Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

tiểu luận mô hình tăng trưởng nội sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (84.29 KB, 10 trang )

BÀI TẬP THẢO LUẬN NHÓM 4:
ĐỀ BÀI: MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG NỘI SINH
Giảng viên hướng dẫn:


1.

Tác giả tiêu biểu:
(1)

SERGIO REBELO

Sinh: 29/10/1959
Là 1 nhà kinh tế người Bồ Đào Nha
Ông là một thành viên của Hiệp Hội Kinh tế lượng , một nhà nghiên cứu tại
Trung tâm nghiên cứu kinh tế và chính sách. Nghiên cứu tập trung xung
quanh kinh tế vĩ mô, hệ thống kinh tế và tài chính quốc tế.
(2)

Robert Lucas (1937) :

Sinh ra tại Yakima bang Washington – Hoa kỳ. Ông là một nhà kinh tế người My
tại đại học Chicago. Ông nhận giải nobel kinh tế năm 1995 và luôn là một trong
mười nhà kinh tế hàng đầu được tham khảo trong các bài báo cáo nghiên cứu trong
các xếp hạng kinh tế.


2.

Nội dung chính của mô hình:


- Xuất phát điểm của mô hình : Sự bất lực trong giải thích các hiện tượng tăng
trưởng kinh tế của nhiều nước bằng mô hình Solow.
- Bỏ qua quy luật lợi tức giảm dần theo quy mô: phân chia vốn làm 2 loại:
Vốn hữu hình và vốn nhân lực. Vốn nhân lực hình thành trong quá trình học tập,
đào tạo và từ kinh nghiệm thực tiễn. Vốn nhân lực không chịu sự chi phối bởi quy
luật lợi tức giảm dần.


3.Các yếu tố nguồn lực trong mô hình :
* Các yếu tố trong hàm sản xuất:
- Hàm sản xuất nói chung:
Y = f( K, L, E)
E – hiệu quả lao động , không phải chỉ là yếu tố công nghệ (như Solow) mà là tác
động tổng hợp của các yếu tố được đúc kết trong “vốn nhân lực” và tạo nên năng
suất lao động tổng hợp (TFP)
- Mô hình nội sinh chia nền kinh tế thành 2 khu vực: khu vực sản xuất hàng hoá
và khu vực sản xuất tri thức. Mỗi khu vực sẽ có hàm sản xuất riêng.

* Vai trò các yếu tố nguồn lực:

(I) Mô hình AK – vai trò của vốn nhân lực:
Hàm sản xuất đơn giản:

Y = AK

A là hằng số đo sản lượng sản xuất trên một đơn vị vốn (không bị chi phối bởi quy
luật lợi tức giảm dần) và K là thước đo tổng hợp của vốn
ΔK = sY – бK
g= ΔY/Y = gA + gK trong đó gA= ΔA/A và gK = ΔK/K
Nếu không có tiến bộ công nghệ: gA = 0

g = ΔY/Y = g K = ΔK/K = (sY – бK)/K = (sAK – бK)/K = sA – б
sA> б, g luôn >0
Khi sA> б thì g luôn >0 (có tăng trưởng vĩnh viễn cho dù không có tiến bộ công
nghệ)→ tiết kiệm và đầu tư dẫn đến tăng trưởng vĩnh viễn
Lý do: coi A là hằng số (không đổi) bởi vì K bao gồm cả vốn nhân lực – không theo
quy luật lợi tức giảm dần, thậm chí còn có thể tăng lên.


(II) Mô hình Lucas đơn giản:
Chia nền kinh tế

-

làm 2 khu vực:

+ Khu vực sản xuất hàng hóa, bao gồm các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa và
được sử dụng trong tiêu dùng cá nhân và đầu tư vào vốn sản xuất.
+ Khu vực giáo dục, bao gồm các trường đại học sản xuất kiến thức sử dụng
cho cả 2 khu vực.
Nền kinh tế được mô tả bằng 2 hàm sản xuất: khu vực sản xuất và khu vực
các trường đại

-

Gọi: u là tỷ lệ lao động của khu vực giáo dục

-

(1-u) là tỷ lệ lao động khu vực sản xuất.
E là lượng kiến thức (quyết định hiệu quả lao động)

K là vốn tích luy của khu vực sản xuất
(1 – u)LE là hiệu qủa tích luy của khu vực giáo dục thể hiện ở số lao động
hiệu quả của khu vực sản xuất ;
g(u) là tốc độ tăng trưởng lao động khu vực giáo dục;
s là tỷ lệ tiết kiệm và б là tỷ lệ khấu hao
-

Từ logic trên, có các phương trình liên quan đến tăng trưởng:


Y = Kα[(1 –u)EL]1-α



ΔE = g(u)E



ΔK = sY - бK

Hàm sản xuất của các doanh nghiệp
Hàm sản xuất của các trường đại học
Phương trình tích luy vốn

