Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

câu hỏi và câu trả lời môn tư tưởng hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159 KB, 18 trang )

Câu 1: Ptích vai trò của lãnh tụ NAQ trong cuộc vận động thành lập ĐCSVN?
Việc thành lập Đảng là 1 bước ngoặt vô cùng quan trọng trong LS của CMVN, nó
chứng tỏ rằng “GCVS đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo CM” (Hồ Chí Minh). Sự ra
đời của ĐCSVN gắn liền với vtrò của lãnh tụ NAQ- Người trực tiếp cbị về mặt tổ
chức, tư tưởng, ctrị cho sự ra đời của ĐCSVN đồng thời chủ trì hội nghị tlập Đảng.
Giữa lúc dt ta đứng trước cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, nhiều nhà yêu
nước đương thời tiếp tục con đường cứu nước theo lối cũ thì NAQ đã tìm đường cứu
nước theo phương hướng mới.
Dưới ánh sáng của CMT10, Đề cương về vấn đề dt và thuộc địa của Lê-nin và ảnh
hưởng của cuộc đấu tranh tlập ĐCS Pháp CN Mác-LN, chân lý CM của thời đại đã
sớm được khẳng định trong nhận thức, tư tưởng của NAQ. Người xác định con
đường GP đúng đắn cho dt VN là GP GCVS mới thực sự GP được dt, cả 2 cuộc GP
này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa CS và của CM TG.
Từ khi trở thành người CS, NAQ đã xúc tiến mạnh mẽ việc truyền bá CN Mác- LN
vào PTGP dt và PT VS ở các nước thuộc địa, trong đó có VN. Người cũng đồng thời
chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho CMVN, đặc biệt là sự ra đời của ĐCSVN.
Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị về mặt tư tưởng, chính trị: Người viết sách, báo: Người
cùng khổ, Bản án chế độ thực dân Pháp, Người tập trung lên án CN thực dân và TDP,
vạch trần bản chất xâm lược, phản động, bóc lột, đàn áp tàn bạo của chúng, thức tỉnh
lòng yêu nước, ý chí phản kháng của các dt thuộc địa.
Trong những năm ở Pháp, Nga, Trung Quốc, Người vừa hoạt động tích cực trong PT
cnhân và PTGP dt, vừa nghiên cứu lý luận học hỏi kinh nghiệm CM các nước, kinh
nghiệm của cuộc CMT10 Nga và dần hình thành tư tưởng về con đường cứu nước,
GP dt. Lý luận Mác-LN và tư tưởng HCM sẽ trở thành nền tảng, tư tưởng, kim chỉ
nam cho mọi hoạt động của Đảng và là cơ sở hoạch định đường lối của Đảng về sau.
Người đã phác thảo đường lối cứu nước, thể hiện tập trung trong tác phẩm Đường
cách mệnh. Trong tác phẩm quan trọng này, NAQ nêu ra những tư tưởng cơ bản về
chiến lược và sách lược của CMVN. Tác phẩm phân tích những hạn chế của CMTS
Mỹ (1776), của Pháp (1789) và khẳng định chỉ có CMT10 Nga là cuộc CM triệt để.
“Đường cách mệnh” chỉ rõ bản chất phản động của CN thực dân. CN thực dân là kẻ
thù chung của các dt thuộc địa, của GC công nhân và NDLĐ trên TG, là kẻ thù trực


tiếp và nguy hại nhất của nhân dân các nước thuộc địa,
Con đường đi lên của CMVN là làm cuộc CMGPdt, hướng lên CNXH. Hai giai đoạn
cách mạng này có quan hệ mật thiết, tác động qua lại lẫn nhau.
Mqh giữa CM chính quốc và CM thuộc địa: CM chính quốc và CM thuộc địa có mqh
khăng khít với nhau. Phải thực hiện sự liên minh cđấu giữa các lực lượng CM ở thuộc
địa và chính quốc. ĐB Người chỉ rõ CM thuộc địa có tính chủ động, độc lập, có thể
giành thắng lợi trước CM ở chính quốc, góp phần đẩy mạnh CM ở chính quốc.
Về lực lượng CM: công nông là chủ, là gốc của CM; còn người học trò, nhà buôn


nhỏ, điền chủ nhỏ là bầu bạn của công nông. CM là việc chung của dân chúng chứ
không phải là việc của một hai người.
Mục tiêu cách mạng: Quyền lực thuộc về nhân dân.
Về đoàn kết quốc tế: Đặt cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế
giới; phải thực hiện sự liên minh, đoàn kết với các lực lượng cách mạng thế giới.
Về Đảng, tác phẩm nhấn mạnh: CM muốn thắng lợi trước hết phải có ĐCS lãnh đạo.
Đảng đó phải lấy CN Mác- LN làm hệ tư tưởng và vận dụng học thuyết đó vào VN.
Tư tưởng của NAQ được truyền bá vào VN đầu thế kỷ XX, hướng cho các PTGPdt
theo cách mạng vô sản, dẫn đến sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam.
Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị về mặt tổ chức:
Năm 1921, NAQ cùng 1 số nhà CM ở các nước thuộc địa Pháp( Angieri, Tuynidi,
Marốc, ) lập ra Hội liên hiệp các dt thuộc địa nhằm tập hợp lực lượng chống CN tdân.
Năm 1924, NAQ đến Quảng Châu- TQ. Người đã cùng các nhà lãnh đạo TQ, Triều
Tiên, Ấn Độ, Thái Lan, Indonexia, thành lập Hội liên hiệp các dt bị áp bức ở Á Đông.
Tháng 6 năm 1925, NAQ thành lập Hội VNCMTN, trong đó có tổ chức trung kiên là
Cộng sản đoàn làm hạt nhân để huấn luyện cán bộ, trực tiếp truyền bá CN Mác-LN
vào PT công nhân, PT yêu nước ở Việt Nam. Đây là tổ chức tiền thân của Đảng.
Hội VNCMTN và tác phẩm Đường cách mệnh đã trực tiếp cbị về ctrị, tư tưởng và tổ
chức cho việc tlập chính Đảng VS ở VN, dẫn đến sự ra đời của các tổ chức CS ở VN:
Đông Dg CS Đảng ( T6-1929), An Nam CS Đảng (T7-1929), Đông Dg CS liên đoàn

( T1-1930). Sự ra đời của ba tổ chức CS lúc bấy giờ là 1 xu thế tất yếu của CMVN.
Các tổ chức CS đã nhanh chóng XD cơ sở trong nhiều địa phương và trực tiếp lãnh
đạo, tổ chức nhiều cuộc đtranh của cnhân và nông dân tạo thành 1 làn sóng mạnh đấu
tranh CM dt DC khắp cả nước.
Nhưng trong cùng 1nước có 3 tổ chức hoạt động riêng rẽ, tranh giành ảnh hưởng của
nhau, thậm chí công kích lẫn nhau làm cho PTCM trong cả nước có nguy cơ bị chia
rẽ lớn. Yêu cầu bức thiết là phải có một Đảng cộng sản thống nhất trong cả nước.
Trước tình hình đó, NAQ rời Xiêm đến TQ. Với tư cách là phái viên của QTCS,
NAQ chủ trì Hội nghị hợp nhất Đảng tại Cửu Long ( Hương Cảng- Trung Quốc).
Tham gia Hội nghị hợp nhất gồm 5 đại biểu, 2 đại biểu của Đông Dg CS Đảng ,2đại
biểu của An Nam CS Đảng dưới sự chủ trì của lãnh tụ NAQ. Hội nghị nhất trí với 5
điểm lớn theo đề nghị của NAQ và quyết định hợp nhất các tổ chức CS, lấy tên là
ĐCSVN.
Hội nghị thảo luận và thông qua các văn kiện Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt,
Chương trình tóm tắt của Đảng và Điều lệ vắn tắt của ĐCSVN do NAQ soạn thảo.
Hội nghị quyết định phương châm, kế hoạch thống nhất các tổ chức cộng sản trong
nước, quyết định ra báo, tạp chí của Đảng cộng sản Việt Nam.
Ngày 24-2-1930, theo ycầu của Đông Dương CS liên đoàn, Ban chấp hành TƯ lâm
thời họp và ra Nghị quyết chấp nhận Đông Dương CS liên đoàn gia nhập ĐCSVN.
Như vậy, sự ra đời của ĐCSVN năm 1930 là kết quả tất yếu của cuộc đtranh GC và
đtranh dt trong thời đại mới; là sản phẩm của sự kết hợp CN Mác-LN với PT công
nhân và PT yêu nước VN, là kết quả của quá trình lựa chọn, sàng lọc nghiêm khắc


