Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Tổng kết phương pháp đọc hiểu văn bản văn học HK2 Lớp 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (98.55 KB, 9 trang )

A. Nội dung
* Muốn đọc hiểu một văn bản văn học, trước tiên ta phải dựa vào ngữ cảnh của văn bản, ngữ huống
của văn bản văn học đó. Qua đó ta sẽ xác định được ý nghĩa của tác phẩm văn học.
+Ngữ cảnh văn hóa (ngữ cảnh hẹp): là hoàn cảnh giao tiếp trong văn bản. Muốn hiểu và suy ra nghĩa
của văn bản, cần phải dựa vào hoàn cảnh giao tiếp.
Ví dụ: bài ca dao “Hôm qua tát nước đầu đình”
Hôm qua tát nước đầu đình,
Bỏ quên cái áo trên cành hoa sen.
Em được thì cho anh xin,
Hay là em để làm tin trong nhà?
Có thời gian cụ thể: “hôm qua”, địa điểm cụ thể: “đầu đình”, công việc cụ thể: “tát nước” lý do rất
hợp lý: “bỏ quên áo”, địa điểm quên áo rất rõ ràng: “trên cành hoa sen”…
+Ngữ cảnh xã hội, lịch sử (ngữ cảnh rộng): muốn tìm hiểu căn nguyên sâu xa của văn bản, ta phải
đặt văn bản vào “thời” của nó.
Ví dụ: bài thơ “Bên kia sông Đuống” (Hoàng Cầm)
Trong thời kì kháng chiến chống Pháp, một hôm, Hoàng Cầm (lúc đó đang ở vùng tự do), nghe tin
quê hương bị giặc tàn phá, đau xót, căm thù, tác giả đã viết bài thơ này trong vòng 1 đêm và hầu như
không phải sửa chữa gì.
I. Thế nào là đọc- hiểu một văn bản văn học?
1. Đọc- hiểu một văn bản văn học là gì?


Đọc- hiểu một văn bản văn học là quá trình đọc – hiểu từ ngữ, hiểu ý câu thơ, câu văn, nắm
bắt được các từ ngữ then chốt có giá trị biểu cảm và biểu hiện tư tưởng, nắm bắt được hình
tượng và ý nghĩa của nó trong văn bản, từ đó khái quát được tư tưởng, tình cảm trong tác
phẩm và đánh giá được tư tưởng, nghệ thuật của tác phẩm ấy.



Đọc hiểu văn bản là một quá trình từ cảm đến hiểu, từ hiểu bề ngoài đến hiểu được ý tứ sâu xa
của tác phẩm.



2.Biểu hiện của đọc- hiểu văn bản văn học:
- Từ hiểu khái quát, đúng đắn, sâu sắc về văn bản tác phẩm, người đọc có thể tiến hành phân tích,
giải thích, bình luận, giúp người khác có thể đọc- hiểu văn bản ấy, giải thích bình luận được bài văn
là biểu hiện quan trọng của sự hiểu văn.
3.Qúa trình văn học trong nhà trường:


- Là quá trình đọc- hiểu từng bài, tập phát hiện các từ ngữ, chi tiết và khái quát về tư tưởng tác phẩm,
cuối cùng biết phân tích, bình luận, đối thoại với các tác phẩm ấy hoặc các tác phẩm cùng loại.
=> Từ đó hình thành kĩ năng, kinh nghiệm đọc hiểu văn bản văn học
II. Phương pháp đọc hiểu
1. Đọc – hiểu tác phẩm văn học trước hết là đọc – hiểu từ ngữ, câu văn, câu thơ, phát hiện các từ
ngữ biểu hiện cách cảm nhận độc đáo, hiểu được tư tưởng, tình cảm tác giả thể hiện qua từ ngữ, câu
văn, đoạn văn, bài thơ.


Khám phá nhan đề, đề từ, mở, kết của văn bản.



Nhan đề thường kết tinh nội dung và tư tưởng của tác phẩm.

Ví dụ:
“Vợ nhặt”- khêu gợi trí tò mò cho người đọc (người ta thường nhặt được những thứ như của cải, tiền
bạc…, ở đây anh cu Tràng lại “nhặt” được vợ trong cái năm người chết đói như ngả rạ. tác phẩm tố
cáo sâu sắc chế độ thối nát, vô nhân đạo đương thời).


