Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

NẤM côn TRÙNG tại vườn QUỐC GIA cát TIÊN NGUỒN tài NGUYÊN QUÝ CHO các ỨNG DỤNG SINH học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 10 trang )

Hội nghị Khoa học kỷ niệm 35 năm Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam – Hà Nội, ngày 26/10/2010

NẤM CÔN TRÙNG TẠI VƯỜN QUỐC GIA CÁT TIÊN: NGUỒN TÀI
NGUYÊN QUÝ CHO CÁC ỨNG DỤNG SINH HỌC
Lê Tấn Hưng, Võ Thị Hạnh, Lê Thị Bích Phượng, Trần Thạnh Phong, Trương Thị
Hồng Vân, Somsak Sivichai
Viện Sinh học Nhiệt đới
9/621 Xa lộ Hà Nội, Linh Trung, Thủ Đức
Email:
Tóm tắt / Abstract:
Nấm côn trùng là nhóm nấm đặc trưng trong giới nấm đã được nghiên cứu và
ứng dụng trong y học cổ truyền Trung Quốc, sản xuất thuốc chữa bệnh và các
chất có hoạt tính sinh học. Đặc biệt, nhiều loài trong nhóm này được ứng dụng
rộng rãi trong đấu tranh sinh học kiểm soát côn trùng và sâu hại cây trồng. Các
đợt khảo sát trong năm 2007 cho thấy Vườn Quốc gia Cát Tiên có sự đa dạng về
chủng loại của nhóm nấm này. Tổng cộng 259 mẫu nấm đã được thu thập. Sơ bộ
định danh bằng hình thái dựa trên hệ thống phân loại mới cho thấy có tổng cộng
41 loài được ghi nhận thuộc 17 chi bao gồm Akanthomyces, Aschersonia,
Beauveria, Conoideocrella, Cordyceps, Gibellula, Hirsutella, Hymenostilbe,
Hypocrella, Isaria, Metarhizium, Moelleriella, Nomuraea, Ophiocordyceps,
Paecilomyces, Torrubiella và Verticillium. Có đến 85% số mẫu được thu trên lá
cây trong khi chỉ có 15% mẫu thu được dưới mặt đất. Kết quả cũng thu nhận
được có 29 loài có hình thức sinh sản vô tính và 12 loài có hình thức sinh sản hữu
tính và 8 bộ côn trùng và nhện được ghi nhận là ký chủ của của các loài này.
Tổng cộng 149 loài đã được phân lập và bảo quản là nguồn nguyên liệu sinh học
quý giá cho các ứng dụng sau này.
Entomopathogenic fungi which belong to particular fungal group have been
interested in research and application in traditional Chinese medicines, drug and
bioactive compound production. Many species of this fungal group have been
widely used as biological control agents of insect pests. Surveys in 2007 recorded
that Cat Tien National Park of Vietnam has a diverse number of


entomopathogenic fungal species. 259 fungal specimens were collected and 41
species that belong to 17 fungal genera have been identified including
Akanthomyces, Aschersonia, Beauveria, Conoideocrella, Cordyceps, Gibellula,
Hirsutella, Hymenostilbe, Hypocrella, Isaria, Metarhizium, Moelleriella,
Nomuraea, Ophiocordyceps, Paecilomyces, Torrubiella and Verticillium.
Regarding to fungal distribution, 85% specimens were found on leaves of forest
plants while only 15% specimens were on forest floor. In addition, the number of
anamorphic species was 29 and teleomorphic species was 12, and 8 arthropod
Orders were recorded as hosts of these fungal entomopatogens. In laboratory, 149
cultures were successfully isolated and preserved, these will be the potential
biological materials for further research and application.

