phần kết luận
Các nghiên cứu về HIV và AIDS minh họa vai trò của tâm lý học ở các giai
đoạn khác nhau của một căn bệnh. Yếu tố tâm lý rất quan trọng không chỉ đối với
thái độ và niềm tin về HIV và các hành vi đưa đến, mà còn có thể được tham gia
vào khả năng nhạy cảm của một cá nhân khi bị nhiễm virus, sự sao chép của virus
khi nó đã xâm nhập và tuổi thọ sau này của họ.

12


Nghiên cứu 14.1
Thử nghiệm một lý thuyết - Tâm lý và chức năng miễn dịch
Một nghiên cứu để xem xét vai trò của các yếu tố tâm lý xã hội như sự đối

phó, căng thẳng cuộc sống và hỗ trợ xã hội đối với chức năng miễn dịch ở nam
giới đồng tính luyến ái nhiễm HIV (Goodkin et al. 1992).
Nghiên cứu này đã xem xét mối quan hệ giữa các yếu tố tâm lý xã hội và sức
khỏe thể chất của những người đàn ông mắc bệnh HIV. Mô hình của các mối quan
hệ giữa các yếu tố tâm lý và sức khỏe thể chất cho thấy mối liên hệ giữa tâm lý và
sức khỏe có thể được thông qua thay đổi về hành vi (ví dụ cảm giác căng thẳng gia
tăng hành vi hút thuốc) và hoặc thông qua những thay đổi sinh lý trực tiếp (ví dụ
cảm giác căng thẳng là nguyên nhân làm giải phóng các hormone stress). Nghiên
cứu này dựa trên niềm tin rằng các biến thể tâm lý như cách đối phó, căng thẳng và
hỗ trợ xã hội có thể ảnh hưởng sức khỏe và bệnh tật trực tiếp thông qua những thay
đổi về sinh lý của cá nhân (hệ thống miễn dịch của họ) liên quan đến hành vi.
Cơ sở nền tảng
Nghiên cứu đã chỉ ra rằng yếu tố tâm lý xã hội có thể được kết hợp với
những thay đổi trong tế bào bạch cầu (NKCC), một trong những hàng rào bảo vệ
quan trọng chống lại nhiễm trùng và sự phát triển ung thư. Ví dụ, NKCC bị suy
giảm đã được phát hiện ở những sinh viên y khoa bị căng thẳng, cá nhân tử vong,
và những người trầm cảm. Ngoài ra, nghiên cứu đã gợi ý rằng sự hỗ trợ xã hội,
cách ứng phó tích cực và niềm vui có thể liên quan đến những thay đổi trong
NKCC ở bệnh nhân ung thư vú. Mặc dù,việc nghiên cứu NKCC vẫn còn trong giai
đoạn đầu và có phần gây tranh cãi, Goodkin et al. (1992) vẫn tích cực kiểm tra mối
quan hệ giữa các yếu tố tâm lý xã hội và NKCC trong cơ thể nam giới nhiễm HIV.
Phương pháp học:
13


Đối tượng:
62 đồng tính nam nhiễm HIV ở giai đoạn xuất hiện triệu chứng từ Miami
tình nguyện tham gia nghiên cứu. Họ được tuyển chọn từ các trường Đại học của
Trường Y khoa Miami - Đơn vị nghiên cứu lâm sàng, các cơ quan cộng đồng liên
quan đến HIV, các bác sĩ cộng đồng, quảng cáo trên các tạp chí và giới thiệu từ các

nghiên cứu khác. Các đối tượng được loại trừ khỏi nghiên cứu nếu họ đã dùng
thuốc chống virus, có tiền sử lạm dụng rượu hay chất ma túy, tiền sử rối loạn tâm
thần, hoặc đã có một chấn thương đầu nghiêm trọng. Tất cả các đối tượng đã nhận
thức được tình trạng nhiễm HIV của mình và không có triệu chứng hoặc có dấu
hiệu của bệnh không quá ba tháng. Độ tuổi trung bình của họ là 33,8 tuổi; 72,6
phần trăm là người nói tiếng Anh bản địa; gần một nửa đã có một mức độ đầu tiên
kinh; đa số là việc làm toàn thời gian; 66,1 phần trăm mô tả mình như là đồng tính
độc quyền; 51,6 phần trăm trong số đó là độc thân; 30,6 phần trăm ở trong một mối
quan hệ một vợ một chồng và phần còn lại hoặc trong một mối quan hệ mở, ly hôn
hoặc góa.
Thiết kế
Nghiên cứu đã cắt ngang với tất cả các đối tượng đã hoàn thành tất cả các
biện pháp một lần.
Các biện pháp
Các đối tượng hoàn thành các chỉ số đo lường tâm lý xã hội, kiểm soát hành
vi và các biện pháp sinh lý.
1. Biện pháp tâm lý xã hội:

■ Khảo sát kinh nghiệm cuộc sống: chỉ số này đánh giá số lượng và tác động
của các sự kiện cuộc sống trong sáu tháng trước đó. Đối với nghiên cứu này, các
tác giả tập trung vào số lượng các sự kiện cuộc sống và phân loại đối tượng như
hoặc nhẹ (0-5), trung bình (6-10), cao (11-15) hoặc rất cao (> 15).
■ Quy mô xã hội: này đo lường nhận thức của cá nhân về những hỗ trợ xã
hội có sẵn. Các tác giả sử dụng một phiên bản 20 - mục rút ngắn và tính "điểm hỗ
trợ xã hội tổng"

14


■ Các Định hướng đối phó với mức nguy hiểm của vấn đề: đây là một quy

mô 57 - mục để đo lường những chiến lược đối phó. Nghiên cứu này đã kiểm tra
những mức độ này trong giai đoạn đối phó tích cực (tạo thành từ tất cả các chiến
lược tập trung giải quyết vấn đề, chẳng hạn như (I) kế hoạch đàn áp của các hoạt
động đấu tranh, kiềm chế đối phó, tìm kiếm công cụ hỗ trợ, ứng phó tích cực, và ba
mức độ tập trung vào cảm xúc chẳng hạn như tìm kiếm hỗ trợ tinh thần, tái diễn
giải tích cực, sự chấp nhận); (II) sự buông thả hay từ chối (được tạo nên từ những
cử chỉ buông thả hành vi và tâm thần và từ chối); (III) tập trung vào và trút bỏ cảm
xúc; và (IV) chuyển sang tôn giáo (xem Chương 3 thảo luận về cách đối phó).
■ Tình trạng tâm lý: đây là một quy mô gồm 65 mục liên quan đến cảm xúc.
Nghiên cứu hiện tại ước tính "số điểm tuyệt vọng" bao gồm những vấn đề, hành
động liên quan tới sự tức giận, tuyệt vọng, đau khổ và bối rối, bấn loạn.

2. Các biện pháp để kiểm soát hành vi.

Đối tượng hoàn thành các số đo về chế độ ăn uống (sử dụng bảng câu
hỏi tần số thực phẩm), rượu và sử dụng chất (ví dụ như cần sa, cocaine, LSD, hít
nitrat, thuốc kích thích và thuốc phiện), hành vi hút thuốc và uống thuốc theo quy
định. Chúng được đưa vào để xác định xem có bất kỳ sự khác biệt nào trong tình
trạng miễn dịch là do các yếu tố tâm lý xã hội hay yếu tố hành vi. Các sự đo lường
của protein trong máu, vitamin và khoáng chất cũng đã được thực hiện.

3. Biện pháp sinh lý:

Sự đo lường được thực hiện bởi (I) kháng thể chống HIV-1 để xác nhận tình
trạng HIV dương tính của các đối tượng; và (II) NKCC.

Các kết quả
Biến số cá nhân và NKCC
Các kết quả được phân tích đầu tiên để kiểm tra cá nhân có liên quan đến
NKCC như thế nào. Kết quả cho thấy rằng cách đối phó tích cực và retinol A (một