Mở, kết của tác phẩm cũng có tầm quan trọng đặc biệt. nó phản ánh cách đặt vấn đề và giải

quyết các vấn đề đời sống của tác giả.

Ví dụ: tác phẩm “Chí Phèo”
+ Mở: ta bắt gặp Chí Phèo ngật ngưỡng với chai rượu trong tay, vừa đi, vừa chửi tất cả.
+ Kết: xuất hiện cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa và vắng người qua lại…
Ý nghĩa của mở và kết của “Chí Phèo”: chừng nào còn tồn tại cái xã hội bất công, vô nhân đạo, chà
đạp lên quyền sống của con người, chừng ấy vẫn còn có những nhân vật như Chí Phèo. Tác phẩm tố
cáo xã hội một cách sâu sắc.


Tìm hiểu từ ngữ, điểm nhìn và cái nhìn chủ thể.



Khi tiếp nhận văn bản, nhất thiết phải tìm hiểu các từ ngữ, nhất là những từ “thần”, từ “đắt’.

Ví dụ:

Ghế trên ngồi tót sỗ sàng

Hoặc:

Rẽ song đã thấy Sở Khanh lẻn vào

Có người đã nhận xét rằng, Nguyễn Du thật tài tình. Cụ đã giết Mã Giám Sinh bằng một chữ “tót”,
giết Sở Khanh bằng một chữ “lẻn”. chỉ một chữ thôi nhưng đã lột tả được bản chất của hai kẻ buôn
nguyệt bán hoa


Để hiểu sâu sắc văn bản, người đọc cũng phải xác định điểm nhìn, cái nhìn của chủ thể nhà

văn, để từ đó hiểu thêm ý tứ của tác giả.




Đọc hiểu nghĩa câu văn, đoạn văn trong văn bản.

Khi đọc, cần dừng lại ở những câu thơ hay, những đoạn văn tiêu biểu để suy ngẫm, phân tích, đánh
giá chúng. Từ cách hiể nhò đọc kỹ, đọc chậm đó mà ta hiểu được ý tứ của tác giả.
2. Kiến tạo nội dung văn bản bằng cách tìm ra mạch chủ đề nối kết các chi tiết giữa các đoạn
trong văn bản và ý nghĩa khái quát của hình tượng nhân vật.
a) Chọn những thông tin quan trọng nhất trong bài văn để suy ngẫm.
b) Nắm bắt các câu then chốt trong bài văn.


Câu chuyển đoạn, chuyển mạch, chuyển ý.



Câu chủ đề (đầu hoặc cuối đoạn).



Câu trung tâm và tư tưởng của bài văn

Ví dụ:
“Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chụi mất nước, nhất định không chụi làm
nô lệ”. Đây là câu then chốt trong “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, nói lên tinh thần quyết chiến
với kẻ thù của Hồ Chủ Tịch và nhân dân ta.
Tóm lại, trong quá trình đọc, nhất thiết ta phải hiểu nghĩa của văn bản ấy. Các yếu tố vừa đề cập ở

trên, nhiều khi không bộc lộ trực tiếp dưới dạng suy lý, khái niệm, mà nó thể hiện qua toàn bộ thế
giới hình tượng: tính cách, sung đột, không khí, cảnh vật, kết cấu, cốt truyện, ngôn ngữ… chúng tồn
tại trong tác phẩm như những hàm nghĩa của hình tượng. Đề tài, chủ đề, tính cách, sự lý giải, cảm
hứng của tác giả… thực chất là những “nghĩa” ở các cấp độ và phạm vi khác nhau của tác phẩm.
B. Luyện tập
1.Chỉ ra những nét đặc sắc trong khổ thơ:
Ôi những cánh đồng quê chảy máu
….
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu
(Nguyễn Đình Thi - Đất nước)
1. Hai câu đầu: Bức tranh về đất nước đau thương, anh dũng trong chiến tranh và ách chiếm
đóng nặng nề, dã man của giặc.
a. Bằng biện pháp nhân hóa đặc sắc, hai câu thơ đã diễn tả được một cách cô đọng và tập trung
cảnh làng xóm quê hương chảy máu, đau thương và tinh thần anh dũng của đồng bào trong
chiến đấu.