Theo các hàm sản xuất trên:


Đầu tư quyết định vốn vật chất ở trạng thái ổn định





Tỷ lệ lao động trong trường đại học quyết định tốc độ tăng trưởng kiến thức



Cả s và u đều quyết định tới tăng thu nhập ở trạng thái ổn định



Đầu tư dẫn đến tăng trưởng vĩnh viễn

*Ý nghĩa và Sự vận dụng của mô hình:
- Những hạn chế về khả năng rượt đuổi các nước đang phát triển bởi sự hạn chế
về khả năng phát triển vốn con người:
Ví dụ: 2 nước A và B
Trường hợp 1: Nếu vốn nhân lực như nhau, nước A có mức vốn vật chất thấp
hơn.
Trường hợp 2: Nếu mức vốn vật chất giống nhau, nhưng vốn nhân lực nước A
chỉ bằng ½ nước B, tốc độ tăng trưởng vốn là như nhau.
-

Tốc độ tăng trưởng phụ thuộc vào giáo dục, thời gian dành cho giáo dục
càng lớn thì nền kinh tế tăng trưởng càng cao.
Giải pháp thoát nghèo và đuổi kịp các nước phát triển: đầu tư phát triển
nguồn nhân lực.
Đề cao vai trò của chính phủ trong đầu tư phát triển vốn nhân lực.


4.


Ưu điểm của mô hình:
Mô hình này cho thấy không có xu hướng các nước nghèo (ít vốn) có thể đuổi
kịp các nước giàu về mức thu nhập bình quân, cho dù có cùng tỷ lệ tiết kiệm.
Nguyên nhân bắt nguồn từ sự chênh lệch không chỉ ở lượng vốn vật chất (có thể
bù đắp nhờ đầu tư và viện trợ nước ngoài) mà quan trọng hơn là ở vốn con
người.
Ta thấy rằng, mô hình vốn con người nhất quán với bằng chứng trong phân phối
thu nhập trên thế giới. Mô hình dự báo xảy ra hội tụ giữa các nước giàu (với giả
định rằng các nước này có cùng mức vốn con người), nhưng cũng cho rằng nền
kinh tế của các nước nghèo (xuất phát với mức vốn thấp) sẽ tiếp tục trì trệ. Tuy
nhiên, dự báo về các nước nghèo không hoàn toàn bi quan. Bởi lẽ tốc độ
tăng trưởng là nội sinh, nên mô hình chỉ ra một con đường thoát khỏi nghèo:
một nước đầu tư nhiều vào nguồn nhân lực hơn sẽ có tốc độ tăng trưởng
cao hơn, và do đó sẽ hội tụ với các nước giàu cho dù vốn con người ban đầu
thấp
hơn.
Như vậy, trái với các lý thuyết tăng trưởng tân cổ điển các mô hình tăng
trưởng nội sinh đề cao vai trò của chính phủ trong việc thúc đẩy phát triển
kinh tế thông qua đầu tư trực tiếp và gián tiếp vào giáo dục – đào tạo,
khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào các ngành công nghiệp sử dụng
nhiều
tri
thức.
Mô hình tăng trưởng nội sinh cũng cho thấy có thể xây dựng được các mô
hình trong đó những thay đổi dài hạn trong chính sách của chính phủ
(đánh thuế, cung ứng cơ sở hạ tầng, bảo hộ sở hữu trí tuệ, cung cấp các dịch vụ
công cộng liên quan đến giáo dục, y tế…), có thể tạo ra sự thay đổi dài hạn
trong tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Vì các chính sách này có thể tác động
tới các hoạt động sáng chế, phát minh và tích lũy vốn con người.



5.

Nhược điểm của mô hình:
Mặc dù có những ý nghĩa và đóng góp chính sách to lớn, tuy nhiên, các mô
hình
tăng
trưởng
nội
còn nhiều
hạn
chế.
- Thứ nhất, về mặt thực tiễn, các nghiên cứu tính toán tăng trưởng đã cho
thấy: mô hình đánh giá quá cao vai trò của vốn con người, theo nghĩa có sự
chệnh lệch về mức thu nhập giữa các quốc gia mà không thể giải thích bằng
vốn vật chất hay vốn con người, và rằng đầu tư vào giáo dục không đủ để thúc
đẩy
tăng trưởng

các
nước
nghèo.
- Thứ hai, một số đề xuất chính sách của các mô hình về vốn con người
còn mang tính trực quan. Hai nghiên cứu sau đây đã cho thấy cần thận trọng
với các kết luận này. Zhang (1996) lập luận rằng mặc dù việc chính phủ trợ cấp
cho giáo dục tư nhân sẽ kích thích tăng trưởng, nhưng việc khu vực công cộng
cung ứng dịch vụ giáo dục trực tiếp trên thực tế có thể làm giảm tăng trưởng
(cho dù nó làm giảm bất bình đẳng thu nhập). Điều này có thể xảy ra nếu giáo
dục công cộng được tài trợ thông qua một loạt thuế gây méo mó. Tuy nhiên,