1


Tiểu ban: Khoa học sự sống

1. Mở đầu
Trong tự nhiên, mối quan hệ giữa nấm với côn trùng và các loài chân khớp khác có thể là
cộng sinh đến ký sinh gây hại. Thuật ngữ “entomogenous fungi” được sử dụng trong khoa học
dùng để chỉ những loài nấm sống trên hoặc trong cơ thể côn trùng. Theo tác giả Evan (1988)
[1], những loài nấm này có thể được chia làm bốn nhóm. Nhóm cộng sinh bao gồm những
loài sống trên ký chủ và mang lại những lợi ích nhất định lẫn nhau; nhóm nội ký sinh bao gồm
những loài sống bên trong đường tiêu hóa và nhóm ngoại ký sinh bao gồm những loài sống
bám bên ngoài lớp biểu bì ký chủ, cả hai nhóm này không có khả năng tiêu diệt ký chủ; nhóm
ký sinh gây hại bao gồm những loài nấm trực tiếp hoặc gián tiếp gây chết cho ký chủ của nó.
Thuật ngữ “nấm côn trùng” (insect-pathogenic fungi hay entomopathogenic fungi) dùng để
chỉ giới hạn những loài nấm có thể lây nhiễm côn trùng khỏe mạnh, gây hại hoặc tiêu diệt ký
chủ của nó (Samson và cộng sự, 1988) [2]. Ngoài ra, các loài nấm ký sinh gây hại trên nhện
hoặc các loài chân khớp khác cũng được xếp vào nhóm nấm côn trùng vì cách thức xâm nhập,

gây độc cho ký chủ, sinh sản, sinh bào tử là tương tự nhau.
Nấm côn trùng là thiên địch phổ biến của các loài chân khớp trên khắp thế giới và được
xem như là các đối tượng kiểm soát sinh học (Hajek và St. Leger, 1994; Shah và Pell, 2003)
[3-4]. Nhóm nấm này có sự phân bố rộng, sự phân bố và tính đa dạng các loài nấm côn trùng
tùy thuộc vào điều kiện môi trường, tính đa dạng của các loài côn trùng và tình trạng của ký
chủ (Hajek and St. Leger, 1994) [3]. Khu vực có khí hậu nhiệt đới hay ôn đới, đặc biệt ở các
nước nhiệt đới có ẩm độ không khí cao, có sự đa dạng và phong phú của các loài côn trùng là
điều kiện lý tưởng cho nấm côn trùng phát triển.
Nhiều loài nấm côn trùng đã được ứng dụng rộng rãi trong đấu tranh sinh học kiểm soát
dịch hại, trong đó phổ biến là các loài Beauveria bassiana, Metarhizium anisopliae và
Normurea rileyi. Theo McCoy (1990) [5], các tiêu chí quan trọng để các loài nấm côn trùng
có thể được sử dụng làm thuốc trừ sâu sinh học bao gồm (1) khả năng gây độc cho ký chủ
cao, (2) có tác dụng nhanh, (3) có phổ ký chủ rộng, (4) có tính ổn định trong nuôi cấy và bảo
quản, (5) dễ dàng lên men chìm, (6) dễ kiểm soát và phân tích số lượng, và (7) an toàn cho
con người. Theo Taborsky (1992) [6], ứng dụng đầu tiên sử dụng Metarhizium anisopliae cho
đấu tranh sinh học được thực hiện vào năm 1888 bởi Krassilstchik. Tại Việt Nam, nhiều
nghiên cứu đã thành công trong việc sử dụng nấm côn trùng phòng trị các loại côn trùng và
sâu hại cây trồng, điển hình như nấm Metarhizium anisopliae và Beauveria bassiana đã được
ứng dụng trong phòng trừ mối nhà (Nguyễn Dương Khuê, 2005) [7], sâu khoang hại cải xanh
(Võ Thị Thu Oanh và cộng sự, 2005) [8], sâu hại đậu tương và đậu xanh (Phạm Thị Thùy và
cộng sự, 2005) [9], rầy mềm và các loài sâu hại lúa (Trần Văn Hai và cộng sự, 2006; Nguyễn
Thị Lộc và cộng sự, 2002) [10-11].
Trong y học cổ truyền, Ophiocordyceps sinensis (tên cũ Cordyceps sinensis, tiếng Việt gọi
là “Đông Trùng, Hạ Thảo”) được sử dụng như thuốc trị bệnh và bồi bổ cơ thể từ hơn 1000
năm qua tại các nước châu Á, đặc biệt là Trung Quốc và Nhật Bản. Đây là loài nấm sống ký
sinh trên sâu bướm thuộc loài Thitarodes armoricanus, và được tìm thấy trên vùng núi có độ
cao từ 3000-5000 m tại Trung Quốc, Ấn Độ, Nepal và Bhutan. Trong y học cổ truyền Trung
Quốc, “Đông Trùng, Hạ Thảo” dùng để chữa các bệnh về phổi và hô hấp, thận, gan, tim
mạch; trị bệnh yếu sinh lý và cao huyết áp; trị rối loạn miễn dịch và chống ung thư (Zhou và
cộng sự, 1998a,b) [12-13].

