Tải bản đầy đủ (.docx) (62 trang)

Việc thực hiện chính sách cho trẻ khuyết tật tại trường phổ thông chuyên biệt Nguyễn Đình Chiểu Đà Nẵng.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (250.9 KB, 62 trang )

LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian vừa qua với yêu cầu của môn “Phương pháp nghiên cứu
khoa học trong Công tác xã hội” nhóm em gồm Phan Thanh Tùng, Trần Văn
Mạnh, Alang An , Huỳnh Thị Hiếu đã tiến hành nghiên cứu về việc thực hiện
chính sách dành cho trẻ khiếm thị tại trường PTCB Nguyễn Đình Chiểu tại
thành phố Đà Nẵng . Thời gian kéo dài sáu tuần, từ ngày 14/10/2016 đến
26/11/2016. Tất nhiên, không ai có thể tồn tại mà chỉ có một mình, càng không
ai có thể làm tốt, làm thành công một việc gì đó mà không cần tới bất cứ sự giúp
đỡ của ai, nhất là lại đầu tiên nữa.Bản thân em cũng không ngoại lệ trong quá
trình nghiên cứu, khảo sát. Bên cạnh sự nỗ lực, cố gắng của bản thân và các
thành viên trong nhóm, em đã nhận được sự giúp đỡ, động viên của gia đình,
bạn bè và thầy cô.
Để hoàn thành bài nghiên cứu này, trước hết em xin gởi lời cảm ơn chân
thành đến các cán bộ, các Thầy cô giáo, và các em học sinh khiếm thị ở Trường.
Đồng thời, em cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến cô Nguyễn Hằng
Phương – giảng viên môn ” Phương pháp nghiên cứu khoa học trong Công tác
xã hội” đã ủng hộ, động viên, tháo gỡ những thắc mắc, giúp đỡ cũng như tạo
những điều kiện tốt nhất để em hoàn thành tốt bài báo cáo này.
Vì thời gian và kinh nghiệm còn hạn chế nên trong quá trình tiến hành
nghiên cứu không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được những
được những ý kiến đóng góp của thầy cô.


A.
1.

Phần mở đầu:

Lý do chọn đề tài:

Trẻ em là hạnh phúc của gia đình, là tương lai của đất nước.“Trẻ em hôm


nay, thế giới ngày mai”. Đó là khẩu hiệu mà các quốc gia và các cộng đồng
quốc tế hướng tới nhằm mục đích chăm sóc, bảo vệ và phát triển trong tương lai
của mỗi quốc gia và nhân loại. Như chúng ta cũng đã biết, sinh thời Chủ Tịch
Hồ Chí Minh, luôn dành cho các cháu thiếu niên, nhi đồng tình yêu thương và
quan tâm nhắc nhở và giao nhiệm vụ bảo vệ, chăm sóc trẻ em.Thế nhưng,nhiều
trẻ khi sinh ra phải chịu những thiệt thòi khi mang trong mình những dị tật bẩm
sinh vĩnh viễn, không nghe được những âm thanh của cuộc sống, không được
ríu rít trò chuyện với những bạn cùng trang lứa hay không được nhìn thấy ánh
sáng của cuộc đời và cơ thể phát triển không giống các bạn,trí tuệ của các em
không như người ta....Đã vậy, các em còn phải đón nhận những cái nhìn không
mấy thiện cảm từ người đời, có trường hợp các em bị bỏ rơi, bị xa lánh, miệt
thị, không được học chung với các bạn bình thường,..vốn đã thiệt thòi nay càng
thiệt thòi hơn. Điều này đã làm ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của đất nước
trên mọi phương diện.
Tuy vậy, trong những năm gần đây, nhận thức của mỗi người cũng dần được
thay đổi theo chiều hướng tích cực hơn, mọi người có cái nhìn đồng cảm và yêu
thương hơn với các trẻ bị khuyết tật, các tổ chức từ thiện cũng nhiều hơn,.. Và
đặc biệt là giáo dục trẻ em khuyết tật được xã hội quan tâm hơn . Ở Việt Nam,
ngày 22 tháng 5 năm 2006, Bộ GD&ĐT đã ban hành Quyết định số
23/2006/QĐ-BGDĐT quy định về GDHN cho người tàn tật,khuyết tật. Tiếp
theo là một loạt các văn bản pháp luật quy định về những vấn đề liên quan đến
GDHN cho trẻ khuyết tật như: Thông tư số 39/2009/TT-BGDĐT quy định
về giáo dục hoà nhập cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn; kế hoạch giáo dục trẻ
khuyết tật giai đoạn 2007- 2010 và tầm nhìn 2015. Mục tiêu của kế hoạch là đến
năm 2015 hầu hết trẻ khuyết tật Việt Nam có cơ hội bình đẳng trong tiếp cận


một nền giáo dục có chất lượng và được trợ giúp để phát triển tối đa tiềm năng,
tham gia và đóng góp tích cực cho xã hội. Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng
định tất cả trẻ em, trong đó có trẻ em khuyết tật đều được hưởng giáo dục, được

tạo điều kiện tham gia đầy đủ và phù hợp trong môi trường giáo dục.
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của giáo dục nói
chung, giáo dục khuyết tật đã đạt được những thành tựu quan trọng về nhiều
mặt. Việc giáo dục người khuyết tật nói chung và sự phát triển ngành giáo dục
đặc biệt nói riêng đang được các cơ quan, tổ chức trong và ngoài nước chú trọng
phát triển. Nhiều trường Đại học, Cao đẳng bắt đầu mở các khóa đào tạo chính
quy và không chính quy chuyên ngành Giáo dục đặc biệt để đáp ứng về đội
ngũ giáo viên cho các trường chuyên biệt và trường hoà nhập. Đến nay, hệ
thống quản lý giáo dục trẻ khuyết tật được hình thành ở 64 tỉnh, thành phố và
bắt đầu đi vào hoạt động. Mạng lưới các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản
lý, giáo viên cho giáo dục trẻ khuyết tật được hình thành và đang phát triển.
Các chương trình giáo dục trẻ khuyết tật được xây dựng và triển khai thực hiện.
Phương thức giáo dục hòa nhập cho trẻ khuyết tật phù hợp hoàn cảnh nước ta
đang ngày càng được áp dụng rộng rãi. Số trẻ khuyết tật đi học ngày càng tăng
và đến nay đã có hơn 269.000 trẻ khuyết tật được đi học trong các trường, lớp
hòa nhập và 7.000 trẻ trong các trường chuyên biệt trên toàn quốc.

Trường Phổ thông chuyên biệt Nguyễn Đình Chiểu là ngôi trường đầu tiên
và duy nhất tại Tp. Đà Nẵng có chức năng nuôi dạy trẻ em khuyết tật.

2.

Mục tiêu:

- Nghiên cứu những lý thuyết có liên quan đến lĩnh vực người khuyết tật, người
khiếm thị, các chính sách xã hội


- Tìm hiểu thực trạng về việc áp dụng những chính sách xã hội hỗ trợ cho các
em khiếm thị tại trường PTCB Nguyễn Đình Chiểu. Từ đó đưa ra những giải

pháp, những đề xuất tốt hơn cho việc áp dụng những chính sách đó.

