Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Thiền và Thần đạo trong thơ Haiku. So sánh Thơ Haiku và Thơ Đường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.13 KB, 17 trang )

VĂN HÓA ĐÔNG Á
MỤC LỤC
I.

II.

III.

I.

TỔNG QUAN.................................................................................................1
1. Tư tưởng Thiền
2. Thần Đạo
3. Thơ Haiku
4. Thơ Đường
THIỀN VÀ THẦN ĐẠO TRONG THƠ HAIKU...........................................6
1. Thiền trong thơ Haiku
2. Thần Đạo trong thơ Haiku
SO SÁNH THƠ HAIKU VÀ THƠ ĐƯỜNG................................................14

TỔNG QUAN:
1. Tư tưởng Thiền:
a. Sự truyền bá tư tưởng Thiền vào Nhật Bản:
Thiền tông là tông phái Phật giáo Đại thừa xuất phát từ Trung Quốc. Thiền tông
sinh ra trong khoảng thế kỉ thứ 6, thứ 7, khi Bồ-đề-đạt-ma đưa phép Thiền của đạo Phật
vào Trung Quốc cùng với sự hấp thụ một phần nào đạo Lão. Nơi đây, Thiền tông trở

1


VĂN HÓA ĐÔNG Á


thành một tông phái lớn, với mục đích là “hành giả trực nhận” bản thể của sự vật và đạt
giác ngộ, như Phật Thích-ca Mâu-ni đã đạt được dưới gốc cây Bồ-đề.
Phật giáo được đưa đến Nhật Bản từ thế kỷ thứ 8 trong thời kỳ Nara và Hei-an
và sau đó trở thành một phần quan trọng trong lịch sử và văn hóa của đất nước này.
Thiền là một tông phái của Phật giáo Đại thừa để lại ảnh hưởng sâu sắc tới nghệ thuật
và văn hóa truyền thống của Nhật. Thiền tông được phát triển ở Trung Hoa trong thế kỷ
thứ 6 và được truyền bá tới Nhật Bản vào thế kỷ 13 trong thời kỳ Kamakura (11921233) khi một số tăng nhân người Nhật như Minh Am Vinh Tây (1141-1215), Nam
Phố Thiệu Minh (1235-1308) hay Đạo Nguyên Hi Huyền (1200-1253) du hành tới
Trung Hoa đại lục để tiếp thụ Thiền tông từ các thiền sư Trung Quốc trước khi trở về
Nhật Bản và mở ra các thiền viện của các chi Lâm Tế và Tào Động.Văn hóa Nhật Bản
thấm nhuần tinh thần thiền tông từ thơ ca,hội họa,sân khấu,kiến trúc cho đến trà đạo,
hoa đạo... đều thấm nhuần tinh thần này. Không chỉ ảnh hưởng đến nghệ thuật, thiền
còn đi vào đời sống thường ngày của người dân Nhật trong ăn uống nghỉ ngơi và cả
trong kinh doanh. Có thể nói rằng Thiền đã trở thành sinh mệnh và cốt tủy của văn hóa
Nhật. Nhiều xứ sở ở vùng Đông Á cũng chịu ảnh hưởng của phật giáo Thiền tông
nhưng không nơi nào thấm nhuần đến mức độ thâm sâu và bền vững như ta thấy ở
quần đảo này.
b. Thiền tông
Về mặt ngữ âm, Zen là cách phát âm Nhật Bản của chữ Thiền và cách gọi đó đã
trở nên quen thuộc trên toàn thế giới. Người Trung Quốc đã phiên âm các chữ
Dhyana,Jhana của Ấn Độ thành chữ Ch’an na, rồi gọi tắt là Ch’an. Cách gọi đó sang
Nhật là “Zen” còn Việt Nam là “Thiền”.
Thiền là một tông phái Phật giáo, với một đường lối thu luyện thâm tâm nhằm đạt đến
giác ngộ. Thiền được xem là kết tinh của những gì tuyệt diệu nhất của phật giáo Đại
thừa. Nhưng cũng có thể nói đó là kết hợp tài hoa của tư tưởng Ấn Độ và các nền văn
hóa viễn Đông mà nổi bật nhất là Trung Quốc và Nhật Bản.
Theo Takashima Rosen - người được xem như nhân vật phật giáo vĩ đại nhất của Nhật
Bản ngày nay thì “mục tiêu của Thiền là để kiến tánh và chứng ngộ, nhưng đó không
phải là nơi an trụ cuối cùng... Trên quan điểm chứng ngộ chân lí là bình thường,không
có gì đặc biệt. Nơi an trụ cuối cùng của Thiền, mạch sống của Phật giáo chính là Thiền


2


VĂN HÓA ĐÔNG Á
trong hoạt động, không lạc ra sinh hoạt tự nhiên của đời sống bình thường hàng ngày.
Như vậy dù không để ý đến ngày và đêm, chúng ta vẫn sống trong Phật pháp và áp
dụng nó. Vậy thì cần gì phải giác ngộ và tụ tập?” Đi cũng là Thiền và ngồi cũng
Thiền”. Nhưng không phải thế, nước đã đun sôi và sau đó để nguội chắc chắn phải
khác với nước thường mặc dù cả hai đều nguội. Phải có sự khác biệt giữa một thường
nhân và môn đệ đã trải qua công phu tu luyện lâu dài. Nếu không thế, tụ tập thiền định
ắt là vô dụng.”
Thiền không đưa ta tới một điểm nào cả. Không có không gian và không có thời gian
nào để cho thiền đi tới. Nó giản dị kéo ta về với chính ta trong bản tâm thanh tịnh, về
với quanh ta trong ánh sáng trí tuệ. Nhưng cả ta và đời sống quanh ta bỗng dưng mới
lạ, kì diệu và ta sống trong “vĩnh cửu của từng khoảnh khắc”, một cuộc sống viên mãn
và hài hòa.
Xuyên suốt thời kỳ trung đại, tinh thần của Thiền tông trở thành nguồn cảm hứng bất
tận cho các nghệ nhân Nhật Bản. Ảnh hưởng của Thiền tới văn hóa Nhật sâu rộng tới
mức có thể nói “Thiền là một tính cách đặc sắc của văn hóa đất nước này” ( trích lời
nhà nghiên cứu văn hóa Nhật D.T Suzuki ).
2. Thần Đạo
Thần đạo (tiếng Nhật: 神 神 , Shintō) đượ xem là tín ngưỡng và tôn giáo của dân
tộc Nhật Bản. Thần đạo Nhật Bản có đến 8 triệu thần (神 kami). Một số các vị thần này
được nhân cách hóa, đa phần các thần liên quan đến thiên nhiên như linh hồn của đất,
trời, Mặt Trăng, cây cỏ, hoa lá. Ngay cả đá, núi, hay động vật như cáo, gấu và người
quá cố đã trở thành linh hồn cũng được xem là thần. Những thần trú ngụ ở tầng cao
nhất trên thiên đàng gọi là "cao thiên nguyên" (神神神 takama-ga-hara), và chỉ rời khỏi
đó khi được mời xuống các đền thờ trong các nghi lễ.
Nghi lễ trong Thần đạo để cầu nguyện hay cảm tạ các thần thường được tổ chức tại các