Nấm côn trùng còn được ứng dụng trong sản xuất thuốc trị bệnh, các chất có hoạt tính
sinh học và các enzym. Cyclosporine là loại thuốc chống thải hồi trong cấy ghép cơ quan
được sản xuất từ nấm Tolyplocadium inflatum, là loài vô tính của nấm Cordyceps subsessilis.
Các nghiên cứu cũng công bố rằng, cordycepin, hoạt chất chính có trong “Đông Trùng, Hạ
Thảo” và các chất có hoạt tính sinh học khác cũng được sản xuất từ một số loài nấm côn trùng
2


Hội nghị Khoa học kỷ niệm 35 năm Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam – Hà Nội, ngày 26/10/2010

(Hung và cộng sự, 2009; Rukachaisirikul và cộng sự, 2004; Isaka và cộng sự 2001; Kittakoop
và cộng sự, 1999) [14-17].
Trên thế giới đã có trên 750 loài nấm côn trùng đã được ghi nhận và có rất nhiều loài mới
đang và sẽ được công bố. Theo các nghiên cứu, phần lớn số loài nấm côn trùng được ghi nhận
ở châu Á, trong đó, Thái Lan có số lượng chủng loại phong phú nhất với 321 loài đã được ghi
nhận (Hywel-Jones, 2002) [18], tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có công bố chính thức nào về
sự đa dạng và phân bố của nhóm nấm này tại các nước trong khu vực, đặc biệt là tại Việt
Nam.
Nghiên cứu này đánh giá sự đa dạng và phân bố của các loài nấm côn trùng tại khu vực
phía nam Vườn Quốc gia Cát Tiên, các mẫu nấm côn trùng được thu thập, định danh, phân lập
và bảo quản là nguồn nguyên liệu quý giá cho các nghiên cứu và ứng dụng sau này.
2. Vật liệu và phương pháp
2.1. Địa điểm và phương pháp thu mẫu
Việc thu mẫu được thực hiện tại bốn khu vực bao gồm khu vực từ văn phòng đến tuyến
Bằng Lăng (Khu vực 1), tuyến Bằng Lăng (Khu vực 2), tuyến Cây gõ Bác Đồng (Khu vực 3),
và 2 km dọc theo đường chính từ khu Thác Trời đến Bàu Sấu (Khu vực 4) của vườn Quốc gia
Cát Tiên, Huyện Tân Phú, Tỉnh Đồng Nai. Thời gian khảo sát từ ngày 6 đến ngày 8 tháng 9
năm 2007. Mẫu nấm thu được được bảo quản riêng biệt trong các hộp nhựa trong và được ký
hiệu bằng số thứ tự ITB (viết tắt của “Institute of Tropical Biology”).
2.2. Phân lập và sơ bộ định danh

Việc phân lập được thực hiện tại nhà khách của Vườn Quốc gia ngay sau các buổi thu mẫu.
Mẫu được quan sát trực tiếp dưới kính hiển vi soi nổi Olympus SZ60. Một ít bào tử được tách
ra và hòa tan trong 1 giọt nước vô trùng trên phiến kính, sau đó dùng que cấy chuyển qua môi
trường thạch khoai tây dextrose (PDA) có bổ sung 100 mg/L kháng sinh ChlortetracyclineHCL và Chloramphenicol, nuôi cấy qua đêm. Sau 5-8 giờ nuôi cấy, bào tử nẩy chồi được
quan sát dưới kính hiển vi soi nổi, từng bào tử đơn không bị nhiễm khuẩn hoặc nấm men
được tách ra bằng kim nhọn và chuyển sang đĩa PDA khác, mỗi đĩa cấy 8-10 điểm tương ứng
với 8-10 bào tử. Các đĩa này sau đó được bảo quản tại phòng thí nghiệm và quan sát dưới
kính hiển vi mỗi ngày, loại bỏ phần nhiễm cho đến khi thu được khuẩn lạc thuần khiết.
Việc phân loại, định danh mẫu đến mức độ chi hoặc loài được thực hiện bằng phương pháp
hình thái học dựa trên các đặc điểm về ký chủ, màu sắc, loại bào tử, kích thước và hình dạng
bào tử,… sau đó so sánh dựa trên các tài liệu và khóa phân loại đã được xuất bản (Samson và
cộng sự, 1988; Kobayashi, 1982; Tzean và cộng sự, 1997; Luangsa-ard và cộng sự, 2007) [2,
19-21].
3. Kết quả và thảo luận
3.1. Thu thập mẫu nấm côn trùng tại vườn Quốc gia Cát Tiên
Tổng cộng 259 mẫu nấm đã được thu thập trong thời gian khảo sát. Số lượng mẫu thu được
tại mỗi khu vực là khác nhau (Hình 1), trong đó, tổng số mẫu thu được ở Khu vực 1 là 73,
Khu vực 2 là 156, Khu vực 3 là 16, và Khu vực 4 là 14. Số lượng mẫu khác nhau tại các khu
vực không phản ánh về sự đa dạng và phân bố nấm côn trùng tại các khu vực đó. Trong
nghiên cứu này, số lượng mẫu thu được tại khu vực 2 nhiều hơn là do địa hình ở đây dể khảo
sát và thời gian tập trung thu mẫu tại đây nhiều hơn.
Các mẫu nấm côn trùng thu được được phân bố trên hai môi trường sống chính (sinh cảnh)
là trên mặt đất và trên lá cây bụi. Tổng số mẫu thu được trên mặt đất là 39 (tương ứng với tỉ lệ

