Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

đề tài nghiên cứu khoa học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (267.77 KB, 46 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Theo số liệu của Bộ Xây Dựng, nhu cầu sử dụng năng lượng có thể
tăng 10% mỗi năm từ năm 2010 đến năm 2025, đồng nghĩa với việc nhu cầu
năng lượng vào năm 2025 sẽ cao gấp 3 lần hiện nay và sản lượng điện sẽ phải
gấp 8 lần sản lượng hiện tại để đáp ứng nhu cầu phát triển. Chính vì vậy, an
ninh năng lượng là vấn đề đang ngày càng bức xúc không chỉ riêng với nước
ta mà cũng là vấn đề của nhiều nước trên thế giới. Mặc dù Nhà nước đã và
đang đầu tư rất nhiều các nhà máy thủy điện cũng như nhiệt điện và mới đây
nhất là dự án nhà máy điện hạt nhân tại Ninh Thuận. Tuy nhiên, việc xây
dựng thêm các nhà máy điện cũng không thể đáp ứng được tất cả nhu cầu cần
thiết của đất nước.
Bên cạnh đó, việc sử dụng các nguồn tài nguyên thô để tạo ra năng
lượng phục vụ cho nhu cầu ngày càng tăng của con người đang làm cho
nguồn tài nguyên thiên nhiên dần cạn kiệt, gây ô nhiễm môi trường và kéo
theo tình trạng biến đổi khí hậu cũng như hiện tượng nóng lên toàn cầu.
Đứng trước tình hình cấp bách này đòi hỏi các nước trên thế giới cần
nhanh chóng chung sức bảo vệ trái đất. Việt Nam là một trong những nước
chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của hiện tượng biến đổi khí hậu. Đà Nẵng và các
thành phố ven biển nước ta lại càng chịu tác động nặng nề hơn của hiện tượng
này.
Việt Nam đã và đang tham gia tích cực cùng cộng đồng quốc tế trong
việc bảo vệ môi trường chống lại hiện tượng biến đổi khí hậu và hiệu ứng
nhà kính bằng việc tham gia ký kết nghị định thư Kyoto. Ngoài ra, chúng ta
cũng đã xây dựng chương trình hành động quốc gia về chống biển đổi khí
hậu và đã đưa ra rất nhiều sáng kiến thiết thực cho chương trình này.
Phân tích mới nhất của các nhà khoa học chỉ ra rằng ‘‘nhà cửa là
nguồn gốc của gần một nửa khí nhà kính’’. Theo Hội đồng Công trình xanh
Mỹ (USGBC) thì tổng năng lượng tiêu thụ của lĩnh vực nhà cửa Mỹ là 48%.
Tỷ lệ phát thải CO2 do công nghiệp xây dựng ở các nước châu Âu là trên
40%, ở Nhật Bản khoảng 36% (năm 1990). Theo nghiên cứu của ĐH quốc gia


Thành Công, Đài Loan, thì một ngôi nhà diện tích 116m 2 sẽ phát thải khoảng
34.000kg CO2 mỗi năm, ngang lượng hấp thụ của một cây cổ thụ trong 40
năm. Nói khác đi, mỗi ngôi nhà cần 40 cây cổ thụ để hấp thụ hết khí CO 2 thải
ra [9,17].
Như vậy, lĩnh vực xây dựng từ lúc khai thác, chế tạo vật liệu, thiết kế
và xây dựng công trình, suốt quá trình vận hành cho đến khi cải tạo, phá dỡ đã
góp gần một nửa vào việc hủy hoại hệ sinh thái, gây ô nhiểm môi trường, làm
cạn kiệt tài nguyên và góp phần tạo ra biến đổi khí hậu.
1


Qua những số liệu trên, chúng ta có thể thấy được trách nhiệm nặng nề
của những người làm xây dựng trong cuộc chiến sống còn này. Trái đất này sẽ
ra sao nếu chúng ta không hành động ngay từ bây giờ, thế hệ tương lai liệu có
lên án lịch sử khi thế hệ cha anh đã không hành động để bảo vệ môi trường
sống chính đáng cho mai sau.
Thấy được trách nhiệm của mình, tháng 4 năm 2011 tại lễ kỷ niệm
ngày Kiến trúc Việt Nam, Hội Kiến trúc sư đã quyết định thành lập Hội đồng
Kiến trúc Xanh và công bố Tuyên ngôn Kiến trúc Xanh Việt Nam, cam kết đi
tiên phong và phối hợp với toàn xã hội thực hiện những nhiệm vụ quan trọng
để tạo lập môi trường sống bền vững cho con người đồng thời kêu gọi giới
Kiến trúc sư chung lòng xây dựng nền Kiến trúc Xanh Việt Nam [1].
Trong vai trò của QLNN trong việc tiết kiệm năng lượng cũng đã được
Chính phủ thực hiện khi ban hành Nghị định số 102/2003/NĐ-CP về sử dụng
năng lượng tiết kiệm và có hiệu quả, trong đó có quy định về tiết kiệm năng
lượng trong các tòa nhà. Tháng 11/2005, Bộ Trưởng Bộ Xây dựng đã ký
quyết định ban hành Quy chuẩn Xây dựng Việt Nam – Các công trình xây
dựng sử dụng năng lượng có hiệu quả. Quốc Hội ban hành Luật sử dụng năng
lượng tiết kiệm và hiệu quả Luật số: 50/2010/QH12 ngày 17 tháng 6 năm
2010. Chính phủ ban hành Nghị Định số 21/2011/NĐ-CP ngày 29 tháng 3

năm 2011 về Quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật sử dụng năng lượng
tiết kiệm và hiệu quả. Thành phố Đà Nẵng cũng ban hành Quyết định số
175/QĐ-UBND ban hành Đề án Sử dụng năng lượng tiết kiệm và Ứng dụng
năng lượng tái tạo trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2011-2015. Qua
đó thấy được vấn đề tiết kiệm năng lượng đang được thực sự quan tâm của
các cơ quan quản lý nhà nước từ tất cả các cấp có thẩm quyền.
Từ tình hình thực tế, chúng ta có thể nhận thấy việc đẩy mạnh ứng
dựng CNTKNL, kiến trúc xanh, VLTTMT đối với công trình xây dựng là vô
cùng cần thiết trong hoàn cảnh môi trường và xã hội hiện nay. Tuy vậy, câu
hỏi đặt ra là ‘‘ Chúng ta có luật, chúng ta có các văn bản dưới luật, chúng ta
đã có sự quan tâm của những nhà chuyên môn trong lĩnh vực Xây dựng và
Kiến trúc. Vậy chúng ta cần thêm điều gì nữa để đẩy mạnh việc ứng dụng
này?’’. Nhóm tác giả chúng tôi không có nhiều tham vọng, chỉ mong tìm ra
được một vài nguyên nhân chủ yếu và đưa ra những giải pháp hữu dụng
đóng góp một phần trong lĩnh vực chuyên môn của mình để cùng chung tay
với toàn xã hội bảo vệ môi trường và tăng cường tiết kiệm năng lượng trong
lĩnh vực xây dựng trên địa bàn thành phố. Đồng thời cùng thành phố Đà Nẵng
hoàn thành mục tiêu hành động chiến lược là: Đến năm 2020, Đà Nẵng là
‘‘Thành phố môi trường”.
Ngoài ra, việc tuyên truyền đẩy mạnh ứng dựng CNTKNL, KTX,
VLTTMT đối với công trình xây dựng cũng đồng thời nâng cao mức sống tiện
nghi, hòa hợp với môi trường sống của nhân dân sống trên địa bàn thành phố,

2


để Đà Nẵng thực sự là một thành phố đáng sống theo nhiều khía cạnh khác
nhau.
2. Tổng quan về lịch sử vấn đề nghiên cứu
- Ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh việc nghiên cứu ứng dụng

CNTKNL, KTX, VLTTMT được các tác giả đề cập với nhiều bài viết đăng
trên các tạp chí và đã đưa ra được nhiều giải pháp cụ thể phù hợp với điều
kiện tự nhiên và xã hội của các thành phố nói trên.
- Hiện nay, việc ứng dụng CNTKNL, KTX, VLTTMT đối với công
trình xây dựng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng gần như chưa được nghiên
cứu. Nhóm tác giả mong muốn qua việc thực hiện đề tài nâng cao được nhận
thức và kêu gọi các nhà chuyên môn đẩy mạnh nghiên cứu và tìm ra được
nhiều giải pháp hữu ích trong tương lai.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
- Xác định nguyên nhân cản trở việc ứng dụng CNTKNL, KTX,
VLTTMT đối với công trình xây dựng trên địa bàn thành phố.
- Đề ra các giải pháp nhằm đẩy mạnh ứng dụng CNTKNL, KTX,
VLTTMT đối với công trình xây dựng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Góp
phần thực hiện thành công mục tiêu chiến lược: Đà Nẵng là ‘‘Thành phố môi
trường’’ vào năm 2020.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Đánh giá thực trạng ứng dụng CNTKNL, KTX, VLTTMT đối với
công trình xây dựng ở các nước trên thế giới, ở Việt Nam và thành phố Đà
Nẵng.
- Đánh giá hệ thống văn bản pháp luật của Trung ương và của thành
phố Đà Nẵng trong việc khuyến khích, đẩy mạnh ứng dụng CNTKNL, KTX,
VLTTMT đối với công trình xây dựng.
- Đánh giá được những thuận lợi về điều kiện tự nhiên và xã hội của
thành phố Đà Nẵng trong việc phát triển ứng dụng CNTKNL, KTX,
VLTTMT đối với công trình xây dựng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là CNTKNL, KTX, VLTTMT đối với công
trình xây dựng.