thần xã (神神) hoặc những nơi linh thiêng đặc biệt. Những linh vật thường được dâng lên
thần linh là vải, gương hay kiếm. Nghi lễ tẩy trần rất quan trọng, người làm lễ phải giữ
cho mình được trong sáng để được tĩnh tâm và có được may mắn. Ngày nay, các hoạt
động nghi lễ Thần đạo thường được gắn với lễ hội, lễ cưới truyền thống hay năm mới.
Tuy nhiên người ta cũng thường hay đến đền để cầu nguyện và dâng lễ (thường là chỉ

3


VĂN HÓA ĐÔNG Á
bỏ vài yen vào thùng rồi cầu xin thần), hay mua bùa may mắn. Và ở nhà cũng thường
có thần bằng (神神 kamidana) để thờ các linh hồn.
Tư tưởng của Thần đạo khác với những tôn giáo khác ở chỗ không cấm hay buộc con
người làm gì, mà chỉ khuyên nên hướng tới sự trong sáng và tránh điều ác. Giết chóc
đối với Thần đạo là điều ác và không nên giết sinh vật trừ khi vì sự sống còn của bạn,
nên trước khi ăn thường phải nói câu Itadakimasu! (神神神神) để cảm ơn những sinh linh
đã chết để trở thành thức ăn, ngày nay điều này đã trở thành một phong tục. Những
người hay sinh vật bị giết một cách dã man, và không được thờ cúng sẽ trở thành
hoang thần dạng ( 神 神 神 aragami). Ngoài ra, còn có rất nhiều loại ma quỷ như quỷ
(神 oni), yêu quái (神神 youkai), hà đồng (神神 kappa)...
3.

Thơ Haiku:

Haiku là thể thơ phái sinh từ tanka. Tanka là thể thơ tiêu biểu nhất của waka - tên
gọi chung của thơ viết bằng tiếng Nhật để phân biệt với Hán thi, nên về sau, người ta
dùng từ tanka đồng nhất với waka.
Bài thơ theo thể tanka có 31 âm tiết, chia thành 5 dòng theo nhịp phách 5-7-5-7-7.
Từ thế kỷ XIV - XV, khi tanka bắt đầu có dấu hiệu đi xuống, trên thi đàn Nhật Bản
xuất hiện thể renga (liên ca). Renga cũng có nhịp phách 5-7-5-7-7 như tanka nhưng

tách thành hai phần 5-7-5 và 7-7 rõ rệt, số lượng câu không hạn chế. Sang thế kỉ XVI,
công chúng yêu thơ Nhật Bản rất thích trò chơi nối thơ nên renga trở nên phổ biến và
bình dân hơn, thậm chí có nhiều bài renga được làm với mục đích hài hước, châm chọc
gọi là haikai. Phần đầu hokku của bài renga là tiền thân của thơ haiku. Như vậy, haiku
có nguồn gốc từ tanka, renga. Lúc đầu có tên là haikai (đến thế kỉ XIX mới có tên gọi
haiku). Haiku rất thịnh hành vào thế kỉ XVII và phát triển mạnh trong thời Edo (1603 1867). Vào thời kì này, haiku đã dần mất đi sắc thái hóm hỉnh, trào lộng nguyên thủy
và thay vào đó là âm hưởng bàng bạc, sâu thẳm của Thiền tông. Haiku phiên âm theo
lối chữ Kanji (Hán tự) là bài cú, có nghĩa là câu nói để trình bày. Ngày nay thơ Haiku
chỉ còn 17 âm tiết theo nhịp 5 – 7- 5.
Các nhà thơ Haiku nổi tiếng của Nhật Bản: Matsuo Basho (1644 – 1694), Yosa
Buson (1716 – 1783), Kobayashi Issa (1763 – 1827).
4.

Thơ Đường
4


VĂN HÓA ĐÔNG Á
Thơ Đường luật hay Thơ luật Đường là thể thơ Đường cách luật xuất hiện từ
đời nhà Đường, Trung Quốc. Là một trong những dạng thơ Đường bên cạnh cổ thể (cổ
phong),từ, thơ Đường luật đã phát triển mạnh mẽ tại chính quê hương của thể loại và
lan tỏa ra nhiều quốc gia lân bang với tư cách thể loại tiêu biểu nhất của thơ Đường nói
riêng và tinh hoa thi ca Trung Hoa nói chung. Thơ Đường luật còn được gọi với tên thơ
cận thể để đối lập với thơ cổ thể vốn không theo cách luật ấy.
Thơ Đường luật có một hệ thống quy tắc phức tạp được thể hiện ở 5 điều sau: Luật,
Niêm, Vần, Đối và Bố cục. Về hình thức, thơ Đường luật có các dạng "thất ngôn bát
cú" (tám câu, mỗi câu bảy chữ) được xem là dạng chuẩn; biến thể có các dạng: "thất
ngôn tứ tuyệt" (bốn câu, mỗi câu bảy chữ), "ngũ ngôn tứ tuyệt" (bốn câu, mỗi câu năm
chữ), "ngũ ngôn bát cú" (tám câu, mỗi câu năm chữ) cũng như các dạng ít phổ biến
khác. Người Việt Nam cũng tuân thủ hoàn toàn các quy tắc này.