3


Tiểu ban: Khoa học sự sống

15%) trong khi tổng số mẫu thu được trên lá cây rừng là 220 (tương ứng với tỉ lệ 85%) (Hình

2).
Các yếu tố ngoại cảnh bao gồm sinh vật và phi sinh vật có ảnh hưởng rất lớn đến sự tiếp
xúc, lây nhiễm, phát triển của bào tử nấm trên ký chủ của nó. Các yếu tố phi sinh vật chính
bao gồm ẩm độ, nhiệt độ, điều kiện chiếu sang…, các yếu tố sinh vật bao gồm mật độ bào tử
nấm, mật độ và sự đa dạng của côn trùng (ký chủ), sự hiện diện của các vi sinh vật khác… Độ
đa dạng và dày đặc của các tán cây trong Vườn Quốc gia Cát Tiên là môi trường sống lý
tưởng của các loài côn trùng đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho nấm côn trùng phát triển.
Theo quan sát, trên mặt đất tại khu vực thu mẫu không được lớp lá rụng bao phủ. Lớp lá rụng
dưới mặt đất là môi trường sống của rất nhiều loài côn trùng và là nơi che chắn các điều kiện
ngoại cảnh bất lợi cho côn trùng và bào tử nấm phát triển. Do đó, có rất ít mẫu nấm côn trùng
được thu trên mặt đất tại các khu vực này.
3.2. Các loài nấm côn trùng tại Vườn Quốc gia Cát Tiên
Kết quả sơ bộ phân loại và định danh hình thái và so sánh với các tài liệu phân loại cho
thấy trong tổng số 259 mẫu thu được, có tất cả 17 Chi nấm côn trùng được ghi nhận bao gồm
Akanthomyces, Aschersonia, Beauveria, Conoideocrella, Cordyceps, Gibellula, Hirsutella,
Hymenostilbe, Hypocrella, Isaria, Metarhizium, Moelleriella, Nomuraea, Ophiocordyceps,
Paecilomyces, Torrubiella và Verticillium. Tất cả các chi ghi nhận được đều thuộc ngành
Ascomycota, bộ Hypocreales trong giới Nấm. Số lượng mẫu thu được ở mỗi chi là khác nhau
(Hình 3), mẫu Aschersonia thu được nhiều nhất với 72 mẫu (chiếm tỉ lệ 27,8%) kế đến là
Isaria (12,7%), Ophiocordyceps (11,2%), Gibellula (10,8%), hai loài hữu tính (teleomorph)
của Aschersionia là Moelleriella và Hypocrella có tỉ lệ lần lượt là 10,4% và 10,0%. Hai chi
được biết đến trong ứng dụng đấu tranh sinh học là Beauveria và Metarhizium cũng được tìm
thấy, tuy nhiên chỉ thu được một mẫu Beauveria và ba mẫu Metarhizium. Ngoài ra còn có 6
mẫu thu được không thể xác định tên do mẫu quá cũ và bị nhiễm loại nấm khác.
Trong 17 chi, có tổng cộng 41 loài nấm côn trùng được ghi nhận. Danh sách tên loài được
liệt kê chi tiết ở Bảng 1. Kết quả cho thấy chi Aschersonia có số lượng loài cao nhất với 7
loài. Các loài hữu tính của Aschersonia là Hypocrella và Moelleriella là những loài có ký chủ
đặc hiệu là rệp sáp (bộ Homoptera) sống bám trên mặt dưới lá cây. Trên thực tế, số loài nấm
côn trùng có thể nhiều hơn nếu việc thu mẫu được lặp lại nhiều lần trong năm, mùa mưa và
mùa khô và ở nhiều khu vực khác nhau của Vườn Quốc gia Cát Tiên.

