Tải bản đầy đủ (.docx) (90 trang)

Nghiên cứu và xây dựng mô hình giá điện nút cho thị trường cạnh tranh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 90 trang )

1
1

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong
Luận văn là trung thực và chưa ai từng công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện Luận văn này đã được cám ơn và
các thông tin trích dẫn trong Luận văn đã được ghi rõ nguồn góc.
Học viên thực hiện Luận văn


2
2

LỜI CÁM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo Trung tâm nghiên cứu triển khai Khu công
nghệ cao, đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi tham gia khóa học này.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đối với Tiến sĩ Nguyễn Hùng, người đã tận tâm
hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đối với các thầy cô giáo Trường đại học kỹ thuật
công nghệ Tp Hồ Chí Minh, đã truyền thụ cho tôi những kiến thức quý báu trong sốt
quá trình học tập.
Cuối cùng, Cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã giúp đở, động viên tôi
hoàn thành Luận văn này.
Hoàng Công Đức


3
3


TÓM TẮT
Trong tình hình phát triển của ngành điện và xã hội hiện nay, vấn đề minh bạch
về giá điện và thúc đẩy sự phát triển của xã hội đang đưa đến cho chúng ta nhiều vấn
đề cần giải quyết. Và nghiên cứu giá điện trong thị trường điện là một trong những vấn
đề cho ngành điện hiện nay. Đây cũng là lý do chọn đề tài “ Nghiên cứu và xây dựng
mô hình giá điện nút cho thị trường điện cạnh tranh”.
Nội dung của luận văn chủ yếu phân tích các cách tính giá điện cơ bản (phương
pháp tem thư, phương pháp KW-Km), và đi sâu phân tích, chứng minh các yếu tố ảnh
hưởng lên giá điện của phương pháp giá nút ( giá cận biên). Các phân tích chứng minh
thể hiện các vấn đề cơ bản của giá nút như: ảnh hưởng của tổn thất lên giá nút, ảnh
hưởng của tắc nghẽn lên giá nút. Sau đó là đưa ra các biện pháp giải quyết vấn đề tắc
nghẽn như: thay đổi đường dây mới, nâng cấp đường dây, xây dựng nhà máy điện mới,
cải tiến điều khiển. Bên cạnh đó luận văn cũng đã giới thiệu cấu trúc của các thị
trường điện, cách vận hành cơ bản của thị truờng. Giới thiệu quá trình phát triển của
thị truờng điện Việt nam.
Luận văn được trình bày theo năm chương mục. Chương 1: Mở đầu: Trình bày
quá trình vì sao chọn đề tài, tính cấp thiết…Chương 2: Giới thiêu tổng quan về thị
trường điện. Chương 3: Nghiên cứu các phương pháp tính giá điện. Chương 4: Xét các
yếu tố ảnh hưởng lên giá điện nút và vấn đề tắc nghẽn. Chương 5: Kết luận và huớng
phát triển đề tài.

ABSTRACT


4
4

Regarding the development of electricity supply industry, the transparency of
electricity price and its consequent influence on social welfares pose many challenges
to be solved. As a result, research on electricity price on its market is currently a major

issue for the industry. Hence the theme of this research is chosen as “Investigation and
model construction of locational marginal pricing (LMP) for competitive electricity
market”.
The research is mainly concerned with major methods calculating electricity
prices such as postage stamp cost allocation or KW-Km and analyses of factors
affecting the electricity price of LMP method (nodal pricing). Main issues will be
demonstrated and diagnosed including the influences of loss and congestion on LMP.
Based on these analyses, proposed solutions are discussed such as line change, line
upgrade, building new factories and improving the system control. Moreover, the
structure and basic operation of the electricity market are also presented. Additionally,
the progress of the electricity market in Vietnam and its roadmap are briefly depicted.

MỤC LỤC


5
5


6
6

DANH MỤC CÁC BẢNG


Tên bảng

Trang

hiệ

u
Bảng 2.1

Các đặc tính của 3 cách buôn bán điện

23

Bảng 2.2

Các dịch vụ truyền tải chính và phụ và các yêu cầu của chúng

26

Bảng 2.3

Tình hình cải cách ở một số nước phát triển

30

Bảng 3.1

So sánh các phương pháp tính giá trong thị trường điện

52

Bảng 4.1

Thông số đường dây bài toán 7 nút

65


Bảng 4.2

Kết quả thể hiện giá LMP khi không có sự tắc nghẽn

67

Bảng 4.3

Kết quả thể hiện có sự tắc nghẽn trong hệ thống điện

68

Bảng 4.4a

Kết quả thể hiện ảnh hưởng tổn thất lên giá trong hệ thống điện

69

Bảng 4.4b

Kết quả thể hiện ảnh hưởng tổn thất lên giá trong hệ thống điện

69

Bảng 4.5

Kết quả thể hiện ảnh hưởng quá tải lên giá trong hệ thống điện

69


Bảng 4.6

Kết quả mô phỏng hệ thống chưa có đường dây mới.