15


nguồn dinh dưỡng của vitamin A) có liên quan đến cải thiện NKCC và việc sử
dụng rượu có liên quan tới việc giảm NKCC. Có một xu hướng cho mối quan hệ
giữa việc tập trung vào và việc trút cảm xúc và cải thiện NKCC, nhưng không cho
thấy hệ quả nào từ hỗ trợ xã hội, những căng thẳng cuộc sống và cảm xúc buồn
khổ.
Dự đoán về NKCC
Tất cả các mẫu kết quả sau đó đã được đưa vào phân tích để kiểm tra những
dự đoán tốt nhất về NKCC. Kết quả cho thấy rằng mặc dù các biến kiểm soát hành
vi (chế độ ăn uống và rượu) giải thích hầu hết các phương sai trong NKCC, ứng
phó tích cực vẫn được tiên đoán có liên quan đến việc cải thiện NKCC.
Phần kết luận
Các tác giả kết luận rằng hoạt động đối phó tích cực có liên quan đến cải
thiện chức năng miễn dịch của NKCC ở nam giới nhiễm HIV. Ngoài ra, chức năng
miễn dịch cũng liên quan đến chế độ ăn uống (vitamin A) và sử dụng rượu. Điều
này hỗ trợ cho việc dự đoán rằng biến tâm lý xã hội có thể ảnh hưởng tới sức khỏe
và bệnh tật. Tuy nhiên, kết quả cho thấy mối liên hệ giữa các biến tâm lý và tình
trạng sức khỏe có lẽ là thông qua những lề thói hành vi (ví dụ: thay đổi trong hành
vi sức khỏe liên quan) và sinh lý trực tiếp (ví dụ: thay đổi trong chức năng miễn
dịch).

16


UNG THƯ
Phần này định nghĩa ung thư là gì, xem xét tỷ lệ của nó và sau đó đánh giá
vai trò của tâm lý trong việc tìm hiểu ung thư từ giai đoạn hình thành và phát triển
ung thư, các hậu quả tâm lý của bệnh ung thư, đối phó với các triệu chứng của

bệnh ung thư, tuổi thọ và thúc đẩy thời gian lui bệnh.
Ung thư là gì?
Ung thư được định nghĩa là một sự tăng trưởng không kiểm soát được của
các tế bào bất thường để sản xuất các khối u được gọi là khối ung thư. Có hai loại
khối u: khối u lành tính, không lan rộng khắp cơ thể và các khối u ác tính, trong đó
thể hiện di căn (quá trình tế bào phá vỡ từ khối u và di chuyển đến nơi khác). Có
ba loại tế bào ung thư: ung thư biểu mô, trong đó chiếm 90 phần trăm của tất cả
các tế bào ung thư và có nguồn gốc ở tế bào mô; sacôm (bướu thịt), có nguồn gốc
trong mô liên kết; và bệnh bạch cầu, có nguồn gốc trong máu.
Tỷ lệ mắc bệnh ung thư
Năm 1991, có báo cáo rằng đã có 6.000.000 trường hợp ung thư trên thế giới mỗi
năm, và một phần mười của tất cả các trường hợp tử vong trên thế giới là do ung
thư. Năm 1989, bệnh ung thư là nguyên nhân thứ hai gây tử vong ở Anh và chiếm
24 phần trăm của tất cả các trường hợp tử vong ở Anh và xứ Wales năm 1984
(Smith và Jacobson 1989). Các nguyên nhân chính gây tử vong ung thư ở nam giới
ở Anh và xứ Wales là ung thư phổi (36 phần trăm), ung thư đại trực tràng (11 phần
trăm), ung thư tuyến tiền liệt (9 phần trăm); và ở phụ nữ là ung thư vú (20 phần
trăm), ung thư phổi (15 phần trăm), ung thư đại trực tràng (14 phần trăm), ung thư
buồng trứng (6 phần trăm), ung thư cổ tử cung (3 phần trăm). Trong khi tổng số ca
17


tử vong ung thư không tăng lên, thì tỷ lệ tử vong do ung thư phổi ở phụ nữ đã tăng
lên trong vài năm qua.