Số loài sinh sản vô tính (anamorph) được ghi nhận có sự khác biệt so với số loài sinh sản
hữu tính (teleomorph) (Hình 4). Sự khác biệt giữa vô tính và hữu tính được căn cứ trên
phương thức hình thành bào tử. Trong nghiên cứu này, tất cả các loài vô tính có sự hình thành
đính bào tử trong khi các loài hữu tính hình thành nang bào tử. Tổng số loài vô tính ghi nhân
được là 29 bao gồm tất cả loài thuộc các chi Akanthomyces, Aschersonia, Beauveria,
Gibellula, Hirsutella, Hymenostilbe, Isaria, Metarhizium, Nomuraea, Paecilomyces và
Verticillium; tổng số loài hữu tính được ghi nhận là 12 gồm tất cả những loài thuộc chi
Conoideocrella, Cordyceps, Hypocrella, Moelleriella, Ophiocordyceps và Torrubiella.
3.3. Mối quan hệ giữa nấm và ký chủ
Kết quả khảo sát cho thấy có tám bộ côn trùng và nhện được ghi nhận là ký chủ của các
loài nấm côn trùng tại Vườn Quốc gia Cát Tiên bao gồm Araneida, Blattaria, Coleoptera,
Hemiptera, Homoptera, Hymenoptera, Lepidoptera và Mantodea (Bảng 1). Kết quả cũng cho
thấy rằng một số loài có ký chủ đặc hiệu và chỉ ký sinh trên một lài hoặc họ hàng gần của các
loài côn trùng như Ophiocordyceps unilateralis ký sinh trên loài kiến (Camponotus leonardi,
bộ Hymenoptera), các loài thuộc chi Isaria ký sinh trên sâu bướm (bộ Lepidoptera), các loài
thuộc chi Aschersonia, Hypocrella và Moelleriella có ký chủ là rệp sáp (bộ Homoptera), các
loài thuộc chi Gibellula và Nomuraea ký sinh trên nhện (Bộ Araneae).
4


Hội nghị Khoa học kỷ niệm 35 năm Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam – Hà Nội, ngày 26/10/2010

Số mẫu nấm ký sinh trên côn trùng thuộc bộ Homoptera được thu nhiều nhất với tổng
cộng 131 mẫu, tiếp đến là Hymenoptera (39 mẫu) và Aranaea (38 mẫu), trong khi đó chỉ có
một mẫu có ký chủ thuộc bộ Blattaria và Mantodea (số liệu không được thể hiện). Kết quả
nghiên cứu này không phản ánh được sự đa dạng về ký chủ của một số loài, tuy nhiên có
nhiều loài nấm côn trùng có ký chủ đa dạng thuộc nhiều bộ côn trùng khác nhau (Inglis và
cộng sự, 2001) [22], ví dụ như Metarhizium spp., Beauveria spp. và Paecilomyces spp.. Các
loài thuộc chi Paecilomyces đã được tìm thấy trên các ký chủ thuộc bộ Coleoptera,
Homoptera, Lepidoptera, Orthoptera, etc. (Kwong, 2003) [23].


Hình 1: Số lượng mẫu thu được tại bốn khu
vực khảo sát.

Hình 2: Sự khác biệt về số lượng và tỉ lệ mẫu
trên hai môi trường sống khác nhau.

Hình 3: Số lượng mẫu và số lượng phân lập
của mỗi chi nấm côn trùng.

Hình 4: Sự khác biệt về số lượng các chi, loài
vô tính và hữu tính.