78

Bảng 4.7

Kết quả mô phỏng hệ thống khi lắp thêm đường dây mới.

79

Bảng 4.8

Thông số đường dây trước khi nâng cấp

79

Bảng 4.9

Thông số đường dây sau khi nâng cấp

80

Bảng 4.10

Kết quả mô phỏng giá LMP khi chưa nâng cấp đường dây.

81


Bảng 4.11

Kết quả mô phỏng giá LMP sau khi nâng cấp đường dây.

81


7
7

DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ,

Ký hiệu

ĐỒ THỊ

Tên hình vẽ và biểu đồ

Trang

Hình 2.1

Lợi ích ròng của xã hội trong thị trường điện cạnh tranh

15

Hình 2.2

Thị trường có nhiều TRANSCO


18

Hình 2.3

Thị trường có một TRANSCO

19

Hình 2.4

Thị trường bán buôn và bán lẻ

20

Hình 2.5

Thị trường chỉ có một nhười mua duy nhất POOLCO

21

Hình 2.6

Giao dịch song phương

21

Hình 2.7

Sàn giao dịch


22

Hình 2.8

Giao dịch trong thị trường bán lẻ

24

Hình 2.9

Các giao dịch trong thị trường điện

27

Hình 2.10

Sơ đồ tính giá trong thị trường điện tập trung

28

Hình 2.11

Hàm đặc trưng cho giá bán và giá mua

29

Hình 2.12

Tương quan giữa tăng trưởng nguồn và phụ tải cực đại


37

Hình 2.13

Biểu đồ cơ cấu công suất đặt nguồn năm 2011

37

Hình 2.14

Tiến độ triển khai thị trường điện tại Việt Nam

39

Hình 3.1

Mô tả tỉ lệ công suất vào ra của một nút

50

Hình 3.2

Ví dụ theo phương pháp tính AP

51

Hình 3.3

Phương pháp tham gia biên


52

Hình 4.1

Tuyến tính hoá đường cong

63

Hình 4.2

Sơ đồ dữ liệu mô phỏng hê thồng điện 3 nút

64

Hình 4.3

Kết quả mô phỏng hệ thống không ràng buộc

64

Hình 4.4

Kết quả mô phỏng hệ thống có ràng buộc

65

Hình 4.5

Sơ đồ dữ liệu mô phỏng hê thồng điện 7 nút


66

Hình 4.6

Kết quả mô phỏng giá LMP của hệ thống điện

67

Hình 4.7

Mô phỏng tăng tải tại nút 5 lên 170MW

68


8
8

Hình 4.8

Mô phỏng tăng tải tại nút 5 lên 250MW

70

Hình 4.9

Hệ thống khi chưa có đường dây mới

78


Hình 4.10

Hệ thống khi lắp đặt thêm đường dây mới

78

Hình 4.11

Kết quả mô phỏng giá LMP khi chưa nâng cấp đường dây

80

Hình 4.12

Kết quả mô phỏng giá LMP khi nâng cấp đường dây.

81


9

CHƯƠNG 1 : MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề - Lý do chọn đề tài
Ngành điện ngày nay đã trở thành cơ sở hạ tầng của nền kinh tế, mức tiêu thụ
trở thành thước đo trình độ kinh tế của mỗi quốc gia. Để khắc phục những tồn tại, đáp
ứng những thách thức mới đặt ra trong xu hướng toàn cầu hoá, thực hiện thắng lợi
công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Ngành điện cần phải tiếp tục đổi
mới, phát triển và nâng cao hiệu quả trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, đảm bảo
giá cả, độ tin cậy, chất lượng, quyền tự do lựa chọn của khách hàng đồng thời có khả

năng cạnh tranh với các công ty điện lực trong khu vực và thế giới là vấn đề thiết yếu.
Thực hiện mục tiêu hiện đại hoá, công nghiệp hóa đất nước trong đó ngành điện
là ngành công nghiệp mũi nhọn, ngành điện Việt Nam đang đứng trước nhiều cơ hội
cũng như nhiều thách thức mới. Trong đó, những khó khăn lớn nhất mà ngành điện
Việt Nam sẽ phải đối mặt là:
- Thiếu nguồn để đáp ứng nhu cầu điện năng của toàn xã hội ngày càng tăng trưởng
vượt bậc.
- Thiếu vốn để đầu tư phát triển nguồn và lưới điện.
- Xuất hiện các đối thủ cạnh tranh trong và ngoài nước.
Để khắc phục khó khăn và chuẩn bị tốt cho việc triển khai thực hiện thị trường
điện lực cạnh tranh, trong những năm qua EVN đã thực hiện nhiều biện pháp để nâng
cao hiệu quả sản xuất kinh doanh như: Cổ phần hoá, chuyển đổi một số đơn vị thành
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, giao giá bán điện nội bộ cho các Công ty
điện lực, giá hạch toán nội bộ cho các nhà máy điện…Các biện pháp này đã tỏ ra có
hiệu quả trong thời gian qua và tạo các điều kiện tiền đề cho các đơn vị này tách ra
hoạt động độc lập và cạnh tranh với các đơn vị kinh doanh điện khác không thuộc
EVN.
Trong quá trình chuẩn bị cho thị trường điện cạnh tranh đã có nhiều nghiên cứu
nhưng chỉ chủ yếu tập trung ở việc nghiên cứu, đánh giá những ưu, khuyết điểm của
mô hình tổ chức hiện tại và đề xuất mô hình áp dụng theo từng cấp độ phát triển của
thị trường, đề xuất khung pháp lý để đảm bảo sự hoạt động của thị trường điện cạnh
tranh…Tuy nhiên, vấn đề cơ bản nhất trong thị trường điện cạnh tranh là việc xác định
rõ ràng chi phí của quá trình sản xuất, truyền tải, phân phối và thiết lập cơ chế giá