Vai trò của tâm lý đối với ung thư
Một vai trò của tâm lý trong bệnh ung thư lần đầu tiên được đề xuất
bởi Galen trong  200-300, người ủng hộ mối liên hệ giữa chứng u uất và ung
thư, và cũng bởi Gedman vào năm 1701, người đã gợi ý rằng bệnh ung thư có thể
liên quan đến những thảm họa cuộc sống. 85 phần trăm của bệnh ung thư được cho

là có khả năng tránh được. Do đó tâm lý đóng một vai trò nhất định, thái độ, niềm
tin về ung thư và dự đoán hành vi, chẳng hạn như hút thuốc, chế độ ăn uống và
sàng lọc được cho là liên quan đến sự hình thành của nó (thông tin chi tiết của
những hành vi này có thể được tìm thấy trong các chương 2, 5, 6, 7, 8 và 9). Ngoài
ra, những bệnh nhân ung thư cho thấy nhiều hậu quả tâm lý, mà trong đó có tác
động đối với chất lượng cuộc sống của họ. Vai trò của tâm lý trong bệnh ung thư
cũng được minh họa bằng các quan sát sau:
■ Tế bào ung thư có mặt trong hầu hết trong cơ thể mọi người nhưng
không phải tất cả mọi người bị ung thư; thêm vào đó mặc dù nghiên cứu cho thấy
mối liên quan giữa hút thuốc lá và ung thư phổi, nhưng không phải ai nghiện hút
thuốc nặng cũng bị ung thư phổi. Có lẽ tâm lý có liên quan đến sự nhạy cảm với
bệnh ung thư.
■ Tất cả những người bị ung thư không hiển thị tiến triển dần đến cái
chết ở mức tương tự nhau. Có lẽ tâm lý học có một vai trò trong sự tiến triển của
bệnh ung thư.
■ Không phải tất cả bệnh nhân ung thư chết vì ung thư. Có lẽ tâm lý
học có một vai trò trong việc kéo dài tuổi thọ. Vai trò tiềm năng của tâm lý học
trong việc tìm hiểu bệnh ung thư được thể hiện trong hình 14.2. Vai trò của tâm lý
trong bệnh ung thư sẽ được kiểm tra ở (1), giai đoạn bắt đầu và thúc đẩy ung thư;
(2) các hậu quả tâm lý của bệnh ung thư; (3) đối phó với các triệu chứng của bệnh
ung thư; và (4) tuổi thọ và thúc đẩy thời gian lui bệnh.

18


Các yếu tố tâm lý xã hội trong việc hình thành và phát triển ung thư
1. Yếu tố hành vi:
Các yếu tố hành vi đã được thể hiện vai trò trong việc hình thành và thúc
đẩy ung thư. Smith và Jacobson (1989) báo cáo rằng 30 phần trăm của bệnh ung
thư có liên quan đến sử dụng thuốc lá, 35 phần trăm có liên quan đến chế độ ăn

uống, 7 phần trăm là do hành vi sinh sản và tình dục và 3 phần trăm là do rượu.
Những hành vi này có thể được dự đoán bằng cách kiểm tra thói quen về sức khỏe
cá nhân (xem Chương 2, 5,6 và 9).

The potential role of schychology in cancer

2. Căng thẳng.
Căng thẳng cũng đã được chứng minh là có ảnh hưởng đến bệnh ung thư.
Laudenslager et al. (1983) chỉ ra một nghiên cứu liên quan đến những con chuột bị
ung thư dễ bị căng thẳng (lắc lồng). Họ phát hiện ra rằng nếu căng thẳng này có thể
kiểm soát thì sẽ có sự sụt giảm trong tỷ lệ phát triển của khối u. Tuy nhiên, nếu sự
căng thẳng được coi là không kiểm soát được thì sẽ dẫn đến sự gia tăng phát triển
ung thư. Điều này cho thấy vai trò của stress trong sự bắt đầu của bệnh ung thư.
Tuy nhiên, Sklar và Anisman (1981) lập luận rằng sự gia tăng căng thẳng và gia

19


tăng thúc đẩy phát triển ung thư không thúc đẩy sự hình thành của nó (xem chương
11 để thảo luận về mối quan hệ giữa stress và bệnh tật).
3. Sự kiện cuộc sống.
Có gợi ý rằng các sự kiện cuộc sống đóng một vai trò trong bệnh ung thư
(xem chương 10 để thảo luận về các sự kiện cuộc sống). Một nghiên cứu của
Jacobs và Charles (1980) đã kiểm tra sự khác biệt trong các sự kiện cuộc sống giữa
gia đình những người đã có một nạn nhân ung thư và gia đình những người không
có. Họ báo cáo rằng trong những gia đình đã có một nạn nhân ung thư có số lần
chuyển nhà cao hơn, số người đã thay đổi một số hình thức của hành vi của họ cao
hơn, con số cao hơn những người đã có một sự thay đổi trong tình trạng sức khỏe
khác hơn so với người bệnh ung thư, và số lượng ly hôn cao hơn chỉ ra rằng các sự
kiện cuộc sống cũng có thể là một yếu tố góp phần vào sự phát bệnh ung thư. Tuy