2.Mục tiêu:
2.1. Mục tiêu tổng quát:
Nghiên cứu Thực trạng, biểu hiện, nguyên nhân và giải pháp về việc thực hiện
chính sách dành cho trẻ em khiếm thị tại Trường Phổ thông Chuyên biệt
Nguyễn Đình Chiểu. Từ đó hệ thống hóa và đề xuất thêm những chính sách phù
hợp hơn để hỗ trợ các học sinh khiếm thị trong trường.

2.2. Mục tiêu cụ thể:
Tổng hợp tài liệu có liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu của đề tài: người
khuyết tật, người khiếm thị, các chính sách xã hội
Tìm hiểu thực trạng việc áp dụng các chính sách xã hội vào các em khiếm
thị trong trường PTCB Nguyễn Đình Chiểu
Nghiên cứu, đề xuất thêm một số chính sách thiết thực hơn để hỗ trợ trẻ
khiếm thị.
3.Nhiệm vụ:
Đề tài nghiên cứu cần phải làm rõ thực trạng việc áp dụng những chính
sách xã hội hỗ trợ dành cho trẻ khiếm thị trong trường phổ thông chuyên biệt.
Để làm được điều đó, nhóm thực hiện đề tài cần sử dụng nhiều phương pháp
như sau:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận : Đọc sách, tìm tài liệu
- Xây dựng bảng hỏi
- Tiến hành khảo sát


- Tổng kết số liệu, nhập số liệu, xử lý số liệu
- Viết bài
Và cuối cùng là đưa ra một số khuyến nghị trong việc thay đổi và bổ sung một
số chính sách này.

4.Khách thể nghiên cứu:
Trẻ em khiếm thị tại Trường Phổ Thông Chuyên Biệt Nguyễn Đình Chiểu,
phường Hòa Khánh Nam, quận Liên Chiểu,thành phố Đà Nẵng
5.Đối tượng nghiên cứu:
“ Nghiên cứu việc thực hiện chính sách dành cho trẻ em khiếm thị tại Trường
Phổ Thông Chuyên Biệt Nguyễn Đình Chiểu”
6. Phạm vi nghiên cứu:
6.1 Địa bàn nghiên cứu:
Trường phổ thông chuyên biệt Nguyễn Đình Chiểu
7. Các phương pháp và kỹ thuật nghiên cứu:
7.1. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu chính được sử dụng là phương pháp nghiên cứu
định lưỡng với kỹ thuật thu thập thông tin là khảo sát bằng bảng hỏi. Bên cạnh
đó, đề tài còn kết hợp phương pháp nghiên cứu định tính với kỹ thuật thu thập
thông tin là thông qua phỏng vấn sâu trẻ khiếm thị, phụ huynh trẻ khiếm thị, cô
giáo tại trường PTCB Nguyễn Đình Chiểu:
-Tổng quan tài liệu
-Xây dựng bảng hỏi
-Phương pháp định lượng


-Phương pháp định tính
-Kỹ thuật thu thập thông tin
-Kỹ thuật xử lý thông tin
7.2.1 Kỹ thuật nghiên cứu:
7.2.1.1. Kỹ thuật thu nhập thông tin:
Bảng hỏi: Để thu thập thông tin định lượng, nghiên cứu sẽ sử dụng kỹ thuật
khảo sát bằng bảng hỏi được xây dựng với số lượng mẫu là 45 học sinh khiếm
thị trong toàn bộ học sinh khiếm thị (65 – 70 học sinh) đang được nuôi dạy
trường Phổ thông chuyên biệt Nguyễn Đình Chiểu.

Phỏng vấn sâu: Để thu thập thông tin định tính với cấu trúc câu hỏi đã được
phác thảo trước theo các tiêu chí và chủ đề liên quan đến các chính sách xã hội
mà đối tượng đã và đang được thừa hưởng.
7.2.1. 2Kỹ năng xử lý thông tin:
Thông tin tư liệu: tổng quan tài liệu, một số khái niệm, các lí thuyết ứng
dụng.
Thông tin định tính: phân loại thông tin, gỡ băng phỏng vấn, các bảng biểu
quan sát
Thông tin định lượng: tổng hợp số liệu từ bảng hỏi.
8. Giả thuyết:
Hầu hết các trẻ em khiếm thị ở Trường PTCB Nguyễn Đình Chiểu đều được
hưởng chính sách


B.NỘI DUNG
CHƯƠNG I : TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
I.Cơ sở lý luận:
I.1. Lịch sử nghiên cứu: Nghiên cứu ở thế giới về các vấn đề liên quan đến
người khiếm thị
Các số liệu thống kê về người khiếm thị trên thế giới:
Báo cáo của Liên hợp quốc về người khuyết tật (2002) chỉ ra rằng
người khuyết tật chiếm trên 10% dân số thế giới, cuộc sống của họ đa
phần gặp khó khăn cả về kinh tế và tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản.
Công ước của Liên hợp quốc về quyền của người khuyết tật (2006)
cũng đã xác định được những quyền cơ bản của người khuyết tật,
trong đó cũng đã nhấn mạnh đến các quyền về chăm sóc sức khỏe,
học tập, việc làm, bảo đảm thu nhập và an sinh xã hội; đặc biệt công
ước cũng nhấn mạnh đến nguyên tắc chống phân biệt đối xử, bảo vệ
phụ nữ và trẻ em khuyết tật. Việt Nam cũng đã ký kết tham gia thực
hiện công ước.

Báo cáo của cố vấn quốc hội Mỹ về người khuyết tật (2013) cho
rằng người khuyết tật ở Mỹ chiếm khoảng 15% dân số nước Mỹ; bên
cạnh những chính sách trợ giúp của nhà nước cho người khuyết tật về
chăm sóc sức khỏe, tạo việc làm họ cũng gặp rất nhiều rào cản tiếp
cận các dịch vụ xã hội như: vui chơi giải trí, việc làm.
Hiện nay hầu hết các quốc gia đã nghiên cứu và ban hành chính sách
trợ giúp người khuyết tật, dựa vào lý thuyết vòng đời từ khi con người
sinh ra còn là trẻ em, đến khi trưởng thành và trở thành người già,
trong quá trình ấy một bộ phận người dân không may mắn rơi vào tình
trạng khuyết tật. Với quan điểm các quốc gia thành viên đã tham gia
phê duyệt công ước của liên hợp quốc về quyền của người khuyết tật


phải có trách nhiệm bảo đảm an sinh xã hội cho người khuyết tật. Nhờ
có hệ thống chính sách an sinh xã hội cho người khuyết tật mà cuộc
sống của đại đa số người khuyết tật được ổn định và người khuyết tật
có cơ hội phát triển và hoà nhập cộng đồng.
Báo cáo dự thảo Kế hoạch Quốc gia phòng chống mù lòa giai đoạn
2014 – 2019 của Ban chỉ đạo Quốc gia phòng chống mù lòa (Bộ Y tế)
mới vừa được công bố cho thấy: Hiện trên thế giới có khoảng 314
triệu người mù và thị lực thấp (trong đó ước khoảng 45 triệu người
mù, những người trên 50 tuổi chiếm tỷ lệ 80%). Cứ 5 giây, thế giới có
1 người bị mù, cứ 1 phút có thêm 1 trẻ bị mù, 90% người mù sống ở
các nước nghèo và đang phát triển với các điều kiện tiếp cận dịch vụ y
tế khó khăn (11,6 triệu người ở khu vực Đông Nam Á, 9,3 triệu người
ở khu vực Tây Thái Bình Dương, 6,8 triệu người ở Châu Phi), 1,4
triệu trẻ em dưới 15 tuổi bị mù.