- Hệ thống các văn bản pháp luật của Trung ương và của thành phố Đà
Nẵng trong việc khuyến khích, đẩy mạnh ứng dụng CNTKNL, KTX,
VLTTMT đối với công trình xây dựng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
3


- Thực trạng ứng dụng CNTKNL, KTX, VLTTMT đối với công trình
xây dựng tại các nước trên thế giới, tại Việt Nam nói chung và Đà Nẵng nói
riêng.
- Tập trung nghiên cứu chủ yếu trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Tổng hợp thông tin trong tài liệu thu thập được, đánh giá thực trạng,
so sánh việc ứng dụng ứng dụng trong thực tế giữa nước ta với các nước khác,
giữa các thành phố trong nước với thành phố Đà Nẵng. Từ đó đưa ra những
hạn chế và những giải pháp đẩy mạnh ứng dụng trên địa bàn thành phố.
6. Những đóng góp của đề tài
- Góp phần đưa ra những giải pháp nhằm giúp thành phố Đà Nẵng đẩy
mạnh được việc ứng dụng CNTKNL, KTX, VLTTMT đối với công trình xây
dựng.
- Góp phần vào chương trình thực hiện mục tiêu quốc gia về sử dụng
năng lượng tiết kiệm và hiệu quả trên địa bàn thành phố Đà Nẵng và mục tiêu
chiến lược: Đà Nẵng là ‘‘Thành phố môi trường’’ vào năm 2020.

4


CHƯƠNG I
KHÁI NIỆM CƠ BẢN KIẾN TRÚC XANH, CÔNG NGHỆ TIẾT KIỆM
NĂNG LƯỢNG VÀ VẬT LIỆU THÂN THIỆN MÔI TRƯỜNG

Chúng ta nhận thấy rằng, CNTKNL, Kiến trúc xanh, VLTTMT là 3
mặt của một vấn đề trong xây dựng hiện đại, chúng đan xen và bổ trợ cho
nhau. Để công trình xây dựng giảm tiêu hao năng lượng và hạn chế gây ô
nhiễm trong quá trình xây dựng và sử dụng, các nhà chuyên môn cần kết hợp
nhuần nhuyễn 3 khía cạnh này: giải pháp kiến trúc phải hợp lý với điều kiện
khí hậu của địa phương, CNTKNL và VLTTMTnhằm mục đích giảm tiêu tốn
năng lượng trong quá trình sử dụng của công trình, giảm tiêu tốn năng lượng
và ô nhiểm môi trường trong quá trình sản xuất và sử dụng vật liệu xây dựng
thân thiện với môi trường. Và từ đó tạo ra một cách tổng thể trong công nghệ
xây dựng từ việc sản xuất khai thác vật liệu xây dựng, ứng dụng CNTKNL,
đến việc thiết kế, thi công, sử dụng, duy tu bảo dưỡng đến phá bỏ công trình.
Để đi đến mục đích chính của đề tài, trước tiên cần tìm hiểu các khái
niệm cơ bản và có một cái nhìn tổng quát vấn đề cần nghiên cứu.
1.1. Kiến trúc xanh.
1.1.1. Khái niệm chung:
Kiến trúc xanh trong công trình (Green Building) là kiến trúc nhằm tạo
lập một môi trường sinh sống vệ sinh và lành mạnh cho con người, đồng thời
bảo vệ môi trường sống chung, tạo được sự phát triển cân bằng ổn định của
hệ sinh thái [6,10,11,14].
Kiến trúc xanh thể hiện toàn diện mục tiêu phát triển bền vững của lĩnh
vực kiến trúc trên toàn cầu.
Tiếp cận tổng quát có hệ thống vào thiết kế, xây dựng, sản xuất vật liệu,
vận hành khai thác và duy tu bảo dưỡng đến phá bỏ công trình.
1.1.2. Mục đích phát triển kiến trúc xanh
- Kiến trúc thích ứng với khí hậu.
- Tạo môi trường vi khí hậu thuận lợi cho con người.
- Sử dụng năng lượng hiệu quả, tiết kiệm nước…
- Tăng cường sử dụng các nguồn năng lượng tự nhiên: năng lượng gió,
năng lượng mặt trời, địa nhiệt…
1.1.3. Nội dung cơ bản của kiến trúc xanh

Lựa chọn quy mô công trình; Sử dụng các vật liệu tái chế hoặc có thể
tái chế lại được; Sử dụng các vật liệu có năng lượng tự thân thấp; Sử dụng gỗ
được khai thác có kế hoạch; Hệ thống thu lại nước; Ít gây tốn kém năng lượng
trong khi sử dụng công trình; Tái sử dụng các công trình trong đô thị; Giảm
5


bớt các chất hóa học suy yếu tầng ô zôn; Bảo tồn môi trường tự nhiên; Hiệu
quả năng lượng; Hướng nắng; Dễ tiếp cận với giao thông công cộng…
Như vậy có thể thấy nội dung của Kiến trúc xanh rất đa dạng, ở đây
chúng ta chỉ quan tâm đến một số vấn đề chính đó là: Tìm hiểu về Kiến trúc
xanh, sự phát triển của Kiến trúc Xanh, Hệ thống đánh giá Công trình xanh
của các nước trên thế giới và ở nước ta. Những thành quả Kiến trúc xanh mà
các nước trên thế giới đạt được và từ đó tìm được nguyên nhân hạn chế sự
phát triển Kiến trúc Xanh ở nước ta và tại thành phố Đà Nẵng.
1.1.4 Sự hình thành và phát triển Kiến trúc xanh của các nước trên
thế giới và ở nước ta
Để nhìn nhận vấn đề này, chúng ta cần tìm hiểu sự phát triển các hệ
thống đánh giá kiến trúc xanh của các nước trên thế giới và cả ở nước ta. Có
thể nhận thấy các nước trong khu vực và trên thế giới đã quan tâm đến Kiến
trúc xanh và các tiêu chí đánh giá về việc sử dụng năng lượng trong các tòa
nhà từ cuối thập niên 70 của thế kỷ trước [7,8,9,10,11,14,17].
1.1.4.1. Quốc đảo Singapore
Ban công tác xã hội (Public Works Departement (PWD)) là ban chuyên
gia về công trình kiến trúc của Singapore đã hoạt động liên quan đến việc bảo
toàn năng lượng trong công trình.
Từ năm 1979, tất cả các tòa nhà Chính phủ mới được thiết kế và xây
dựng đều phù hợp hoàn toàn với các tiêu chuẩn năng lượng.
Năm 1982, Viện nghiên cứu Công nghiệp và Tiêu chuẩn đã xuất bản bộ
luật thực hiện CP24 về bảo toàn năng lượng trong dịch vụ công trình để bổ

sung vào các quy định về quản lý công trình.
Trong hai thập kỷ gần đây, chính phủ Singapore đã tiến hành thúc đẩy
việc bảo toàn năng lượng dịch vụ công trình thông qua những biện pháp
khuyến khích về luật và thuế, hài hòa giữa Xây dựng và Môi trường.
1.1.4.2. Malaysia
Các hoạt động nhằm nâng cao hiệu suất về năng lượng trong Xây dựng
nhà ở của Malaysia đã được bắt đầu từ thập kỷ 80 thông qua các hoạt động về
kiểm toán năng lượng phối hợp với Ban năng lượng, Bộ năng lượng.
Tháng 12 năm 1989 Chính phủ phát hành “Hướng dẫn về hiệu quả
năng lượng trong các công trình xây dựng”. Giá trị giới hạn cho phép của
OTTV ở Malaysia được cố định ở mức 45W/m2. Giá trị giới hạn cho phép
của RTTV (của mái) được cố định ở mức 25W/m2. Với việc áp dụng công
nghệ lớn nhất trong lĩnh vực chiếu sáng và hệ thống điều hòa không khí cho
phép giảm năng lượng tiêu thụ điện đến 50%.

6


Hiện nay, Viện nghiên cứu tiêu chuẩn và công nghiệp của Malaysia
(SIRIM) là cơ quan hàng đầu của nước này trong lĩnh vực công trình kiến trúc
xanh.
1.1.4.3. Đài Loan
Hệ thống đánh giá CTX đầu tiên của Đài Loan do Viện nghiên cứu kiến
trúc và xây dựng thuộc Bộ Nội Vụ công bố chính thức năm 1999. Năm 2003,
Đài Loan cho ra đời hệ thống đánh giá mới bao gồm 9 chỉ tiêu chính, tổng
hợp 4 lĩnh vực: Sinh thái, Tiết kiệm năng lượng, Giảm chất thải, Sức khoẻ, đặt
tên là “Hệ thống EEWH”.
Đài Loan phát triển hệ thống đánh giá riêng cho khí hậu nhiệt đới và á
nhiệt đới – là Hệ thống đánh giá CTX thứ tư trên thế giới - thể hiện đặc điểm
khí hậu nóng ẩm và văn hoá kiến trúc vùng này.