10

tương ứng lại rất phức tạp và không thống nhất ở các Quốc gia trên thế giới. Vì thế đề
tài nghiên cứu “Nghiên cứu và xây dựng mô hình giá điện nút cho thị trường cạnh
tranh ” là đề tài nghiên cứu có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao đối với ngành điện hiện

nay.
2. Tính cấp thiết của đề tài
Như chúng ta điều biết, điện là nguồn năng lượng không thể thiếu được trong
cuộc sống.Trong công cuộc hiện đại hóa, công nghiệp hóa đất nước, nó là tiêu chí đánh
giá sự nghèo nàn, lạc hậu của một đất nước, là cơ sở hạ tầng của nền kinh tế, mức tiêu
thụ điện là thước đo khả năng kinh tế của mỗi quốc gia. Hiện nay, ngành điện Việt
Nam vẫn còn độc quyền, các Tổng công Ty Điện lực vẫn quản lý ba thành phần chính
của hệ thống: nguồn phát, truyền tải và phân phối.
Trong tình hình hiện nay, cần phải có một tư duy để thay đổi quan điểm về cách
quản lý nguồn phát, truyền tải, phân phối điện năng và cơ chế định mức giá điện cho
bên mua và bên bán. Chúng ta phải xem rằng năng lượng điện là một sản phẩm, một
món hàng được kinh doanh mua, bán có sự chọn lọc của khách hàng, sản phẩm có chất
lượng cao, thấp khác nhau thì có giá trị khác nhau, có như vậy khách hàng mới thỏa
mãn về sản phẩm mà họ bỏ tiền ra mua.
Xu hướng chuyển dịch từ hệ thống điện độc quyền cơ cấu theo chiều dọc sang
thị trường điện cạnh tranh đã và đang diễn ra mạnh mẽ ở nhiều nước trên thế giới. Tập
đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đã sớm nhận thức được các ưu khuyết điểm, cơ hội và
thách thức đòi hỏi phải cải cách ngành điện. Rút kinh nghiệm từ các bài học xây dựng
thị trường điện ở nhiều nước trên thế giới và khu vực, EVN chủ trương xây dựng thị
trường điện linh hoạt, mềm dẻo nhằm nâng cao hiệu quả sản suất kinh doanh, tạo ra
một môi trường thu hút các nhà đầu tư vào ngành Điện, bảo vệ lợi ích của các khách
hàng và quyền lợi chính đáng của các doanh nghiệp kinh doanh điện.
Việc nghiên cứu các vấn đề trong thị trường điện và xác định giá điện tại các
nút trong hệ thống điện sẽ làm cơ sở cho việc hình thành và phát triển thị trường điện
tại Việt Nam.
Để tìm hiểu kỹ về các thành phần cấu thành giá tại các nút, đã có nhiều phương
pháp,giải thuật được đưa ra. Luận văn này trình bày phương pháp xây dựng giá điện
nút không chỉ là các máy phát điện mà còn các ràng buộc khác như là nguồn phát,
nghẽn mạch, vị trí, tổn thất trong toàn bộ hệ thống điện.