Thơ Đường ra đời và phát triển hưng thịnh vào thời nhà Đường (618 – 907). Thời
nhà Đường, trước khi thơ Đường ra đời, các thi sĩ thường sáng tác theo 2 thể chính:
nhạc phủ ca hành, và cổ phong. Thơ cổ phong không hạn định về số câu, số chữ, không
bị câu thúc bỡi luật lệ khắt khe niêm luật vv…
Các thi sĩ đời Đường qua trải nghiệm sáng tác, và sự sáng tạo cần phải có đã cho ra đời
một thể thơ được lấy từ nền thơ cổ phong, với sự hòan chỉnh về cấu trúc, âm điệu, tiết
tấu vv… và như thế THƠ ĐƯỜNG được chính thức ra đời. Các nhà thơ bắt đầu thấy
thú vị với luật thi, vì khi sáng tác theo lối này, bài thơ đọc lên sẽ có âm điệu nhịp
nhàng, cấu trúc hài hòa, chữ nghĩa tinh lọc. Thời ấy, ở Trung Quốc những người làm
thơ cũng chưa chia thơ Đường theo bố cục: “đề thực luận kết” hay “khai thừa chuyển
hợp”, hoặc “Khởi kết, khởi phục, hô ứng, nhất khí”. Mặc dù trong thực tế có những bài
thơ tự nhiên có được bố cục như thế. Kim Thánh Thán khi phân tích những bài thơ
Đường luật cũng chỉ chia làm hai phần: “ Thượng bán tiệt ” và “ hạ bán tiệt ”mà thôi.
Ngôn ngữ thơ Đường ngay từ hồi mới khai sanh thể thơ này, đã là một thứ ngôn ngữ có
chọn lọc, bởi chỉ chừng ấy câu, chừng ấy chữ, tác giả phải chuyển tải cho được những
nội dung mình cần truyền đạt đến người đọc. Ngôn ngữ thơ Đường được các tác giả
chọn lọc và cân nhắc kĩ lưỡng khi sáng tác.

5


VĂN HÓA ĐÔNG Á
Các nhà thơ Đường nổi tiếng của Trung Quốc: Lý Bạch (701- 762), Đỗ
Phủ(712–770), Bạch Cư Dị (772-846), Vương Bột (647–675).
II.

Thiền và Thần Đạo trong thơ Haiku:
1. Thiền trong thơ Haiku:
Thiền tông du nhập vào Nhật Bản trong thế kỉ 12, đầu thế kỉ 13 và đã để lại
nhiều dấu ấn sâu sắc lên cách tư duy và lối sống của người Nhật, như cách sống hòa

hợp với tự nhiên, đơn giản cuộc sống, nhìn thấy cái đẹp trong những sự vật nhỏ bé đến
tầm thường.
Thiền, như các vị Thiền sư nhấn mạnh, là trở về với tự nhiên, nhìn nhận được bản thể
của sự vật và đạt được “giác ngộ”. Thơ Haiku ra đời vào thế kỉ 17 đã chịu nhiều ảnh
hưởng của Thiền tông. Thiền và thơ Haiku có một mối quan hệ rất sâu sắc. Nhiều nhà
thơ Haiku cũng vừa là Thiền sư như Matsuo Basho (một trong Tứ trụ Haiku của Nhật
Bản),… Về Thiền tông thể hiện qua văn hóa Nhật Bản, thì cảm thức wabi và sabi là
những khái niệm trọng yếu của Thiền Nhật Bản. Wabi và sabi là những mỹ cảm truyền
thống Nhật Bản gắn với vẻ đẹp của sự đơn sơ và hài hòa. Theo Daisetsu Teitaru
Suzuki, wabi nghĩa là “đơn sơ” hay “không thuộc về sự thời thượng”. Sabi bao hàm sự
khiêm nhường và sự không hoàn hảo cổ điển, biểu hiện hành động đơn giản hoặc
không nỗ lực và sự phong phú của những dấu tích thời gian, chứa đựng những yếu tố
tạo ra những câu hỏi không thể lý giải về bản thể tới mức độ của việc sáng tạo nghệ
thuật. Ba tính chất quan trọng của wabi và sabi bao gồm vô thường, không hoàn hảo và
chưa hoàn thành.
Thơ Haiku chú trọng vào những sự vật, cảnh vật nhỏ bé, tầm thường, dễ bị lãng quên
và tập trung ghi lại những sự việc ở ngay trước mắt. Đặc biệt thơ Haiku chỉ gợi mà
không tả, do vậy, mỗi người khi đọc lên sẽ có những liên tưởng và cảm xúc khác nhau.
Khi nói đến người Nhật và nền văn hóa của họ, người ta có thể thấy được một trong
những đặc trưng nổi bật nhất. Đó là họ có vẻ thay vì hứng thú với những cái gì to lớn,
hào nhoáng, những tư tưởng vĩ đại, thì lại đem lòng yêu mến những sự vật rất đơn sơ,
giản dị, vốn rất mờ nhạt trong cuộc sống, như một bông hoa mới nở, một chú ếch, bầy
đóm đóm nhỏ, chiếc lá rơi,… Thơ Haiku với mười bảy âm tiết, rất ngắn và đơn giản
đến mức người ta nghi ngờ tầm vóc văn chương của nó. Nghiền ngẫm những bài thơ

6


VĂN HÓA ĐÔNG Á
Haiku của Nhật Bản, hẳn ai cũng sẽ ngạc nhiên trước điều họ chưa bao giờ nghĩ tới, đó

là sự xúc động của người Nhật trước những sự vật tầm thường, nhỏ bé đó. Chính
những sự vật nhỏ bé, tầm thường thường bị bỏ qua trong văn học phương Tây đó đã sở
hữu một mối quan hệ mật thiết với vụ trụ trên quan điểm của Thiền tông và thơ Haiku.
Cụ thể thì tính thiền trong thơ Haiku được thể hiện qua những cảm thức thẩm mỹ rất
tinh tế như: cái vắng lặng (sabi), đơn sơ (wabi), buồn thương (aware), nhẹ nhàng
(karumi), u huyền (yugen),… Chúng ta hãy xem qua một bài thơ nổi tiếng của Basho:
Furu ike ya!