Đài Loan có một Chính sách quốc gia (Policy) và một chương trình
hành động quốc gia về CTX.
Đài Loan tuy khởi động CTX muộn, nhưng hoạt động lại sôi động cỡ
hàng đầu trên toàn cầu.
1.1.4.4. Ấn Độ
Tại Ấn Độ, Viện năng lượng và nhiên liệu đóng vai trò quan trọng
trong phát triển công trình kiến trúc xanh của đất nước. TERI được đặt ra với
GRIHA, một hệ thống đánh giá được công nhận bởi chính phủ Ấn Độ như là
hệ thống xếp hạng CTX quốc gia.
Liên hiệp công nghiệp Ấn Độ (CII) đóng vai trò chủ động phát triển
bền vững trong lĩnh vực xây dựng. CII là trụ cột của hội đồng CTX Ấn Độ
(IGBC). Hội đồng này đã lấy bản quyền tiêu chuẩn CTX LEED của Mỹ và
chịu trách nhiệm chứng nhận cho các công trình xây dựng của Ấn Độ
1.1.4.5. Trung Quốc
Trong bộ luật hạt nhân của lĩnh vực kiến trúc “Luật kiến trúc Nước
Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa” đã được thông qua năm 1977, trong đó chỉ
có điều khoản thứ 41 là có đưa ra yêu cầu đối với kiến trúc xanh, nội dung
liên quan đến kiến trúc xanh còn tương đối ít. Luật liên quan còn có “Luật
quy hoạch thành phố đô thị”, “Luật năng lượng”, “Luật tiết kiệm năng
lượng”, “Luật tái sinh nguồn năng lượng”,…
Ngoài vấn đề đưa ra những quy định mang tính cưỡng chế bắt buộc,
những chính sách khuyến khích cũng không ngừng được đưa ra. “Luật tiết
kiệm năng lượng Nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa” đã được sửa đổi và
đưa vào áp dụng từ 2008, trong đó tăng thêm nội dung tiết kiệm năng lượng
trong kiến trúc

7


Trung Quốc đã đầu tư rất nhiều trong việc nghiên cứu kỹ thuật và thiết

kế kiến trúc xanh, hình thành hàng loạt những dự án khoa học kỹ thuật trọng
điểm cấp quốc gia.
Trung Quốc có phương pháp đánh giá theo hệ thống quản lý: Quốc vụ
viện đã thông qua và ban hành “Phương án thực thi hệ thống chỉ tiêu thống kê
tiêu hao năng lượng GDP theo đơn vị”, “Phương án thực thi hệ thống giám sát
đo lường tiêu hao năng lượng GDP theo đơn vị”,…
Thành quả chủ yếu về phương diện hệ thống đánh giá gồm có:
+ Tiêu chuẩn đánh giá kiến trúc xanh.
+ Sổ tay đánh giá kỹ thuật nhà ở sinh thái Trung Quốc.
+ Hệ thống đánh giá kiến trúc xanh Olympic: GOBAS.
Về phương diện hướng dẫn kỹ thuật gồm có:
+ Năm 2005 “Nguyên tắc hướng dẫn kỹ thuật kiến trúc xanh” Trung
Quốc lần đầu được ban hành.
+ Năm 2007 Bộ Xây dựng ban hành “Nguyên tắc thi công xanh”
1.1.4.6. Hợp chủng Quốc Hoa Kỳ
Hệ thống đánh giá đầu tiên của Mỹ ra đời năm 1995 gọi là LEED
(Leadership in Energy and Environment Design). Tiếp đó năm 2005 họ phát
triển LEED cho các công trình cải tạo và công trình mới (LEED-NC), cũng
được nhiều nước tin cậy áp dụng.
Hội đồng CTX Mỹ (US GBC) là tổ chức phi lợi nhuận đã đẩy mạnh
vấn đề phát triển bền vững trong quá trình thiết kế, xây dựng, và cải tạo các
công trình.
Cơ quan bảo vệ môi trường của Mỹ đã xây dựng chương trình xếp hạng
các công trình thương mại có hiệu quả về năng lượng. Kết quả: hàng năm tiết
kiệm được 20% tiêu thụ năng lượng và nước, 38% nước thải được tái sử dụng
và 22% rác thải xây dựng được tái chế.
1.1.4.7. Cộng hòa Liên bang Đức
Để quy hoạch và đánh giá công trình xây dựng, Hội đồng Công trình
bền vững của Đức đã đưa ra một công cụ mới: Giấy chứng nhận Công trình
bền vững Đức.

Chứng nhận này được Hội đồng Công trình bền vững của Đức (DGNB)
xây dựng cùng Bộ Giao thông, Công trình xây dựng và những vấn đề về đô
thị (BMVBS) của Đức. Nó được sử dụng như một công cụ để quy hoạch và
đánh giá công trình xây dựng dựa theo những tiêu chí về chất lượng. Hệ thống
đánh giá này bao trọn tất cả những vấn đề về xây dựng bền vững.

8


Các công trình đang tồn tại có thể được xếp theo 3 loại đồng, bạc và
vàng. 6 tiêu chí ảnh hưởng tới sự đánh giá là: sinh thái, kinh tế, văn hóa – xã
hội và tính thực tiễn, kỹ thuật, quy trình và địa điểm.
1.1.4.8. Vương Quốc Anh
Phương pháp đánh giá của BREEAM do Tổ chức Nghiên cứu Xây
dựng Anh (Building Research Establishment – BRE) và một số nhà nghiên
cứu tư nhân cùng đưa ra sớm nhất vào năm 1990, mục đích là để chỉ đạo thực
tiễn xây dựng xanh một cách có hiệu lực và giảm thiểu ảnh hưởng tiêu cực
của xây dựng đối với môi trường khu vực và toàn cầu.
Các điều mục đánh giá bao gồm 9 mặt lớn:
1. Quản lý: Chính sách và quy trình;
2. Lành mạnh và dễ chịu: Môi trường trong và ngoài phòng;
3. Năng lượng: Tiêu hao năng lượng và phát thải CO2;
4. Vận tải: Quy hoạch địa điểm hữu quan và phát thải CO2 khi vận tải;
5. Nước: Vấn đề tiêu hao và rò rỉ;
6. Nguyên vật liệu: Chọn lựa nguyên liệu và tác dụng đối với môi
trường;
7. Sử dụng đất: Cây xanh và sử dụng đất;
8. Sinh thái khu vực: Giá trị sinh thái của địa điểm;
9. Ô nhiễm: Ô nhiễm không khí và nước.
1.1.4.9. Châu Úc – Australia

Hội đồng công trình kiến trúc xanh Australia đã xây dựng hệ thống tiêu
chuẩn xanh cho công trình gọi là GREEN STAR. Các công cụ xếp hạng môi
trường cho công trình theo tiêu chuẩn GREEN STAR dựa trên tiềm năng của
công trình trước 9 loại tác động môi trường: sự quản lý, môi trường vi khí
hậu, năng lượng, giao thông, nước, vật liệu, sử dụng đất và sinh vật, phát thải
và sự cách tân.
1.1.4.10. Ở Việt Nam
Ngày 1/1/2008, Hội đồng CTX Việt Nam thuộc Qũy các đô thị Xanh
của Hoa Kỳ đã chính thức được phép hoạt động tại Việt Nam. Hội đồng này
phối hợp với ĐH Kiến trúc Hà Nội đang triển khai xây dựng Tiêu chuẩn đánh
giá các CTX tại Việt Nam theo quan điểm thích ứng với biến đổi khí hậu, tiêu
chí quan trọng đầu tiên là tiết kiệm năng lượng.
Tháng 6 năm 2010 Hội đồng CTX Việt Nam (VGBC) đã công bố
phiên bản thử nghiệm đầu tiên của công cụ đánh giá LOTUS cho các công
trình phi nhà ở (LOTUS NR).

9


Hiện nay, Hội đồng CTX Việt Nam đưa ra phiên bản chạy thử nghiệm
LOTUS cho các công trình nhà ở. Công cụ LOTUS cho công trình nhà ở sẽ
áp dụng với các tòa nhà có 80% diện tích sàn trở lên sử dụng cho mục đích ở.
Nếu công cụ đánh giá LOTUS được áp dụng vào thực tế thì cũng là một bước
tiến vững chắc cho Kiến trúc Xanh Việt Nam.
Các tiêu chí đánh giá của công cụ LOTUS
1. Năng lượng
2. Nước
3. Vật liệu
4. Sinh thái
5. Chất thải & ô nhiễm