11

3. Mục tiêu của đề tài
- Xây dựng mô hình giá điện nút của thị trường điện. Phân tích đánh giá các yếu
tố ảnh hưởng đến giá điện nút.
4. Nội dung nghiên cứu
- Nghiên cứu tổng quan về thị trường giá điện.
- Nghiên cứu bài toán OPF trong thị trường điện
- Mô phỏng cho hệ thống điện bằng phần mềm Power world.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
- Tìm hiểu, nghiên cứu thị trường điện các thành phần và quá trình phát triển
của thị trường điện. Tìm hiểu các mô hình giá điện và đánh giá các yếu tố ảnh hưởng
đến giá nút trong thị trường điện.
* Phương pháp nghiên cứu
- Xác định hàm mục tiêu và các hàm ràng buộc đẳng thức và bất đẳng thức.
- Giải bài toán phân bố công suất tối ưu (OPF)
- Tính toán giá điện nút và đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến giá điện nút.
6. Tổng quan về lĩnh vực nghiên cứu
* Giới thiệu chung về thị trường điện
Lợi ích to lớn của cải cách thị trường điện là việc thực hiện đồng thời cả hai
mục tiêu: Đưa giá điện tiệm cận chi phí biên dài hạn và áp lực cạnh tranh tạo ra việc
tối thiểu hóa chi phí tất cả các khâu trong ngành Công nghiệp Điện. Trong khi đó, các
cơ cấu điều tiết trong ngành Điện liên kết dọc trước đây, dù tốt đến đâu cũng chỉ thực
hiện được một trong hai mục tiêu trên, với triết lý đơn giản là người cung cấp dịch vụ
biết chi phí của mình tốt hơn nhà điều tiết. Cạnh tranh có thể tạo áp lực tăng năng suất
lao động trong ngành Công nghiệp Điện tới 60% và giảm chi phí khâu phát điện tới
40%. Đây chính là lý do dẫn đến cải cách thị trường điện trở thành xu thế tất yếu của
ngành điện các nước trên thế giới. Một biểu hiện rất rõ của xu thế này ở chỗ, ngay cả

các nước gặp phải những thất bại ban đầu, đều không quay trở lại mô hình liên kết dọc
trước đây.
* Tổng quan về một số thị trường điện trên thế giới.
 Brazil


12

Brazil là nước phụ thuộc vào nguồn thủy điện chiếm 84 % sản lượng năm 2005.
Công suất đặt vào khoảng 100 GW với công ty sở hữu vốn nhà nước Eletrobras chiếm
một nửa công suất toàn hệ thống với Tractebel Energia đang là nhà máy sở hữu tư
nhân lớn nhất với công suất khoảng 6,7 GW.
Có hai thị trường giao dịch ở Brazil – một thị trường bị điều tiết Ambiente de
Contratação Regulado-ACR) cho các khách hàng nhỏ ( hộ gia đình và các cơ sở kinh
doanh nhỏ) và một thị trường tự do (Ambiente de Contratação Livre - ACL) cho các
khách hàng lớn.
ACR là một thị trường pool dựa trên cơ sở các hợp đồng dài hạn tương phản với
các thị trường UK trước đây và Nordpool ( thị trường Scandinavia) sử dụng các hợp
đồng ngắn hạn.
Mặc dù, đấu giá tập trung là tương tự một số cách như mô hình thị trường một
người mua duy nhất, các hợp đồng là các công cụ giữa các công ty phát điện và các
công ty phân phối hơn là giữa các nhà máy và người mua duy nhất . Dự báo phụ tải
cũng được thực hiện bởi các công ty phân phối và vì vậy có thể phản ánh chính xác
hơn sự tăng trưởng phụ tải.
 Argentina

Argentina có 25 GW công suất đặt, trong đó 54% là nhiệt điện và 42% là thủy
điện. Khâu phát điện hầu hết đã được tư nhân hóa, có 40 công ty phát điện tư nhân, 2
công ty thủy điện liên quốc gia, một nhà máy điện hạt nhân thuộc sở hữu nhà nước và
một số các nhà thủy điện nhỏ sở hữu nhà nước.

Thị trường bán buôn bao gồm một thị trường tương lai và thị trường giao ngay. Có
một yêu cầu là điện năng bán bởi mỗi nhà máy không được vượt quá 10% của cả
nước. Các nhà máy tự do ký hợp đồng cung cấp điện với các công ty phân phối và các
khách hàng lớn. Các nhà điều tiết sẽ quy định biểu giá cho các khách hàng nhỏ và vừa,
nghĩa là các khách hàng có phụ tải đỉnh dưới 30kV.
Thị trường giao ngay bao gồm một hệ thống xác định giá dựa trên chi phí.Các nhà
máy nhiệt điện nộp bản chào trước 6 tháng và công bố độ sẵn sàng. Các hạn định cho
phép có tính đến sự biến động giá nhiên liệu sẽ cho sự biến động vượt quá một phần
trăm nhất định. Dựa vào dự báo nhu cầu CAMMESA sẽ xác định nhà máy chạy biên
và do đó xác định giá điện năng từng giờ.


13
 Chi Lê

Ngành công nghiệp điện Chi lê đã được tư nhân hóa hoàn toàn. Gần 50 % sản lượng
điện là thủy điện ( chủ yếu ở miền nam) và 50 % nhiệt điện ( chủ yếu ở miền bắc). Hệ
thống điện được chia thành bốn lưới điện chính với lưới điện miền trung (SIC) và
miền bắc (SING) phục vụ hầu hết khách hàng. Có một thị trường “được mô phỏng”
trong đó các nhà máy lớn hơn 100 MW phải lập các bản chào dựa trên chi phí để mua
và bán cho nhau nhằm thỏa mãn các trách nhiệm đã ký kết, các khách hàng lớn và các
công ty phân phối là không có khả năng nhìn thấy giá này. Các thị trường này (trong
mỗi vùng lưới điện) được vận hành bởi cơ quan vận hành thị trường, CDEC.
Chi lê cũng thực hiện một cơ chế đấu giá hợp đồng công suất. Các công typhân phối
phải ký 100% phụ tải dự báo của họ cho ít nhất 3 năm tới. Mỗi một công ty phân phối
tổ chức cuộc đấu giá của mình khi nó được yêu cầu, mặc dù vậy các công ty nhỏ hơn
có thể liên kết với nhau để hưởng lợi từ tính kinh tế quy mô. Chính phủ phải phê duyệt
cuộc đấu giá và họ cũng sẽ quy định một giá trần cho giá đấu.
 Colombia