Ao cũ

kawazu tobikomu

con ếch nhảy vào

mizu no oto

vang tiếng nước xao

(Nhật Chiêu dịch)
Bài thơ bắt đầu với hình ảnh của một chiếc “ao cũ”. Chiếc “ao cũ” này gợi cho người
đọc một chiếc ao với bối cảnh mang cảm giác cổ xưa, tĩnh lặng, tịch mịch. Và có một
“con ếch” đã nhảy vào ao, làm nước văng tung tóe, phá tan cái khung cảnh tĩnh lặng
trước đó. Tất cả những gì còn lại sau đó là tiếng vang của nước, nước sóng xao sau
chuyển động của chú ếch. Có lẽ, Basho đã muốn lấy cái” động”, tức con ếch nhảy để
miêu tả cái “tĩnh”, tức khung cảnh tĩnh lặng trước đó. Nhờ cái “động” trong tức thời ấy
mà người ta mới nhận ra được cái “tĩnh” của vĩnh hằng; bài thơ có lẽ muốn ca ngợi sự
tĩnh lặng trong chiều sâu thăm thẳm ẩn giấu dưới sự xô bồ của cuộc sống trần thế.
Chiếc ao cũ “đơn sơ”, chú ếch nhảy vào, phá đi cái tĩnh lặng của mặt ao, như sự “vô
thường” của cuộc đời, để lại một khung cảnh dang dở với những tiếng nước sóng xao.
Nhưng, thay vì áp đặt cảm nhận chủ quan của mình lên một bài thơ Haiku như tôi đã

bàn ở trên, chúng ta cần hiểu rằng sự sáng tạo của thơ Haiku được thể hiện một cách
rất “trực quan” (nhìn thẳng). Chính từ cái nhìn “trực quan” vào một sự kiện trước mắt
đó mà bài thơ sẽ đánh thức những cảm nhận riêng tư của mỗi người. Tính thiền của thơ
Haiku chính là ở đây, nó hướng đến những sự vật như nó vốn có, không cố gắng áp đặt
bất cứ thứ trí tuệ bóng bầy, duy lý, rập khuôn nào. Bởi nếu cố gắng đưa những trí tuệ,
khái niệm, suy nghĩ duy lý để phân tích thơ Haiku thì sẽ hủy diệt đi cái hay, cái đẹp của

7


VĂN HÓA ĐÔNG Á
bài thơ. Mỗi người, khi tiếp cận bài thơ này, sẽ phải để lòng mình rộng mở, đánh thức
cái “vô thức vũ trụ” – cầu nối tâm linh giữa con người với vũ trụ bao la, hướng đến sự
nhìn nhận rõ ràng bản thể của sự vật, đi đến “giác ngộ”, mới có thể hiểu được cái sâu
sắc và tinh tế của Thiền sư Basho.
Sau đây là một bài thơ Haiku nổi tiếng khác được sáng tác bởi nữ thi sĩ Chiyo (1703 –
1075):
Asagao ya!

Hoa triêu nhan ơi

Tsurube torarete

Gàu kia ai buộc cạnh

Morai mizu

Đành xin nước nhà người

Nếu trường hợp của Basho là chính cái ao cũ đã tạo cơ hội cho ông tương giao với sự

vĩnh cửu thì đây, chính bông hoa triêu nhan kia đã gặp gỡ với bà Chiyo và kết nối bà
với cái đẹp của Vũ trụ.
Nhìn lại bài thơ một chút, tại sao bà phải đi xin nước nhà người khác? Vào thời kỳ
trước, nguồn nước sinh hoạt dự trữ cho các hộ gia đình thường được để bên ngoài ngôi
nhà, đặc biệt ở các vùng nông thôn. Nước được lấy lên bằng một cái gàu. Như vậy, vào
một buổi sáng nọ, khi bà ra ngoài nhà múc nước thì chợt phát hiện ra trên gàu nước có
một nhánh hoa triêu nhan nở rực rỡ. Dù xúc động trước vẻ đẹp của bông hoa, nhưng bà
nhận ra mình vẫn cần phải lấy nước dùng. Tuy nhiên, bà không nỡ lấy chiếc gàu múc
nước, vì nó sẽ làm kinh động đến đóa hoa, thế là bà đành sang nhà bên cạnh xin nước.
Có lẽ sau khi đọc bài thơ xong, người ta sẽ không hiểu, không hiểu rất nhiều thứ.
Chẳng hạn như tính thơ ca của nó, làm gì có tính thơ ca nào ở đây khi hoa triêu nhan
lúc ấy chỉ là một loài hoa dại, dễ mọc, có thể mọc ở bất cứ đâu ở miền nông thôn Nhật.
Và tính giản dị đó cũng chẳng gợi cho người ta bất cứ cảm xúc đặc biệt nào. Chuyện
xin nước nhà bên cũng thật “ngớ ngẩn”, cớ gì phải phiền phức như thế? Chiyo có thể
đã cắt dây leo đó đi, thả gàu nước ra. Đơn giản như vậy! Và nhiều người cũng sẽ không
thấy sự lãng mạn hay cảm hứng thi ca ở đâu trong hoàn cảnh đó.
Nhưng, liệu bông hoa đó có thật sự tầm thường không? Không phải thơ Haiku vốn chú
trọng đến những vật như thế sao? Tính Thiền trong Haiku đã được thể hiện sâu sắc ở
8


VĂN HÓA ĐÔNG Á
đây. Thiền là gì, là trở về với tự nhiên. Đóa hoa triêu nhan đó tượng trưng cho tự nhiên,
cũng cho vũ trụ. Khi Chiyo động lòng trước vẻ đẹp đơn sơ, giản dị của đóa hoa, bà đã
có một cuộc tương giao với vũ trụ, cả vũ trụ ẩn chứa trong một bông hoa tầm thường
này. Khi con người ta tách riêng mình và thế giới, lắng nghe, ngắm nhìn, để tâm đến
những sự vật nhỏ bé quanh mình, nhìn ra bản thể của nó, đó là lúc người ta trở thành
nhà thơ, cảm nhận cái đẹp của cuộc sống. Có lẽ, chính sức sống mãnh liệt của hoa triêu
nhan đã làm bà rung động, đến thốt lên “hoa triêu nhan ơi”, rồi nhận ra chiếc gàu nước
hoa đng nở lên mà mình đang cần lấy nước, trong tức khác bà quyết định giữ nguyên

cảnh đẹp đơn sơ đó mà sang nhà bên xin nước.
Muốn hiểu được bài thơ, người ta phải thấu hiểu tâm lý và tư duy của người Nhật, bởi
cảm quan thẩm mỹ của họ hướng đến tự nhiên, cảm nhận và sống hòa hợp với tự
nhiên. Thơ Haiku là thể loại hồn nhiên nhất, phù hợp nhất để người Nhật giải tỏa
những cảm xúc của mình. Có lẽ vì vậy chính người Nhật mới có thể cảm nhận trọn vẹn
nhất cái đẹp của thơ Haiku – kiểu thơ mà thay vì cảm nhận bằng tư duy, lý trí thông
thường thì chỉ có thể hiểu khi cảm nhận bằng cả trái tim.
Basho còn có một bài thơ khác:
Kare eda ni