6. Sức khỏe & Tiện nghi
7. Thích ứng & giảm nhẹ
8. Cộng đồng
9. Quản lý
10. Sáng kiến
1.2. Những công nghệ, thiết bị tiết kiệm năng lượng sử dụng trong
công trình xây dựng
Với trình độ khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển nhiều công nghệ
sạch được ứng dụng nhằm tạo ra năng lượng cung cấp cho các tòa nhà, biến
năng lượng gió, mặt trời, địa nhiệt thành điện năng cũng như nhiệt năng phục
vụ cho nhu cầu sinh hoạt thiết thực của con người.
1.2.1. Sử dụng các CNTKNL phục vụ cho công trình
1.2.1.1. Năng lượng mặt trời
Năng lượng mặt trời, là năng lượng của dòng bức xạ điện từ xuất phát
từ Mặt Trời, cộng với một phần nhỏ năng lượng của các hạt hạ nguyên tử
khác phóng ra từ ngôi sao này. Dòng năng lượng này sẽ tiếp tục phát ra cho
đến khi phản ứng hạt nhân trên Mặt Trời hết nhiên liệu, vào khoảng 5 tỷ năm
nữa. Năng lượng bức xạ điện từ của Mặt Trời tập trung tại vùng quang phổ
nhìn thấy. Mỗi giây trôi qua, Mặt Trời giải phóng ra không gian xung quanh
3,827×1026 joule.
Điện mặt trời nghĩa là phát điện dựa trên động cơ nhiệt và pin quang
điện. Sử dụng năng lượng mặt trời chỉ bị giới hạn bởi sự khéo léo của con
người. Một phần danh sách các ứng dụng năng lượng mặt trời sưởi ấm không
gian và làm mát thông qua kiến trúc năng lượng mặt trời, qua chưng cất nước
uống và khử trùng, chiếu sáng bằng ánh sáng ban ngày, nước nóng năng
lượng mặt trời, nấu ăn năng lượng mặt trời, và quá trình nhiệt độ cao nhiệt
10


cho công nghiệp purposes. Để thu năng lượng mặt trời, cách phổ biến nhất là

sử dụng tấm năng lượng mặt trời.
1.2.1.2. Năng lượng gió:
Năng lượng gió là động năng của không khí di chuyển trong bầu khí
quyển Trái Đất. Năng lượng gió là một hình thức gián tiếp của năng lượng
mặt trời. Sử dụng năng lượng gió là một trong các cách lấy năng lượng xa xưa
nhất từ môi trường tự nhiên và đã được biết đến từ thời kỳ Cổ đại.
1.2.1.3.Năng lượng địa nhiệt
Năng lượng địa nhiệt là năng lượng được tách ra từ nhiệt trong lòng
Trái Đất. Năng lượng này có nguồn gốc từ sự hình thành ban đầu của hành
tinh, từ hoạt động phân hủy phóng xạ của các khoáng vật, và từ năng lượng
mặt trời được hấp thụ tại bề mặt Trái Đất.
1.2.2. Sử dụng các thiết bị tiết kiệm năng lượng phục vụ cho công
trình
Ngoài CNTKNL, hiện có nhiều sản phẩm sử dụng tiết kiệm năng lượng
đang phục vụ trên thị trường.
1.2.2.1. Đèn compact tiết kiệm điện:
Để có thể tiết kiệm điện tốt nhất, xu hướng sử dụng đèn compact đang
được áp dụng nhiều trong thực tế đời sống, sản xuất. Với tuổi thọ cao, khả
năng tiết kiệm điện, bảo vệ mắt, đèn compact có thể đáp ứng mọi nhu cầu về
chiếu sáng.
Theo tính toán của các chuyên gia ngành điện, nếu sử dụng điện 3
giờ/ngày thì trong 1 năm, một đèn compact sẽ tiết kiệm được 50Kwh. Với
tuổi thọ của bóng là 6.000 giờ sẽ giúp tiết kiệm được số tiền là 300.000 đồng.
Về mặt quốc gia, nếu thay thế 20 triệu bóng đèn với công suất bình quân
60W/bóng bằng đèn compact 11W (có độ sáng tương đương) thì sẽ cắt giảm
được lượng công suất cao điểm là 686 MW và cắt giảm sản lượng 1,1 tỷ
KWh/năm [16,21,22,24].
Bảng so sánh giữa đèn compact Ecobulb tiết kiệm điện và
đèn sợi đốt
Đèn

Chỉ tiêu so sánh
Đơn vị
compact
Đèn sợi đốt
Ecobulb
Công suất tiêu thụ của 1 bóng đèn
W
15
75
Giá mua 1 bóng đèn
đồng
63.000
4.000
Tuổi thọ
giờ
10.000
1.000
Chi phí sử dụng đèn sau 10.000
đồng
189.450
557.800
giờ
Trong đó:
bóng
1
10
11


- Số bóng đèn cần sử dụng

đồng
63.000
40.000
- Tiền mua bóng đèn
đồng
129.450
517.800
- Tiền mua điện (giá 863,0
đồng/kWh)
Số tiền tiết kiệm được sau 10.000 giờ là 368.350 đồng và thu hồi vốn sau
10,8 tháng (mỗi ngày sử dụng đèn 5 giờ)
Ghi chú: Số liệu được lấy từ trang web của Dự
án chiếu sáng công cộng hiệu suất cao tại Việt Nam.trợ Tiết kiệ
Hiện tại, ở Việt Nam có nhiều doanh nghiệp sản xuất và cung ứng đèn
compact tiết kiệm điện như: Công ty Cổ Phần Bóng đèn phích nước Rạng
Đông, Công ty Philips Việt Nam, Công ty PG Lighting Hải Phòng và Công ty
Bóng đèn Điện Quang... Riêng trong lĩnh vực chiếu sáng đô thị và công
nghiệp, Công ty PG Lighting đã nghiên cứu và chế tạo thành công đèn
compact PG công suất lớn có khả năng thay thế được bóng đèn cao áp thuỷ
ngân, tiết kiệm được 50% điện năng.
1.2.2.2. Bình nước nóng năng lượng mặt trời
Ưu điểm lớn nhất của máy này là không tốn điện. Sau nữa là nguồn
nước nóng khá dồi dào, an toàn, không tiếng ồn, độ bền, chi phí bảo trì thấp
và bảo vệ môi trường.
Bảng so sánh giữa máy nước nóng năng lượng mặt trời và máy nước
nóng điện:
MÁY NĂNG LƯỢNG
HẠNG MỤC
MÁY ĐIỆN
POLAR SUN

1. Số người sử dụng
4-5 (02 phòng tắm)
4-5 (02 phòng tắm)
50lít/người/ngày x 4
50lít/người/ngày x 4
2. Công suất sử dụng
=200 lít
=200 lít
01 máy dùng cho nhiều
3.Số phòng sử dụng
01 máy/ 1 phòng
phòng
4. Nhiệt độ trung bình 65oC
65oC
2,8 kw x 2 máy x1h x
5.Chi phí sử
Không
1000đ x30 ngày
dụng/tháng
=168.000 đ
6. Chi phí sử
168.000 x 12 tháng =
Không
dụng/năm
2.016.000 đ
7.Chi phí điện trong
Không
30.240.000 đ
15 năm
Có nguy cơ giật điện,

8. Rủi ro khi sử dụng Không
cháy nổ
9. Ảnh hưởng đến môi
Không

trường
10. Bảo hành
5 năm
1 năm
12


11. Tuổi thọ của máy
12. Chi phí Đầu tư
ban
13. Chi phí đầu tư 10
năm kế tiếp
14. Tổng chi phí trong
15 năm
15. Số tiền tiết kiệm
trong 15 năm

>15 năm
đầu 9.000.000/máy / 2
phòng
Không
9 triệu

05 năm
2.000.000/máy x 2

phòng= 4.000.000
02 lần x 2 máy x
2.000.000= 8.000.000
42,24 triệu

33.24 triệu

Như vậy: Chỉ cần đầu tư 1 máy loại 200 lít cho hộ 4-5 người sử dụng,
dùng cho 2 phòng tắm khác nhau .Sau 4 năm và 5 tháng sử dụng bạn đã hoàn
toàn thu hồi vốn; và 10 năm 7 tháng sau đó sử dụng miễn phí. Tiết kiệm cho
bạn một khoản chi phí sau thời gian sử dụng miễn phí là: 168.000 x 127 tháng
= 21.336.000 (đồng).
Tuy nhiên giá đầu tư ban đầu cho máy năng lượng mặt trời cao hơn
gần 5 lần so với máy đun nước nóng bằng điện nếu tính cho 1 máy. Đây chính
là điểm hạn chế đến khả năng cạnh tranh ban đầu của máy nước nóng năng
lượng mặt trời.
1.2.3. Vật liệu thân thiện với môi trường, năng lực sản xuất và giá
thành sản phẩm
VLTTMT là vật liệu được sử dụng theo các phương pháp thân thiện
với môi trường. Để đáp ứng tiêu chí thân thiện với môi trường thì quá trình
sản xuất phải được nghiên cứu sao cho hoặc có thể kết hợp sử dụng được chất
thải từ các ngành khác tạo ra, hoặc giảm thiểu tối đa sự phát tán chất thải. Các
sản phẩm Vật liệu xây dựng thân thiện môi trường hiện nay phổ biến là:
1.2.3.1. Các vật liệu truyền thống:
Các vật liệu truyền thống như tre, gỗ, các sản phẩm từ tự nhiên, các chế
phẩm có nguyên liệu từ chúng. Tất nhiên đây là những sản phẩm được trồng
để khai thác nguyên liệu chứ không phải do chặt phá rừng và phá hại môi
trường.
Ở nước ta nguồn nguyên liệu này rất phong phú và nếu được quy hoạch
trồng và khai thác hợp lý sẽ là giải quyết được các nhu cầu cần thiết về vật

liệu xây dựng của xã hội.
1.2.3.2. Kính tiết kiệm năng lượng:
Hiện nay loại kính tiết kiệm năng lượng hiện có trên thị trường Việt
Nam là kính Low-E.
Kính Low-E là loại kính được phủ lên bề mặt một loại hợp chất đặc biệt
giúp kính có tính năng phát xạ nhiệt chậm, làm giảm sự phát tán, hấp thụ
nhiệt lượng chậm và làm chậm quá trình truyền tải nhiệt nhưng vẫn đảm bảo
độ sáng trong căn phòng. Điều này khẳng định tính năng ưu việt của sản
13


phẩm, giúp cho căn phòng bạn ấm áp vào mùa đông và mát mẻ vào mùa hè,
tiết kiệm tối đa chi phí cho công viêc giữ nhiệt trong phòng mà vẫn giữ được
độ sáng và nét thẩm mỹ tối đa.
Công dụng của kính Low-E: Ngăn chặn và làm giảm sự truyền nhiệt từ
ngoài vào trong hay từ trong ra ngoài, giúp cho công trình luôn ổn định mức
độ nhiệt theo yêu cầu.
1.2.3.3. Các loại gạch không nung:
Các sản phẩm gạch khung nung hiện nay gồm một số loại sau:
a. Gạch block không nung:
Gạch block không nung là loại gạch xây sau khi được tạo hình thì tự
đóng rắn đạt các chỉ số về cơ học: Cường độ nén, uốn, độ hút nước ... mà
không cần qua nhiệt độ.
Công nghệ sản xuất gạch block chủ yếu là công nghệ nước ngoài,
chính vì vậy đầu tư cho quy trình sản xuất tương đối cao dẫn đến giá thành
sản phẩm cao.
Tuy nhiên hiện nay, Công ty Cổ phần Công nghệ & Thương mại Huệ
Quang, tiền thân là Trung tâm Ứng dụng Khoa học & Chuyển giao Công nghệ
Mới thuộc Viện Nghiên cứu Hỗ trợ Phát triển nông thôn, vừa cho ra đời công
nghệ sản xuất gạch không nung từ đất và phế thải, sau năm năm nghiên cứu