Colombia có ngành điện đã tư nhân hóa một phần khâu phát điện với 78% điện
năng phát ra là từ các nhà máy thủy điện và 21% từ nhiệt điện năm 2005. Có một thị
trường điện bán buôn cho các giao dịch dài hạn và một thị trường bắt buộc cho các
giao dịch tức thời. Mỗi một công ty phát điện có một giới hạn trên là 25% thị trường
công suất đặt và cũng có một yêu cầu về tính độc lập trong hoạt động ( nghĩa là tách
bạch về tài chính và chức năng) giữa phát điện và phân phối điện.
Colombia có thị trường công suất được gọi là “phí độ tin cậy”. Nó là một cuộc đấu
giá các nghĩa vụ năng lượng cố định (FEOs) cho phép huy động các tổ máy để cố định
độ sẵn sàng năng lượng trong suốt các giai đoạn mùa khô. Quá trình đấu giá là một
kiểu đồng hồ giảm dần (đếm ngược).

 Hy Lạp


14

Điện năng phát ra ở Hy Lạp chủ yếu là các nhà máy nhiệt điện (89%) còn lại thủy
điện chiếm 9% và năng lượng tái tạo 2%. Hầu hết điện năng được cung cấp từ Tập
đoàn điện nhà nước (PPC) , có cổ phần của cả hệ thống truyền tải và phân phối (thông
qua cơ quan vận hành hệ thống truyền tải Helenic, HTSO).
Có hai thị trường đang vận hành ở Hy Lạp, một thị trường bán buôn ngày tới và một
thị trường công suất. Thị trường bán buôn có một giá SMP duy nhất thậm chí hệ thống
truyền tại bị nghẽn giữa các vung nam và bắc. Giá SMP là trung bình chung của bất kỳ
kết quả giá nào tạo ra tín hiệu vị trí xây dựng mới trong vùng có thiếu công suất.
Khi thiếu công suất được dự báo trước cho TSO thì một giá đầu tiên đấu giá loại bản
chào cho các hợp đồng sai khác (CfDs) được thực hiện đối với giá thị trường, các hợp
đồng này được chuyển cho LSE sau khi đấu giá .Để khuyến khích các đơn vị mới vào
thị trường TSO bảo đảm một số chi phí cố định của họ nếu họ thất bị để đạt 70% chi
phí của mình trong thị trường ngày tới.
 Tây Úc


Ở Tây Úc, điện được sản xuất gần như hoàn toàn từ than và khí tự nhiên và được tư
nhân hóa một phần, với 45% điện năng phát năm 2004 là từ các công ty tư nhân. Khâu
bán lẻ đã tư nhân hóa một phần với khách hàng lớn có điện năng tiêu thụ ít nhất
50MWh/năm. Hệ thống truyền tải và phân phối được sở hữu và vận hành bởi Tập đoàn
Điện miền Tây sở hữu nhà nước đã được chia tách gần đây.
Thị trường bao gồm một thị trường song phương và một thị trường ngày tới.Cũng có
một thị trường công suất riêng biệt với thị trường bán buôn gọi là Cơ chế công suất dự
phòng. Cơ chế này được vận hành bởi cơ quan vận hành độc lập (IMO) sẽ xác định
nhu cầu công suất (khả năng đáp ứng nhu cầu phụ tải đỉnh). Các tín dụng công suất
được chuyển nhượng bởi IMO cho các nhà máy sau đó bán chúng cho các đơn vị bán
lẻ. Các tín dụng này không mua bán song phương mà được mua thông qua một cuộc
đấu giá bởi IMO sẽ bán chúng cho các đơn vị bán lẻ để đáp ứng nhu cầu của họ.
 Thị trường Anh và xứ Wales (trước 2001)

Thị trường Anh và xứ Wales vận hành một thị trường tập trung trước 2001 mà
không có thị trường công suất.
Tư tưởng của thị trường là các dự báo giá được thực hiện bởi các nhà đầu tư sẽ thúc
đẩy khối lượng đầu tư vào công suất, tuy nhiên, cũng có một cơ chế công suất được


15

thay thế. Nó được trả cho tất cả các nhà máy bán điện vào trong thị trường pool dựa
trên giá trị mất tải và giá biên hệ thống (SMP).
Phí công suất = LOLP*(VOLL – SMP)
Tuy nhiên, việc thao túng giá bởi các đơn vị có quyền lực thị trường sẽ ảnh hưởng
đến quyết định thay đổi từ một thị trường tập trung tới một thị trường cân bằng và một
thị trường thanh toán.
 Thổ Nhĩ Kỳ