b. Hình ảnh thơ được xây dựng từ một hình ảnh thực, có sức khơi gợi đặc biệt: một buồi chiều tà,
nhà thơ hành quân cùng bộ đội, qua miền trung du Bắc Giang, nhìn lên đồi cao trước mặt là đồn giặc
có những dây thép gai nhọn sắc in lên nền trời có ráng đỏ như máu, chiếu xuống cánh đồng một màu
đỏ ối; tác giả có cảm giác bầu trời như bị những dây thép gai tựa như móng vuốt của thú dữ đâm nát,
làm cho ứa máu, nhức nhối và cả cánh đồng cũng bị kẻ thù làm cho máu chảy thương đau: “Ôi
những cánh đồng quê chảy máu”. Câu thơ tả cảnh mà thực ra là tả tình nên mới có từ “Ôi”đứng đằng
trước. Hình ảnh “cánh đồng quê chảy máu” ở đây rất giàu tính chất gợi tả và sự liên tưởng. Đó
không chỉ là máu đau thương của đồng bào ta bị giặc giết hại, quê hương chảy máu dưới gót giầy
bạo tàn kẻ của kẻ thù, mà còn là máu của sự anh dũng: máu của những người du kích, chiến sĩ đổ
xuống để bảo vệ xóm làng.
c. Nét nghệ thuật đặc sắc ở hai câu này là tác giả đã sử dụng thủ pháp nhân hóa đơn sơ mà rất
gợi cảm và đặc biệt là thủ pháp ngược sáng điện ảnh, tạo nên sự tương phản gay gắt về đường
nét, màu sắc, gây ấn tượng mạnh mẽ trong tâm trí người đọc.

- Từ một hình ảnh thực được thu vào tầm mắt, tác giả đã nâng lên thành biểu tượng cho đất nước
thương đau trong chiến tranh.
2. Hai câu sau :
a. Hai câu thơ trên thiên về ngoại cảnh, hai câu tiếp theo đã đi sâu vào tâm trạng:
“Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu”.
Trên cái nền của cảnh đất nước đau thương, của những gian lao và anh dũng trong chiến tranh, bỗng
vụt sáng long lanh trong tâm tưởng của người chiến sẽ hình ảnh đôi mắt người yêu như ngôi sao
xanh của hi vọng và khát vọng soi tỏ bầu trời đêm (liên hệ mở rộng bằng những câu thơ của Nguyễn
Đình Thi và các tác giả khác nói về vẻ đẹp tâm hồn của người chiến sĩ luôn luôn gắn tình yêu Tổ
quốc với tình cảm riêng tư, với tình yêu đôi lứa…).
b. Hai hình ảnh “đêm dài hành quân nung nấu” và “Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu”có sự
đối lập mà thống nhất : giữa tình cảm thường trực và tình cảm đột xuất, giữa tình yêu đất nước với
tình yêu lứa đôi trong trái tim người chiến sĩ. Càng yêu đất nước thiết tha, lại càng yêu em đằm
thắm.
c. Tất cả đã làm tỏa sáng vẻ đẹp tâm hồn lãng mạn mộng mơ mà ta đã bắt gặp ở nhiều trong thơ
ca chống Pháp viết về người lính chiến đấu cho một lí tưởng cao đẹp : Độc lập của Tổ quốc, hạnh
phúc của nhân dân.
2. Phân tích vẻ đẹp và ý nghĩa của đoạn thơ
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!



Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
(Quang Dũng – Tây Tiến)
(Vẻ đẹp của bài thơ Tây Tiến trước hết là Nỗi nhớ) Ngay từ đầu bài thơ, Quang Dũng đã diễn tả nỗi
nhớ của chính mình về miền kí ức gắn với núi rừng Tây Bắc và gọi tên dòng sông Mã như là một
linh hồn của miền đất ấy. (- Vẻ đẹp của Bài thơ “ Tây Tiến” đấy là nỗi nhớ kìm nén, ám ảnh từ
rất lâu bây giờ mới bật lên tiếng gọi tha thiết, tạo nên tính nhạc cho câu thơ: Tiếng gọi, tiếng
lòng, từ lòng người vào thời gian lan rộng sang không sang bật lên như một tiết ngân rất dài.)