[19]:
+ Đất để sản xuất gạch chỉ chiếm 30 – 50% nguyên liệu. Có thể sử
dụng đa dạng các loại đất từ miền núi, đồng bằng, duyên hải, đất đá sỏi không
canh tác nông nghiệp được… và nguồn phế thải xây dựng, phế thải công
nghiệp.
+ Trọng lượng mỗi viên gạch khoảng 2,3kg, nếu đục lỗ thì chỉ còn 1,8
kg so với gạch nung thông thường 2,5kg. Qua thẩm định tại Viện Khoa học
Công nghệ & Giao thông vận tải, Viện Vật liệu Xây dựng, kết quả đạt tiêu
chuẩn quy định về cường độ chịu lực, chịu nén tốt, có thể chịu nhiệt tới 950
độ C.
+ Giá thành mỗi viên gạch này ước tính thấp hơn hoặc ngang bằng
gạch nung bình thường do dây chuyền sản xuất, công nghệ đã được nội địa
hóa tối đa.
b. Gạch bê tông bọt: Thành phần bao gồm Xi măng, tro nhiệt điện, sợi
tổng hợp (có thể có), chất tạo bọt, phụ gia. Đặc tính: Là sản phẩm có tỉ trọng
D từ 600-900 kg/m3 (D600-D900) (Bằng ½ so với gạch thừơng), nhẹ hơn
nước vì vậy có thể nổi trên nước. Kích thước tiêu chuẩn: 100x200x400 mm
(có thể thay đổi tùy theo yêu cầu của khách hàng) = 8 viên gạch đất nung kích
thứơc 50x100x200 mm. Trọng lượng 6,4 kg/viên D800.
c. Gạch bê-tông khí chưng áp:
14


Nguyên liệu chính của gạch BTKCA là xi-măng, vôi, cát vàng, nước và
phụ gia tạo khí. Sau khi được lựa chọn kỹ và thuần nhất về chất lượng hỗn
hợp nguyên liệu này sẽ được nghiền mịn, phối trộn chính xác bằng thiết bị
định lượng và được tạo hình trong khuôn thép. Trong quá trình đông kết xảy
ra phản ứng hóa học tạo bọt khí giúp sản phẩm trương nở. Sản phẩm được cắt
chính xác nhờ thiết bị cắt tự động và được chưng hấp dưới áp suất và nhiệt độ
cao. Nhờ đó, sản phẩm đạt cường độ đáp ứng yêu cầu kỹ thuật [18].

Gạch BTKCA có nhiều ưu điểm vượt trội hơn so với gạch đất sét nung
truyền thống. Với tỷ trọng siêu nhẹ từ 400 đến 1.000 kg/m3, bằng một phần
ba so với gạch đặc và bằng hai phần ba so với gạch rỗng đất sét nung, gạch
bê-tông khí cho phép tiết kiệm chi phí kết cấu của công trình từ 10 đến 12%,
giảm 10 đến 15% chi phí xây thô.
Ðồng thời, tốc độ thi công cũng tăng gấp hơn hai lần so với gạch thông
thường. Gạch BTKCA Viglacera có cấu trúc thông thoáng với hàng triệu túi
khí li ti có khả năng bảo ôn cách nhiệt cao. So với gạch xây thông thường,
khả năng cách âm của gạch bê-tông khí gấp hai lần, đạt tiêu chuẩn chống cháy
cấp I theo tiêu chuẩn quốc gia. Với kết cấu thể xốp, gạch còn có khả năng hấp
thụ xung lực rất tốt. Các công trình sử dụng gạch BTKCA có khả năng chịu
động đất tốt hơn hẳn so với gạch xây thông thường. Bên cạnh những tính
năng nổi trội, gạch BTKCA còn là vật liệu thân thiện với môi trường, không
phát sinh khí thải, nước thải cũng như chất thải rắn trong quá trình sản xuất.
So với các cơ sở sản xuất VLXDKN như xi măng cốt liệu, thì công
nghệ và thiết bị đầu tư bê tông khí chưng áp (AAC) tốn kém hơn rất nhiều
lần. Theo tính toán của nhiều DN, để xây dựng được nhà máy sản xuất AAC
phải mất ít nhất 100 tỷ đồng, nếu nhiều thì phải đầu tư từ 200 - 300 tỷ đồng.
Tuy nhiên, hiện nay đang tồn tại một tình trạng các nhà máy chỉ sản xuất chưa
đến 1/10 công suất, mặc dù gạch này đã được phổ biến đến toàn dân.
d. Bảng so sánh giữa các sản phẩm gạch:

Đơn vị sản xuất
Tên loại sản
phẩm
Giá thành sản
phẩm (đ/ 1m2)

Gạch bêtông
khí chưng áp

Viglacera AAC
(100x200x600)
143.200

Gạch block
không nung
Nhà máy gạch Bê
tông DCB-VNECO
6
R.90C-DCB
(90X130X190)
61.770

Gạch đỏ nung
Gạch Tuynen
Đại Hiệp
4LV R4V3
(195/90/90)
59.337

Ghi chú: Giá của gạch block không nung và gạch đỏ tham khảo theo
Thông báo giá vật liệu tháng 01 năm 2012 số 354/SXD-QLXD ngày 10 tháng
02 năm 2012 áp dụng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng; giá của Gạch bêtông
khí chưng áp tham khảo tại trang web .
15


1.2.3.4. Ngói đúc ép - không nung:
Ngói đúc ép không nung được sản xuất từ ximăng, silicate, bột màu và
phụ gia chống thấm. Sau đó được ép định hình và phơi khô.

Có hai dạng, công nghệ hiện đại và tốt nhất hiện nay là ngói phủ màu
bằng công nghệ ướt.
+ Công nghệ ướt sử dụng bột màu hoà lẫn với ximăng để thành vữa
màu rồi phun trực tiếp lên bề mặt viên ngói đang còn ướt ngay sau khi ngói đã
được định dạng.
+ Công nghệ khô là sơn màu và chống thấm cho ngói sau khi viên ngói
đã khô.
So với ngói đất sét nung truyền thống thì ngói đúc ép - không nung
góp phần bảo vệ môi trường sống.
Bảng so sánh giữa sản phẩm Ngói đúc ép – không nung và ngói đỏ
nung:
Ngói đúc ép – không
nung

Ngói đỏ nung

Chi nhánh Công ty
TNHH MTV Thương
mại Đồng Tâm tại Đà
Nẵng

Công ty Cổ phần

Tên loại sản phẩm

Ngói lợp chính xương
màu loại AA

Ngói lợp C22L1


Giá thành sản phẩm

149.000

132.000

Đơn vị sản xuất

Đại Hưng

(đ/ 1m2)
Ghi chú: Giá ngói đúc ép - không nung và ngói gạch đỏ tham khảo
theo Thông báo giá vật liệu tháng 01 năm 2012 số 354/SXD-QLXD ngày 10
tháng 02 năm 2012 áp dụng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