3.4. Phân lập và bảo quản giống
Việc phân lập được thực hiện ngay sau khi thu mẫu tại thực địa, một số mẫu được phân lập
sau đó trong phòng thí nghiệm. 149 mẫu đã được phân lập thành công trong tổng số 259 mẫu
thu được. Số lượng mẫu phân lập được của mỗi chi được thể hiện ở Hình 3. Kết quả cho thấy
Aschersonia có số lượng phân lập được nhiều nhất tiếp đến là Isaria, Gibellula, Moelleriella
và Hypocrella. Có tổng số 22 mẫu của nấm Ophiocordyceps unilateralis được thu thập (số
liệu không được thể hiện) tuy nhiên không có mẫu nào được phân lập thành công. Các báo
cáo công bố rằng bào tử nang của loài nầy không thể phát triển trên môi trường nuôi cấy

5


Tiểu ban: Khoa học sự sống

thông thường mà cần phải có môi trường dinh dưỡng đặc biệt (Kocharin và Wongsa, 2006;
Wongsa và cộng sự, 2005) [24-25].
Tất cả các mẫu nấm côn trùng phân lập được đã được bảo quản trong 10% glycerol trong

tủ lạnh sâu ở điều kiện nhiệt độ -80 oC. Đây là nguồn giống có giá trị cho việc nghiên cứu và
ứng dụng sau này.
Bảng 1. Các loài nấm côn trùng và ký chủ tương ứng ghi nhận.
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26

27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41

Tên loài
Akanthomyces pistillariiformis
Akanthomyces sp.
Aschersonia badia
Aschersonia confluens
Aschersonia marginata
Aschersonia oxystoma
Aschersonia placenta
Aschersonia samoensis
Aschersonia sp.
Beauveria sp.
Conoideocrella tenuis
Cordyceps sp.
Gibellula pulchra

Gibellula sp.1
Gibellula sp.2
Hirsutella brunneipunctata
Hirsutella citriformis
Hirsutella formicarum
Hirsutella saussurei
Hirsutella sp.
Hymenostilbe aurantiaca
Hypocrella calendulina
Hypocrella luteola
Hypocrella siamensis
Isaria javanica
Isaria sp.
Isaria tenuipes
Metarhizium sp.1
Metarhizium sp.2
Metarhizium sp.3
Moelleriella raciborskii
Moelleriella sp.
Nomuraea atypicola
Ophiocordyceps brunneipunctata
Ophiocordyceps myrmecophila
Ophiocordyceps unilateralis
Paecilomyces cinnamomeus
Paecilomyces lilacinus
Torrubiella sp.1
Torrubiella sp.2
Verticillium sp.

Ký chủ

Lepidoptera
Araneae
Homoptera
Homoptera
Homoptera
Homoptera
Homoptera
Homoptera
Homoptera
Hymenoptera
Homoptera
Mantodea
Araneae
Araneae
Araneae
Coleoptera
Hemiptera
Hymenoptera
Hymenoptera
Không xác định
Hymenoptera
Homoptera
Homoptera
Homoptera
Lepidoptera
Lepidoptera
Lepidoptera
Blattaria
Hemiptera
Homoptera

Homoptera
Homoptera
Araneae
Coleoptera
Hymenoptera
Hymenoptera
Homoptera
Hemiptera
Araneae
Hemiptera
Hemiptera
6


Hội nghị Khoa học kỷ niệm 35 năm Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam – Hà Nội, ngày 26/10/2010

4. Kết luận
Vườn Quốc gia Cát Tiên có sự đa dạng về chi, loài nấm côn trùng với tổng số 41 loài thuộc
17 chi ghi nhận được. Nấm côn trùng được phân bố chủ yếu trên lá của những cây bụi, ký
sinh trên các ký chủ thuộc tám bộ côn trùng khác nhau. Đa số các loài ghi nhận được ở trạng
thái vô tính. Số lượng mẫu nấm phân lập được hiện tại và trong tương lai sẽ là nguồn nguyên
liệu quý giá cho các nghiên cứu và ứng dụng sinh học.
5. Lời cảm ơn
Tác giả xin chân thành cảm ơn Viện Sinh học Nhiệt đới và Trung tâm Kỹ thuật di truyền và
Công nghệ sinh học Quốc gia Thái Lan (BIOTEC) đã cung cấp tài chính và phương tiện để
hoàn thành nghiên cứu này.