2.1.Tổng quan tài liệu ở Việt Nam:
2.1.1.


Những nghiên cứu về người Khiếm thị:

Cuốn sách “Giúp đỡ trẻ em mù” của tác giả Sandy Niemann –Namita Jacob
do dịch giả Bùi Đức Thắng dịch và được nhà xuất bản giáo dục Việt Nam ấn
hành là một trong những cuốn sách hữu ích đối với những bậc phụ huynh có
con là người khiếm thị. Cuốn sách này nói về sự hỗ trợ trẻ bị khuyết tật thị giác
từ sơ sinh đến năm tuổi. Giúp những người chăm sóc trẻ như: cha mẹ, các
thành viên trong gia đình và các nhân viên y tế thấu hiểu về khuyết tật, về cách
giúp trẻ học tập và phát triển bằng cách sử dụng những hoạt động phát triển trí
tuệ thích hợp. Những nội dung chính của cuốn sách gồm:
-

Đánh giá mức độ khuyết tật thị giác của trẻ.
Kích thích sự hoạt động của trẻ qua hoạt động học tập.
Đương đầu với những thách thức tăng lên của trẻ bị khuyết tật

-

thị giác.
Làm việc với những thành viên khác trong cộng đồng để tăng
cường chăm sóc trẻ có khuyết tật thị giác.


-

Giúp trẻ trở thành một người năng động trong cộng đồng.
Cuốn sách gồm tám chương. Trong bốn chương đầu cung
cấp những thông tin nền tảng cho các bậc phụ huynh trong việc
giúp con mình bị khiếm thị.Các chương còn lại tập trung vào

các ví dụ giúp trẻ phát triển các kỹ năng và những thông tin để
các chăm sóc viên có thể hỗ trợ lẫn nhau.
Có thể nói điểm thành công nhất của cuốn sách là thấy được
những hỗ trợ cho trẻ bị khiếm thị ở giai đoạn đầu là điều vô
cùng cần thiết. Những ví dụ trong cuốn sách tương đối cụ thể
và sát thực. Tuy nhiên cuốn sách chỉ mới hạn chế trong phạm
vi hẹp từ sơ sinh đến năm tuổi và cuốn sách cũng chưa bàn sâu
đến tầm quan trọng của những chính sách xã hội đối với sự phát
triển của trẻ khiếm thị . Mặc dù vậy điểm tích cực là cuốn sách
đã có được những nghiên cứu đặc thù về người khiếm thị.


Các số liệu thống kê về người khuyết tật ở Việt nam:
Việt Nam là đất nước chịu nhiều thiên tai và chiến tranh,

dịch bệnh do đó có số lượng khá đông người khuyết tật.
Năm 2009, Bộ lao động thương binh xã hội đã có báo
cáo tổng kết về 10 năm thực hiện pháp lệnh về người tàn tật.
Trong báo cáo đã chỉ rõ về thực trạng người khuyết tật. Theo
ước tính cả nước có khoảng 5,1 triệu người khuyết tật, chiếm
khoảng 6% dân số, trong đó có 1,1 triệu khuyết tật nặng, chiếm
21,5% tổng số người khuyết tật. Bao gồm 29% khuyết tật vận
động, 17% tâm thần, 14% tật thị giác, 9% tật thính giác, 7% tật
ngôn ngữ, 7% trí tuệ và 17% các dạng tật khác. Tỷ lệ nam là
người khuyết tật cao hơn nữ do các nguyên nhân của hậu quả
chiến tranh, tai nạn lao động, tai nạn thương tích….Nguyên


nhân gây khuyết tật có 36% bẩm sinh, 32% do bệnh tật, 26% do
hậu quả chiến tranh và 6% do tai nạn lao động. Đời sống vật

chất, tinh thần của người khuyết tật còn nhiều khó khăn. Có tới
80% người khuyết tật ở thành thị và 70% người khuyết tật ở
nông thôn sống dựa vào gia đình, người thân và trợ cấp xã hội;
32,5% thuộc diện nghèo (cao gấp hai lần so với tỷ lệ nghèo
chung cùng thời điểm); 24% ở nhà tạm.
Theo kết quả điều tra của bộ lao động thương binh xã hội
( năm 2002), ước tính Việt Nam có khoảng 900.000 người mù
và kém mắt, trong đó khoảng gần 700.000 người mù chiếm
1,2% dân số cả nước. Số liệu điều tra cho thấy các tật liên quan
đến thị giác chiếm 15%, chỉ xếp sau các tật vận động 35%.
Người mù ở Việt Nam phân bố không đồng đều giữa các khu
vực. Ở Miền Tây Nam Bộ có số người mù đông nhất cả nước.
Cũng theo thống kê này, hiện có khoảng 9% là trẻ em mù, 49%
người mù trong độ tuổi lao động và 42% người mù già. Như
vậy người mù già ở Việt Nam có số liệu đông đảo hơn cả. Số
người mù ở các thành thị có trình độ văn hóa cao hơn các vùng
nông thôn. Theo các số liệu điều tra gần như trẻ em mù đi học
muộn hơn so với độ tuổi quy định của nhà nước. Theo một số
tài liệu thì có khoảng 90% người mù tập trung ở các nước
nghèo nhất trong đó có Việt Nam . Phần lớn người mù ở Việt
Nam rất hạn chế về vấn đề việc làm, chủ yếu tập trung vào các
nghề làm tăm tre, chổi đót, tẩm quất-mát sa… trong đó nghề
tẩm quất-mát sa chiếm số đông hơn cả.
Theo báo cáo của hội người mù Việt Nam (năm 2013),
50/63 tỉnh thành trong cả nước có hội người mù. Hiện nay, Hội
quản lí 66.443 hội viên.


2.1.2.Những nghiên cứu về các chính sách cho người khiếm thị ở
Việt Nam:

Năm 2010, Nguyễn Ngọc Toản có đề tài nghiên cứu về
“Chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên ở cộng đồng Việt
Nam” . Năm 2012, Nguyễn Hải Hữu chủ biên cuốn “Giáo trình
nhập môn An sinh xã hội” , tác giả cũng tiến hành nghiên cứu
về “Thực trạng TGXH và ưu đãi xã hội ở nước ta năm 2001 –
2007 và khuyến nghị tới năm 2015”. Năm 2013, Ban điều phối
các hoạt động hỗ trợ Người khuyết tật tại Việt Nam đã có báo
cáo năm 2013 về hoạt động trợ giúp người khuyết tật tại Việt
Nam. Năm 2014, Nguyễn Thị Hà biên soạn tập bài giảng “Công
tác xã hội với Người khuyết tật”.
1.3. Cách tiếp cận và lý thuyết ứng dụng:
1.3.1Cách tiếp cận:
Bên cạnh việc gặp gỡ, trao đổi trực tiếp với các giáo viên đứng lớp và nhân
viên cơ sở, nhóm còn tiếp xúc và trao đổi với người thân của trẻ và cá nhân trẻ.
Ngoài ra, nhóm còn tham khảo ý kiến của những người có quan tâm đến lĩnh
vực này, tìm hiểu thông tin qua một số tài liệu tham khảo và internet.
1.4.Các lý thuyết ứng dụng:
1.4.1.Thuyết nhu cầu của Maslow
Maslow đã xây dựng học thuyết “nhu cầu” vào những năm 50 của thế kỷ
XX nhằm giải thích sự phát triển của con người trong sự lành mạnh cả về vật
chất lẫn tinh thần. Ông đã xây dựng hệ thống nhu cầu của con người như là
những bậc thang từ thấp lên cao. Các nhu cầu sẽ tùy vào mức độ quan trọng mà
được sắp xếp theo những thứ bật. Và nếu một trong những nhu cầu cấp thấp
không được đáp ứng thì sự phát triển sẽ có sự lệch lạc. Maslow đã chia hệ thống
nhu cầu theo trình tự như sau:


Nhu cầu về vật chất: Đây được xem là nhu cầu cơ bản nhất, quan trọng nhất
liên quan trực tiếp tới sự sinh tồn của mỗi con người. Nhu cầu về vật chất bao
gồm: đồ ăn, nước uống, quần áo, nhà ở, phương tiện đi lại… Những nhu cầu

này không thể thiếu với bất kỳ ai. Nó càng trở nên quan trọng đối với những
đứa trẻ khiếm khuyết một phần cơ thể, bởi các em là người phụ thuộc rất nhiều
vào người lớn.
Nhu cầu về an ninh và sự an toàn: Đây là nhu cầu tâm sinh lý khá phổ biến
của mỗi con người. Nó đảm bảo cho con người một môi trường không nguy
hiểm có lợi cho sự phát triển lành mạnh và lâu dài. Các mặt an toàn bao gồm:
an toàn sinh mệnh, an toàn lao động,an toàn môi trường, an toàn kinh tế, an toàn
nghề nghiệp, an toàn ở và đi lại, an toàn sức khỏe và an toàn tâm lý. Nhu cầu an
toàn thể hiện ở tính chặt chẽ của pháp luật và những quy định. Nếu không được
an toàn con người sẽ không thực hiện được các nhu cầu khác.
Nhu cầu được thừa nhận: Bản chất con người là luôn tìm kiếm tình bạn, sự
thừa nhận và tình yêu thương từ người khác. Nhu cầu này bao gồm các mặt như
sự thân cận, gần gũi, sự khích lệ… Nói chung nhu cầu này tương đối phong
phú, đa dạng, kỳ diệu và cũng rất phức tạp.
Nhu cầu về sự tự trọng: Tự trọng được xem là sự quan tâm đánh giá đúng
mức về nhân phẩm của một người. Nhu cầu về tự trọng gồm lòng tự trọng và
được người khác tôn trọng.
Nhu cầu về phát triển cá nhân: Nhu cầu cho sự trưởng thành cá nhân này có
thể được hiểu là sự tiếp cận với hệ thống giáo dục, bao gồm cả việc học ở nhà,
đào tạo kỹ năng nghề nghiệp, chơi thể thao, trải nghiệm….Đó là tất cả những gì
có thể đem đến cơ hội và sự phát triển toàn diện cho con người. Nhu cầu này
được Maslow gọi là “Nhu cầu muốn thể hiện toàn bộ tiềm lực của con người”.
Áp dụng thuyết “Nhu cầu” của Maslow vào nghiên cứu, chúng tôi thấy hơn
lúc nào hết những nhu cầu này càng trở nên rất quan trọng và bức thiết với


những trẻ khiếm thị. Các bậc thang trong Thuyết nhu cầu đều tương ứng với trẻ
khiếm thị về mọi mặt. Đáp ứng được những nhu cầu này sẽ giúp các em có điều
kiện được lao động, sinh hoạt, được học tập và tham ra các hoạt động xã hội để
các em phát triển toàn diện bản thân trong sự bình đẳng từ đó tạo cho các em

một nền tảng tốt với đầy đủ những cơ hội.
1.5.1Thuyết hệ thống cảm xúc gia đình:
Từ những năm 1960 khi mới bắt đầu xuất hiện, học thuyết hệ thống cảm xúc
gia đình của Murray Bowen đề xướng đã trở nên rất hữu dụng đặc biệt trong
việc đánh giá và trị liệu gia đình. Học thuyết này đã cho một khung phân tích
toàn diện để hiểu được các mối liên kết tình cảm gia đình tác động như thế nào
đến mỗi cá nhân trong gia đình. Học thuyết này gồm các nội dung chính như
sau:
Đa thế hệ: Cá tính của con người và cách ứng xử của họ trong gia đình chịu
ảnh hưởng từ nhiều thế hệ, không những thế các mối quan hệ với đại gia đình có
thể cũng quan trọng cho sự phát triển cá tính của con người như các mối quan
hệ với gia đình hạt nhân.
Sự tách rời của cá nhân: Cá nhân lành mạnh hay dễ thích nghi là do sự tách
rời cá nhân quyết định. Điều này mang hai ý nghĩa, sự tách rời cả về tâm lý lẫn
thể lý. Qua quá trình trưởng thành, cá nhân lành mạnh sẽ dần dần tách khỏi gia
đình, ở riêng, có suy nghĩ, cảm xúc và cuộc sống riêng. Sự phát triển lành mạnh
này không làm hại đến mối quan hệ tốt đẹp với gia đình gốc.
Mối quan hệ ba chiều/ tam giác: Quan hệ thân thiết giữa hai người trong
gia đình có thể trở nên căng thẳng, vì vậy cần có người thứ ba để được ổn định.
Người thứ ba giữ vai trò trung gian hòa giải, cố vấn tâm lý, hay an ủi. Quan hệ
ba chiều là lành mạnh, tuy nhiên trong một số trường hợp, nó có thể ảnh hưởng
tai hại đến sự tách rời của cá nhân.


Bồn chồn lo lắng trong hệ thống tâm lý gia đình: Là một cảm xúc khó chịu
nhưng lành mạnh có công dụng như một tín hiệu báo trước các mối đe dọa hay
hiểm nguy. Cảm giác này chỉ trở thành vấn nạn nếu nó cản trở khả năng giải
quyết sự việc của cá nhân.
Cha mẹ phóng chiếu lên con cái: Đây là một trong những hình thức của “cơ
chế tự vệ” : quy kết những cảm nghĩ, tình cảm của mình cho người khác, gán

cho người khác những ước muốn và những xung đột bất ổn mà chính mình có,
để khỏi phải đối diện với vấn đề của mình.
Sự đồng hóa/ tan biến và cắt đứt tình cảm: Đây là tình trạng liên quan đến
hai hay nhiều người trong hệ thống tam giác mà trong đó một thành viên hi sinh
sự tách rời, trưởng thành của cá nhân để tạo ra sự quân bình cho hai người kia.
Khi một người đặc biệt bị đồng hóa/ tan biến trong mối tương quan với một
người khác thì người này sẽ có phản ứng mạnh mẽ với người kia.
Mặt khác Bowen còn cho rằng trong gia đình hạt nhân, thứ tự anh chị em
ai sinh trước, ai sinh sau cũng có thể nói lên phần nào đó sự phát triển nhân cách
của trẻ. Các vấn đề khác cũng cần quan tâm như giới tính của anh chị em,
khoảng cách giữa từng người....
Đối với trẻ khiếm thị, do bị khiếm khuyết một phần cơ thể nên ít nhiều
các em có những cảm xúc và suy nghĩ tiêu cực. Do vậy, việc thay đổi hành vi,
nhận thức của các em có liên quan mật thiết tới sự tương tác của các em trong
môi trường gia đình và xã hội mà các em đang sống. Bên cạnh đó, mối quan hệ
và tình cảm giữa các thành viên trong gia đình tác động rất lớn các em. Nếu
quan hệ trong gia đình tốt thì sự quan tâm động viên từ gia đình sẽ giúp các em
thoải mái hơn và suy nghĩ tích cực hơn và ngược lại. Do đó, chúng tôi muốn sử
dụng thyết này để tìm hiểu thái độ của gia đình có con, em là trẻ khiếm thị trong
việc hỗ trợ con trước khi học tập hòa nhập.
1.6.1Thuyết nhận thức – hành vi:


Sơ lược về Thuyết hành vi: S -> R -> B (S là tác nhân kích thích, R là
phản ứng, B là hành vi). Thuyết cho rằng con người có phản ứng do có sự thay
đổi của môi trường để thích nghi. Như vậy, khi có 1 S sẽ xuất hiện nhiều R của
con người, nhưng dần dần sẽ có 1 R có xu hướng lặp đi lặp lại do chúng ta được
học hay được củng cố khi kết quả của phản ứng đó mang lại điều gì chúng ta
mong đợi. Như vậy theo thuyết này thì hành vi con người là do chúng ta tự học
mà có và môi trường là yếu tố quyết định hành vi. (Do trời mưa, do tắc đường

nên nghỉ học…). Các mô hình trị liệu hành vi vì thế mà nhiều khi được sử dụng
một cách sai lầm như phương pháp thưởng phạt. Phương pháp này gây cho đối
tượng cảm giác bị áp đặt.
Thuyết nhận thức-hành vi:
- Thuyết trị liệu nhận thức – hành vi hay còn gọi là thuyết trị liệu nhận
thức (behavioral cognitive therapy) bởi nền tảng của nó là các ý tưởng hành vi
hoặc là trị liệu nhận thức xã hội do sự liên kết của nó với lý thuyết học hỏi xã
hội
- Nội dung của thuyết: thuyết này cho rằng: chính tư duy quyết định phản
ứng chứ không phải do tác nhân kích thích quyết định. Sở dĩ chúng ta có những
hành vi hay tình cảm lệch chuẩn vì chúng ta có những suy nghĩ không phù hợp.
Do đó để làm thay đổi những hành vi lệch chuẩn chúng ta cần phải thay đổi
chính những suy nghĩ không thích nghi.
- Mô hình: S -> C -> R -> B
Trong đó: S là tác nhân kích thích, C là nhận thức, R là phản ứng, B là
kết quả hành vi.
Giải thích mô hình: Theo sơ đồ thì S không phải là nguyên nhân trực tiếp
của hành vi mà thay vào đó chính nhận thức C về tác nhân kích thích và về kết
quả hành vi mới dẫn đến phản ứng R.
- Quan điểm về nhận thức và hành vi: 2 quan điểm
+ Theo các nhà lý thuyết gia nhận thức- hành vi thì các vấn đề nhân cách
hành vi của con người được tạo tác bởi những suy nghĩ sai lệch trong mối quan
hệ tương tác với môi trường bên ngoài. (Aron T. Beck và David Burns có lý
thuyết về tư duy méo mó). Con người nhận thức lầm và gán nhãn nhầm cả từ
tâm trạng ở trong ra đến hành vi bên ngoài, do đó gây nên những niềm tin, hình
tượng, đối thoại nội tâm tiêu cực. Suy nghĩ không thích nghi tốt đưa đến các
hành vi của một cái tôi thất bại
+ Hầu hết hành vi là do con người học tập (trừ những hành vi bẩm sinh),
đều bắt nguồn từ những tương tác với thế giới bên ngoài, do đó con người có
thể học tập các hành vi mới, học hỏi để tập trung nghĩ về việc nâng cao cái tôi,

điều này sẽ sản sinh các hành vi, thái độ thích nghi và củng cố nhận thức.


=> Như vậy, lý thuyết này cho ta thấy rằng cảm xúc, hành vi của con
người không phải được tạo ra bởi môi trường, hoàn cảnh mà bởi cách nhìn nhận
vấn đề. Con người học tập bằng cách quan sát, ghi nhớ và được thực hiện bằng
suy nghĩ và quan niệm của mỗi người về những gì họ đã trải nghiệm.
Như vậy, thuyết này mang tính nhân văn cao cả và đúng đắn khi đã đặt
đúng trọng tâm vai trò của chủ thể con người trong hành vi của họ (khác với
thuyết hành vi coi trọng yếu tố tác nhân kích thích; thuyết học tập xã hội coi
trọng yếu tố thói quen hay học tập).
1.7. Các khái niệm:
1.7.1.Chính sách xã hội là gì?:
Chính sách xã hội là một hệ thống những quan điểm, chủ trương, phương
hướng, biện pháp của nhà nước và các tổ chức chính trị-xã hội khác được chế
hóa để giải quyết những vấn đề xã hội mà trước hết là những vấn đề xã hội gay
cấn nhằm bảo đảm sự an toàn và phát triển xã hội
Chính sách xã hội là chính sách đối với con người, tìm cách tác động vào
các hệ thống quan hệ xã hội ( quan hệ giai cấp, các tầng lớp xã hội, quan hệ các
nhóm xã hội khác nhau ) tác động vào hoàn cảnh sống của con người và của các
nhóm xã hội ( bao gồm điều kiện lao động và điều kiện sinh hoạt ) nhằm điều
chỉnh các quan hệ xã hội, đảm bảo và thiết lập được công bằng xã hội trong
điều kiện xã hội nhất định.
Các đặc trưng của chính sách xã hội
Chính sách xã hội khác với chính sách khác như : chính sách kinh tế,
chính trị, văn hóa, tư tưởng... sự khác biệt này bắt nguồn từ khía cạnh xã hội,
tính chất xã hội của nó. Theo đó ta thấy chính sách xã hội có những đạc trưng
cơ bản sau :
Chính sách xã hội là chính sách đối với con người nhằm vào con
người, lấy con người làm trung tâm phát triển con người một cách toàn

diện.Chính sách xã hội mang tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc, luôn hương tới
việc hình thành những giá trị chuẩn mực mới, tiến bộ góp phần đẩy lùi cái ác,
cái xấu trong xã hội.