của LS. ĐB là kết quả của quá trình cbị đầy đủ về ctrị, tư tưởng và tổ chức đứng đầu
là Chủ tịch Hồ Chí Minh. ĐCSVN ra đời có ý nghĩa to lớn đối với CMVN.
Câu 2: Phân tích những điểm bổ sung,phát triển chủ trương của Đại hội Đảng
IX về phát triển nền kinh tế nhiều thành phần?
ĐN ta đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH, việc xác định và phát triển các loại
hình sở hữu, phân định các thành phần kinh tế là cần thiết, hợp quy luật làm cơ sở

cho việc hoạch định chính sách phát triển kinh tế nói chung và tạo điều kiện cho từng
thành phần kinh tế nói riêng phát triển, phát huy được mọi nguồn sức mạnh, GP mọi
năng lực sản xuất, hỗ trợ thúc đẩy, cạnh tranh lẫn nhau làm cho nền kinh tế của ĐN
thực sự năng động phát triển. Vì vậy mà Đảng ta thực hiện nhất quán chính sách phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần.
Đại hội IX của Đảng (4-2001) xác định nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là
mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đó là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Vậy thế nào là kinh tế thị trường định hướng XHCN? Đại hội IX xác định KTTT
XHCN là “ Một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường vừa
dựa trên cơ sở và chịu sự chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của CNXH”. Trong
nền kinh tế đó, các thế mạnh của “ thị trường” được sử dụng cơ sở vật chất kỹ thuật –
của CNXH, nâng cao đời sống nhân dân”, còn tính “định hướng XHCN” được thể
hiện trên cả ba mặt của qhệ SX: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối, nhằm mục
đích cuối cùng là “dân giàu, nước mạnh, tiên tiến hiện đại trong xã hội do dân làm
chủ, nhân ái, có văn hóa, có kỷ cương, xóa bỏ áp bức bất công, tạo điều kiện cho mọi
người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc”.
Về sở hữu: Hiện nay, chúng ta đang trong tkỳ quá độ lên CNXH, do đó tất yếu còn
đan xen nhiều chế độ sở hữu về tư liệu SX. Tiếp tục phát triển những tư tưởng của
Đại hội VII và Đại hội VIII về sở hữu, Đại hội IX khẳng định thêm một số tư tưởng:
- Chế độ sở hữu công cộng (công hữu) về tư liệu SX, chủ yếu từng bước được xác lập
và chiếm ưu thế tuyệt đối khi CNXH XD xong về cơ bản. XD chế độ đó là một quá
trình phát triển kinh tế – xã hội lâu dài qua nhiều bước, nhiều hình thức từ thấp đến
cao. Phải từ thực tiễn tìm tòi, thử nghiệm để xây dựng chế độ sở hữu công cộng nói
riêng và quan hệ sản xuất mới nói chung với bước đi vững chắc.
- Tiêu chuẩn căn bản để đánh giá hiệu quả SX, qhệ SX theo định hướng XHCN là
thúc đẩy phát triển lực lượng SX, cải thiện đsống nhân dân, thực hiện công bằng XH.
Về các thành phần kinh tế: Xuất phát từ thực tiễn những năm gần đây, Đại hội IX tái
khẳng định quan điểm đổi mới của Đại hội VI, VII, VIII, đồng thời bổ sung một số

điểm mới như sau:
- Một là, thay thành phần kinh tế hợp tác bằng thành phần kinh tế tập thể, trong đó
hợp tác xã là nòng cốt.


- Hai là, nhận thức rõ hơn thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ trong qtrình phát triển
kinh tế XH, nên đưa thành phần kinh tế này lên vị trí thứ ba sau tphần kinh tế NN và
thành phần kinh tế tập thể nhằm phát huy nội lực để thực hiện CNH, HĐH đất nước.
- Ba là, bổ sung thêm một tphần kinh tế nữa là kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Như vậy hiện nay ở nước ta có 6 thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể
(trong đó nòng cốt là hợp tác xã); kinh tế cá thể, tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân; kinh
tế tư bản nhà nước; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Các tphần kinh tế có thể có các hình thức kinh doanh đan xen, hỗn hợp, vừa hợp tác
vừa cạnh tranh trong cùng 1nền kinh tế quốc dân thống nhất. Tất cả các thành phần
kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, trong đó kinh tế nhà nước chiếm vai trò chủ đạo. Kinh tế nhà nước cùng với
kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc cho nền kinh tế quốc dân.
- Bốn là, phương hướng phát triển các thành phần kinh tế.
+ Thành phần kinh tế NN. Kinh tế NN bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, ngân
hàng NN, các quỹ dự trữ quốc gia, các quỹ bảo hiểm NN và các tài sản thuộc sở hữu
nhà nước có thể đưa vào vòng chu chuyển kinh tế. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo trong nền kinh tế quốc dân, là nhân tố mở đường cho sự phát triển kinh tế, là lực
lượng vật chất quan trọng để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
+ Thành phần kinh tế tập thể gồm hình thức hợp tác đa dạng, trong đó hợp tác xã là
nòng cốt, có thể dựa trên sở hữu tập thể, cũng có thể quyền sở hữu hợp pháp vẫn
thuộc về các thành viên, nhưng quyền sử dụng lại mang tính chất tập thể. Nhà nước
giúp hợp tác xã đào tạo cán bộ, ứng dụng khoa học, công nghệ, thông tin, mở rộng thị
trường, xây dựng các quỹ phát triển hỗ trợ hợp tác, giải quyết nợ tồn đọng. Khuyến
khích việc tích lũy, phát triển có hiệu quả vốn tập thể trong hợp tác xã.
+ Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ. Kinh tế cá thể, tiểu chủ ở nông thôn và thành

thị hoạt động kinh doanh dựa vào vốn và sức lao động của người sở hữu là chủ yếu.
Thế mạnh của thành phần kinh tế này là phát huy nhanh có hiệu quả tiền vốn, sức lao
động, tay nghề, sản phẩm truyền thống… vì thế nó có vai trò rất quan trọng trong sự
phát triển. Do những ưu thế đó, NN tạo điều kiện và giúp đỡ về vốn, kỹ thuật, công
nghệ, tài chính, tiêu thụ sản phẩm… để nó phát triển. Khuyến khích các hình thức tổ
chức hợp tác tự nguyện, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp hoặc phát triển lớn hơn.
+ Tphần ktế tư bản tư nhân. Ktế tư bản tư nhân bao gồm các đơn vị ktế mà vốn do 1
hoặc 1 số nhà tư bản trong và ngoài nước đầu tư để SX kinh doanh. Nét nổi bật của
tphần ktế này là sở hữu tư nhân hoặc sở hữu hỗn hợp và lao động làm thuê, nó được
tổ chức dưới hình thức doanh nghiệp tư nhân, công ty đối nhân, công ty đối vốn.
+ Thành phần kinh tế tư bản nhà nước. Kinh tế tư bản nhà nước bao gồm tất cả các
hình thức hợp tác, liên doanh giữa kinh tế nhà nước và kinh tế tư bản trong nước cũng
như nước ngoài, nhằm khai thác các nguồn lực cho phát triển và đặt dưới sự điều
chỉnh của pháp luật Việt Nam. Kinh tế tư bản nhà nước là sản phẩm từ sự can thiệp
thông minh của Nhà nước vào hoạt động của các tổ chức, đơn vị kinh tế tư bản.
+ Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Đây là thành phần kinh tế mới được
bổ sung. Sở dĩ như vậy là vì thực tế trong những năm gần đây bộ phận đầu tư kinh
doanh của nước ngoài chiếm tỷ trọng ngày càng tăng, có vị trí quan trọng trong nền
kinh tế nước ta. Từ thực tiễn đó, Đảng ta chủ trương tạo điều kiện để thành phần kinh
tế này phát triển thuận lợi, hướng mạnh vào khâu xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã


hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm. Cải thiện môi trường
kinh doanh và pháp lý để thu hút ngày một nhiều hơn vốn đầu tư nước ngoài.
Tóm lại Đại hội lần thứ IX của Đảng là đại hội của “ý Đảng lòng dân” về sở hữu
và các tphần ktế. Đại hội đã có những bổ sung và ptriển về sở hữu và các tphần ktế
cho phù hợp với sự ptriển của ĐN. Trong đó nhấn mạnh các tphần ktế tồn tại trong
cùng 1 nền ktế quốc dân thống nhất, vừa hợp tác vừa cạnh tranh với nhau để ptriển.
Câu3: Phân tích chủ chương, nhiệm vụ của Đảng về xây dựng phát triển văn
hóa trong thời kì đổi mới đất nước