Cách sử dụng từ láy “ chơi vơi’ kết hợp với lối hiệp vần “ơi” đã mở ra một nỗi nhớ đa chiều. Nó lan
toả ở bề rộng của không gian, len lỏi theo chiều dài của thời gian, nỗi nhớ bắt nguồn từ hiện tại và
lui về quá khứ, ngự trị ở tận chiều sâu của tâm hồn con người. (- Vẻ đẹp át thể hiện ở nỗi nhớ, đấy
là cảm xúc chủ đạo bap trùm trong thơ, nỗi nhớ ất vừa có phương hướng, nhớ về. Vừa có đặc
điểm là chơi vơi, nên tạo được màu sắc riêng cho bài thơ)
Một nỗi nhớ không thể định lượng là bao nhiêu, không thể định tính là thế nào mà chỉ có thể cảm
nhận bằng tâm hồn. Và men theo nỗi nhớ ấy, bức tranh về con người và cuộc sống dần hiện lên
(- Vẻ đẹp ấy còn thể hiện qua thiên nhiên) (- Thiên nhiên hùng vĩ, dữ dội, hiểm nguy nhưng
không ngăn nổi bước chân người lính) Nhà thơ QD bằng việc gọi tên những địa danh như: Sài
Khao, Mường Lát, Mường Hịch, Pha Luông, Mai Châu đã gợi lên tính chất xa lạ, hoang vu của miền
đất biên giới(Địa danh: Vùng đất xa xôi, hoang sơ) Không gian núi rừng Tây Bắc như được nới
rộng và kéo dàu hơn theo từng địa danh ấy. Với Quang Dũng nói riêng, với những người lính Tây
Tiến nói chung, những bản làng xa xôi ẩn hiện trập trùng trong núi đèo sương khói miền tây dường
như đã trở thành một phần kỉ niệm, một mảnh kí ức để khi chỉ cần gõ nhẹ cánh cửa trái tim thì nó
chợt ùa về rõ rang, mồn một, mặc cho sự ngăn trở của không gian.
Thiên nhiên còn được chạm khắc rõ nét những hình ảnh và ngôn từ giàu tính tạo hình
‘Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống’
(Địa hình: Dốc khúc khuỷu, thăm thẳm, ngàn thước cao, ngàn thước sâu) (Thời tiết: sương lấp,
mưa xa khơi) Những từ láy tượng hình cho những con đường gập ghềnh, cheo leo hiểm trở, những
vực thẳm sâu hun hút đến rợn ngợp, một không gian lạnh lẽo trên đỉnh núi ngập tràn sương giá, mờ
mịt mây trời đã tô đậm ,khắc hoạ một cách chân thực cái đặc điểm riêng có của miền núi rừng Tây
Bắc. Bên cạnh đó là lối ngắt nhịp 4/3 như chia câu thơ thành hai phần đúng với hướng vận động
nghịch chiều của không gian. Đây có thể xem là những sáng tạo tài hoa của người nghệ sĩ đa tài bởi
mỗi câu thơ là một nét vẽ thần tình để làm nên một bức hoạ sống động về núi rừng Tây Bắc.
Thiên nhiên hoang vu, hiểm trở còn bởi âm thanh của núi rừng
‘Chiều chiều oai linh….