16


CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ TIẾT KIỆM NĂNG
LƯỢNG, KIẾN TRÚC XANH VÀ VẬT LIỆU THÂN THIỆN MÔI
TRƯỜNG TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
2.1 Thực trạng ứng dụng công nghệ tiết kiệm năng lượng, Kiến
trúc xanh, và vật liệu thân thiện môi trường tại Thành phố Đà Nẵng
2.1.1 Thực trạng ứng dụng Kiến trúc xanh và hệ thống đánh giá
Kiến trúc xanh của các nước trên thế giới, Việt Nam và TP. Đà Nẵng
Qua tìm hiểu về tình hình phát triển của Kiến trúc xanh và hệ thống
đánh giá kiến trúc xanh ở trên, có thể rút ra một số nhận xét sau:
Các nước đã quan tâm nghiên cứu về Kiến trúc xanh trước chúng ta vài
thập kỷ và đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ về lý luận và có các

công trình Kiến trúc xanh ứng dụng vào thực tế [8]:
+ Tại Trung Quốc: Thành phố Dongtan, đây là thành phố sinh thái đầu
tiên trên thế giới với việc ứng dụng Không gian công cộng xanh, Kiến trúc
CTX và CNTKNL
+ Tại Hàn Quốc: Thành phố Songdo dành 40% cho các không gian
xanh, khuyến khích người dân đi bộ và đi xe đạp.
+ Tại Mỹ: Năm 2000 có 1.500 tòa nhà và năm 2006 có 5.000 công
trình được cấp chứng chỉ CTX.
+ Tại Canada: Năm 2007 có hơn 60 công trình được chứng nhận CTX,
trong đó Trung tâm Operations khoảng 1.000m2 được chứng chỉ Bạch kim đầu
tiên đã sử dụng hệ thống sưởi địa nhiệt và các tấm quang điện cung cấp 20%
nhu cầu năng lượng hàng năm.
+ Tại Ấn Độ: Năm 2004 có Trung tâm thương mại sinh thái CIISohrabji Godrej ở Hyderabad được cấp chứng chỉ Bạch kim đầu tiên theo hệ
thống LEED của Mỹ. Họ đã phấn đấu để đến năm 2008 có 100 công trình
(diện tích trung bình mỗi công trình 10.000m2) được cấp chứng chỉ CTX của
Ấn Độ.
+ Tại Tây Ban Nha: Năm 2003 khu thương mại Alvenco ở Madrid diện
tích gần 35.000 m2 là công trình đầu tiên ở châu Âu nhận chứng chỉ Bạc của
LEED, hệ thống năng lượng tiết kiệm được 31% và hệ thống nước tiết kiệm
44%.
+ Tại Đài Loan: Sau 7 năm thực hiện CTX (2000-2007) đã tiết kiệm
được 432triệu kwh điện, giảm được 285.000 tấn CO2, tương đương hấp thụ
950 ha rừng, giảm 18,3m3 nước sạch.
+ Tại Malasyia và Singapore nhiều công trình đã giảm được từ 30%
đến 80% năng lượng sử dụng.
17


Số lượng các tài liệu về KTX lưu hành tại Việt Nam nói chung và Đà
Nẵng nói riêng chưa nhiều và chưa được phổ cập rộng rãi. Một điều cần nhấn

mạnh là đa phần các tài liệu có xuất xứ từ Châu Âu hay Bắc Mỹ, nơi người ta
chủ yếu chống lạnh, trong khi tại Việt Nam, vấn đề chống nóng và thoát ẩm
phải đặt lên hàng đầu (Thực tế, đây là hai nhiệm vụ khá mâu thuẫn gây khó
khăn cho người thiết kế tại Việt Nam). Kiến trúc xanh không có một quy tắc
chung mà vấn đề bối cảnh địa phương phải đặt lên hàng đầu, từ đó mới xem
xét giải pháp nào là phù hợp, tức là cách ứng dụng nguyên lý thiết kế ở đâu,
như thế nào… mới là kết quả cuối cùng cho một mô hình kiến trúc xanh.
Hệ thống đánh giá CTX của các nước đã gần như hoàn thiện phù hợp
với điều kiện tự nhiên của họ và được áp dụng rộng rãi trong xã hội. Các hệ
thống đánh giá này được các cơ quan quan trọng của Chính phủ công nhận về
mặt pháp lý.
Việc phát triển KTX được chính quyền các nước quan tâm về chính
sách khuyến khích và có các chương trình hành động quốc gia về phát triển
Kiến trúc Xanh:
+ Tại Mỹ, bang Oregon cho mỗi công trình có diện tích 10.000m 2 nhận
chứng chỉ Bạch Kim được vay 2USD/foot2
+ Bộ luật Nevada của Mỹ năm 2005 giảm thuế tới 50% trong 10 năm
đối với công trình đạt chứng chỉ Bạc.
+ Tại Đài Loan, năm 2002 Kiến trúc xanh trở thành Chính sách quốc
gia và được xếp như là phần quan trọng của Thách thức 2008- Chương trình
trọng đại phát triển quốc gia.
Các CTX được xếp hạng, đánh giá và được coi như là thương hiệu để
cạnh tranh với các công trình cùng loại khác, các giấy chứng nhận này được
các cơ quan có thẩm quyền cấp nên có giá trị pháp lý cao. Cùng với đó là các
giải thưởng của các tổ chức nhằm khuyến khích việc đầu tư phát triển Kiến
trúc xanh [7,8,9,10]:
+ Hệ thống đánh giá CTX của Mỹ chia làm 4 mức độ để cấp chứng chỉ
là: Chứng chỉ CTX cơ bản, Bạc, Vàng, Kim cương. Ở Đức là đồng, bạc và
vàng.
+ Tổ chức Kresge của US GBC tháng 2 năm 2006 đã trao 64 giải

thưởng với số tiền $4.146.000. Cùng với đó là 42 tổ chức phi lợi nhuận khác
đã trao tổng số tiền thưởng là $7.200.000.
Ngoài chính sách khuyến khích, chính quyền các nước còn áp dụng các
chính sách bắt buộc [8]:
+ Thành phố Seattle lần đầu tiên ở Mỹ ban hành chỉ thị yêu cầu các
công trình công cộng diện tích trên 500m2 phải đạt chứng chỉ Bạc CTX.
+ Thành phố Vancouver, Canada từ năm 2004 đã có chính sách yêu cầu
các tòa nhà công cộng mới phải đạt chứng chỉ Vàng.
18


Hoạt động kiểm toán năng lượng trong các tòa nhà rất phát triển và
được ứng dụng rộng rãi vì vậy có cơ sở vững chắc để đánh giá mức tiêu thu
năng lượng của các công trình xây dựng, và cũng là cơ sở để đánh giá CTX.
Ở nước ta việc tiết kiệm năng lượng trong các tòa nhà phát triển và
được quan tâm nhiều nhất tại thành phố Hồ Chí Minh [16]:
+ Trung tâm tiết kiệm năng lượng TPHCM đã tổ chức thường niên
cuộc thi “Tòa nhà hiệu quả năng lượng” nhằm mục đích kêu gọi ý thức tiết
kiệm điện để tìm ra mô hình tòa nhà tiết kiệm năng lượng hiệu quả và nhân
rộng mô hình. Các tòa nhà đoạt giải tại cuộc thi này sẽ được tôn vinh, các
doanh nghiệp cũng qua đó được nâng cao uy tín của mình – cách tốt nhất để
thu hút khách hàng [24].
+ Một số công trình tiết kiệm năng lượng tiêu biểu tại thành phố Hồ
Chí Minh: Tòa nhà Green Power có đề tài khoa học từ khâu thiết kế để tòa
nhà vận hành một cách tiết kiệm nhất về năng lượng, nên khi đưa vào hoạt
động, tòa nhà này được các chuyên gia tiết kiệm năng lượng đánh giá là tòa
nhà tiết kiệm năng lượng với mức tiết kiệm có thể vượt trên 30%. Ngoài ra,
nhiều tòa nhà khác tại thành phố như khách sạn Majestic, Continental, Grand,
Palace, Kim Đô, Oscar, Metropole, siêu thị Big C... cũng lần lượt áp dụng
biện pháp tiết kiệm năng lượng như sử dụng bình nước nóng năng lượng mặt

trời, lắp đặt biến tần cho các động cơ bơm hay tận dụng ánh sáng tự nhiên…
và đã tiết kiệm 15% – 40% điện năng tiêu thụ mỗi năm.
Tại thành phố Đà Nẵng việc các chủ đầu tư ứng dụng KTX đối với
công trình của mình, hay CNTKNL còn mang tính tự phát, chưa có định
hướng của các cơ quan chức năng nên chưa có tính khuyến khích và tuyên
dương của chính quyền với các công trình tiên phong này. Hiện nay, Trung
tâm tiết kiệm năng lượng thuộc Sở Khoa học công nghệ là đơn vị đang tiến
hành công việc tuyên truyền, nghiên cứu, chuyển giao CNTKNL vào cuộc
sống.
2.1.2 Thực trạng ứng dụng Công nghệ tiết kiệm năng lượng và vật
liệu thân thiện môi trường đối với các công trình xây dựng trên thế giới, ở
Việt Nam và thành phố Đà Nẵng.
Qua phân tích có thể nhận thấy rằng lợi ích to lớn và lâu dài về kinh tế
và môi trường sinh thái mà công nghệ, thiết bị tiết kiệm năng lượng và
VLTTMT mang lại cho chất lượng cuộc sống của con người và xã hội. Tuy
nhiên do nhiều nguyên nhân khách quan cũng như chủ quan mà ở nước ta và
tại thành phố Đà Nẵng hiện nay việc ứng dụng các công nghệ này vẫn còn
nhiệu hạn chế. Do vậy, cần nhìn nhận và đánh giá từng vấn đề một cách cụ
thể để thấy rõ được nguyên nhân hạn chế và từ đó tìm ra được biện pháp đẩy
mạnh việc ứng dụng công nghệ, thiết bị tiết kiệm năng lượng và VLTTMT
trong cả nước nói chung và tại thành phố Đà Nẵng nói riêng.

19


2.1.2.1 Công nghệ tiết kiệm năng lượng sử dụng trong công trình xây
dựng:
Xét về sản lượng công suất điện sản xuất được từ năng lượng sạch thì
nước ta vẫn nằm trong nhóm nước kém phát triển so với các nước khác trên
thế giới.