Trước những khó khăn, thách thức, những biến động phức tạp của tình hình TG và
khu vực, Đảng luôn kiên định XD và thực hiện các chủ trương, chính sách đổi mới
đúng đắn trên nhiều lĩnh vực trong đó có lĩnh vực văn hóa, chỉ đạo hoạch định các
chính sách văn hóa nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng và phát triển nền văn
hóa VN trong thời kì đổi mới với các chủ chương và nhiệm vụ sau:


Chủ trương về xây dựng và phát triển nền văn hoá
Một là, văn hoá là nền tảng tinh thần của XH, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc
đẩy sự phát triển kinh tế XH
- Văn hoá là nền tảng tinh thần của XH
+ VH là tổng thể những giá trị vc và tinh thần do con người sáng tạo ra.VH phản
ánh mọi mặt của cs của con người: ăn mặc ở ,thái độ của xã hội…qua nhiều thời kì
lịch sử trở thành phong tục tập quán của mỗi dân tộc ,đc lưu giữ và trao truyền từ thế
hệ này sang thế hệ khác,nó có tác động to lớn đến tư tưởng tính chất của con người.
+ VH là sợi chỉ đỏ xuyến suốt toàn bộ LS dt, đc lưu giữ bảo toàn qua nhiều thế hệ
tạo sức sống mãnh liệt giúp con ng vượt qua khó khăn và phát triển.Vì thế Đảng ta
chủ trương làm cho VH thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đsống,trở thành nền tảng tinh
thần vững chắc,trở thành động lực phát triển kinh tế, đó cũng là con đường xây dựng
con ng mớ,xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, đẩy lùi văn hoá phản tiến bộ.
- Văn hoá là động lực thúc đẩy sự phát triển
Sự phát triển của mỗi quốc gia dt đều vươn tới cái mới nhưng ngược lại không tránh
khỏi cội nguồn,ptriển phải dựa vào cội nguồn,cội nguồn đó chính là LS,vhoá…Động
lực của sự phát triển VHXH bao gồm trên nhiều lĩnh vực trong đó nhân tố quan trọng
và quyết định là con người và hoạt động của con người,trong các yếu tố hình thành
nên nhân cách của con người thì yếu tố vhoá có vai trò hết sức to lớn,nó biểu hiện:
+ VH có sức mạnh giải phóng mọi năng lượng vật chất và tinh thần của con người.
+ VH có tác động thẩm thấu tới mọi lĩnh vực,mối quan hệ,tạo nên sức mạnh sâu xa
tiềm ẩn của xã hội.
+ VH tưởng chừng chỉ có ý nghĩa tinh thần nhưng ngày nay nó cũng trở thành 1

nguồn sinh lợi, động lực của sự phát triển kinh tế.
+ VH là mục tiêu của sự phát triển,mục tiêu của VN là dân giàu nước mạnh XH
công bằng dân chủ văn minh.
- Xây dựng 1 nền VH ngày càng văn minh,kết hợp hài hoà mức sống,vừa đảm bảo
cho thế hệ hiện tại vừa bền vững cho các thế hệ mai sau.
- VH là tổng thể của nhiều hoạt động,các hoạt động này đều hướng tới cái chân thiện
mĩ,mục tiêu cao nhất của ptriển vhoá là vì con người vì sự ptriển của con người.Với ý




nghĩa đó, chăm lo tới VH là chăm lo cho đsống xã hội,quan tâm tới VH sẽ thúc đẩy
KT ptriển,XH ổn định và tiến bộ.Như vậy VH trở thành tiêu chí để mỗi người cũng
như của cả XH ptriển.VH có vai trò ĐB trong việc bồi dưỡng và phát huy nhân tố con
người và XH mới.
Hai là, nền văn hoá mà ta xây dựng là nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc
- Tiên tiến là yêu nước là tiến bộ,tiên tiến không chỉ về nội dung tư tưởng mà cả trong
hình thức biểu hiện, trong phương tiện chuyển tải nội dung
- Bản sắc dt bao gồm cả những giá trị vhoá truyền thống bền vững của dt VN; thể
hiện sức sống bên trong của dân tộc,bản sắc dân tộc còn đậm nét cả trong các hình
thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo ,bản sắc dân tộc cũng phát triển .
Ba là, nền vhoá VN là nền vhoá thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dt VN
- Hơn 50 dt trên ĐN VN đều có những gtrị và bản sắc vhoá riêng, bổ sung cho nhau
- Cả cộng đồng các dân tộc VN có nền văn hoá chung thống nhất
- Thống nhất cả bao hàm tính đa dạng, đa dạng trong sự thống nhất
Bốn là, xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp của toàn dân, do đảng lãnh đạo,
trong đó đội ngũ tri thức giữ vai trò quan trọng
- Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng thì xây dựng văn hoá là công việc do mọi
người cùng thực hiện - Văn hoá là thẩm thấu trong mọi lĩnh vực của đời sống XH do
đó thực hành văn hoá là hoạt động hàng ngày của mỗi người dân

- Quần chúng là người hưởng thụ, tiêu dùng phổ biến sáng tạo và lưu giữ các tài sản
vhoá
- Các thành phần kinh tế cùng tham gia xây dựng phát triển văn hóa
- Các lực lượng văn hoá luôn giữ vai trò nòng cốt
Năm là, văn hoá là một mặt trận; xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp cách
mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì thận trọng
- Văn hoá là một mặt trận của cách mạng VN,quan trọng và gian khổ không kém mặt
trận kinh tế, mặt trận chính trị
- Hoạt động xây và chống trong vhoá là quá trình cách mạng lâu dài khó khăn phức
tạp và cần có ý chí cách mạng có tính chiến đấu tính kiên trì thận trọng
Để XD thành công nền văn hóa Đảng ta đã chỉ ra mười nhiệm vụ cụ thể như sau:
Thứ nhất: XD con người VN trong giai đoạn cách mạng mới.
XD con người VN hiện đại đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp đổi mới là nhiệm vụ
trọng tâm của quá trình XD và phát triển nền văn hóa hiện nay. Nghị quyết Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã nhấn mạnh: “Mọi hoạt động văn hóa nhằm
XD con người VN ptriển toàn diện về ctrị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng
lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối
sống có văn hóa, quan hệ hài hoà trong gia đình, cộng đồng và xã hội. Vhóa trở thành
nhân tố thúc đẩy con người tự hoàn thiện nhân cách, kế thừa truyền thống CM của dt,
phát huy tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường XD và bảo vệ Tổ quốc”.
XD con người và các thế hệ gắn bó với sự nghiệp CM là một quá trình lâu dài, khó
khăn và phức tạp, đòi hỏi sự nỗ lực của từng cá nhân, từng GĐ, từng tập thể và cộng
đồng, gắn liền với các thiết chế và thể chế văn hóa của ĐN. Vì vậy, cần phải huy
động sức mạnh tổng hợp và toàn diện của các nguồn lực văn hóa để giáo dục và XD
con người, bằng nhiều hình thức và phương pháp khác nhau, tạo điều kiện và cơ hội
cho con người phát triển toàn diện và cống hiến nhiều hơn cho sự phát triển ĐN.


Thứ hai: Xây dựng môi trường văn hóa.
Môi trường vhóa là môi trường chứa những gtrị vhóa và những qhệ vhóa của con