Trên cành khô

Karasu no tomari keri

Con quạ đậu

Aki no kure

Chiều thu

Bài thơ đã vẽ lên khung cảnh tịch mịch của một chiều thu. Khi mà cây giờ đã rụng hết
lá, chỉ còn những cành khô xơ xác. Trên cành cây, có một con quạ đang đậu, càng làm
khung cảnh thêm vắng lặng, tiêu điều. Sự đơn sơ, dở dang của tự nhiên được thể hiện
qua buổi chiều thu, kèm theo đó là sự vô thường của cuộc đời qua những “cành khô
không lá”. Tâm hồn của con người như đồng điệu với cái tĩnh lặng của cả vũ trụ, cá thể
như chìm đắm trong hư vô, hòa làm một với tự nhiên. Ta cảm thấy như mình đang
đứng trước một cái vực sâu thăm thẳm, rồi giật mình tỉnh giấc. Thơ Haiku chỉ gợi, quả
thật là như vậy, tất cả những cảm xúc và trải nghiệm của chính nhà thơ, không thể nào
diễn tả được bằng con chữ. Mười bảy chữ là quá nhiều, hay là quá ít?


9


VĂN HÓA ĐÔNG Á
Thiền tông coi trọng tính chất “đốn ngộ”, tức là “giác ngộ trong tức khắc” trên con
đường tu học. Và Thiền trong thơ Haiku cũng chú trọng tính chất ấy. Một bài thơ
Haiku có thể được coi như một sự cảm nhận đột ngột một cái đẹp nào đó hay sự cảm
nắm bắt bất ngờ ý nghĩa của sự vật do vậy nó có thể được so sánh với chủ trương đốn
ngộ trong Thiền tông, một thiền sư có thể đạt đến giác ngộ ngay khi ông ta thấu thị
được Phật tính của mình trong một khoảnh khắc. Như Shiki (1867-1902) đã viết khi
ông nhận ra cái đẹp của một bông hoa trắng:
Kusau mura ya

Giữa đồng cỏ xanh

Na mo shiranu

Một bông hoa dại

Shiroku saku

Nở ra trắng ngần

Shiki trong một khoảnh khắc đã nhỉn thấy một bông hoa giữa đồng cỏ xanh đang nở
rực rỡ, với màu trắng tinh khiết. Đó chỉ là một bông dại ven đường, nhưng chính sự
nhận ra cái đẹp đơn sơ đó đã khiến tâm hồn Shiki có thể kết nối với vũ trụ, với tự
nhiên, đạt được cái “giác ngộ” trong phút chốc. “Na mo shiranu” nghĩa là “không ai
biết tên”, “vô danh”, “vô nghĩa”, “bé mọn”. Đây là một tính ngữ mà chúng ta dành cho
vạn vật đang tồn tại theo cái lý riêng của nó, với ý nghĩa rằng chúng không là gì cả,
không có bất kỳ giá trị nào; cho đến khi chúng được kết nối vào cái toàn thể của sự

sống hiện tại bằng một cách nào đó. Dù là ngọn cỏ, chiếc lá, bông hoa dại,… tất cả đều
mang sẵn “Phật tính” trong mình. Khi anh cảm nhận được cái đẹp của nó bằng cả tâm
hồn, không gượng ép, suy nghĩ khô khan, anh đã đến thật gần với “giác ngộ”.
Để hiểu thêm về thơ Haiku dưới góc nhìn của người Nhật Bản, tiếp theo xin trích dẫn
một bài thơ của Buson (1716 –1783):
Tsuri – gane ni
Tomarite nemuru
Kocho kana

Trên chuông chùa
ngủ say sưa
một con bướm nhỏ

Vấn đề của chúng ta là, tiếng chuông chùa và con bướm, có gì liên quan ở đây? Đó
chính là sự sáng tạo trong thơ Haiku của Nhật mà chúng ta phải quan tâm đến. Chúng

10


VĂN HÓA ĐÔNG Á
ta có thể liên tưởng đến những cánh bướm rập rờn bay trong một khuôn viên của một
ngôi chùa nào đó. Ngôi chùa ở xa tắp nơi rừng núi vắng lặng, không có một thanh âm
hỗn loạn, xô bồ nào của trần thế có thể vươn đến. Cứ như thế, một cánh bướm nhỏ bé,
đậu lên chiếc chuông, chìm vào giấc ngủ. Chúng ta có thể thấy một hình ảnh tương
phản ở đây, một chú bướm nhỏ bé, mỏng manh đối lập với chiếc chuông chùa to lớn,
tối màu. Chú bướm đang ngủ say trên đó, nhưng nếu một tu sĩ nào đó gõ chuông thì
sao? Theo tôi, có lẽ, qua hình ảnh chú bướm đang say ngủ trên chiếc chuông này, tác
giả muốn gửi gắm niềm cảm khái trước cuộc đời vô thường, đầy biến động. Nếu chiếc
chuông kia bị gõ vào, liệu con bướm đó có hoảng loạn không? Liệu nó có tiếc nuối vì
đã đậu ở đây không? Chúng ta nhìn thấy những toan tính của mình qua viễn cảnh