ngay cả trong trường hợp này, ngoại ứng tích cực tạo ra từ trình độ giáo dục cao
hơn có thể đủ bù đắp lại khoản mất mát do sự can thiệp của chính phủ, để phúc
lợi ròng vẫn tăng lên. Upadhyay (1994) chứng minh rằng trợ cấp của chính phủ
có thể tạo ra quá nhiều giáo dục. Đó là trợ cấp làm tăng cầu về giáo dục trình độ
cao, đổi lại là sự giảm sút đầu tư vào vốn vật chất và dẫn đến sự thay thế không
hiệu quả giữa lao động có trình độ cao và lao động chân tay trong dài hạn. Có
thể xảy ra một nghịch lý là trong dài hạn, tăng trưởng có thể bị giới hạn do thiếu
lao động thô sơ, đồng thời những người lao động có trình độ lại bị thất nghiệp.
- Thứ ba, các mô hình tăng trưởng nội sinh vẫn phụ thuộc vào một số giả
định tân cổ điển truyền thống mà không phù hợp với các nền kinh tế đang
phát triển. Chẳng hạn, các mô hình còn bỏ qua những yếu tố như sự yếu kém
về cấu trúc hạ tầng, cấu trúc thể chế, các thị trường vốn và thị trường hàng hóa
không hoàn hảo… ở các nước đang phát triển, mà đây cũng là những yếu tố
kìm hãm tăng trưởng GDP giống như tiết kiệm và tích lũy vốn con người thấp.
- Thứ tư, có nhiều bằng chứng thực nghiệm vẫn trái ngược với dự đoán
này của các mô hình tăng trưởng nội sinh. Chẳng hạn, số lượng nhà khoa
học và ky sư tham gia vào hoạt động nghiên cứu đã tăng lên rất nhiều trong
khoảng 40 năm qua. Ngược lại, tốc độ tăng trưởng trung bình chỉ là 1,8% trong
suốt quãng thời gian này (Jones,1995). Chứng cớ này có vẻ ủng hộ cho mô hình
theo quan điểm “thấp hơn tuyến tính”, tức là � < 1. Diễn biến của nước My


trong thế kỷ trước cho thấy tỷ lệ đầu tư vào giáo dục (được đo bằng mức học
vấn vẫn đạt được bình quân của từng thế hệ) đã tăng mạnh trong thế kỷ qua. Ví
dụ, vào năm 1940, trong bốn người lớn thì có chưa đến một người hoàn tất bậc
trung học, nhưng năm 1995 thì hơn 80% người lớn đã có được chứng chỉ bậc
trung học. Tỷ lệ đầu tư vào các thiết bị như máy tính đã tăng rất mạnh. Kể từ
năm 1950, tỷ lệ lực lượng lao động là các ky sư và nhà khoa học
tham gia vào hoạt động R&D chính thức đã tăng lên khoảng ba lần. Mặc dù có
những thay đổi này, tốc độ tăng trưởng bình quân của nước My ngày nay không

cao hơn so với mức đã đạt được trong giai đoạn từ 1870 tới năm 1929 (Jones,
1998).


*** So sánh với mô hình của David Ricardo và mô hình của
Harrod Domar
-

Giống nhau:

Đều lấy đối tượng nghiên cứu là nền kinh tế thị trường và khảo nghiệm kết
quả nghiên cứu đối với nền kinh tế thị trường, trong điều kiện cạnh tranh và hội
nhập kinh tế quốc tế.

Đều nghiên cứu và làm sáng rõ vai trò của một hay nhiều nhân tố đầu vào (vốn,
lao động, tài nguyên thiên nhiên, khoa học công nghệ), làm gia tăng sản lượng
đầu ra, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Mô hình tăng trưởng nội sinh và.mô hình của Harrod Domar có chung 1 quan
điểm là cùng coi trọng sự can thiệp của Chính phủ vào nền kinh tế.
-

Khác nhau:

+ mô hình tăng trưởng nội sinh đề cao vai trò của chính phủ trong việc thúc
đẩy phát triển kinh tế thông qua đầu tư trực tiếp và gián tiếp vào giáo dục – đào
tạo, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào các ngành công nghiệp sử dụng
nhiều tri thức.

+ mô hình tăng trưởng của Harrod Domar coi trọng sự can thiệp của chính phủ
vào nền kinh tế thông qua hệ thống thuế khóa.


+ mô hình của David Ricardo: Yếu tố nguồn vốn (K) là yếu tố trực tiếp tăng
sản lượng. Nên không có sự xuất hiện của chính phủ vì chi của chính phủ
không sinh lời và làm giảm động lực tích lũy của doanh nghiệp.



×