người từ quá khứ đến hiện tại và hướng tới tương lai. Môi trường vhóa là nơi đồng thời
diễn ra các hoạt động vhóa từ hoạt động sáng tạo, SX, bảo quản, lưu giữ, truyền bá,
thưởng thức và đánh giá các gtrị vhóa. Môi trường vhóa được hiện diện bằng sự tồn tại
của các gtrị vhóa vật thể, các gtrị vhóa phi vật thể, các hoạt động vhóa cá nhân và cộng
đồng trong những mqh đa dạng và sinh động, từ hành vi của cá nhân tới GĐ, họ hàng,
làng xóm và cộng đồng XH cùng với sự ứng xử của họ với quá khứ, hiện tại và tương
lai, với con người và tự nhiên.
Thứ ba: Phát triển sự nghiệp văn học và nghệ thuật.
Văn học, nghệ thuật là bộ phận tinh tế và nhạy cảm của vhóa, thể hiện khát vọng
vươn tới các gtrị Chân - Thiện - Mỹ của nhân dân. Nhiệm vụ qtrọng hàng đầu của sự
nghiệp vhọc, nghệ thuật là sáng tạo những tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng, nghệ
thuật, thấm nhuần tinh thần nhân văn, dân chủ sâu sắc, có ý nghĩa giáo dục, bồi
dưỡng tinh thần, tình cảm, nhân cách và bản lĩnh cho các thế hệ công dân hiện nay.
Thứ tư: Bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa.
Di sản văn hóa là tài sản, của cải quý báu kết tinh sự sáng tạo lâu dài của dân tộc do
lịch sử để lại, bao gồm các di sản văn hóa vật thể và di sản văn hóa phi vật thể. Di sản
văn hóa còn là cơ sở để liên kết cộng đồng, là nền tảng để sáng tạo các giá trị văn hóa
mới, là tiền đề để mở rộng giao lưu văn hóa với các dân tộc khác trên thế giới.
Thứ năm: Phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định: “Phát
triển khoa học và công nghệ cùng với phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách
hàng đầu, là nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”
Để đáp ứng ycầu về con người và nguồn nhân lực, nhân tố quyết định sự ptriển đất
nước trong thời kỳ CNH, HĐH, cần tạo chuyển biến cơ bản và toàn diện về GD và
đào tạo. GD và đào tạo cần tập trung bồi dưỡng thế hệ trẻ tinh thần yêu nước, yêu quê
hương, gia đình và tinh thần tự hào dân tộc, có lý tưởng xã hội chủ nghĩa, lòng khoan
dung, ý thức tôn trọng PL, tinh thần hiếu học, chí tiến thủ lập nghiệp, không cam chịu
nghèo hèn. Đào tạo lớp người LĐ có kiến thức cơ bản, làm chủ kỹ năng nghề nghiệp,
quan tâm với hiệu quả thiết thực, nhạy cảm với cái mới, có ý thức vươn lên về khoa
học và công nghệ. XD đội ngũ công nhân lành nghề, các chuyên gia và các nhà khoa

học, nhà văn hóa, nhà quản lý và kinh doanh giỏi. Có chính sách tốt trong việc sử
dụng nhân lực và nhân tài để phục vụ sự nghiệp XD và bảo vệ Tổ quốc. Chú trọng
nâng cao chất lượng GD toàn diện theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa và xã hội hóa.
Thứ sáu: Phát triển đi đôi với quản lý tốt hệ thống thông tin đại chúng.
Các phương tiện thông tin đại chúng bao gồm sách, báo, tạp chí, các đài phát thanh
và truyền hình ở Trung ương và địa phương…, đóng vai trò to lớn trong việc tuyên
truyền, phổ biến đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể
chính trị - xã hội tới nhân dân và phản ánh nguyện vọng của nhân dân đối với Đảng
và Nhà nước, góp phần to lớn vào việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Bên cạnh phát triển chiến lược truyền thông quốc
gia, các địa phương, các ngành, các cấp ở cơ sở cần tăng cường đầu tư cơ sở vật chất,
kỹ thuật, tạo điều kiện để phát triển mạnh mạng lưới thông tin văn hóa ở cơ sở.
Thứ bảy: Bảo tồn và phát huy, phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số.


Cần nâng cao trình độ dân trí, trình độ khoa học, kỹ thuật, công nghệ ở vùng đồng
bào dân tộc thiểu số. Chú trọng xây dựng đội ngũ trí thức và những nhà quản lý
người dân tộc, khuyến khích họ công tác tại địa phương mình. Tăng cường công tác
điều tra, sưu tầm, tôn tạo, bảo vệ và phát huy các công trình văn hóa mới, xây dựng
lối sống, tác phong, phong tục và tập quán mới phục vụ yêu cầu phát triển hiện nay,
mở rộng hợp tác giao lưu, hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc để cùng tiến bộ.
Thứ tám: Chính sách văn hóa đối với tôn giáo.
Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân và đang tồn
tại cùng dt trong quá trình XD CNXH ở VN. Đảng và NN ta thực hiện nhất quán
chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một
tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo pháp luật. Nghiêm cấm lợi
dụng các vấn đề dt, tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động trái pháp luật và chính sách
của NN, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh
quốc gia. Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng.
Thứ chín: Mở rộng hợp tác quốc tế về văn hóa.

Làm tốt việc giới thiệu văn hoá ĐN và con người VN với thế giới, để nhân dân thế
giới hiểu biết, chia sẻ, đồng cảm và ủng hộ nhiều hơn nữa sự nghiệp đổi mới của VN.
Tiếp thu có chọn lọc các giá trị nhân văn, khoa học tiến bộ của nước ngoài; phổ
biến những kinh nghiệm tốt về XD và phát triển văn hoá của các nước trên thế giới.
Chú trọng giúp đỡ cộng đồng người VN ở nước ngoài giữ gìn và bvệ vhóa dt, hiểu
biết hơn về ĐN và sự nghiệp đổi mới, tạo điều kiện để họ tham gia vào XD, phát triển
văn hóa dt.
Thứ mười: Củng cố, xây dựng và hoàn thiện thể chế văn hoá.
- Nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của các thiết chế hiện có.
- Thực hiện chủ trương "NN và nhân dân cùng làm" và XH hóa các hoạt động vhoá.
- XD và hoàn thiện các thiết chế vhóa ở cơ sở như nhà vhóa, thư viện, trạm phát
thanh, truyền hình, trạm bưu điện văn hóa, sân chơi, sân thể thao, trung tâm văn hóa
giải trí cho thanh, thiếu niên...
- Thực hiện nghiêm túc các văn bản luật pháp về vhóa, thông tin mà NN ban hành.
Củng cố nâng cao chất lượng đội ngũ quản lý văn hóa ở cấp xã, phường; giải quyết
tốt các chế độ, chính sách cho hoạt động vhóa ở cơ sở và đáp ứng tốt nhu cầu hưởng
thụ vhóa của nhân dân.
Những nhiệm vụ trên đây phải được tiến hành đồng bộ, thường xuyên và phải được
cụ thể hoá ở từng giai đoạn, từng địa phương. Ở đây, sự gương mẫu của đội ngũ lãnh
đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội là điều kiện cơ
bản để thực hiện thành công những nhiệm vụ quan trọng này.
Câu 4: Phân tích mục tiêu công nghiệp hóa hiện đại hóa(CNH-HĐH) do đại hội
Đảng 8 xác định? Liên hệ vận dụng.
Từ đại hội Đảng lần thứ 8 Đảng ta luôn xác định CNH- HĐH là nhiệm vụ trọng
tâm của thời kì quá độ. Thực hiện nhiệm vụ đó trong những năm đổi mới chúng ta đã
thu được nhiều thành tựu quan trọng tạo ra thế và lực mới chuyển sang một thời kì
phát triển cao hơn. Do đó muốn đẩy lùi nguy cơ tụt hậu về kinh tế, sớm đưa đất nước
ra khỏi tình trạng một nước nghèo, cải thiện đời sống nhân dân,tăng cường tiềm lực
quốc phòng an ninh, củng cố vững chắc độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia, tạo



điều kiện cho lực lượng sản xuất ra đời phù hợp với quan hệ sản xuất mới thì không
còn con đường nào khác là chúng ta phải đẩy mạnh quá trình CNH- HĐH.
Căn cứ vào nhận định trên đại hội cũng đã phân tích bối cảnh chung, đặc điểm tình
hình thế giới diễn biến nhanh chóng, phức tạp. Đại hội quyết định cẩn tiếp tục nắm
vững hai nhiệm vụ chiến lược : xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
“Mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là xây dựng đất nước ta thành một
nước công nghiệp có cơ sớ vật chất kĩ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lí, quan hệ
sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất, đời sống vật chất
và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, văn minh.
Từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước
công nghiệp".
Đại hội xác định mục tiêu, từ nay đến năm 2020 ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ
bản trở thành một nước công nghiệp với:
Lực lượng sản xuất sẽ đạt trình độ tương đối hiện đại, phần lớn lao động thủ công
đã được thay thế bằng lao động sử dụng máy móc, điện khí hóa cơ bản được thực
hiện trong cả nước, để nâng cao năng suất lao động xã hội và hiệu quả sản xuất kinh
doanh.
Về quan hệ sản xuất: Chế độ sở hữu, cơ chế quản lí và chế độ phân phối gắn kết
với nhau, phát huy được các nguồn lực tạo ra động lực mạnh mẽ thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế thực hiện công bằng xã hội.
Về đời sống vật chất và văn hóa: Nhân dân có cuộc sống no đủ, có mức hưởng thụ
văn hóa khá, có điều kiện về học hành chữa bệnh. Quan hệ xã hội lành mạnh, lối sống
văn minh.
Đại hội cũng nêu rõ quan điểm chỉ đạo CNH- HĐH:
Giữ vững độc lập tự chủ, đi đôi với mở rộng quan hệ quốc tế, đa phương hóa đa
dạng hóa quan hệ đối ngoại. Dựa vào nguồn lực trong nước chính là đi đôi với tranh
thủ tối đa nguồn lực bên ngoài. Xây dựng nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và

thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản
phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả.
CNH- HĐH là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, trong đó kinh
tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Lấy việc phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và
bền vững. Động viên toàn dân cần kiệm xây dựng đất nước, không ngừng tăng tích
lũy cho đầu tư phát triển. Tăng trưởng kinh tế gắn liền với cải thiện đời sống nhân
dân, phát triển văn hóa giáo dục, thực hiện tiến bộ công bằng xã hội, bảo vệ môi
trường.
Khoa học công nghệ là động lực của CNH- HĐH. Kết hợp công nghệ truyền
thống với công nghệ hiện đại, tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở những khâu quyết
định.
Lấy hiệu quả kinh tế làm chuẩn cơ bản để xác định phương án phát triển, lựa chọn
dự án đầu tư và công nghệ. Đầu tư chiều sâu để khai thác tối đa năng lực sản xuất
hiện có. Trong phát triển mới ưu tiên quy mô vừa và nhỏ, công nghệ tiên tiến tạo
thêm nhiều việc làm, thu hồi vốn nhanh; đồng thời xây dựng một số công trình quy


mô lớn thật cần thiết và có hiệu quả. Tạo ra những mũi nhọn trong từng bước phát
triển. Tập trung thích đáng nguồn lực cho các lĩnh vực, các địa bàn trọng điểm; đồng
thời đáp ứng nhu cầu cần thiết của mọi vùng trong nước, có chính sách hỗ trợ những
vùng khó khăn, tạo điều kiện cho các vùng đêu phát triển.
Kết hợp kinh tế với quốc phòng an ninh.
Câu 5: Phân tích nhiệm vụ của Đảng về xây dựng, phát triển văn hóa thời kì đổi
mới đất nước?
Xuất phát từ những đòi hỏi của sự phát triển đất nước thời kỳ mới với mục tiêu "tạo
nền tảng đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện
đại", chỉ ra những mục tiêu, nhiệm vụ chủ yếu đối với sự phát triển văn hóa những
năm tới.
Thứ nhất xây dựng con người VN phát triển toàn diện . Chăm lo phát triển văn hóa

nhằm mục tiêu trực tiếp và quan trọng nhất là nuôi dưỡng và xây dựng nhân cách con
người Việt Nam thời kỳ CNH, HÐH và hội nhập quốc tế. Mục tiêu của việc chăm lo
phát triển văn hóa là góp phần trực tiếp ''xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng,
văn minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người với trình độ tri thức, đạo đức,
thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao'' , trong khi phát triển văn hóa, phải ''chú trọng xây
dựng nhân cách con người Việt Nam về lý tưởng, trí tuệ, đạo đức, lối sống, thể chất,
lòng tự tôn dân tộc, trách nhiệm xã hội, ý thức chấp hành pháp luật''
Thứ hai tập trung xây dựng các nhân tố quan trọng liên quan trực tiếp đến văn hóa và
môi trường sống của con người, đó là gia đình, cộng đồng dân cư, đơn vị sản xuất,
công tác, học tập, chiến đấu, ''kết hợp và phát huy đầy đủ vai trò của xã hội, gia đình,
nhà trường, từng tập thể lao động, các đoàn thể và cộng đồng dân cư trong việc chăm
lo xây dựng con người Việt Nam''
Thứ ba văn học, nghệ thuật - một lĩnh vực rất quan trọng, đặc biệt tinh tế của văn hóa.
Văn học, nghệ thuật của chúng ta vừa phải ''giàu chất nhân văn, dân chủ'', vừa phải nỗ
lực ''vươn lên hiện đại''; vừa phải ''cổ vũ, khẳng định cái đúng, cái đẹp, đồng thời lên
án cái xấu, cái ác'', vừa ''tìm tòi, thể nghiệm những phương thức thể hiện và phong
cách nghệ thuật mới'' nhưng với mục đích ''đáp ứng nhu cầu lành mạnh, đa dạng và
bồi dưỡng lý tưởng, thị hiếu thẩm mỹ cho công chúng'', vừa phải ra sức ''khắc phục
yếu kém, nâng cao tính khoa học, sức thuyết phục của hoạt động lý luận, phê bình
văn học, nghệ thuật'' đồng thời khẩn trương chuẩn bị để ''từng bước xây dựng hệ
thống lý luận văn nghệ Việt Nam'' (Báo cáo Chính trị). Xử lý đúng trong thực tiễn các
mối quan hệ trên sẽ tạo cho sự phát triển toàn diện về chất lượng của văn học, nghệ
thuật nước nhà những năm tới.
Thứ tư bảo tồn phát huy các di sản văn hóa của các tộc người . Nhận thức của toàn xã
hội về vai trò, ý nghĩa, giá trị của di sản văn hóa nói chung, di tích lịch sử - văn hóa
và danh lam thắng cảnh nói riêng ngày càng được nâng cao. Bảo vệ di tích, phát huy
giá trị của các dân tộc phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
đấu tranh chống vi phạm đã trở thành nhiệm vụ quan trọng của toàn Đảng, toàn dân.
Thứ năm phát triển sự nghiệp GD-ĐT đây là yếu tố hết sức quan trọng. Bởi vì, giáo
dục đào tạo là động lực thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH, là điều kiện để phát huy

nguồn nhân lực, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
Thực tiễn những nước đi trước về CNH, HĐH đã chỉ ra rằng: xã hội muốn đạt tới
trình độ phát triển mới và cao hơn thì tất yếu phải dựa trên sự phát triển tương ứng về


-

mặt giáo dục. Trong đó, giáo dục phổ thông là nền tảng và giáo dục bậc cao là hết sức
cần thiết, vì đó là sự kết hợp giáo dục phổ thông với giáo dục nghề nghiệp, kết hợp
văn hóa với tay nghề để hình thành năng lực thực sự trong bản thân người lao động.
Nó tạo nên đội ngũ lao động có tay nghề, có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cũng như
những phẩm chất cần có để làm chủ tri thức, làm chủ các phương tiện kỹ thuật, công
nghệ hiện đại bắt nhịp được với yêu cầu của cơ chế thị trường cũng như sự nghiệp
CNH, HĐH.
Thứ sáu phát triển phương tiện thông tin đại chúng . Chiến lược phát triển thông tin là
một bộ phận quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia.
Thành công hay thất bại của một quốc gia tuỳ thuộc rất lớn vào khả năng làm chủ,
chiếm được lợi thế thông tin. Để bảo vệ quyền lợi thiết thực của mình trong các hoạt
động chung trên thế giới, các quốc gia hay tổ chức quốc tế đang nỗ lực tìm kiếm
những thông tin có giá trị nhất phục vụ cho mục tiêu hoạt động của mình. Trên thực
tế, thông tin đã từng được coi là yếu tố quyết định sự thành bại của một tổ chức.
Thứ bảy bảo tồn phát huy VH của các tộc người
Thứ tám mở rộng hợp tác quốc tế VH như tăng cường việc giới thiệu, truyền bá văn
hóa, con người, đất nước Việt Nam với thế giới, xây dựng một số trung tâm văn hóa
Việt Nam ở nước ngoài, tiếp thu những kinh nghiệm tốt về phát triển văn hóa của các
nước, giới thiệu các tác phẩm văn học, nghệ thuật đặc sắc của nước ngoài với công
chúng Việt Nam...
Thứ chín hoàn thiện thể chế văn hóa. Thể chế văn hóa là một chỉnh thể có nội dung
phong phú, là khái niệm chỉ hệ thống những luật định, quy chế, quy định pháp quy về
sản xuất, kinh doanh và quản lý văn hóa. Thể chế văn hóa trước hết xuất phát từ yêu