…trêu người”
(Âm thanh: tiếng gầm của cọp, beo nơi rừng thiêng nước độc)Những âm thanh của cọp gào, của
thác ghềnh dội vào những vách đá tạo nên những tiếng gầm thét để thử thách lòng người. Có lẽ chỉ ở
thiên nhiên từng Tây Bắc mới có tiếng gầm huyền bí như vậy. Bức tranh hùng vĩ ấy chính là một
phông nền để khắc hoạ ấn tượng chân dung người lính Tây Tiến, những con người đã chinh phục,
vượt qua, chế ngự thiên nhiên, những con người can trường, dũng cảm.
Đan xen những nét vẽ rắn rỏi, gân guốc ấy, QD còn dành cho thiên nhiên Tây Bắc những tứ thơ mềm
mại, trữ tình. Không gian núi rừng TB không chỉ cảm nhận ở chiều cao chất ngất, chiều sâu thăm
thẳm mà còn được phác hoạ ở chiều rộng mênh mang qua hai câu thơ:
“Mường Lát….”
“Nh à ai…”
(- Thiên nhiên Tây Bắc bên cạnh cái hùng vĩ, hiểm trở là những nét vẽ đầy thơ mộng trữ
tình: )Rõ ràng, tâm hồn tài hoa và nhạy cảm của QD đã bắt nhịp với linh hồn của thiên nhiên miền
sơn cước. Việc sử dụng toàn thanh bằng trong hai câu thơ miêu tả là một chủ ý của nhà thơ. Nếu như
những câu thơ sử dụng toàn thanh trắc để tô đậm sự gân guốc hiểm trở trên kia thì việc sử dụng toàn
bộ thanh bằng ở đây như một nốt nhạc nhẹ nhàng, thư thái đã vẽ nên bức tranh yên ả, thơ mộng
Cuộc sống miền Tây Bắc được gợi nhắc bởi hình ảnh giản dị, quen thuộc của sinh hoạt gia đình. QD
không kìm nén được cảm xúc nên đã nói lên thành lời:
“Nhớ ôi,….
…nếp xôi”
(Khung cảnh đậm đà tình quân dân) Kí ức dịu ngọt và thân thương về cuộc sống của đồng bào Tây
Bắc gắn với hình ảnh của những làn khói lam chiều vấn vương trên chái bếp. Với người lính xa nhà,
hình ảnh ấy như càng đánh thức khao khát về tình cảm gia đình trong tâm hồn họ. Cái hương vị nồng
nàn, dịu ngọt của lúa nếp thơm nồng vốn đã trở đi trở lại trong rất nhiều bài thơ. Đó là hương cốm
mới phảng phất trong làn gió thu khiến tâm hồn của Nguyễn Đình Thi nôn nao, khó tả khi hoài niệm
về Hà Nội. Đó là ấn tượng của nhà thơ Chế Lan Viên về “bữa xôi đầu còn toả nhớ mùi hương”.
Trên những chặng đường hành quân đầy gian khổ và hi sinh, người lính Tây Tiến cũng có những
khoảng lặng được hoà mình vào cuộc sống của con người miền Tây Bắc. Chính những khoảnh khắc
ấy đã khiến họ đối diện với nỗi niềm sâu kín thường tình của một con người.
Đoạn thơ để lại một dấu ấn đẹp đẽ về thơ ca kháng chiến mà sự thành công là kết hợp hài hòa giữa

khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Bên cạnh đó còn có các yếu tố nghệ thuật: Sử dụng
nhiều từ láy tạo hình, cách sử dụng thanh trắc, điệp từ, nhân hóa, đối lập…tất cả đã tạo nên một đoạn
thơ hay và giàu giá trị.
3. Cảm nhận và bình luận ý niệm đất nước trong đoạn thơ sau


I. Tác giả diễn tả sự ra đời của đất nước:
“Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
Một thế giới cổ tích, truyền thuyết như ùa về sống dậy trong tâm hồn người đọc. Hình ảnh
miếng trầu của bà gợi câu chuyên trầu cau với tình người nồng hậu thủy chung. Hình ảnh dân mình
trồng tre đánh giặc gợi sự tích Thánh Gióng – khúc anh hùng ca, biểu tượng cho sức mạnh tinh
thần của nhân dân Việt Nam thuở bình minh dựng nước
Chẳng ai trong chúng ta biết đất nước có tự bao giờ. Nhưng mỗi người đều cảm nhận thấy
Đất Nước không phải là hình người khổng lồ xa lạ hay một khái niệm trừu tượng chung
chung. Mà àđất nước hiện hình cụ thể gần gũi thân thương trong cuộc sống của mỗi con người như
câu chuyện cổ tích mẹ kể, miếng trầu bà ăn
II. Đất nước lớn lên theo những phong tục tập quán :
“Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sang”
→ Lịch sử lâu đời của đất nước được tác giả nhìn từ chiều sâu văn hóa dân gian với những
phong tục tập quán như cách búi tóc thành cuộn sau gáy, gọn gàng của người phụ nữ Việt Nam. Là
tình nghĩa vợ chồng thủy chung như trong câu ca dao
“Tay bưng chén muối đĩa gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”
Là cách đặt tên con cái từ những vận dụng hàng ngày để mong may mắn hay ăn chóng lớn. Là
tập quán làm lúa nước gợi ra những gương mặt chăm chỉ, cần cù làm lụng “một nắng hai sương xay