Chính sách xã hội có tính trách nhiệm xã hội cao, bao giờ cũng
quan tâm đến số phận của những con người cụ thể, quan tâm đến những cá nhân
sống trong những điều kiện thiệt thòi, khó khăn so với mặt bằng chung xã hội
lúc bấy giờ. Tạo điều kiện cho những cá nhân phát huy những khả năng vốn có
của mình vươn lên hòa nhập xã hội.
Chính sách xã hội để thực hiện đúng mục tiêu, đối tượng bao giờ cũng
có cơ chế hoạt động, bộ máy nhân sự, chương trình dự án và kinh phí hoạt động
riêng của nó.
1.7.2.Trẻ em là gì?:
Công ước Quốc tế xác định trẻ em là người dưới 18 tuổi, trừ khi luật pháp
ở các nước cụ thể quy định tuổi thành niên.
Theo Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em của Việt Nam: trẻ em là công
dân dưới 16 tuổi; người chưa thanh niên là người dưới 18 tuổi.
1.7.3.Khuyết tật là gì?:
1.7.3.1.Khái niệm:
Theo Công ước về Quyền của người KT năm 2006: “Người KT bao gồm
những người có những khiếm khuyết lâu dài về thể chất, trí tuệ, thần kinh hoặc
giác quan mà khi tương tác với các rào cản khác nhau có thể cản trở sự tham gia
đầy đủ và hiệu quả của họ trong xã hội trên một nền tảng công bằng như những
người khác trong xã hội”.
Theo Luật Người khuyết tật Việt Nam ban hành ngày 17/06/2010:
“Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ
thể hoặc chức năng làm suy giảm về thể chất, thần kinh, trí tuệ, giác quan
trong một thời gian dài được biểu hiện dưới các dạng khuyết tật và do các rào
cản xã hội, thiếu các điều kiện hỗ trợ phù hợp dẫn tới bị cản trở sự tham gia

bình đẳng vào hoạt động xã hội”.
1.7.3.2.Phân loại:
Dựa vào những tiêu chí khác nhau các nhà khoa học đã đưa ra nhiều
cách phân loại khuyết tật khác nhau. Theo tài liệu của UNICEF – 2004 , khuyết


tật được phân chia thành các dạng sau:
KT vận động
KT thị giác - khiếm thị
KT thính giác – người khiếm thính
KT ngôn ngữ
KT về trí tuệ
Hội chứng tự kỷ
Rối loạn thần kinh
Chứng động kinh
Mất cảm giác (bệnh hủi, bệnh phong)
Hiện nay, ở Việt Nam thường chia thành các dạng khuyết tật như sau:
+ Khiếm thính
+ Khiếm thị
+ Khuyết tật trí tuệ
+ Khuyết tật ngôn ngữ
+ Khuyết tật vận động
+ Rối loạn hành vi và cảm xúc
+ Đa tật

1.7.4.Khiếm thị là gì?:
1.7.4.1.Khái niệm:
Khiếm thị hay còn gọi là triệu chứng mất khả năng cảm nhận thị
giác một phần hoặc hoàn toàn (mù, đui). Người khiếm thị là người sau khi được
điều trị hoặc điều chỉnh khúc xạ mà thị lực bên mắt tốt vẫn còn từ dưới 3/10 đến

trên mức không nhận thức được sáng tối, và bệnh nhân vẫn còn khả năng tận
dụng thị lực này để lên kế hoạch và thực thi các hoạt động hàng ngày. Riêngmắt
người bị mù hoàn toàn không có khả năng nhận thức sáng tối, không thấy được


những gì xung quanh. Chứng mù mắt có thể do rối loạn bẩm sinh, sinh lý hay
thần kinh.
Người mù: là người bị tổn thương thị giác, không còn nhìn thấy ánh sáng
đối với cả hai mắt (thị lực bằng không). Đó là những người mù hoàn toàn hay
còn gọi là mù tuyệt đối.
Khiếm thị: ở trong nghiên cứu này, tôi tạm thời sử dụng thuật ngữ khiếm
thị để chỉ tình trạng bị khiếm khuyết thị giác ở các em từ mức độ mù hoàn toàn
(không nhìn thấy gì) đến mức độ còn nhìn được lờ mờ, tuy nhiên không đủ khả
năng đọc được các chữ cái.

1.7.4.2.Phân loại khiếm thị
Phân loại về người mù (người khiếm thị): Tuỳ thuộc vào tiêu chí mà có
nhiều cách phân loại người mù: Nếu dựa vào nguyên nhân gây ra mù thì có mù
bẩm sinh do di truyền; mù do bệnh tật (có thể nhiều loại như sởi, đậu mùa, thiên
đầu thống, đục thuỷ tinh thể…); mù do tai nạn lao động; do chiến đấu... Cách
phân loại theo tuổi bị mù là một cách phân loại được chú ý. Theo đó, người ta
phân ra theo 3 mốc tuổi: thứ nhất là bị mù trước 6 tuổi; thứ hai là bị mù sau 6
tuổi đến hết tuổi trung niên hay tuổi lao động (60 tuổi ở nam và 55 tuổi ở nữ);
và giai đoạn cuối là bị mù khi đã già.
Người bị mù trong vòng 6 năm đầu đời là những người không hề được
thấy ánh sáng, hoặc có thì cũng còn quá bé để có thể nhớ lại những hình ảnh mà
mắt đã thấy. Những người mù này là những người mù tiêu chuẩn, họ không tận
dụng được gì được ở ánh sáng, ở mắt nhìn. Hoạt động của các giác quan, của tư
duy, trí tuệ hoàn toạn dựa vào các giác quan khác. Nghiên cứu người mù phải
tập trung ở loại này.



Người bị mù sau 6 tuổi đến tuổi trung niên: là những người có ít
nhiều thuận lợi nhận biết được hình ảnh, rèn luyện được trí lực trong thời gian
sáng mắt. Càng bị mù muộn thì họ một mặt có thời gian sáng mắt càng lớn, do
đó có được nhiều ấn tượng cuộc sống, giúp cho họ trong quá trình tư duy, nhận
thức, mặt khác thì khả năng thích ứng với cuộc sống trong điều kiện mới sẽ
giảm sút vì càng về già thì các giác quan càng kém tinh tế, khó học tập. Ngược
lại, càng bị mù sớm thì một mặt họ có ít thời gian sáng mắt hơn do vậy mà kinh
nghiệm cuộc sống có thể ít hơn nhưng việc rèn luyện khả năng thích ứng với
hoàn cảnh mới lại dễ hơn, thuận lợi hơn.
Người bị mù trong tuổi già (tuổi sau lao động): đối với những người này,
một mặt khả năng thích ứng với hoàn cảnh mới kém hơn rất nhiều, mặt khác họ
cũng có ít nhu cầu hơn, hoặc không còn bức thiết.
Mỗi loại mù cần có những biện pháp giúp đỡ phù hợp, đặc biệt là người
mù trong 6 năm đầu đời.
1.7.4.3.Những hạn chế và khả năng của người khiếm thị:
-

Hạn chế:
Theo nghiên cứu thì người bình thường lượng tiếp nhận thông tin qua các
giác quan như sau: thị giác 80%, thính giác 15 %, xúc giác 4%, khứu giác và vị
giác 1%. Với con mắt, người ta có một lợi thế vô cùng lớn trong việc tiếp nhận
thông tin. Với đôi mắt, người ta có thể nhìn gần, nhìn xa, nhìn rộng hay nhìn tập
trung, nhìn tổng thể hay nhìn vào từng chi tiết như màu sắc sáng tối, đậm nhạt,
hình dáng to nhỏ, sần sùi hay nhẵn, kích thức rộng hẹp, có thể thông qua mắt để
biểu đạt trạng thái tình cảm như một phương tiện giao tiếp, hay nhận biết các
trạng thái tình cảm, cử chỉ, hành động từ người khác. Hơn nữa trong thời đại
bùng nổ của khoa học công nghệ và thông tin người ta đã sáng chế ra nhiều máy
móc, thiết bị giúp cho khả năng của mắt tăng gấp bội như máy tính, máy hiển

vi, kính thiên văn, máy ảnh, ti vi, internet, hoặc lượng sách, báo, truyền hình có
mặt ở mọi nơi với đa dạng số lượng, và chủng loại thông tin. Như vậy đối với
người mù thì chỉ có thể tiếp nhận thông tin qua 4 giác quan còn lại, chủ yếu vào
thính giác và xúc giác. Khi bị mù mắt thì lượng thông tin tiếp nhận do các giác
quan còn lại có thể tăng lên song không đáng kể. Ở đây, nếu lượng thông tin và
cảm xúc được tiếp nhận nhiều, chất lượng tốt thì sẽ giúp cho họ nhận thức và