Ba phần tư điện năng của Thổ Nhĩ Kỳ là nhiệt điện và còn lại là thủy điện.Công ty
phát điện nhà nước EÜAŞ, chiếm gần 61% công suất đặt, về thực chất là thủy điện
nhưng có các quy định cạnh tranh cho một số nguồn nước. Về công suất nhiệt điện,
khoảng 40%( tổng công suất đặt) dưới dạng các hợp đồng BOT, BOO được thực hiện
bởi công ty thương mại nhà nước TETAŞ. Phần công suất còn lại hoạt động trên cơ sở
một IPP nhưng với máy phát tự động như là một đặc điểm nổi bật.
Thổ Nhĩ Kỳ có xu hướng tư nhân hóa tất cả các công ty phân phối cũng như nhiều
nhà máy sở hữu nhà nước và các kế hoạch cải tiến thị trường vào hợp đồng song
phương chính thống hơn với cơ chế cân bằng thiết lập từng giờ giá không cân bằng.
Thổ Nhĩ Kỳ có nhu cầu phụ tải tăng trưởng tương đối nhanh và đe dọa có thể thiếu
điện. Họ đã chủ động tiếp cận phát triển một nghĩa vụ công suất đối với phía cầu và
các cuộc đấu giá hợp đồng để khuyến khích nhà máy mới đảm bảo an ninh cung cấp
điện.
 Pakistan

Ở Pakistan, điện năng phát ra từ nhiệt điện chiếm chủ yếu (64% năm 2005)và thủy
điện (34%), còn lại là điện hạt nhân. Thị trường điện Pakistan là bán tư nhân hóa với
hai công ty sở hữu nhà nước lớn, tích hợp dọc WAPDA và KESC. WAPDA có trách
nhiệm quy hoạch nguồn điện, lưới truyền tải và phân phối, các dự án thủy điện tại
Pakistan. Nó sở hữu và vận hành 4 công ty phát điện, đơn vị vận hành hệ thống
(NTDC) và 9 công ty phân phối. KESC tham gia vào phát điện, truyền tải và phân
phối điện ở Karachi và các vùng lân cận.Có một số nhà máy điện độc lập (IPPs) tham
gia phát điện tính cho dưới một nửa toàn bộ điện năng phát ra mặc dù tất cả thủy điện
thuộc sở hữu công cộng.


16

Đất nước chạy từ bắc xuống nam này với thủy điện ở miền bắc, tải ở miền trung

và nhiệt điện (gas nội địa) ở miền nam. Phụ tải đỉnh mùa hè được thỏa mãn nhờ thủy
điện ở chế độ tràn ra, với thời gian còn lại của năm nó sẽ được sử dụng cho phụ tải
đỉnh và nhiệt điện ở miền nam được sử dụng cho phụ tải đỉnh mùa đông.
Ngoài mùa hè, những tháng nước tràn mực nước hàng ngày được quyết định bởi
các “tranh chấp” chính trị giữa bốn bang.
 New Zealand

Thủy điện chiếm phần lớn (55% năm 2005), còn lại nhiệt điện (35%) và các nguồn
năng lượng tái tạo (10%). Thị trường bán buôn là thị trường bắt buộc được vận hành
bởi M –Co, một công ty tư nhân. Thị trường là thị trường nút với các giá duy nhất cho
mỗi nút, doanh thu phụ thêm từ các chênh lệch giá được hạ giá cho các bên tham gia
thị trường đối với các phí truyền tải và phân phối.
Cơ quan điều tiết ( Ủy ban năng lượng) vận hành một nhà máy chạy dầu công suất
155MW như là một nguồn dự phòng quốc gia. Điện cung cấp của nó được chào một
cách cục bộ khi giá ở nút đó trên 160$/MWh cho 4 hoặc nhiều giờ hơn và nó được
cung cấp ở tất cả các thời điểm khác bất cứ lúc nào giá vượt quá 800$/MWh.
 Ireland

Tất cả khâu của mô hình thị trường điện một người mua duy nhất (SEM) của Ai-len
và Bắc Ai-len đều được tư nhân hóa hoàn toàn với Đơn vị vận hành thị trường
(SEMO) một liên doanh giữa hai cơ quan vận hành lưới truyền tải TSO của Ai –len và
Bắc Ai –len (Eirgrid và SONI). Thị trường là một thị trường toàn phần bắt buộc không
cho phép các giao dịch song phương thực hiện. Giá SMP được xác định dựa trên chạy
lại lịch huy động được tối ưu hóa cho toàn bộ ngày giao dịch thực tế.
Thị trường công suất trong SEM có cấu trúc như sau. Một tổng phí thanh toán cố
định hàng năm được tính và phân bổ cho các giai đoạn công suất (các tháng). Có 3
loại phí được thanh toán cho mỗi tổ máy:


Thanh toán phí công suất cố định




Thanh toán phí công suất sau giao dịch



Thanh toán phí công suất biến đổi

Đối với mỗi loại thanh toán công suất, các trọng số sẽ được tính toán, sau đó các
bản chào của các nhà máy sẽ được kết hợp với độ sẵn sàng, giá trị mất tải và các tính


17

toán trọng số của cơ quan điều tiết đối với mỗi loại thanh toán sẽ đưa ra một giá công
suất và do đó ra được một khoản thanh toán cho mỗi tổ máy. Cần phải nhấn mạnh là có
hai kiểu xác định trọng số cho mỗi loại thanh toán: Cơ quan điều xác định trọng số một phần trăm đơn giản sẽ không thay đổi suốt cả năm, và một các xác định trọng số
dẫn xuất cho mỗi chu kỳ giao dịch suốt cả năm.
 Hàn Quốc

Thị trường điện Hàn Quốc bao gồm một thị trường phát điện đã tư nhân hóa một
phần bán điện vào sàn giao dịch điện năng với một người mua duy nhất cung cấp điện
cho hầu hết tất cả khách hàng dân dụng và công nghiệp. Điện năng được sản xuất chủ
yếu từ than và các nhà máy điện hạt nhân (76%), gas (16%), dầu (7%) và một phần
nhỏ thủy điện (1%) với tổng công suất đặt hơn 60 GW. Năm 2005,điện năng sản xuất
là 391 TWh với phụ tải đỉnh là 54 GW, dự phòng là 14%. Tốc độ tăng trưởng dự kiến
là 4-5% năm và để đáp ứng được nhu cầu này thì cần phải xây dựng thêm tới 24 GW
vào năm 2017.
Đến năm 2001, KEPCO vẫn là một công ty độc quyền ngành dọc chi phí

thống lĩnh thị trường. Sau đó, khâu phát điện đã được chia tách thành 6 công ty độc lập
thuộc sở hữu nhà nước (và KEPCO vẫn được duy trì 1/7 quyền bỏ phiếu trong hội
đồng quản trị) nhưng KEPCO vẫn sở hữu hệ thống phân phối và truyền tải cũng như
tiếp tục là đơn vị mua duy nhất và là nhà cung cấp điện từ sàn giao dịch điện năng.
Các công ty điện lực sở hữu nhà nước chiếm đến 90 % công suất đặt và 96% sản
lượng.
 Tổng kết kinh nghiệm các nước trên thế giới

Các thị trường điện ở các nước như Tây Úc, Anh và xứ Uên trước năm 2001 tập
trung vào các thị trường hợp đồng song phương với cơ chế bắt buộc mua đủ nghĩa vụ
công suất (Tây Úc) hoặc các cơ chế trả phí công suất (Anh và xứ Uên).Các thị trường
ở Nam Mỹ lại chú trọng đến các thị trường hợp đồng để đạt được một mức công suất
hợp lý với hy vọng các hợp đồng sẽ tạo ra một mức độ ổn định mà thị trường giao
ngay không làm được. Các thị trường hợp đồng này (hậu thuẫn bởi các chứng chỉ) có
thể là cạnh tranh chi phí nếu chào giá trong thị trường phát điện liên quốc gia.
Các chứng chỉ công suất ở các nước khác nhau (theo ràng buộc năng lượng hoặc công
suất) cũng khác nhau phụ thuộc vào tỷ lệ công suất thủy điện của từng nước. Brazil và


18

Colombia là các quốc gia phụ thuộc vào nguồn thủy điện và vì vậy sẽ không có đủ
năng lượng cho các năm khô hạn và nên các nước này sử dụng đấu thầu các chứng chỉ
năng lượng cố định. Trong khi đó, Úc lại có các ràng buộc về công suất đỉnh nên sử
dụng các chứng chỉ công suất và được xác định theo công suất phụ tải đỉnh.Phương
pháp tiếp cận ở New Zealand là sử dụng một nhà máy thuộc sở hữu công cộng để đáp
ứng nhu cầu phụ tải đỉnh đã tạo ra một mức giá trần phù hợp cho thị trường điện. Tuy
nhiên, phương pháp này này lại thất bại trong việc khuyến khích mức độ đầu tư hợp lý
vào nguồn mới vì không có thêm đầu tư công suất hợp lý nào đúng thời điểm.
Hiển nhiên là một tổ hợp phát điện đa sở hữu và tương xứng sẽ giảm được khả

năng lũng đoạn thị trường. Giám sát thị trường và phương pháp đấu giá hiệu quả sẽ là
cần thiết.
 Tổng quan về thị trường điện Việt Nam