cầu của chính lĩnh vực văn hóa, nhưng nó chịu sự quy định và chi phối của thể chế
kinh tế và thể chế chính trị. Trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, đời sống văn hóa ở nước ta sẽ càng diễn
ra sôi động, đa dạng và phức tạp. Do vậy, việc xây dựng thể chế văn hóa để bảo đảm
phát huy vai trò của chính trị đối với phát triển văn hóa là vấn đề quan trọng hàng
đầu.
Câu 6: Phân tích nguồn gốc, tư tưởng, lí luận hình thành và phát triển tư tưởng
HCM?
TTHCM là sự kế thừa và phát huy giá trị truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc
VN.
Trước tiên, đó là chủ nghĩa yêu nước và ý chí bất khuất đấu tranh để dựng nước và
giữ nước. Đây là truyền thống tư tưởng quý báu nhất, nguồn gốc sức mạnh lớn nhất
trong đấu tranh dựng nước, giữ nước của dân tộc ta. Điều đó được phản ánh từ văn
hóa dân gian đến văn hóa bác học, từ những nhân vật truyền thuyết như Thánh
Gióng, đến các anh hùng thời xa xưa như Thục Phán, Hai Bà Trưng, Bà Triệu….đến
những anh hùng nổi tiếng thời phong kiến như Ngô Quyền, Phùng Hưng, Trần Quốc
Tuấn… Chủ nghĩa yêu nước là giá trị văn hóa cao nhất, đứng đầu bảng giá trị văn hóa
tinh thần VN, nó làm thành dòng chảy chủ lưu xuyên suốt lịch sử dân tộc, tạo thành
cơ sở vững chắc để nhân dân ta tiếp thu những giá trị văn hóa từ bên ngoài làm phong
phú văn hóa dân tộc và không ngừng phát triển.
Thứ hai là tinh thần nhân nghĩa, truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái, “lá lành
đùm lá rách” trong hoạn nạn, khó khăn. Điều kiện địa lí và chính trị đã đưa nhân dân


-

-

ta tạo dựng truyền thống này ngay từ buổi bình minh của dân tộc. Các thế hệ VN đều
trao truyền cho nhau:

Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng
30 năm bôn ba hải ngoại, năm 1941 vừa về nước, HCM đã nhắc nhở nhân dân ta:
“dân ta phải biết sử ta”. “ Sử ta dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết muôn
người như một thì nước ta độc lập, tự do”. Người căn dặn: “ Dân ta xin nhớ chữ
đồng: Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh!”.
Thứ 3 là truyền thống lạc quan yêu đời của dân tộc ta được kết tinh qua hàng ngàn
năm nhân dân ta vượt qua muôn nguy, ngàn khó, lạc quan tin tưởng vào tiền đồ dân
tộc, tin tưởng vào chính mình. HCM là điểm kết tinh rực rỡ của truyền thống lạc quan
yêu đời của dân tộc ta đã tạo cho mình một sức mạnh phi thường vượt qua mọi khó
khăn, thử thách đi đến chiến thắng.
Thứ 4 là truyền thống văn hóa khoan dung, hòa nhập nghĩa là luôn mở rộng để tiếp
nhận những tinh hoa văn hóa của nước ngoài để làm VH dân tộc thăng hoa lên tạo
nền văn hóa phong phú nhiuwng vẫn giữ được bản sắc.
TTHCM là sự kết tinh những tinh hoa văn hóa nhân loại
HCM đã biết làm giàu vốn văn hóa của mình bằng cách học hỏi, tiếp thu tư tưởng văn
hóa phương Đông và phương Tây.
Về tư tưởng và văn hóa phương Đông, HCM đã tiếp thu những mặt tích cực của Nho
Giáo về triết lí hành động, nhân nghĩa, ước vọng về một xã hội bình trị, hòa bình.
Về phật giáo, HCM tiếp thu tư tưởng vị tha, từ bi , bác ái, cứu nạn; coi trọng tinh thần
bình đẳng, chống phân biệt đẳng cấp, chăm lo điều thiện.
Về chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn, HCM tìm thấy những điều thích hợp với
điều kiện nước ta, đó là dân tộc độc lập, dân quyền tự do và dân sinh hạnh phúc.
Về tư tưởng và văn hóa phương Tây, HCM đã nghiên cứu tiếp thu văn hóa dân chủ
và cách mạng của cách mạng Pháp, cách mạng Mỹ.
TTHCM là kết quả vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lê nin
Đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, HCM đã tìm được cơ sở thế giới quan cho tư tưởng
của mình. Nhờ vậy Người đã hấp thụ và chuyển hóa được những nhân tố tích cực và
tiến bộ của truyền thống dân tộc cũng như của tư tưởng văn hóa nhân loại tạo nên hệ
thống tư tưởng HCM. Vì thế tư tưởng HCM thuộc hệ tư tưởng Mác – Lênin; đồng

thời nó còn là sự vận dụng và phát triển làm phong phú chủ nghĩa Mác – Lênin ở thời
đại các dân tộc bị áp bức vùng lên giành độc lập tự do, xây dựng đời sống mới.
Câu 7:Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh: cách mạng giải phóng dân tộc ở
thuộc địa cần được tiến hành chủ động sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi
trước cách mạng vô sản ở chính quốc?
Quan điểm trước HCM trong phong trào cách mạng thế giới về giải phóng dân
tộc. Trong phong trào cộng sản quốc tế đã từng tồn tại quan điểm xem thắng lợi của
cách mạng thuộc địa phụ thuộc vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở chính quốc. Đề
cương về phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa được thông
qua tại Đại hội VI Quốc tế cộng sản (ngày 1-9-1928) cho rằng: Chỉ có thể thực hiện
hoàn toàn công cuộc giải phóng các thuộc địa khi giai cấp vô sản giành được thắng
lợi ở các nước tư bản tiên tiến. Quan điểm này, vô hình chung đã làm giảm tính chủ
động, sáng tạo của các phong trào cách mạng ở thuộc địa.


Quan điểm của HCM về mối quan hệ khăng khít giữa CMVS chính quốc và CM
giải phóng dân tộc .
Theo Hồ Chí Minh, giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng vô
sản ở chính quốc có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại lẫn nhau trong
cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc. Đó là mối quan hệ bình
đẳng chứ không phải là quan hệ lệ thuộc, hoặc quan hệ chính - phụ. Năm 1925, Hồ
Chí Minh viết: "Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô
sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở các thuộc địa. Nếu
người ta muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta
chỉ cắt một vòi thôi, thì cái vòi kia vẫn tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản; con vật
vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt lại sẽ mọc ra".
CM giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động sáng tạo và có khả năng
giành thắng lợi trước CMVS ở chính quốc.
Nhân dân các dân tộc thuộc địa có khả năng cách mạng to lớn. Theo Hồ Chí Minh,
khối liên minh các dân tộc thuộc địa là một trong những cái cánh của cách mạng vô

sản. Phát biểu tại Đại hội V Quốc tế cộng sản (tháng 6-1924), Người khẳng định vai
trò, vị trí chiến lược của cách mạng thuộc địa: "Vận mệnh của giai cấp vô sản thế
giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa
gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa... nọc độc và sức sống
của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các thuộc địa hơn là ở chính
quốc", nếu xem thường cách mạng ở thuộc địa tức là "muốn đánh chết rắn đằng
đuôi". Vận dụng công thức của C.Mác: sự giải phóng của giai cấp công nhân phải là
sự nghiệp của bản thân giai cấp công nhân, Người đưa ra luận điểm: "Công cuộc giải
phóng anh em, (tức nhân dân thuộc địa - TG) chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ
lực của bản thân anh em".
Do nhận thức được vai trò, vị trí chiến lược của cách mạng thuộc địa, đánh giá đúng
sức mạnh dân tộc, năm 1921, Nguyễn ái Quốc cho rằng cách mạng giải phóng dân
tộc ở thuộc địa có thể giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Người
viết: "Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân châu á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để
gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của một bọn thực dân lòng tham không đáy, họ sẽ hình thành
một lực lượng khổng lồ, và trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của
chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em
mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn".
Trong tác phẩm Đường kách mệnh, Hồ Chí Minh có sự phân biệt về nhiệm vụ của
cách mạng vô sản và cách mạng giải phóng dân tộc và cho rằng: hai thứ cách mạng
đó tuy có khác nhau, nhưng có quan hệ chặt chẽ với nhau. Người nêu ví dụ: "An
Nam dân tộc cách mệnh thành công thì tư bản Pháp yếu, tư bản Pháp yếu thì công
nông Pháp làm giai cấp cách mệnh cũng dễ. Và nếu công nông Pháp làm cách mệnh
thành công, thì dân tộc An Nam sẽ được tự do"
Khái quát giá trị quan điểm : Đây là một luận điểm sáng tạo, có giá trị lý luận và
thực tiễn to lớn; tư tưởng này chính là cơ sở cho tinh thần độc lập tự chủ tự lực tự
cường cho dân tộc VN,góp phần cổ vũ cho nhân dân các dân tộc thuộc địa khác đứng
lên giải phóng mình; là một cống hiến rất quan trọng của Hồ Chí Minh vào kho tàng
lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về giải phóng dân tộc trong thời đại CMVS , đã