tương lai của một con bướm. Quả chuông ở đây cũng chẳng mang ý vĩnh cửu. Con
bướm nhỏ, như một lẽ thường tình, sau khi rập rờn bay qua lại những cành hoa xinh
đẹp đang tỏa hương thơm ngát, nó chọn một nơi để dừng chân, chẳng khác gì con
người. Và khi rung động xảy ra, nó sẽ bay đi, cũng tự nhiên như khi đã đến, không
mang một suy nghĩ gì cả, không một chút “phán đoán”, tự giải thoát mình khỏi những
nỗi âu lo, khắc khoải trước đó. Tính Thiền thể hiện ở sự vô thường được gửi gắm qua
những hình tượng đơn sơ như con bướm nhỏ, quả chuông. Cái dang dở mà bài thơ
mang lại là hình ảnh một chú bướm ngủ say trên quả chuông làm người ta liên tưởng
nhiều về những điều sẽ xảy ra sau đó, như, nó sẽ kinh động và bay đi nhưng cũng
khiến người ta không suy nghĩ gì cả, đánh thức cái “vô thức vũ trụ” của mình, nối kết
những sự vật khác nhau để đưa đến một ý nghĩa nào đó, nhận thức được cái “tĩnh” vĩnh
hằng trong cái “động” tức thì, chấp nhận mọi thứ của cuộc sống một cách rất tự nhiên
mà không phải suy xét, phán đoán.
Không phải bất cứ bài thơ nào cũng có yếu tố Thiền nhưng ảnh hưởng của Thiền tông
đến thơ Haiku, có thể dễ dàng thấy được, là rất sâu sắc. Có thể nói, việc nghiên cứu
Thiền học giúp chúng ta dễ dàng thấu hiểu được những cảm thụ mỹ học của Haiku và
ngược lại, thơ Haiku là một cách tiếp cận đầy tính thẩm mỹ đến chân lý của Thiền.
2.

Thần đạo trong thơ Haiku:

Với thơ haiku, yếu tố thần thoại không chỉ là những mô tuýp “vật hóa” mà phần
lớn là “thần hóa”. Với sức mạnh của cú pháp tư duy ẩn dụ, haiku đã chuyển tải thần

11


VĂN HÓA ĐÔNG Á
thoại Nhật Bản lên mức độ “thần thánh” với những câu chuyện về các vị thần, phủ lên
nó không khí thần linh – tôn giáo đậm chất Thiền tông Nhật Bản. Thần thoại về thần

của Nhật Bản có thể còn là những yếu tố có trong tự nhiên và trong con người. Là một
xứ sở huyền bí của Thần đạo với vô số các tập tục và nghi lễ, với vẻ đẹp lãng mạn của
những cánh hoa anh đào nở rộ như những đám mây hoa. Thiên nhiên là nguồn cảm
hứng sáng tác vô tận cho văn học Nhật, đặc biệt là trong lĩnh vực thơ ca. Thơ ca Nhật
là nơi thiên nhiên sống trầm lặng với bao ý nghĩa sâu lắng. Thơ haiku Basho đã ngâm
mình trong thiên nhiên và đưa vẻ đẹp của thiên nhiên đến với con người Nhật và cả thế
giới. Từ những cái nhỏ bé đơn sơ, làm rung động từng cảm giác tinh vi nhất của con
người. Đó là những giá trị thẩm mỹ tuyệt vời của thiên nhiên mà Basho đã đưa vào thơ.
Con người cũng nhờ đó mà gần nhau hơn bằng những xúc cảm qua “thiên nhiên”.
Thiên nhiên đẫm màu sắc Thơ haiku được ví như bức tranh bốn mùa của Nhật
Bản, mỗi bài thơ đều gắn liền với hình ảnh thiên nhiên. Và thiên nhiên trong thơ Haiku
cũng thật đa dạng và phong phú, khi thì nó được hiện lên và khắc họa rất rõ nét, khi thì
lại lung linh, mờ ảo như những con sóng mặt hồ. Mỗi bài thơ là một bức tranh tuyệt
mỹ, những tác phẩm kiệt xuất ấy là kết quả của một đời lãng du trên bước đường hành
giả, làm lữ nhân phù thế. Thiên nhiên trong thơ Basho thật tươi đẹp hồn nhiên trữ tình
nồng thắm. Điều này đã được thể hiện rõ trong những bức tranh thiên nhiên mang đậm
màu sắc luân chuyển theo từng mùa:
“Một đám mây hoa
Chuông đền Ueno vang vọng
Hay đền Asakasa”
Thần thoại về thần của Nhật Bản có thể còn là những yếu tố có trong tự nhiên và trong
con người. Chúng quẩn quanh với những câu chuyện thần thoại được lấy từ Thần đạo
và sau này từ đạo Phật. Đó là những câu chuyện giải thích, lý luận về sự xuất hiện của
các hiện tượng thiên nhiên và lý giải cho tình yêu và sự sùng bái thiên nhiên vô bờ bến
của người Nhật Bản nói chung và nhà thơ lỗi lạc Basho nói riêng.Bài thơ về mùa xuân
chỉ với 3 câu ngắn gọn ở trên đã lột tả hết ý thơ mà nhà thơ Basho muốn nói : Chuông
chùa vang vọng gợi cho người đọc thấy đựơc sự trang nghiêm, cổ kính, trầm mặc và có
phần cô tịch của những ngôi đền nằm trên đỉnh núi vào mùa xuân. Tiếng chuông vang
lên phá tan sự ngưng đọng, yên tĩnh của không gian. Đồng thời cũng phá tan sự yên


12


VĂN HÓA ĐÔNG Á
tĩnh trong tâm tưởng con người, trong lòng Basho, khiến dòng suy tưởng ấy như chùng
lại.
Đi qua thơ haiku mùa xuân của Basho ta như bước lên những thảm cỏ xanh, phảng
phất đâu đó hương thơm của những cánh hoa anh đào, tai nghe đầy tiếng chim tước,
lòng như tràn đầy hơi thở của sự sống. Không gian mùa xuân trong thơ haiku Basho
ấm áp, tươi vui…tất cả được giăng mắc trên khắp cành cây, ngọn cỏ, tràn lan khắp
mười phương, phảng phất khắp thiên - địa - nhân.
“Tiếng ve mải kêu
không hề để lộ
cái chết cận kề.”
Đa số người dân Nhật Bản cho rằng, tiếng kêu của loài ve sầu có thể làm cho mùa hạ
sinh động hơn, có sức lôi cuốn hơn, song ve sầu vẫn là biểu hiện của một cuộc đời
ngắn ngủi. Nhưng ở đây Basho không đi miêu tả chú ve mà dừng lại ở tiếng ve “mãi
kêu”. Một đặc tính của ve sầu là kêu râm ran, dường như không ngừng nghỉ khi hạ tới,
tiếng ve làm cho mùa hạ như náo nhiệt hơn, bầu trời thêm căng tràn, mây xanh trong
và nắng vàng rải khắp nơi nơi. Nhưng rồi cũng chính tiếng kêu đó lại báo hiệu một
vòng đời mới cho chú, sau hạ chú phải lột xác, điều đó cũng đồng nghĩa với cái chết.
Nhưng chú không quan tâm tới điều đó, điều chú quan tâm là tác dụng, ý nghĩa tiếng
kêu của mình với đời sống con người. Chú ve nhỏ bé nhưng cũng có tâm hồn, cũng
biết nghĩ tới giá trị sống như con người vậy.
Mùa thu đến với cảm giác se lạnh, chúng ta có cảm tưởng rằng thời gian và mọi thứ
như đang ngưng đọng lại. Những làn gió nhẹ, những lá vàng lác đác, đám lá khô xào
xạc, cánh cúc ngây thơ, sắc phong rủ đỏ…tất cả tạo nên sắc thu riêng biệt, đặc trưng
không thể lẫn lộn của mùa thu nơi xử sở hoa anh đào lãng mạn nên thơ:
“Trăng thu
suốt đêm tôi dạo