A

B


C

D

E

F

G

H

I

J

K

L

M

N

O

Hình 6: Một số hình ảnh nấm côn trùng ký sinh trên rệp sáp tại Vườn Quốc gia Cát Tiên.
A: Aschersonia badia; B: Aachersonia marginata; C: Aschersonia samoensis; D: Aschersonia
oxystoma; E: Aschersonia placenta; F: Aschersonia confluens; G: Hypocrella siamensis; H:

Moelleriella raciborskii; I: Hypocrella calendulina; J: Paecilomyces cinnamomeus; K:
Conoideocrella tenuis; L: Moelleriella sp.; M: Khuẩn lạc Moelleriella sp. mọc trên môi trường
PDA; N: Bào tử nang của Moelleriella sp.; O: Bào tử nang của Moelleriella sp. nẩy mầm trên
môi trường sinh ra bào tử thứ cấp.

7


AA
C
C

61 mm
1cm
1cm
mm
mm

DBDB

51mm
cm
1 mm

Tiểu ban: Khoa học sự sống

A

B


D

C

E

F

J

G

J

M

K

H

I

K

L

N

Hình 6: Một số hình ảnh nấm côn trùng ký sinh trên các ký chủ khác nhau.
A: Ophiocordyceps unilateralis, B: Ophiocordyceps myrmecophila; C: Torrubiella sp.2; D:

Isaria sp.; E: Paecilomyces lilacinus: F: Isaria tenuipes; G: Gibellula sp.2; H: Gibellula
pulchra; I: Gibellula sp.1; J: Nomuraea atypicola; K: Hirsutella formicarum: L: Metarhizium
sp.; M: Akanthomyces pistillariiformis; N: Hirsutella citriformis.

8


Hội nghị Khoa học kỷ niệm 35 năm Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam – Hà Nội, ngày 26/10/2010

6. Tài liệu tham khảo
1. Evans, H.C.. 1988. Coevolution of entomogenous fungi and their insect hosts. In: K.A.
Pirozynski and D.L. Hawksworth (eds.): Coevolution of Fungi with Plants and
Animals, Academic Press, London, pp. 149–171.
2. Samson, R.A., H.C. Evans, and J.P. Latgé. 1988. Atlas of Entomopathogenic Fungi.
Springer-Verlag, Berlin. Heidelberg, New York. 187pp.
3. Hajek, A.E. and R.J. St. Leger. 1994. Interactions between fungal pathogens and insect
hosts. Annu. Rev. Entomol. 39. 293-322.
4. Shah, P.A. and J.K. Pell. 2003. Entomopathogenic fungi as biological control agents.
Appl. Microbiol. Biotech. 61: 413-423.
5. McCoy, C.W.. 1990. Entomogenous fungi as microbial pesticides, pp. 139-159. In
R.R. Baker, and P.E. Dunn (eds.), New Directions in Biological Control. Alan R. Liss,
New York. pp. 139-159.
6. Taborsky, V.. 1992. Small-scale processing of microbial pestcides. FAO Agric. Service
Bull. 96. Food and Agriculture Organization of the United Nations Rome.
7. Nguyễn Dương Khuê, 2005. Sử dụng nấm Metarhizium anisopliae Sorok. phòng trừ
mối nhà (Coptotetrmes formosanus Shiraki) theo phương pháp lây nhiễm. Hội nghị
côn trùng học toàn quốc lần thứ 5. Hà Nội 11-12/04/2005. Trang 409 – 414.
8. Võ Thị Thu Oanh, Lê Đình Đôn, Bùi Cách Tuyến. 2007. Đặc điểm sinh học và khả
năng gây bệnh của nấm Metarhizium anisopliae (Metsch.) Sorokin đối vời sâu khoang
(Spodoptera litura F.) hại rau cải xanh (Brassica juncea L.). Tạp chí KHKT Nông