được thắng lợi của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc trên toàn thế giới trong
gần một thế kỷ qua chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.
Câu 8: Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc là đại
đoàn kết toàn dân?
Quan niệm của HCM về chủ thể đoàn kết dân tộc.
Cơ sở để HCM khẳng định về vai trò & lực lượng trong giải phóng dân tộc bắt nguồn
từ truyền thống đoàn kết nhân nghĩa dân tộc và vai trò của quần chúng nhân dân.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm Dân, có nội hàm rất rộng. Người dùng
các khái niệm này để chỉ "mọi con dân nước Việt", "con Rồng cháu Tiên", không
phân biệt dân tộc thiểu số với dân tộc đa số, người tín ngưỡng với người không tín
ngưỡng, không phân biệt già, trẻ, gái trai, giàu, nghèo. Nói đến đại đoàn kết dân
tộc cũng có nghĩa phải tập hợp được mọi người dân vào một khối trong cuộc đấu
tranh chung.Người đã nhiều lần nêu rõ: "Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và
độc lập của Tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có
đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ".
Với tinh thần đoàn kết rộng rãi, Người đã dùng khái niệm đại đoàn kết dân tộc để
định hướng cho việc xây dựng khối đoàn kết toàn dân trong suốt tiến trình cách
mạng, bao gồm mọi giai cấp, dân tộc, tôn giáo.
Quan niệm của HCM về các yêu cầu trong đoàn kết toàn dân.
Tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh có lập trường giai cấp rõ ràng, đó là đại
đoàn kết toàn dân với nòng cốt là khối liên minh công - nông - trí thức do Đảng của
giai cấp công nhân lãnh đạo. Muốn xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc rộng lớn như
vậy, thì phải xác định rõ đâu là nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc và những lực
lượng nào tạo nên cái nền tảng đó. Người đã chỉ rõ: Đại đoàn kết tức là trước hết phải
đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các
tầng lớp nhân dân lao động khác. Người coi công nông cũng như cái nền của nhà,
gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân
dân khác. "Lực lượng chủ yếu trong khối đoàn kết dân tộc là công nông, cho nên
liên minh công nông là nền tảng của Mặt trận dân tộc thống nhất". Về sau, Người nêu

thêm: lấy liên minh công - nông - lao động trí óc làm nền tảng cho khối đại đoàn kết
toàn dân. Nền tảng càng được củng cố vững chắc thì khối đại đoàn kết dân tộc càng
được mở rộng, không e ngại bất cứ thế lực nào có thể làm suy yếu khối đại đoàn kết
dân tộc.
Muốn đoàn kết thì phải hiểu dân, tin dân, dựa vào dân, tránh phân biệt giai cấp
đơn thuần, cứng nhắc, không nên phân biệt tôn giáo, dân tộc, cần xóa bỏ thành kiến,
cần thật thà đoàn kết rộng rải. Người thường nói: Năm ngón tay có ngón vắn ngón
dài, nhưng vắn dài đều hợp lại nơi bàn tay. Trong mấy mươi triệu người cũng có
người thế này người thế khác,dù thế này, thế khác cũng đều là dòng dõi của tổ tiên
ta.
Muốn thực hiện được đại đoàn kết toàn dân thì phải kế thừa truyền thống yêu
nước- nhân nghĩa- đoàn kết của dân tộc, phải có tấm lòng khoan dung, độ lượng với
con người. Người đã nhiều lần nhắc nhở: "Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những người đó trước đây chống chúng ta, bây
giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ". Để thực hiện được đoàn kết, Người còn
căn dặn: Cần xóa bỏ hết mọi thành kiến, cần phải thật thà đoàn kết với nhau, giúp


đỡ nhau cùng tiến bộ để phục vụ nhân dân.
Muốn ĐĐK phải khai thác yếu tố tương đồng, hạn chế những điểm khác biệt
giữa các giai tầng dân tộc, TG. . . Theo HCM, đã là người Việt nam (trừ Việt gian bán
nước) điều có những điểm chung: Tổ tiên chung, nòi giống chung, kẻ thù chung là
CN thực dân, nguyện vọng chung là độc lập, tự do, hòa bình thống nhất. . . . giai cấp
và dân tộc là một thể thống nhất, giai cấp nằm trong dân tộc và phải gắn bó với dân
tộc, giải phóng giai cấp công nhân là giải phóng cho cả dân tộc .Phải xác định rő vai
trň, vị trí của mỗi giai tầng XH, nhưng phải đoàn kết với đại đa số người dân lao
động (CN, ND, Tri thức, các tầng lớp lao động khác . . .), đó là nền, là gốc của ĐĐK,
nòng cốt là công nông.
Liên hệ vs quá trình xây dựng và củng cố khối ĐĐK toàn dân.
Câu 9 : Phân tích quan điểm của HCM về xây dựng nhà nước của dân, do dân

và vì dân?
Trong quá trình đi tìm đường cứu nước, HCM chú ý khảo cứu lựa chọn ra một kiểu
nhà nước mới cho VN để xây dựng sau khi CMGPDT theo con đường CMVS thành
công. Nhà nước đó phải đại biểu quyền lợi "cho số đông người" và HCM đã chủ
trương xây dựng một Nhà nước công nông binh thể hiện trong Chánh cương vắn tắt
của Đảng khi thành lập Đảng đầu năm 1930. Trải qua thực tế các cao trào cách mạng
ở VN, về sau, HCM chủ trương xây dựng ở VN một nhà nước Dân chủ Cộng hòa,
một nhà nước do nhân dân lao động làm chủ, nhà nước của dân, do dân, vì
dân.
Quan điểm nhất quán của HCM là xác lập tất cả mọi quyền lực trong nhà nước
và trong XH đều thuộc về nhân dân. Trong 24 năm làm Chủ tịch nước, HCM đã lãnh
đạo soạn thảo hai bản Hiến pháp, đó là Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959.
Quan điểm trên của Người được thể hiện trong các bản Hiến pháp đó. Chẳng hạn,
Hiến pháp năm 1946 nêu rõ: tất cả quyền bính trong nước đều là của toàn thể nhân
dân VN, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo; những
việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra toàn dân phúc quyết.
Nhân dân lao động làm chủ Nhà nước thì dẫn đến một hệ quả là nhân dân
có quyền kiểm soát Nhà nước, cử tri bầu ra các đại biểu, ủy quyền cho các đại biểu
đó bàn và quyết định những vấn đề quốc kế dân sinh. Đây thuộc về chế độ dân chủ
đại diện bên cạnh chế độ dân chủ trực tiếp. Quyền làm chủ và đồng thời cũng là
quyền kiểm soát của nhân dân thể hiện ở chỗ nhân dân có quyền bãi miễn những
đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nào nếu những đại biểu đó tỏ ra
không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân.
HCM đã nêu lên quan điểm dân là chủ và dân làm chủ. Dân là chủ có nghĩa
là xác định vị thế của dân, còn dân làm chủ có nghĩa là xác định quyền, nghĩa vụ của
dân. Trong nhà nước của dân, với ý nghĩa đó, người dân được hưởng mọi quyền dân
chủ. Bằng thiết chế dân chủ, nhà nước phải có trách nhiệm bảo đảm quyền làm chủ
của dân, để cho nhân dân thực thi quyền làm chủ của mình trong hệ thống quyền lực
của xã hội. Quyền lực của nhân dân được đặt ở vị trí tối thượng. Điều này có ý nghĩa
thực tế nhắc nhở những người lãnh đạo, những đại biểu của nhân dân làm đúng chức

trách và vị thế của mình, không phải là đứng trên nhân dân, coi khinh nhân dân, "cậy
thế" với dân, "quên rằng dân bầu mình ra là để làm việc cho dân". Một nhà nước như
thế là một nhà nước tiến bộ trong bước đường phát triển của nhân loại. Nhà nước