Công nghệ năng lượng sạch chưa được áp dụng trực tiếp vào công
trình xây dựng nên chưa có những ví dụ điển hình cho công tác quảng bá và
giới thiệu.
Lợi ích kinh tế lâu dài là thấy rõ, tuy nhiên chi phí đầu tư ban đầu cao
và thiếu đơn vị tư vấn chuyên nghiệp là rào cản cho việc triển khai thực tế các
dự án năng lượng sạch và tiết kiệm vào công trình xây dựng.
a. Năng lượng mặt trời
Các nhà máy CSP thương mại được phát triển đầu tiên vào những năm
1980, và lắp đặt CSP SEGS 354 MW là nhà máy điện mặt trời lớn nhất trên
thế giới và nằm ở sa mạc Mojave của California. Các nhà máy CSP lớn khác
bao gồm Nhà máy điện mặt trời Solnova (150 MW) và Nhà máy điện mặt trời
Andasol (100 MW), cả hai ở Tây Ban Nha. Nhà máy quang điện Sarnia
Canada với công suất 197MW là nhà máy quang điện lớn nhất thế giới [26].
Tại Việt Nam một số dự án phát điện từ năng lượng mặt trời đã đưa vào
hoạt động [16]:
+ Dự án phát điện cung cấp điện cho quần đảo Trường Sa.
+ Từ những năm 1990, Phân viện Vật lý TP Hồ Chí Minh đã triển khai
các sản phẩm từ điện mặt trời. Tại một số huyện như: Bình Chánh, Cần Giờ,
Củ Chi, điện mặt trời được sử dụng khá nhiều trong một số nhà văn hoá, bệnh
viện… Đặc biệt, công trình điện mặt trời trên đảo Thiềng Liềng, xã Cán Gáo,
huyện Cần Giờ cung cấp điện cho 50% số hộ dân sống trên đảo.
+ Năm 1995, hơn 180 nhà dân và một số công trình công cộng tại buôn
Chăm, xã Eahsol, huyện Eahleo tỉnh Đắk Lắk đã sử dụng điện mặt trời. Gần
đây, dự án phát điện ghép giữa pin mặt trời và thuỷ điện nhỏ, công suất 125
kW được lắp đặt tại xã Trang, huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai, và dự án phát
điện lai ghép giữa pin mặt trời và động cơ gió với công suất 9 kW đặt tại làng
Kongu 2, huyện Đăk Hà, tỉnh Kon Tum, do Viện Năng lượng (EVN) thực
hiện, góp phần cung cấp điện cho khu vực đồng bào dân tộc thiểu số.
+ Từ thành công của Dự án này, Viện Năng lượng (EVN) và Trung tâm
Năng lượng mới (Trường Đại học Bách khoa Hà Nội) tiếp tục triển khai ứng

dụng giàn pin mặt trời nhằm cung cấp điện cho một số hộ gia đình và các
trạm biên phòng ở đảo Cô Tô (Quảng Ninh), đồng thời thực hiện Dự án “Ứng
dụng thí điểm điện mặt trời cho vùng sâu, vùng xa” tại xã Ái Quốc, tỉnh Lạng
Sơn. Dự án được hoàn thành vào tháng 11/2002.
20


Ngoài ra, nhà máy sản xuất tấm pin mặt trời đầu tiên tại Việt Nam đã
khánh thành tại cụm công nghiệp Đức Hoà Hạ, ấp Bình Tiền, xã Đức Hoà Hạ,
huyện Đức Hoà, tỉnh Long An [16].
+ Giai đoạn 1 sản xuất 5MWp/năm, giai đoạn 2 đầu tư nhà máy sản
xuất cell và nâng sản lượng lên 25MWp/năm.
+ Với sản lượng 5MWp/năm hiện nay của nhà máy sản xuất tấm pin
mặt trời, nếu được đưa hết ra thị trường, sẽ cung cấp khoảng 4 triệu KWh
điện hàng năm. Nếu so với con số 67 tỉ KWh điện hiện nay cả nước đang sử
dụng, thì điện mặt trời mới chỉ chiếm khoảng 60 phần triệu. So với mục tiêu
2% sử dụng năng lượng tái tạo trong một dự án sử dụng năng lượng tiết kiệm
của thành phố quả là khoảng cách xa vời.
Tại thành phố Đà Nẵng chúng ta hiện chưa có công trình năng lượng
mặt tròi nào để tạo năng lượng phục vụ cho sinh hoạt và trong các tòa nhà.
b. Năng lượng gió
Năng lượng gió đã được sử dụng từ hằng trăm năm nay. Con người đã
dùng năng lượng gió để di chuyển thuyền buồm hay khinh khí cầu, ngoài ra
năng lượng gió còn được sử dụng để tạo công cơ học nhờ vào các cối xay gió.
Hiện nay, một ứng dụng quan trọng của năng lượng gió là dùng để sản xuất
điện.
Trong số 20 thị trường lớn nhất trên thế giới, chỉ riêng châu Âu đã có
13 nước với Đức là nước dẫn đầu về công suất của các nhà máy dùng năng
lượng gió với khoảng cách xa so với các nước còn lại. Tại Đức, Đan Mạch và
Tây Ban Nha việc phát triển năng lượng gió liên tục trong nhiều năm qua

được nâng đỡ bằng quyết tâm chính trị. Nhờ vào đó mà một ngành công
nghiệp mới đã phát triển tại 3 quốc gia này. Công nghệ Đức (bên cạnh các
phát triển mới từ Đan Mạch và Tây Ban Nha) đã được sử dụng trên thị trường
nhiều hơn trong những năm vừa qua [26].
Năm 2007 thế giới đã xây mới được khoảng 20.073 MW điện, trong đó
Mỹ với 5.244 MW, Tây Ban Nha 3.522MW, Trung Quốc 3.449 MW, 1.730
MW ở Ấn Độ và 1.667 ở Đức, nâng công suất định mức của các nhà máy sản
xuất điện từ gió lên 94.112 MW. Công suất này có thể thay đổi dựa trên sức
gió qua các năm, các nước, các vùng [26].
Bảng thống kê công suất năng lượng gió của các quốc gia
trên thế giới năm 2007
Số TT
Quốc gia
Công suất (MW)
01
Đức
22.247
02
Mỹ
16.818
03
Tây Ban Nha
15.145
04
Ấn Độ
8.000
05
Trung Quốc
6.050
06

Đan Mạch
3.125
21


07
08
09
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21

Ý
Pháp
Anh
Bồ Đầu Nha
Ca na da
Hà Lan
Nhật
Áo
Hy Lạp

Úc
Ai len
Thụy Điển
Nauy
New Zealand
Các nước khác
Tổng

2.726
2.454
2.389
2.150
1.846
1.746
1.538
982
871
824
805
788
333
322
2.953
94.112

Tại Việt Nam có nguồn tài nguyên gió dồi dào, tuy nhiên sản lượng
điện được sản xuất từ gió còn hạn chế tương xứng với tiềm năng hiện có. Có
vài dự án phong điện đã đưa vào hoạt động [16]:
Các thiết bị lắp dựng thu năng lượng gió đều phải nhập khẩu từ nước
ngoài. Do vậy không chủ động trong khâu cung cấp và giá thành đầu tư ban

đầu tăng cao.
Một số nơi trong nước, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng hải đảo nơi mà
mạng lưới điện quốc gia chưa đến được. Nhà nước khuyến khích áp dụng
CNTKNL như năng lượng gió, năng lượng mặt trời để phát điện.
+ Dự án phong điện cung cấp điện cho quần đảo Trường Sa.
+ Dự án phong điện tại Bình Thạnh, huyện Tuy Phong Bình Thuận.
Đây là dự án phong điện có quy mô lớn đầu tiên tại Việt Nam, do Công ty cổ
phần năng lượng tái tạo Việt Nam (REVN) làm chủ đầu tư. Dự án nhà máy
phong điện của REVN có tổng công suất là 120 MW với 80 tuabin đã hoàn
thành vào năm 2011.
+ Một số dự án đang triển khai xây dựng tại tỉnh Lâm Đồng và tại Côn
Đảo, Bà Rịa-Vũng Tàu.
Còn lại, tại các thành phố lớn nơi có lưới điện quốc gia thì việc ứng
dụng CNTKNL chưa được quan tâm đúng mức do chi phí đầu tư ban đầu còn
quá cao.
Tại thành phố Đà Nẵng chúng ta hiện chưa có công trình phong điện
nào để tạo năng lượng phục vụ cho sinh hoạt và trong các tòa nhà.
c. Năng lượng địa nhiệt
22


Năng lượng địa nhiệt đã được sử dụng để nung và tắm kể từ thời La Mã
cổ đại, nhưng ngày nay nó được dùng để phát điện. Có khoảng 10 GW công
suất điện địa nhiệt được lắp đặt trên thế giới đến năm 2007, cung cấp 0.3%
nhu cầu điện toàn cầu. Thêm vào đó, 28 GW công suất nhiệt địa nhiệt trực
tiếp được lắp đặt phục vụ cho sưởi, spa, các quá trình công nghiệp, lọc nước
biển và nông nghiệp ở một số khu vực [26].
Một tổ hợp các nhà máy điện địa nhiệt lớn nhất trên thế giới đặt ở
Greyser, một cách đồng địa nhiệt ở California, Hoa Kỳ. Năm 2004, năm quốc
gia (El Salvador, Kenya, Philippines, Iceland, và Costa Rica) sản xuất hơn