giã dần sàng. Thấm vào trong hạt gạo bé nhỏ ấy là những giọt mồ hôi nhọc nhằn của người nông
dân.
→ Các động từ “Xay, giã, dần, sàng” không chỉ là quy trình vất vả làm ra hạt gạo.Mà đó còn
là lòng biết ơn đối với người làm ra nó, bởi “dẻo thơm một hạt dắng cay muôn phân”
→ Cấu trúc câu thơ đất nước đã có, đất nước bắt đầu, đất nước có từ…cho chúng ta hình
dung cả quá trình sinh ra, lớn lên , trưởng thành của đất nước trong trường kỳ, trong tâm
thức của con người Việt Nam bao nhiêu thế hệ.


Khổ thơ khép lại bằng sự khẳng định đầy tự hào : “Đất nước có từ ngày đó”
“Ngày đó” là ngày nào ta không rõ nhưng chắc chắn “ngày đó” là ngày ta có truyền thống, có
phong tục tập quán, có văn hóa mà có văn hóa nghĩa là có đất nước.
Lấp lánh trong đoạn thơ là hình ảnh Đất Nước thân yêu. Quá khứ của Đất Nước “ngày xửa
ngày xưa” đồng hiện trong “miếng trầu bây giờ bà ăn”. Có Đất Nước anh hùng “biết trồng tre mà
đánh giặc”. Có Đất Nước cần cù trong lao động sản xuất: “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã,
giần, sàng”. Có nền văn hóa giàu bản sắc, nền văn hiến rực rỡ hội tụ qua thuần phong mĩ tục (tục ăn
trầu, tục bới tóc), qua tục ngữ ca dao “gừng cay muối mặn”, qua cổ tích thần thoại, truyền thuyết.
4. Phân tích, bình luận hình tượng người chiến sĩ Giải phóng quân trong đoạn văn sau:
Nói tới người chiến sỹ là nói đến lòng kiên cường, dũng cảm tuyệt vời. Anh là hiện thân của chủ
nghĩa anh hùng cách mạng thời đại mới. Nguyễn Thi là cây bút khá nổi tiếng của văn xuôi thời
kháng chiến chống Mỹ. Truyện của Nguyễn Thi đã phản ánh khá sinh động cuộc sống của nhân dân
Miền Nam dưới sự đàn áp dã man của Mỹ và chính quyền Sài Gòn; đồng thời cũng làm nổi bật vẻ
đẹp của con người Miền Nam trong cuộc đấu tranh quyết liệt với kẻ thù để giải phóng Miền Nam,
thống nhất đất nước, giành độc lập, tự do về cho dân tộc. Trong những sáng tác của mình, Nguyễn
Thi đã khắc họa hình tượng người chiến sĩ giải phóng quân anh dũng, hiên ngang, góp phần không
nhỏ trong việc tạo nên bức tranh hào hùng này như nhân vật Việt trong “Những đứa con trong gia
đình” của ông.
-Phải sống chiến đấu như thế nào, trả thù nhà, đền nợ nước sao cho xứng đáng là những đứa con
trong một gia đình có truyền thống yêu nước, gắn bó với cách mạng từ thời chống Pháp đến thời
chống Mĩ ?... Việt đã chiến đấu bằng tất cả sức mạnh thể chất lẫn tinh thần, bằng ý chí bất khuất thừa