loanh quanh bên hồ”
Đông sang, ở đất nước Nhật Bản mọi vật từ hoa lá, phố phường,con người… đều trở
thành những nét vẽ trên nền tuyết trắng. Tuyết tràn ngập khắp nơi…gợi lên cho con
người cảm giác lạnh lẽo nhưng lại cũng đem lại cảm nhận của sự thuần khiết, tinh khôi.
Tâm hồn của một người như Basho đã cảm nhận được sự lạnh lẽo ấy rằng:
“Mùa đông vò võ
13


VĂN HÓA ĐÔNG Á
thế gian một màu
và âm thanh gió “
Ngoài ra, trên con đường của một thiền sư đầy gió bụi, thiên nhiên là người bạn thân
thiết, luôn kề vai sát cánh cùng nhà thơ Basho. Với ông,thiên nhiên là hiện thân của cái
đẹp. Người yêu thiên nhiên bằng tình cảm chân thành của một "lữ nhân phù thế". Thiên
nhiên cũng chính là hình ảnh quê hương đất nước:
“Chim đỗ quyên hót
ở kinh đô
mà nhớ kinh đô.”
Với từng bước đi trên đường đời, thi nhân không tránh khỏi bùi ngùi nhớ về một cái gì
xa xôi trong sâu thẳm tâm hồn về một miền quê mà ông đã từng gửi thân qua cuộc đời
gió bụi. Đó là nỗi nhớ quê hương không nguôi. Basho đang ở kinh đô nghe tiếng chim
đỗ vũ (chim đỗ quyên) hót, lòng bâng khuâng nhớ về quê cũ. Ở kinh đô này lại nhớ
kinh đô xưa - kinh đô của ký ức một thời đã xa, đã vĩnh viễn mất đi chỉ còn đọng lại
trong nỗi nhớ khi nghe tiếng chim kêu báo hiệu mùa hè.
Tóm lại, qua một số bài thơ haiku của Basho có thể nhận thấy rằng bằng sự nhân cách
hóa các vị thần trong tư tưởng thần đạo của con người Nhật Bản cụ thể ở đây là sự
nhân cách hóa các vị thần thiên nhiên: mùa màng, hoa lá, cây cỏ, núi, trăng, gió… vào
trong thơ haiku nên những bài thơ đều mang đậm tư tưởng thần đạo. Từng ý thơ, câu
chữ khi mới đọc lướt qua có thể không đem lại ngay điều ấn tượng nhưng nếu suy nghĩ

nhìn nhận kĩ hơn thật sự đã thể hiện rất nhiều ý nghĩa sâu xa trong đó. Chính bởi tính
chất sâu sắc của thơ ca đã làm cho những huyền thoại cổ xưa, bao gồm các câu chuyện
thần thoại, trở thành chất liệu quý giá cho văn học, nghệ thuật. Đây là một sản phẩm
dựa trên trí tưởng tượng của con người, từ những cái nguyên thủy hoang sơ nhất, thần
thánh nhất, và không kém phần mơ hồ về nguồn gốc của thế giới, các hiện tượng thiên
nhiên. Dù là Nhật Bản hay bất cứ quốc gia nào đi nữa, ít hoặc nhiều, đều có chứa đầy
kho thần thoại riêng của mình về sự hình thành ban đầu của vũ trụ.
III.
1.

SO SÁNH THƠ HAIKU VÀ THƠ ĐƯỜNG
Về nguồn gốc:

Haiku là thể thơ phái sinh từ tanka, khoảng thế kỉ XIII. Sang thế kỉ XVI, công
chúng yêu thơ Nhật Bản rất thích trò chơi nối thơ nên renga trở nên phổ biến và bình

14


VĂN HÓA ĐÔNG Á
dân hơn, thậm chí có nhiều bài renga được làm với mục đích hài hước, châm chọc gọi
là haikai.
Phần đầu hokku của bài renga là tiền thân của thơ haiku. Như vậy, haiku có nguồn gốc
từ tanka, renga. Lúc đầu có tên là haikai (đến thế kỉ XIX mới có tên gọi haiku). Haiku
rất thịnh hành vào thế kỉ XVII và phát triển mạnh trong thời Edo (1603 - 1867). Vào
thời kì này, haiku đã dần mất đi sắc thái hóm hỉnh, trào lộng nguyên thủy và thay vào
đó là âm hưởng bàng bạc, sâu thẳm của Thiền tông. Haiku phiên âm theo lối chữ Kanji
(Hán tự) là bài cú, có nghĩa là câu nói để trình bày.
Thơ Đường ra đời khoảng thế kỉ thứ VII và phát triển hưng thịnh vào thời
Đường. Bởi giai đoạn này có rất nhiều vị Vua thông minh, lỗi lạc và đặc biệt rất coi

trọng Thi ca. Thơ Đường hay toàn bộ thơ ca đời Đường được các nhà thơ người Trung
Quốc sáng tác trong khoảng từ thế kỉ VII - X (618 - 907). Các sáng tác của hàng nghìn
nhà thơ đời Đường được bảo tồn trong cuốn Toàn Đường thi gồm 48.900 bài. Đời
Thanh chọn 300 bài do Hành Đường thoái sĩ và Trần Uyển Tuấn bổ chú thành Đường
thi tam bách thủ được phổ biến rộng rãi ở Trung Quốc, Việt Nam...
Thơ Đường có thể chia ra làm 4 giai đoạn: Sơ Đường (618 - 713), Thịnh Đường (713 766), Trung Đường (766 - 835), Vãn Đường (835 - 907).
2.