15% lượng điện của họ từ các nguồn địa nhiệt.
Ở Việt Nam và Đà Nẵng hiện nay năng lượng địa nhiệt vẫn chưa được
các nhà chuyên môn quan tâm nghiên cứu, cũng như ứng dụng trong thực tiễn
và gần như xa lạ với hầu hết đại bộ phận nhân dân.
2.1.2.2 Thiết bị tiết kiệm năng lượng phục vụ cho công trình:
Các thiết bị tiết kiệm năng lượng thực sự mang lại lợi ích to lớn cho
nền kinh tế quốc dân và cho môi trường sống. Nếu tính đến việc sử dụng lâu
dài thì thiết bị tiết kiệm năng lượng quả là bài toán tiết kiệm kinh tế của mỗi
doanh nghiệp và hộ gia đình Việt Nam.
Tuy nhiên giá thành đầu tư ban đầu cho các thiết bị tiết kiệm năng
lượng so với các thiết bị có công năng cùng loại không tiết kiệm năng lượng
còn quá cao, điều này chính là rào cản thực sự cho việc phổ biến rộng rãi các
sản phẩm này vào đời sống xã hội.
Tại Việt Nam và Đà Nẵng hiện nay việc sử dụng các thiết bị tiết kiệm
năng lượng đang được áp dụng manh mún và chưa có sự đồng bộ trong các
công trình xây dựng.
2.1.2.3 Vật liệu thân thiện với môi trường:
Số lượng các công trình xây dựng sử dụng VLTTMT (ở đây chỉ tính
đến gạch không nung) còn quá ít.
Sản lượng của VLTTMT và VLXKN so với vật liệu thông thường còn
quá ít, chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường.
Sự thông tin, quảng bá cho VLTTMT chưa được chú trọng, quan tâm.
Qua phân tích có thể thấy, hiện nay phát triển VLTTMT (nhất là vật
liệu không nung) đang là xu thế của ngành sản xuất vật liệu xây dựng của
nước ta. Tuy nhiên, sản phẩm VLTTMT thực sự chưa được phổ biến rộng rãi
trong xã hội. Tác dụng và công năng của nó cũng chưa được người dân hiểu
một các thấu đáo và toàn diện.
Công nghệ sản xuất VLXKN phải nhập khẩu hoặc chưa được nội địa
hóa hoàn toàn nên giá thành đầu tư cho sản xuất cao, vì vậy các nhà đầu tư
thường cân nhắc kỹ trước khi đầu tư các dự án này.

23


Về gạch block không nung có nguồn nguyên liệu với nguồn đá mạt, xỉ
lò, tro bay,… dồi dào, nhưng mẫu mã sản phẩm đơn điệu, vừa to vừa nặng,
giá thành cao nên khó tiêu thụ.
Theo Tổng Hội Xây dựng Việt Nam, nước ta hiện nay tiêu thụ 20 – 22
tỷ viên gạch một năm, đến năm 2020, lượng gạch cần cho xây dựng ước tính
gấp đôi, 40 tỷ viên. Để đạt được lượng gạch này, cần một lượng đất khoảng
600 triệu m3, tương đương 30.000 ha đất canh tác. Hay nói một cách hình
tượng là mỗi năm phải nướng diện tích một xã vào lò gạch. Gạch nung còn
tiêu tốn nhiều năng lượng than, củi. Những lò gạch thải vào bầu khí quyển
một lượng khí độc lớn.Trong bối cảnh đó, việc sử dụng gạch không nung là
xu thế tất yếu của thế giới. Việt Nam cũng đã có gạch không nung, nhưng tỷ
lệ sử dụng rất thấp, chỉ chiếm 4 – 5% sản lượng gạch toàn quốc [23].
Công suất phổ biến của gạch không nung trước đây chỉ ở mức dưới 5
triệu viên quy tiêu chuẩn/năm. Vào đầu năm 2010 một số doanh nghiệp đã
đầu tư nghiên cứu công nghệ, thiết bị để sản xuất ra dây chuyền sản xuất gạch
Block với công suất lớn hơn, lên tới 10 - 15 - 20 - 30 triệu viên sản phẩm quy
tiêu chuẩn/năm; có phần tự đông hoá và cơ giới hoá ở mức độ cao, được
nhiều nhà đầu tư hưởng ứng, điều này những năm trước đây chưa có. Theo số
liệu thống kê chưa đầy đủ hiện nay trên toàn quốc các dây chuyền sản xuất
gạch Block có công suất sản xuất khoảng gần 2 tỷ viên quy tiêu chuẩn/năm
[23].
Ở nước ta một số tòa nhà hiện nay dùng gạch block không nung như
[23]: Tại Hà Nội Tòa nhà Keangnam cao 70 tầng, Toà nhà Hapico 288 Phạm
Văn Đồng, toà nhà Hà Nội - Plaza đường Trần Duy Hưng....Tại Đà Nẵng
hiện chưa có dự án nào sử dụng VLXKN vào công trình xây dựng.
Về gạch bê tông khí chưng áp: Hiện nay trên toàn quốc đã có gần 30
doanh nghiệp lập dự án đầu tư, trong đó có 05 dự án đã đi vào sản xuất ra sản

phẩm với công suất 650.000 m3/năm và hơn 10 dự án đang trong giai đoạn
chuẩn bị đầu tư và lắp đặt thiết bị. Các dây chuyền được đầu tư có công suất
từ 100.000 - 200.000 m3/năm, với tổng công suất khoảng gần 4 triệu m 3/năm ;
với công nghệ, thiết bị nhập từ Trung Quốc và một phần sản xuất trong nước
[23].
Các công trình sử dụng gạch bê tông khí chưng áp [23]:
+ Tại Hà Nội: Toà cao ốc Inđôchine - Plaza, toà cao ốc Tổ hợp văn
phòng chung cư tại số 671 đường Hoàng Hoa Thám của Tổng Công ty
Viglacera; toà nhà Trung tâm thương mại và căn hộ cao cấp trên đường Lê
Văn Lương, do Tổng Công ty Licogi 13 làm chủ đầu tư….
+Tại thành phố Hồ Chí Minh: Toà nhà Bitexco 67 tầng tại quận 1; cao
ốc Richland Emeral 116, Bãi Sậy, phường 1, quận 6; Trung tâm thương mại
Vincom 72 Lê Thánh Tôn, quận 1, …….
+Tại Đà Nẵng: hầu như chưa công trình nào sử dụng loại gạch này.
24


Về gạch bê tông bọt: Đến thời điểm này đã có 13 cơ sở đầu tư sản xuất
gạch bê tông bọt với công suất từ 4.000 – 15.000 m3/năm với tổng công suất
là 220.000 m3/năm (công suất tính theo 1 ca sản xuất). Hiện nay có khoảng
gần 10 doanh nghiệp đang lập dự án đầu tư với công suất khoảng 120.000
m3/năm, đặc biệt có doanh nghiệp đang đầu tư dây chuyền sản xuất bê tông
bọt với công suất 70.000 m3/năm với công nghệ và thiết bị của Liên Bang
Nga [23]. Tuy nhiên tỷ lệ sử dụng loại gạch này vẫn chưa cao.
Kính tiết kiệm năng lượng phải nhập khẩu hoàn toàn nên giá thành cao.
Theo lãnh đạo của Công ty Cổ phần Đầu tư sản xuất và thương mại Hồng
Phúc có trụ sở tại 128 Khuất Duy Tiến, quận Thanh Xuân, Hà Nội, đơn vị
nhập khẩu và gia công lắp đặt kính Low-E thì 1m 2 kính Low-E có giá biến
động từ 300-400USD cao hơn từ 6-7 lần so với kính cường lực thông thường.
Hiện nay, kính Low-E chưa sản xuất ở Việt Nam và được nhập khẩu hoàn

toàn, khả năng tiếp cận loại kính này tại thị trường Đà Nẵng là tương đối khó
khăn do thông tin vể sản phẩm còn hạn chế và gần như những người hoạt
động trong lĩnh vực xây dựng cũng chưa quan tâm nhiều đến sản phẩm này.
2.2 Tổng hợp, đánh giá hệ thống văn bản pháp luật quy định về
việc ứng dụng công nghệ tiết kiệm năng lượng, kiến trúc xanh, và vật liệu
thân thiện môi trường của Việt Nam và Thành phố Đà Nẵng.
2.2.1 Hệ thống hóa các văn bản pháp luật (Nghị định, Thông tư,
Tiêu chuẩn…) liên quan việc ứng dụng CNTKNL, KTX, VLTTMT đối với
công trình xây dựng.
2.2.1.1. Thống kê các văn bản đã được ban hành theo thứ tự thời gian
có quy định có liên quan đến việc tiết kiệm năng lượng và tiết kiệm năng
lượng trong các công trình xây dựng
a. Do Quốc Hội ban hành
Luật số 50/2010/QH12, Luật sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu
quả của Quốc Hội thông qua ngày 17 tháng 6 năm 2010 và có hiệu lực từ
ngày 01 tháng 01 năm 2011.
b. Do Chính phủ ban hành
- Nghị định 102/2003/NĐ-CP về việc "Sử dụng năng lượng tiết kiệm
và hiệu quả" của Chính phủ ban hành ngày 3 tháng 9 năm 2003.
- Quyết định số 79/2006/QĐ-TTg, Quyết định phê duyệt chương trình
mục tiêu quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả của Thủ tướng
Chính phủ ban hành ngày 14 tháng 4 năm 2006.
- Nghị định 21/2011/NĐ-CP "Quy định chi tiết và biện pháp thi hành
Luật sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả" của Chính phủ ban hành ngày
29 tháng 3 năm 2011.

25



×