hưởng từ một gia đình cách mạng. Ông nội của Việt, chú Năm, ba Việt đều tham gia kháng chiến
chống Pháp. Cha bị Tây chặt đầu, mẹ bị trúng pháo của giặc, những hình ảnh thê thảm đó mãi in sâu
trong tâm trí Việt. Chính mối thù nhà là động lực tinh thần và tình cảm thúc đẩy chị em Việt anh
dũng
chiến
đấu.
+Hoàn cảnh: Trong trận chiến đấu ác liệt tại một khu rừng cao su, Việt đã diệt được một xe tăng
bọc thép của giặc, nhưng đồng thời cũng bị thương nặng, phải nằm lại chiến trường và lạc đồng
đội. Anh ngất đi, tỉnh lại nhiều lần. Mỗi lần tỉnh lại, dòng hồi ức lại đưa anh trở về những kí
niệm thân thiết những ngày qua: kỉ niệm về má, chị Chiến, chú Năm, về đồng đội và anh Tánh…
càng khiến anh quyết tâm giữ vững tay súng đánh đuổi kẻ thù.
-Ngay sau khi vào bộ đội, tân binh Việt đã lập nên chiến công trong một trận đánh quyết liệt với
quân thù. Việt đã diệt được một xe đầy Mỹ và bắn nhào một xe tăng. Mất liên lạc với đồng đội, trơ
trọi một thân, chịu đói chịu khát, anh bị thương ở hai mắt, không còn thấy được gì cả nhưng vẫn can
đảm chịu đựng. +Việt đang ở giữa hoàn cảnh hết sức nguy hiểm và gian nan “ Hơi xe bọc thép
nghe chạy mỗi lúc mỗi gần. Pháo bầy nổ càng gần hơn, nghe rào rào cành cây đổ” “Tiếng xe bọc
thép chạy ào ào qua trước mặt Việt” “Những loạt tiểu liên đâu đây nghe gần lắm”


+Dù bị thương nặng nhưng Việt vẫn cố vững chắc tay súng Việt cảm thấy chân tay tê dại, khắp
người nước hay máu không biết. “các ngón tay đều tê nhức, không sao mở được” bao đạn trước
bụng, “chín ngón tay đã bị thương, chỉ còn một ngón cái hơi nhúc nhích”
+Hình ảnh những người đồng chí luôn kề vai sát cánh với Việt
“…nếu chết mà không được ở chung với anh Tánh và không được đi bộ đội nữa thì buồn lắm”
“…các anh tao sẽ chạy tới đâm mày!”
+Mối thù giết hại gia đình hiện lên trong tâm trí Trong cơn mê Việt nhớ lại những gì đã xảy ra
trong gia đình mình. “Mày chỉ giỏi giết gia đình tao” Việt càng cảm thấy căm thù, càng có ý thức
quyết tâm chiến đấu. ”. => thôi thúc ý chí tiếp tục đứng dậy đánh đuổi kẻ thù
+Coi thường khinh bỉ kẻ thù, quyết tâm diệt giặc, Nghe tiếng máy bay và tiếng xe bọc thép của
địch rú lên, Việt không hề run sợ và trong tư thế sẵn sàng chiến đấu: “Nếu mày đổ quân thì súng tao

còn đạn.” “Ba viên còn dưới hộp, một viên đã lên nòng”; “Được, Việt cứ nằm đây! Tao sẽ chờ
mày! Trên trời có mày, dưới đất có mày, cả khu rừng này có còn mình tao cũng bắn được mày. Nghe
súng nổ các anh sẽ tới đâm mày!” không hề sợ hãi trước cái chết “Chết là gì nhỉ?””Hay chết tức
là người thật thì biến lên trên nóc nhà còn người giả thì nằm tại đó?” Như vậy, là Việt đã đi xa hơn
khúc sông truyền thống gia đình. Việt chủ động đi tìm giặc mà đánh. Việt chính là 1 hình tượng nhân
vật điển hình cho tầng lớp thanh niên thời đánh Mỹ tham gia vào cuộc kháng chiến với tất cả nhiệt
huyết và niềm hăng say của tuổi trẻ, làm nên khúc sông truyền thống dào dạt hơn, rộng lớn hơn
trước khi đổ về biển cả.
=> Qua đoạn văn trên, ta thấy được hình ảnh người Giải phóng quân trẻ tuổi, hồn nhiên mà kiên
cường, dũng cảm.
+Nghệ thuật
Nguyễn Thi đã miêu tả nhân vật một cách sắc nét, từ tính tình, tình cảm đến tinh thần chiến
đấu, không bằng những sắc màu tráng lệ mà qua hàng loạt hình ảnh sống thực, hồn nhiên đầy
cảm động.
Với ngôn ngữ mang màu sắc Nam Bộ, những chi tiết về dáng cách, cử chỉ, lời nói của nhân vật,
phát huy tối đa lời độc thoại nội tâm, những độc thoại khi đứt khi nối tưởng chừng như rời rạc
nhưng thật chặt chẽ, truyện đã khắc hoạ hình tượng của một nhân vật tuổi trẻ anh hùng, đại
biểu cho thế hệ thanh niên miền Nam anh hùng trong thời ki kháng chiến chống Mĩ.



×