VNDCCH do HCM khai sinh ngày 2-9-1945 chính là Nhà nước tiến bộ chưa từng có
trong lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc VN bởi vì Nhà nước đó là nhà nước của
dân, nhân dân có vai trò quyết định mọi công việc của đất nước.
Nhà nước do dân lập nên, do dân ủng hộ, dân làm chủ. Chính vì vậy, HCM
thường nhấn mạnh nhiệm vụ của những người cách mạng là phải làm cho dân
hiểu, làm cho dân giác ngộ để nâng cao được trách nhiệm làm chủ, nâng cao được
ý thức trách nhiệm chăm lo xây dựng nhà nước của mình. HCM khẳng định: việc
nước là việc chung, mỗi người đều phải có trách nhiệm "ghé vai gánh vác một phần".
Quyền lợi, quyền hạn bao giờ cũng đi đôi với trách nhiệm, nghĩa vụ.
Nhà nước vì dân là một nhà nước lấy lợi ích chính đáng của nhân dân làm mục
tiêu, tất cả đều vì lợi ích của nhân dân, ngoài ra không có bất cứ một lợi ích nào
khác. Đó là một nhà nước trong sạch, không có bất kỳ một đặc quyền, đặc lợi nào.
Trên tinh thần đó HCM nhấn mạnh: mọi đường lối, chính sách đều chỉ nhằm đưa
lại quyền lợi cho dân; việc gì có lợi cho dân dù nhỏ cũng cố gắng làm, việc gì có hại
cho dân dù nhỏ cũng cố gắng tránh. Dân là gốc của nước. HCM luôn luôn tâm niệm:
phải làm cho dân có ăn, phải làm cho dân có mặc, phải làm cho dân có chỗ ở, phải
làm cho dân được học hành. Cả cuộc đời Người "chỉ có một mục đích là phấn đấu
cho quyền lợi Tổ quốc và hạnh phúc của quốc dân". HCM viết: "khi tôi phải ẩn
nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo - là vì mục
đích đó. Đến lúc nhờ quốc dân đoàn kết, tranh được chính quyền, ủy thác cho tôi
gánh việc Chính phủ, tôi lo lắng đêm ngày, nhẫn nhục cố gắng - cũng vì mục đích
đó". Một Nhà nước vì dân, theo quan điểm của HCM, là từ chủ tịch nước đến công
chức bình thường đều phải làm công bộc, làm đày tớ cho nhân dân chứ không phải
"làm quan cách mạng" để "đè đầu cưỡi cổ nhân dân" như dưới thời đế quốc thực dân.
Ngay như chức vụ Chủ tịch nước của mình, HCM cũng quan niệm là do dân ủy

thác cho và như vậy phải phục vụ nhân dân, tức là làm đày tớ cho nhân dân. HCM
nói: "Tôi tuyệt nhiên không ham muốn công danh phú quý chút nào. Bây giờ phải
gánh chức Chủ tịch là vì đồng bào ủy thác thì tôi phải gắng sức làm, cũng như một
người lính vâng mệnh lệnh của quốc dân ra trước mặt trận. Bao giờ đồng bào cho
tôi lui, thì tôi rất vui lòng lui... Riêng phần tôi thì làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có
non xanh, nước biếc để câu cá, trồng hoa, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi,
em trẻ chăn trâu, không dính líu gì với vòng danh lợi".
Để có được nhà nước thực sự là of dân, do dân, vì dân, cần đề phòng và khắc phục
những mặt tiêu cực trong bộ máy nhà nước, đẩy mạnh pháp luật đi đôi với tăng
cường giáo dục đạo đức
Câu 10 : Phân tích quan điểm của HCM về các chuẩn mực đạo đức CM?
Theo HCM, muốn thực hiện thành công sự nghiệp CM XHCN - cuộc CM sâu sắc
nhất, triệt để nhất, toàn diện nhất, chúng ta phải đem hết tinh thần và lực lượng ra
phấn đấu; phải tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng.
Trung với nước , hiếu với dân là 1 trong những chuẩn mực đạo đức CM cơ bản.
Đây là chuẩn mực đạo đức có ý nghĩa quan trọng hang đầu. Theo quan điểm HCM,
nước là nước của dân và dân là người chủ của nước. Vì vậy, "trung với nước, hiếu
với dân" là thể hiện trách nhiệm với sự nghiệp dựng nước và giữ nước, với con
đường đi lên và phát triển của đất nước.
Trung với nước là quyết tâm phấn đấu thực hiện mục tiêu CM, Trong mqh giữa


cá nhân với cộng đồng và XH, phải biết đặt lợi ích của Đảng, của Tổ quốc, của CM
lên trên hết, trước hết, Thực hiện tốt mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước. Hiếu với dân là: Khẳng định vai trò sức mạnh thực sự của nhân dân, Tin dân,
học dân, lắng nghe ý kiến của dân, gắn bó mật thiết với dân, tổ chức, vận động
nhân dân thực hiện tốt đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước,
Chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là những khái niệm đạo đức cũ, được HCM
tiếp thu, chọn lọc, đưa vào những yêu cầu và nội dung mới. Người chỉ ra rằng:

phong kiến nêu ra cần, kiệm, liêm, chính nhưng không thực hiện; ngày nay, ta đề ra
cần, kiệm, liêm, chính cho cán bộ thực hiện làm gương cho nhân dân theo để lợi cho
nước, cho dân. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là một biểu hiện sinh động của
phẩm chất "trung với nước hiếu với dân". Cần tức là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng,
dẻo dai. Kiệm là tiết kiệm vật tư, tiền bạc, của cải, thời gian, không xa xỉ, không
hoang phí. Liêm là trong sạch, không tham lam tiền của, địa vị, danh tiếng. Chính
là không tà, là thẳng thắn, đứng đắn. Các đức tính đó có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau. Cần mà không kiệm giống như một chiếc thùng không đáy. Kiệm mà không
cần thì lấy gì mà kiệm. Cần, kiệm, liêm là gốc rễ của chính. Nhưng một cây cần có
gốc rễ, lại cần có cành, lá, hoa, quả mới là hoàn chỉnh. Cần, kiệm, liêm, chính cần
thiết đối với tất cả mọi người. HCM viết: "Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông/
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc /Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm,
Chính/ Thiếu một mùa, thì không thành trời/ Thiếu một phương, thì không thành
đất./Thiếu một đức, thì không thành người"
Chí công vô tư là không nghĩ đến mình trước, chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng
bào; là đặt lợi ích của cách mạng, của nhân dân lên trên hết, trước hết. Thực hành
chí công vô tư cũng có nghĩa là phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng
cao đạo đức cách mạng.
Xuất phát từ nguyên lý của chủ nghĩa M-L, đặc biệt là từ thực tiễn đấu tranh
cách mạng của các dân tộc, HCM cho rằng, trên đời này có nhiều người, nhiều công
việc, nhưng có thể chia thành hai hạng người: người thiện và người ác, và hai thứ
việc: việc chính và việc tà. Làm việc chính là người thiện, làm việc tà là người ác.
Từ đó, Người kết luận: những người bị áp bức, bị bóc lột, những người làm điều
thiện thì dù màu da, tiếng nói, chủng tộc, tôn giáo có khác nhau, vẫn có thể thực hành
chữ "bác ái", vẫn có thể đại đoàn kết, đại hòa hợp, coi nhau như anh em 1 nhà.Tình
thương yêu con người ở HCM không chung chung, trừu tượng kiểu tôn giáo, mà
luôn luôn được nhận thức và giải quyết trên lập trường của giai cấp vô sản, dành cho
các dân tộc và con người bị áp bức, đau khổ. HCM thương yêu con người với một
tình cảm sâu sắc, vừa bao la rộng lớn, vừa gần gũi thân thương đối với từng số phận
con người. HCM luôn sống giữa cuộc đời và không có cái gì thuộc về con người đối

với HCM lại là xa lạ. Người quan tâm đến tư tưởng, công tác, đời sống của từng
người, việc ăn, việc mặc, ở, học hành, giải trí của mỗi người dân, không quên, không
sót một ai, từ những người bạn thuở hàn vi, đến những người quen mới. Tình
thương yêu con người ở HCM luôn gắn liền với hành động cụ thể, phấn đấu vì độc
lập của Tổ quốc, tự do hạnh phúc cho con người.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự thống nhất, hòa quyện giữa chủ nghĩa yêu nước
chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Chủ nghĩa quốc tế là một trong những


đặc điểm quan trọng nhất của đạo đức cộng sản chủ nghĩa. Nó bắt nguồn từ bản chất
quốc tế của giai cấp công nhân và của xã hội xã hội chủ nghĩa.
Nội dung chủ nghĩa quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh rộng lớn và sâu
sắc. Đó là sự tôn trọng và thương yêu tất cả các dân tộc, nhân dân các nước, chống sự
hằn thù, bất bình đẳng dân tộc và sự phân biệt chủng tộc. Người khẳng định: bốn
phương vô sản đều là anh em; giúp bạn là giúp mình; thắng lợi của mình cũng là
thắng lợi của nhân dân thế giới. Người đã góp phần to lớn, có hiệu quả xây đắp
tình đoàn kết quốc tế, tạo ra một kiểu quan hệ quốc tế mới: đối thoại thay cho đối
đầu, kiến tạo một nền văn hóa hòa bình trên thế giới.



×