nhiên, các kết quả từ một phân tích meta Petticrew et al. (1999) không hỗ trợ đề
nghị này. Họ xác định 29 nghiên cứu, 1966-1997, trong đó thỏa mãn tiêu chí của
họ (phụ nữ trưởng thành bị ung thư vú, nhóm kiểm soát ung thư miễn phí, biện
pháp của các sự kiện cuộc sống căng thẳng). Kết luận rằng mặc dù một số nghiên
cứu cá nhân báo cáo mối quan hệ giữa các sự kiện cuộc sống và ung thư vú, khi
vấn đề về phương pháp luận được đưa vào tài khoản và khi các dữ liệu trên các
nghiên cứu khác nhau, thì xuất hiện "các nghiên cứu cho thấy không có bằng
chứng thuyết phục về mối quan hệ giữa các sự kiện cuộc sống căng thẳng và ung
thư vú."
4. Kiểm soát.
Kiểm soát dường như đóng một vai trò trong việc khởi xướng và thúc đẩy
ung thư và nó đã được lập luận rằng kiểm soát căng thẳng và kiểm soát các yếu tố
môi trường có thể liên quan đến sự gia tăng phát bệnh ung thư (xem chương 11 để
thảo luận về kiểm soát và liên kết stress bệnh tật).
5. Phong cách đối phó.
Phong cách đối phó rất quan trọng. Nếu một cá nhân là đối tượng của sự
căng thẳng, sau đó những phương pháp họ sử dụng để đối phó với sự căng thẳng
này cũng có thể liên quan đến sự khởi đầu của bệnh ung thư. Ví dụ, thích nghi
kém, cách thích ứng buông thả, chẳng hạn như hút thuốc lá và rượu, có thể có một
20


mối quan hệ với sự gia tăng bệnh ung thư (xem chương 3 và 11 để thảo luận về đối
phó).
6. Suy thoái, tuyệt vọng
Bieliauskas (1980) nhấn mạnh mối quan hệ giữa trầm cảm và ung thư và cho
thấy rằng trầm cảm nhẹ mãn tính, nhưng không phải trầm cảm lâm sàng, có thể
liên quan đến ung thư.
7. Nhân cách.
Trong vài năm qua đã có một số lợi ích trong mối quan hệ giữa cá tính và

ung thư. Temoshok và Fox (1984) lập luận rằng các cá nhân phát triển bệnh ung
thư có một "loại cá tính C". Một tính cách loại C được mô tả là thụ động, hay vừa
lòng, bất lực, không tập trung và không thể hiện được cảm xúc. Eysenck (1990)
mô tả "một tính cách của ung thư”, và cho rằng điều này là đặc trưng của các cá
nhân phản ứng với căng thẳng bằng sự bất lực và tuyệt vọng, những người kiềm
chế phản ứng cảm xúc với các sự kiện cuộc sống. Một nghiên cứu trước bởi Kissen
(1966) đã hỗ trợ mối quan hệ giữa cá tính và ung thư và báo cáo rằng người nghiện
thuốc lá, người mắc bệnh ung thư phổi thể hiện sự kém phát triển cho những cảm
xúc của họ, có lẽ cho thấy loại C cá tính. Năm 1987, Sha ff er et al. thực hiện một
nghiên cứu tiềm năng để kiểm tra khả năng tiên đoán của cá nhân và mối quan hệ
của nó trong sự phát triển ung thư ở sinh viên y khoa hơn 30 năm. Khi theo dõi họ
mô tả dạng cá nhân có khả năng phát triển ung thư là có khiếm khuyết trong việc
tự nhận thức, hy sinh, tự đổ lỗi và không phải biểu cảm cảm xúc. Các kết quả từ
nghiên cứu này cho thấy rằng những người có kiểu tính cách này có nhiều gấp 16
lần khả năng phát triển ung thư hơn so với những cá nhân không có tính cách như
vậy. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa bệnh ung thư và cá tính không phải là một lý do
nhất định. Có lập luận cho rằng các loại cá tính khác nhau được dự đoán liên quan
đến bệnh tật là không khác biệt với nhau và cũng có người bị ung thư không khác
biệt với cả người khỏe mạnh hoặc những người có bệnh tim theo hướng dự đoán
(Amelang và Schmidt-Rathjens 1996 ).
8. Sức chịu đựng.
Kobasa et al. (1982) đã mô tả một cách đối phó được gọi là 'chịu đựng',
trong đó có ba thành phần: kiểm soát, sự cam kết và thách thức. Kiểm soát thấp
21