Về nội dung:

Hai đề tài nổi bật của haiku là thiên nhiên và cuộc sống đời thường. Một bài thơ
haiku phải thể hiện được cảm thức về thời gian qua quý ngữ (kigo). Quý ngữ có thể là
từ miêu tả các mùa xuân, hạ, thu, đông hoặc là các hình ảnh, hoạt động mang đặc trưng
của mùa. Việc dùng quý ngữ chỉ mùa thể hiện sự gắn bó sâu sắc của người Nhật với
thiên nhiên. Người Phù Tang rất nhạy cảm với bốn mùa, có cảm quan tinh tế về thời
tiết, nhất là sự thay đổi của thiên nhiên. Tuy vậy, thiên nhiên trong thơ haiku thường là
những cảnh vật bình dị, nhỏ bé, tầm thường và dễ bị lãng quên như chú ếch, con quạ,
chú khỉ nhỏ bé, chim đỗ quyên, tiếng ve, đóa hoa dại nở bên bờ suối, hòn đá…
Trăng soi (hình ảnh trừu tượng)
Một bầy ốc nhỏ (hình ảnh cụ thể)
Khóc than đáy nồi (nơi chốn cụ thể)
Thông thường trong thơ đưa ra hai hình ảnh: một hình ảnh trừu tượng sống động và
linh hoạt, một hình ảnh cụ thể ghi dấu thời gian và nơi chốn.
15


VĂN HÓA ĐÔNG Á
Nội dung thơ Đường chủ yếu đề cập đến mối tương giao (nhất thể hóa) giữa chủ
thể - khách thể, hay giữa con người – thiên nhiên, ta – vật. Thiên nhiên cũng có linh
hồn nhưng không phải là phép nhân hóa hay ẩn dụ gì cả. Một bài thơ Đường thể hiện

được sự thống nhất giữa các chủ thể, giữa cái hữu hạn và vô hạn, giữa thiên nhiên và
con người, giữa các quá trình khác nhau trong vũ trụ. Sự thống nhất và đối lập cùng
song song tồn tại trong một bài thơ. Hình ảnh trong thơ Đường còn thể hiện được các
yếu tố đối lập: cao thấp, lớn nhỏ, vô hạn – hữu hạn; các yếu tố mộng - ảo, vô thanh –
hữu thanh, vộ tâm của tự nhiên – hữu tâm của con người… Không gian thơ Đường
thường là bầu trời, trăng, mây, núi sông.. hay nói cách khác là các cảnh vật tự nhiên
mang yếu tố tả thực xen lẫn ảo mộng.
3.

Về hình thức:

Thơ Haiku là thể thơ ngắn chỉ gồm 17 âm tiết, chia làm ba dòng để thể hiện theo
nhịp 5 – 7 – 5. Các thi sĩ haiku thường bắt đầu từ những điểm nhìn đơn lẻ, chớp lấy
một khoảnh khắc có thần của thực tại, đẩy lên đỉnh điểm của cảm xúc và sáng tạo theo
nguyên lý mùa và tính tương quan hình ảnh. Trong một bài thơ haiku thường có một
hình ảnh lớn (vũ trụ) tương xứng với một hình ảnh nhỏ (đời thường). Haiku không mô
tả cảm xúc mà chủ yếu ghi lại sự việc xảy ra trước mắt. Nhà thơ ít dùng tính từ và trạng
từ làm hạn chế sự tưởng tượng của người đọc, vì thế, haiku rất giàu sức gợi. Ở thơ
haiku, ta bắt gặp bút pháp của tranh thủy mặc, thiên về thần thái hơn là đường nét.
Trong thơ haiku cổ điển buộc phải có kigo (神神, quý ngữ) nghĩa là từ miêu tả một mùa
nào đó trong năm. Có thể trực tiếp hay gián tiếp thông qua các hình ảnh, hoạt động hay
những cái gì đó mà mang đặc trưng của một mùa trong năm.
Một bài haiku thường chỉ "gợi" chứ không "tả", và kết thúc thường không có gì rõ
ràng, vậy nên hình ảnh và cảm nhận sau khi đọc thơ hoàn toàn phụ thuộc người đọc.
Mỗi bài haiku thông thường có cấu trúc âm tiết 5 – 7 - 5 trong ba câu. Tuy nhiên, đôi
khi cũng có trường hợp ngoại lệ.
Thơ Đường luật rất đa dạng về dạng (hình thức thể hiện). Có một hệ thống quy
tắc phức tạp được thể hiện ở 5 điều sau: Luật, Niêm, Vần, Đối và Bố cục. Về hình thức,
thơ Đường luật có các dạng "thất ngôn bát cú" (tám câu, mỗi câu bảy chữ) được xem là
dạng chuẩn; biến thể có các dạng: "thất ngôn tứ tuyệt" (bốn câu, mỗi câu bảy chữ),

"ngũ ngôn tứ tuyệt" (bốn câu, mỗi câu năm chữ), "ngũ ngôn bát cú" (tám câu, mỗi câu

16


VĂN HÓA ĐÔNG Á
năm chữ) cũng như các dạng ít phổ biến khác. Người Việt Nam cũng tuân thủ hoàn
toàn các quy tắc này. Thơ Đường thiên về gợi tả, lấy cảnh vật thiên nhiên để nói về
tâm trạng con người – “tả cảnh ngụ tình”.
Sau đây là một bài thơ Thất ngôn tứ tuyệt Đường luật nổi tiếng của Lý Bạch:
HOÀNG HẠC LÂU TỐNG MẠNH HẠO NHIÊN CHI QUẢNG LĂNG
Cố nhân Tây từ Hoàng Hạc lâu

Bạn từ lầu Hạc lên đường

Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu
Cô phàm viễn ảnh bích không tận

Giữa mùa hoa khói châu Dương xuôi dòng
Bóng buồm đã khuất bầu không

Duy kiến trường giang thiên tế lưu.

Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời.

Lý Bạch

Ngô Tất Tố dịch

Các hình ảnh xuất hiện trong thơ Đường thường được trau chuốt và sắc nét hơn hình

ảnh trong thơ Haiku. Ngôn từ cũng được sử dụng đa dạng hơn, số chữ nhiều hơn.
Chính vì thế người đọc sẽ tưởng tượng được nhiều hơn. Khác với yếu tố “gợi chứ
không tả” của thơ Haiku.

17



×