Lâm nghiệp, số 1&2. Đại học Nông Lâm Tp. HCM. Trang 58-63.
9. Phạm Thị Thùy, Trần Văn Huy, Nguyễn Duy Mạn. 2005. Nghiên cứu hoàn thiện công
nghệ sản xuất thuốc trừ sâu vi nấm Beauveria và Metarhizium để phòng trừ sâu hại
đậu tương và đậu xanh ở Hà Tĩnh năm 2003-2004. Hội nghị công nghệ sinh học toàn
quốc. Hà Nội 11-12/4/2005. Trang 494 -497.
10. Trần Văn Hai, Trịnh Thị Xuân, Phạm Kim Sơn, 2006. Tạo sinh khối và thử nghiệm
hiệu lực của một số loại nấm ký sinh trên sâu ăn tạp và rầy mềm hại rau cải tại TP. Cần
Thơ. Tạp chí nghiên cứu khoa học, trường ĐHCT.
11. Nguyễn Thị Lộc, Võ Thị Bích Chi, Nguyễn Thị Nhàn, Phạm Quang Hưng, Huỳnh Văn
Nghiệp, Vũ Tiến Khang và Nguyễn Đức Thành. 2002. Nghiên cứu, sản xuất và ứng
dụng hai chế phẩm sinh học để quản lý các loài sâu hại lúa. Viện lúa ĐBSCL. Trang
274 – 295.
12. Zhu, J.S., G.M. Halpern, and K. Jones. 1998a. The scientific rediscovery of an ancient
Chinese herbal medicine: Cordyceps sinensis. Part I. J. Altern. Complement. Med.
4(3): 289-303.
13. Zhu, J.S., G.M. Halpern, and K. Jones. 1998b. The scientific rediscovery of an ancient
Chinese herbal medicine: Cordyceps sinensis. Part II. J. Altern. Complement. Med.
4(4): 429-457.
14. Hung, L.T., S. Keawsompong, V.T. Hanh, S. Sivichai and N.L. Hywel-Jones. 2009.
Effect of Temperature on Cordycepin Production in Cordyceps militaris. Thai Journal
of Agricultural Science. 42(4): 219-225
15. Rukachaisirikul, V., S. Pramjit, C. Pakawatchai, M. Isaka, and S. Supothina. 2004. 10membered macrolides from the insect pathogenic fungus Cordyceps militaris BCC
2816. J. Nat. Prod. 67: 1953-1955.
16. Isaka, M., P. Kongsaeree, and Y. Thebtaranonth. 2001. Bioxanthracenes from the
insect pathogenic fungus Cordyceps pseudomilitaris BCC 1620, II. Structure
elucidation. J. Antibiot. 54(1): 36-43.
9


Tiểu ban: Khoa học sự sống


17. Kittakoop, P., J. Punya, P. Kongsaeree, Y. Lertwerawat, A. Jintasirikul, M.
Tanticharoen, and Y. Thebtaranonth. 1999. Bioactive naphthoquinones from
Cordyceps unilateralis. Phytochemistry. 52(3): 453-457.
18. Hywel-Jones, N.L.. 2002. The importance of invertebrate-pathogenic fungi from the
tropics. Trop. Mycol. 2: 133-144.
19. Kobayashi, Y. 1982. Keys to the taxa of the genera Cordyceps and Torrubiella. Trans.
Mycol. Soc. Jpn. 23:329–364.
20. Tzean, S. S., L. S. Hsieh và W. J. Wu. 1997. Atlas of Entomopathogenic Fungi from
Taiwan. Council of Agriculture, Executive Yuan, Taiwan, R. O. C. 214pp.
21. Luangsa-ard, J.J., Tasanathai, K, Mongkolsamrit, S. and Hywel-Jones, N.L. 2007.
Atlas of Invertebrate-Pathogenic Fungi of Thailand, vol. 1. NSTDA publication.
Themma Group Co., Ltd. 82 p. ISBN 978-974-229-522-6.
22. Inglis, G.D., M.S. Goettel, T.M. Butt, and H. Strasser. 2001. Used of hyphomycetous
fungi for managing insect pests. In: Butt T.M., Jackson C., and Magan N. (eds.), Fungi
as Biocontrol Agents, CAB International, Wallingford. pp. 23-69.
23. Kwong, T.F.N.. 2003. A study of the distribution and molecular phylogeny of
arthropod-pathogenic fungi. Ph.D Thesis. City University of Hong Kong. 372pp.
24. Kocharin, K. and P. Wongsa. 2006. Semi-defined medium for in vitro cultivation of
the fastidious insect pathogenic fungus Cordyceps unilateralis. Mycopathologia
161(4): 255-260.
25. Wongsa, P., K. Tasanatai, P. Watts, and N.L. Hywel-Jones. 2005. Isolation and in vitro
cultivation of the insect pathogenic fungus Cordyceps unilateralis. Micol. Res. 109(8):
936-940.

10




×