cho thấy một xu hướng thể hiện cảm xúc bất lực khi đối mặt với căng thẳng. Cam
kết được định nghĩa là ngược lại của sự ghét bỏ: cá nhân ý thức cao về ý nghĩa thứ
cam kết được tìm thấy trong công việc, giá trị của họ và các mối quan hệ cá nhân.
Cá nhân có sự thách thức cao nhìn nhận về sự căng thẳng tiềm ẩn như một thách

thức để đạt được sự thành công mong đợi. Sức chịu đựng có thể mang tính bảo vệ
khi ung thư trong giai đoạn phát triển.
Hậu quả tâm lý của bệnh ung thư:
Phản ứng cảm xúc:
Lên đến 20 phần trăm bệnh nhân ung thư có thể cho thấy sự trầm cảm nặng,
đau buồn, thiếu kiểm soát, thay đổi tính cách, sự tức giận và lo lắng. Pinder et al.
(1993) đã kiểm tra phản ứng cảm xúc của phụ nữ bị ung thư vú và báo cáo rằng
những điều này rất khác biệt từ lúc gián đoạn nhỏ của tâm trạng để các quốc gia
lâm sàng của trầm cảm và lo âu. Các trạng thái cảm xúc của bệnh nhân ung thư
vú dường như không liên quan đến các loại phẫu thuật mà họ có (Hiebert et al.
1991), dù có hoặc không có xạ trị (Hughson et al.1987) và chỉ bị ảnh hưởng bằng
hóa trị trong thời kì trung hạn (Hughson et al. 1986). Tuy nhiên, sự suy giảm liên
tục ở tâm trạng dường như có liên quan đến lịch sử của bệnh tâm thần (Dean
1987), thiếu sự hỗ trợ xã hội (Bloom 1983), tuổi tác, và thiếu một mối quan hệ thân
mật (Pinder et al. 1993). Pinder et al. (1993) cũng báo cáo rằng trong những bệnh
nhân mắc ung thư, sự hoành hành tâm lý có liên quan đến tình trạng chức năng
(bệnh nhân có chức năng thể chất như thế nào) và cho rằng tình trạng chức năng hạ
thấp liên quan với mức độ cao hơn của bệnh trầm cảm, mà cũng liên quan đến giai
cấp xã hội thấp hơn. Tuy nhiên, tâm trạng xấu không phải là hậu quả duy nhất của
bệnh ung thư. Phụ nữ bị ung thư vú thường cho thấy những thay đổi trong ý thức
của họ về nữ tính, hấp dẫn và hình ảnh cơ thể. Điều này đã được chứng minh là lớn
hơn ở những phụ nữ có sự phẫu thuật cắt bỏ vú triệt để hơn là những người đã
phẫu thuật cắt bỏ khối u (ví dụ Moyer 1997) và xảy ra trên một phạm vi của các
nhóm dân tộc (ví dụ Petronis et al. 2003).
Phản ứng nhận thức:
Nghiên cứu cũng đã xem xét phản ứng nhận thức đến ung thư và cho thấy
một "tinh thần chống lại tương quan âm tính với lo âu và trầm cảm trong khi
22