-

hành động tốt và ngược lại. Do đó, cơ sở tiếp nhận thông tin đối với họ rất quan
trọng. Đặc biệt đối với trẻ em, trong giai đoạn hình thành và hoàn thiện nhân
cách, tiếp nhận các kinh nghiệm và tri thức để có thể bước vào đảm nhiệm các
vai trò xã hội thì có thể thấy rằng thông tin cực kỳ quan trọng và bị mù là một
khiếm khuyết vô cùng lớn, ảnh hưởng nghiêm trọng tới sự hình thành nhân cách
của các em sau này. Do đó, vấn đề tăng cường khả năng thu nhận thông tin cho
các em là vấn đề bức thiết, quan hệ tới những cá nhân trưởng thành trong tương
lai.
Khả năng:
Với các giác quan còn lại như xúc giác, thính giác, khứu giác người mù
vẫn có khả năng thực hiện được nhiều công việc và do vậy đóng góp nhiều cho
xã hội. Xúc giác của người mù tập trung vào đôi bàn tay, vào các phần da trên
mặt, ở đôi chân. Xúc giác là giác quan quan trọng nhất cho người mù tiếp nhận
thông tin. Đôi chân giúp người mù định hướng đi lại, da mặt, da người giúp
người mù nhận biết không khí xung quanh. Và quan trọng nhất là đôi tay, người
mù có thể tiếp nhận được chính xác các thông tin về hình dáng, kích thước, độ
mịn, độ bong, trọng lượng, nhiệt độ…Người mù cũng có thể đoán biết hình
dáng, thể trạng một người chỉ bằng cách sờ mó vào bàn tay, cùi tay của họ. Đặc
biệt hiện nay người mù có thể học văn hoá thông qua chữ nổi Braile. Thính giác
cũng là giác quan quan trọng đối với người mù. Với thính giác người mù có thể

tiếp nhận thông tin qua các âm thanh, nhận biết và giao tiếp với người xung
quanh qua giọng nói, qua tiếng động. Với thính giác, người mù cũng có thể học
âm nhạc và trở thành những người chơi đàn thành thạo.
1.7.4.4.Đặc điểm của trẻ khiếm thị:
1.7.4.4.a Đặc điểm tâm lý của trẻ khiếm thị:
* Giao tiếp và tình cảm xã hội:
- Việc giao tiếp phụ thuộc rất nhiều vào giao tiếp bằng mắt (90% lượng
thông tin thu nhận của người bình thường là thông qua thị giác). Khiếm thị ảnh
hưởng rất lớn đến quá trình phát triển ngôn ngữ cũng như giao tiếp của trẻ.
- Giảm hoặc giảm đáng kể khả năng tư duy trừu tượng, lượng thông tin
tiếp nhận rời rạc, đơn điệu và nghèo nàn.
- Lời nói mang nặng tính hình thức, khó diễn đạt ý nghĩa của câu nói.


- Mất hoặc giảm khả năng bắt chước những cử động, biểu hiện của nét
mặt cũng như khả năng biểu đạt bằng cử chỉ, điệu bộ, nét mặt. Kết quả tất yếu là
trẻ khiếm thị, đặc biệt là trẻ mù không biết kết hợp ngôn ngữ nói với ngôn ngữ
cử chỉ điệu bộ.
- Khó định hướng trong giao tiếp, khó tham gia vào các hoạt động giao
tiếp nhất là những hoạt động đòi hỏi phải có sự định hướng, di chuyển trong
không gian.
- Bị động trong giao tiếp, không xác định được khoảng cách, số lượng
người nghe trong không gian giao tiếp.
- Xuất hiện tâm lý mặc cảm, tự ti, ngại giao tiếp.
* Đặc điểm nhận thức cảm tính:
Hoạt động nhận thức cảm tính là hình thức khởi đầu trong sự phát
triển hoạt động nhận thức của con người. Cảm giác là quá trình tâm lý phản ánh
từng thuộc tính riêng lẻ của sự vật và hiện tượng khi trực tiếp tác động vào giác
quan của ta. Ví dụ: Đặt vào tay trẻ mù một vật lạ, trẻ rất khó trả lời đúng đó là
vật gì. Nhưng nếu hỏi: Em cảm thấy vật đó thế nào? (cứng, mềm, nhẵn, nóng,

lạnh, nặng, nhẹ...). Nếu trẻ trả lời được tức là trẻ có cảm giác. Trẻ mù hoàn toàn
còn có những cảm giác:
- Cảm giác nghe
- Cảm giác sờ
- Cảm giác cơ khớp vận động
- Cảm giác rung
- Cảm giác mùi vị
- Cảm giác thăng bằng
. Đối với trẻ mù cảm giác sờ và cảm giác nghe đem lại khả năng thay thế
chức năng nhìn của mắt có hiệu quả nhất.
* Đặc điểm cảm giác xúc giác của trẻ khiếm thị:
- Cảm giác xúc giác là tổng hợp của nhiều loại cảm giác gồm: cảm giác
áp lực, cảm giác nhiệt, cảm giác đau, cảm giác sờ... Có hai loại cảm giác xúc
giác: cảm giác xúc giác tuyệt đối và cảm giác xúc giác phân biệt: Ngưỡng cảm


giác tuyệt đối là khả năng nhận rõ một điểm của vật tác động vào bề mặt của da.
Đo cảm giác tuyệt đối bằng giác kế (bộ lông nhỏ), xác định được diện tích của
một điểm tác động lên từng bộ phận của cơ thể người (khả năng cảm nhận được
một điểm) tính theo miligam/ milimét vuông: đầu lưỡi 2, đầu ngón tay trỏ 2.2,
môi 5, bụng 26, thắt lưng 48, gan bàn chân 250. Ngưỡng cảm giác phân biệt: là
khả năng nhận biết hai điểm gần nhau đang kích thích trên da. Nếu tính khoảng
cách giữa hai điểm theo đơn vị milimét thì ngưỡng cảm giác phân biệt các vùng
trên cơ thể như sau: môi 4,5, cổ 54,2, đùi và lưng 67,4... Khoảng cách tối thiểu
giữa các chấm nổi trong ô ký hiệu Braille chỉ bằng 2,5 mm (ngưỡng xúc giác
phân biệt ở đầu ngón tay trỏ của người bình thường là 2,2 mm và ở người mù
được rèn luyện tốt là 1,2 mm). Nhờ vậy, tay của người mù sờ đọc chữ Braille
không gặp khó khăn về nguyên tắc. Đó cũng chính là cơ sở khoa học của hệ
thống ký hiệu Braille.
* Đặc điểm thính giác của trẻ khiếm thị:

Cùng với cảm giác xúc giác, cảm giác thính giác là một trong những cảm
giác quan trọng giúp trẻ mù giao tiếp, định hướng trong các hoạt động: học tập,
lao động và sinh hoạt cuộc sống. Tai người hơn hẳn tai động vật ở chỗ hiểu
được ngôn ngữ, cảm thụ được phẩm chất của âm thanh như cường độ, trường độ
và nhịp điệu. Âm thanh phản ánh nhiều thông tin:
- Vật nào phát ra âm thanh.
- Khoảng cách và vị trí không gian của vật phát ra âm thanh đối với
người nghe, các vật xung quanh.
- Vật phát ra âm thanh tĩnh tại hay chuyển động? chuyển động theo
hướng nào? (an toàn hay nguy hiểm; sôi động hay yên tĩnh...).
- Nhờ âm thanh giọng nói của đối tượng đang giao tiếp, trẻ mù có thể
biết được trạng thái tâm lý của họ. Ngưỡng cảm giác thính giác của trẻ khiếm
thị . Độ nhạy cảm âm thanh của mọi người đều phát triển theo quy luật như
nhau, tuy nhiên, khi bị mù buộc họ phải thường xuyên lắng nghe đủ mọi âm
thanh, nên độ nhạy cảm giác nghe của họ tốt. Nói như vậy, không có nghĩa là
mọi người mù đều có độ nhạy âm thanh tốt hơn người sáng mắt. Khoa học và
thực tiễn đã chứng minh được rằng: muốn có độ nhạy của thính giác cần phải
được rèn luyện thường xuyên. Âm nhạc là một công cụ rèn luyện thính giác rất
tốt cho trẻ mù. c) Đặc điểm các loại cảm giác khác của trẻ mù Cảm giác cơ


khớp vận động Là cảm giác nhận biết tín hiệu từ các cơ quan vận động của cơ
thể. Với người sáng mắt, cảm giác cơ khớp vận động ít có ý nghĩa.
- Với người mù, nhờ có cảm giác này trong khi di chuyển họ điều chỉnh
bước đi chính xác hơn, nhận biết nhiều dấu hiệu không gian, khoảng cách,
phương hướng, tốc độ...của vật thể. Cảm giác rung là cảm giác phản ánh sự dao
động của môi trường không khí. Loại cảm giác này ở người bình thường ít có ý
nghĩa thiết thực trừ một số ít người làm nghề lái máy bay, lái ô tô, lái xe gắn
máy...nhờ nó có thể biết được tình trạng hoạt động của máy móc.
- Với người mù nhờ cảm giác rung, họ đoán được vật cản, độ lớn,

khoảng trống sắp đi tới. Cảm giác mùi, vị Cảm giác mùi, vị phản ánh tính chất
hoá học của vật chất. Khi vật chất đó tan trong không khí (hiện tượng thăng
hoa), tác động vào cơ quan thụ cảm là mũi (mùi); Khi vật chất đó được cơ quan
thụ cảm là lưỡi tiếp nhận (vị); Thông qua mùi, vị người mù dễ xác định được
đối tượng: nhà ăn hay nhà vệ sinh; Người mù cảm nhận người quen có thể qua
mùi mồ hôi... Cảm giác thăng bằng Là cảm giác phản ánh sự cảm nhận vị trí của
cơ thể trong không gian; Bộ máy nhạy cảm thăng bằng là bộ phận tiền đình nằm
ở tai trong. Thực nghiệm cho thấy: trong điều kiện như nhau, nếu người sáng
mắt nhắm lại thì người mù có độ nhạy cảm thăng bằng và định hướng không
gian tốt hơn.
* Đặc điểm tri giác của trẻ khiếm thị:
Tri giác là một quá trình tâm lý phản ánh một cách trọn vẹn thuộc tính
của sự vật và hiện tượng khi chúng tác động trực tiếp vào các giác quan của ta.
Không phải chỉ có một cơ quan mà có cả hệ cơ quan phân tích tham gia vào quá
trình tri giác. Tuỳ theo đối tượng và nhiệm vụ tri giác mà xác định giác quan
nào giữ vai trò chính. Nếu nghe giảng văn thì thính giác giữ vai trò chủ yếu, nếu
xem tranh vẽ thì mắt giữ vai trò chính. Hình ảnh xuất hiện trên vỏ não do tri
giác sờ đem lại tuy bị hạn chế hơn so với tri giác nhìn nhưng cũng giúp cho trẻ
mù nhận biết hình ảnh một cách trung thực. Giữa mắt và tay có thể phản ánh
những dấu hiệu giống nhau (hình dạng, độ lớn, phương hướng, khoảng cách,
thực thể, chuyển động hay đứng yên), và những dấu hiệu khác nhau.
- Nhận biết màu sắc ánh sáng, bóng tối thì mắt mới phản ánh đầy đủ trọn
vẹn;
- Nhận biết về áp lực, trọng lượng, nhiệt độ thì tay phản ánh tốt hơn.
Thực nghiệm cho thấy: hiệu quả tri giác sờ chỉ được phát huy khi trẻ bị mù hoàn


toàn. Đó là điều lý giải vì sao người sáng mắt khi bị bịt mắt để sờ đọc và viết
chữ nổi không hiệu quả như người mù.
1.7.4.4.b Đặc điểm nhận thức lý tính của trẻ khiếm thị:

* Đặc điểm tư duy của trẻ khiếm thị:
- Tư duy là một quá trình tâm lý phản ánh những thuộc tính bản chất,
nhưng mối liên hệ bên trong, có tính quy luật của sự vật, hiện tượng trong hiện
thực khách quan mà trước đó ta chưa biết.
- Ngôn ngữ giữ vai trò đặc biệt trong quá trình tư duy. ở trẻ mù, chức
năng cơ bản của ngôn ngữ không bị rối loạn. Do đó tư duy của trẻ vẫn đủ điều
kiện phát triển. Tuy nhiên, những thao tác tư duy diễn ra phức tạp và khó khăn:
- Quá trình phân tích, tổng hợp dựa trên kết quả của quá trình nhận thức
cảm tính (cảm giác, tri giác). Ở trẻ mù, nhận thức cảm tính lại bị khiếm khuyết,
không đầy đủ, do đó, ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả tư duy (phân tích, tổng
hợp);
- Quá trình so sánh thường dựa vào kết quả phân tích, tổng hợp, để tìm ra
những dấu hiệu giống và khác nhau giữa các sự vật và hiện tượng. Trẻ mù khó
tự tìm ra những dấu hiệu bản chất để khái quát hoá và phân loại theo một hệ
thống xác định. Đôi khi các em chỉ dựa vào một dấu hiệu đơn lẻ để khái quát
thành một nhóm chung. Nhờ có khả năng bù trừ chức năng của các giác quan
nên khả năng nhận thức của trẻ không bị ảnh hưởng nhiều, vì thế tư duy của trẻ
mù vẫn có thể phát triển bình thường.
* Đặc điểm biểu tượng và tưởng tượng của trẻ khiếm thị:
Biểu tượng là những hình ảnh được lưu giữ lại, nhờ kết quả tri giác sự
vật và hiện tượng trước đó. Đó là những hình ảnh xuất hiện trên não bộ không
phải do các sự vật đang trực tiếp tác động lên cơ quan cảm giác mà chỉ là hình
ảnh của trí nhớ. Do những hạn chế của quá trình tiếp nhận thông tin của trẻ
khiếm thị, biểu tượng của trẻ khiếm thị có những đặc điểm sau:
- Khuyết lệch, nghèo nàn;
-Hình ảnh bị đứt đoạn;
- Mức độ khái quát thấp. Tưởng tượng là một quá trình tâm lý phản ánh
những cái chưa từng có trong kinh nghiệm của cá nhân, là quá trình xây dựng



×