'thuyết định mệnh", “bất lực" và 'mối bận tâm lo lắng' có liên quan đến tâm trạng
xấu hơn (Watson et al. 1991). Taylor (1983) đã kiểm tra sự thích ứng về nhận thức
của 78 phụ nữ bị ung thư vú. Cô cho biết rằng những người phụ nữ phản ứng với
bệnh ung thư của họ trong ba cách. Đầu tiên, họ đã thực hiện một sự tìm kiếm cho
ý nghĩa, theo đó các bệnh nhân ung thư đã cố gắng để hiểu được lý do tại sao họ đã
mắc bệnh ung thư. Ý nghĩa đó đã được báo cáo bao gồm căng thẳng, các yếu tố di
truyền, ăn phải chất gây ung thư như thuốc tránh thai, chất gây ung thư môi trường
như chất thải hóa chất, chế độ ăn uống, và một đòn giáng mạnh vào ngực. Thứ hai,
họ cũng đã cố gắng để đạt được một ý thức tự chủ bằng cách tin rằng họ có thể
kiểm soát bệnh ung thư của mình và bất kỳ sự tái phát nào. Những nỗ lực kiểm
soát bao gồm thiền định, suy nghĩ tích cực, và một niềm tin rằng nguyên nhân ban
đầu là không còn hiệu lực. Thứ ba, phụ nữ bắt đầu một quá trình tự nâng cao. Điều
này thể hiện sự tham gia hoạt động xã hội, theo đó phụ nữ có xu hướng phân tích
tình trạng về những người khác mà họ biết. Taylor cho rằng họ đã cho thấy 'sự so
xuống', có liên quan đến việc so sánh mình với những người khác còn tồi tệ hơn,
do đó cải thiện niềm tin của họ về tình trạng của mình. Theo lý thuyết về sự thích
nghi về nhận thức của Taylor, sự kết hợp của ý nghĩa nhận thức, làm chủ và tự
nâng cao tạo ra ảo tưởng đó là một thành phần cốt lõi của nỗ lực để đối phó. Lý
thuyết này được thảo luận chi tiết hơn trong Chương 3.
Tâm lý học và sự giảm các triệu chứng
Tâm lý cũng có một vai trò trong việc làm giảm các triệu chứng của bệnh
ung thư và trong việc thúc đẩy chất lượng cuộc sống (xem chương 16 để có một
cuộc thảo luận về chất lượng của lý thuyết cuộc sống và đo lường). Cartwright et
al. (1973) đã mô tả những kinh nghiệm của những bệnh nhân ung thư, trong đó bao
gồm sự đau đớn, rất đau buồn, khó thở, nôn, mất ngủ, mất kiểm soát ruột và bàng
quang, mất cảm giác ngon miệng và rối loạn tâm thần. Do đó, những can thiệp tâm
lý xã hội đã được sử dụng để cố gắng làm giảm bớt một số triệu chứng của bệnh
nhân ung thư và cải thiện chất lượng cuộc sống của họ.
1. Sự đối phó với nỗi đau.
Một trong những vai trò chính của tâm lý học là kiểm soát nỗi đau, và điều

này đã được thực hiện thông qua một loạt các kỹ thuật xử lý nỗi đau (xem Chương
12). Ví dụ, phản hồi sinh học và thôi miên đã được sử dụng để giảm đau. Turk và
23


Rennert (1981) khuyến khích bệnh nhân ung thư mô tả và theo dõi cơn đau của họ,
khuyến khích họ phát triển kỹ năng đối phó, dạy họ những kỹ năng thư giãn,
khuyến khích họ nghĩ về hình ảnh tích cực và tập trung vào những thứ khác. Họ
báo cáo rằng những kỹ thuật này đã thành công trong việc làm giảm các đau đớn.
2. Hỗ trợ can thiệp xã hội.
Can thiệp hỗ trợ xã hội đã được sử dụng thông qua việc cung cấp các nhóm
hỗ trợ, trong đó nhấn mạnh những hoạt động kiểm soát, có ý nghĩa và để làm giảm
sự từ chối, phủ nhận và thúc đẩy niềm hy vọng. Nó gợi ý rằng mặc dù can thiệp
này có thể không có bất kỳ hiệu quả nào đối với tuổi thọ nhưng nó có thể nâng cao
ý nghĩa của cuộc sống cho bệnh nhân ung thư. Cùng với điều này, Holland và
Holahan (2003) khám phá mối quan hệ giữa hỗ trợ xã hội, đối phó và thích ứng
tích cực đối với bệnh ung thư vú ở 56 phụ nữ. Kết quả cho thấy mức độ cao hơn
của sự hỗ trợ xã hội nhận thức và cách tiếp cận chiến lược đối phó có liên quan đến
điều chỉnh tích cực.
3. Điều trị buồn nôn và nôn.
Tâm lý học còn tham gia vào việc điều trị triệu chứng buồn nôn và nôn mửa
ở bệnh nhân ung thư. Bệnh nhân ung thư thường đề nghị hóa trị liệu trong điều trị
ung thư của họ, mà theo dự đoán là có thể gây ra buồn nôn, nôn và lo lắng. Các
hình ảnh trực quan, thư giãn, thôi miên và gây tê đã được chứng minh là làm giảm
buồn nôn và lo lắng ở bệnh nhân ung thư. Redd (1982) và Burish et al. (1987) cho
rằng 25-33 phần trăm bệnh nhân ung thư cho thấy lạnh nôn và 60 phần trăm
trước thời lo lắng. Nó chỉ ra rằng thư giãn và hình ảnh hướng dẫn có thể làm giảm
những vấn đề này.
4. Tư vấn hình ảnh cơ thể.
Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư cũng có thể được cải thiện

thông qua thay đổi tư vấn hình ảnh cơ thể, đặc biệt là sau sự mất mát của một vú và
nói chung trong việc đối phó với nỗi đau mất mát của các bộ phận khác nhau của
cơ thể.
5. Chiến lược thích ứng nhận thức.

24


Nghiên cứu cũng cho thấy chất lượng cuộc sống có thể được cải thiện bằng
các chiến lược thích ứng nhận thức. Taylor (1983) đã sử dụng chiến lược này để
nâng cao giá trị bản thân của bệnh nhân, khả năng của họ để được gần gũi với
những người khác và sự cải thiện trong ý nghĩa của cuộc sống của họ. Những
phương pháp này được đề xuất liên quan đến sự tự siêu nghiệm và điều này một
lần nữa liên quan đến cải thiện phúc lợi và giảm thiểu đến những đau khổ do bệnh
tật gây ra.
6. Công việc của Simonton.
Simonton và Simonton (1975) được biết đến với việc áp dụng các yếu tố tâm
lý xã hội và biện pháp can thiệp để cải thiện chất lượng cuộc sống của bệnh nhân
ung thư, sử dụng một cách tiếp cận toàn thân. Điều này bao gồm các quy trình sau:
(1) thư giãn, nhằm giảm căng cơ và do đó làm giảm đau; (2) hình ảnh tinh thần,
trong đó bệnh nhân ung thư được khuyến khích tập trung vào một cái gì đó tích
cực (điều này nhằm mục đích phát triển một niềm tin vào khả năng phục hồi, do đó
giảm đau, căng thẳng và sợ hãi); và (3) các chương trình tập thể dục, nhằm mục
đích để tăng cảm giác hạnh phúc. Năm 1975, Simonton và Simonton khuyến khích
một thái độ tích cực đối với điều trị bằng phương pháp tiếp cận toàn bộ trong số
152 bệnh nhân ung thư trong vòng 18 tháng, và cho rằng những can thiệp này dự
đoán một phản ứng tốt khi điều trị và giảm thiểu các phản ứng phụ. Các phương
pháp trên đang được áp dụng trong các phòng khám Bristol ở Anh.
Liệu pháp tâm lý bổ trợ
Greer et al. (1992) cho rằng, ngoài việc can thiệp vật lý, bệnh nhân ung thư

vú nên được tư vấn về khía cạnh liệu pháp tâm lý chất bổ trợ. Điều này liên quan
đến việc khích lệ bệnh nhân ung thư để kiểm tra ý nghĩa ung thư của họ và những
gì họ có thể làm để đối phó với nó (xem Tập trung vào nghiên cứu 14,2 ngược lại).
Yếu tố tâm lý trong việc kéo dài tuổi thọ
Câu hỏi cuối cùng về vai trò của tâm lý đối với bệnh ung thư là mối quan hệ
của nó để kéo dài tuổi thọ; liệu yếu tố tâm lý có ảnh hưởng tới việc kéo dài tuổi thọ
không?
Những phản ứng nhận thức và tuổi thọ
25


×