Không ngoài xu thế chung của ngành Điện thế giới, cải cách ngành Điện của
Việt Nam thể hiện mạnh mẽ bằng Luật Điện Lực năm 2004, trong đó, nêu rõ quá trình
phát triển thị trường điện tại Việt Nam sẽ trải qua 3 giai đoạn:
- Giai đoạn 1: Thị trường phát điện cạnh tranh (2005-2014);
- Giai đoạn 2: Thị trường bán buôn điện cạnh tranh (2015-2022);
- Giai đoạn 3: Thị trường bán lẻ điện cạnh tranh (từ sau 2022).
Trong thị trường điện, giá cả là thông tin quan trọng tác động trực tiếp đến các
hành vi, chiến lược kinh doanh của các bên tham gia, những người mua luôn mong
muốn giá điện thấp trong khi những người bán muốn giá điện cao để mang lại lợi
nhuận cao. Do vậy, muốn thị trường mang lại lợi ích cho xã hội, kinh doanh hoạt
động hiệu quả thì các bên tham gia thị trường cần thiết phải xây dựng chiến lược
chào giá điện hợp lý.
Một thành phần quan trọng tạo nên giá điện là phí truyền tải điện. Phí truyền
tải được xem như là một dạng chi phí chung của tất cả các thành phần tham gia vào
thị trường điện. Vì khâu truyền tải là khâu độc quyền, do đó nhà nước sẽ đứng ra
quản lý để đảm bảo phí truyền tải là hợp lý nhất trên quan điểm cân đối nhu cầu của
các bên tham gia thị trường điện.
Vấn đề đặt ra là phương pháp tính giá điện như thế nào là phù hợp với Việt
Nam tại thời điểm hiện tại và tương lai khi có thị trường điện.


19

7. Kết quả dự kiến đạt được:
- Đưa ra được công thức tính giá điện nút cho thị trường.
- Xây dựng bài toán OPF.

- Mô phỏng cho hệ thống điện minh họa.
- Đánh giá nhận xét kết quả mô phỏng.

CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG ĐIỆN
2.1 TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG ĐIỆN.
2.1.1 Giới thiệu chung.


20

Ngành điện trên thế giới đang phải đương đầu với tái cơ cấu, tiến tới tư nhân hóa
và mở đầu những cuộc cạnh tranh trong thị trường năng lượng điện. Những cải cách
ngành công nghiệp điện trên toàn thế giới được xem như là một điều kiện cần thiết để
tăng tính hiệu quả sản xuất năng lượng điện, truyền tải, phân phối và cung cấp một mức
giá hợp lý hơn, chất lượng cao hơn và sản phẩm an toàn hơn cho khách hàng .
Lịch sử quá trình hình thành và phát triển thị trường điện của một số nước trên thế
giới bắt đầu từ cuối những năm 1970. Mỹ, Chi Lê là những nước đầu tiên cho phép
xây dựng các IPP và bán điện cho các công ty Điện lực độc quyền. Làn sóng cải cách
bắt đầu diễn ra mạnh từ những năm 1990, xuất phát từ Anh sau đó lan rộng ra nhiều quốc
gia khác như: Na Uy, Thụy Điển, Phần Lan, Australia, Canada, NewZealand v.v... Cuối
những năm 1990, cải cách ngành điện bắt đầu lan sang các nước Châu Á như: Nhật,
Hàn Quốc, Trung Quốc, Ấn Độ, Singapo, Thái Lan [5, 10] .
Công nghiệp điện giờ đây đã phát triển thành ngành công nghiệp cung cấp và cạnh
tranh. Thị trường đóng vai trò quyết định giá cả, giảm chi phí cơ bản để tăng tính cạnh
tranh. Việc tái thiết thực sự trở nên cần thiết để phân tách ba thành phần quan trọng
của công nghiệp điện bao gồm: sản xuất, truyền tải và phân phối. Do đó, việc tách rời
truyền tải được coi là ứng dụng phù hợp nhất đáp ứng được biểu giá quy định và huy
động tối đa các nguồn lực cho phát triển lưới điện .
Thời gian gần đây, nhiều hệ thống truyền tải điện liên quốc gia hoặc liên khu vực đã
được xây dựng tạo nền tảng cho việc hình thành các thị trường điện liên quốc gia như thị

trường điện Châu Âu hoặc thị trường điện Bắc Mỹ v.v... Ở những thị trường điện liên
khu vực này, các công ty điện lực có cơ hội để cạnh tranh bán điện sang các quốc gia
lân cận. Điện năng được xuất khẩu hoặc nhập khẩu sang các quốc gia khác như các loại
hàng hóa thông dụng khác.
Hiện nay, HTĐ Việt Nam cũng đã kết nối với một số nước trong khu vực như Trung
Quốc, Lào, Campuchia để mua bán, trao đổi điện và tương lai gần sẽ hình thành hệ
thống truyền tải điện trong các nước ASEAN. Các công ty điện nước ngoài đang và sẽ
vào Việt Nam hoạt động kinh doanh, cạnh tranh với các công ty điện lực của Việt
Nam. Ngược lại, các doanh nghiệp kinh doanh điện của Việt Nam, mà trước tiên là
EVN cũng có cơ hội để tham gia kinh doanh ở các quốc gia trong khu vực như tham
gia mua bán điện trên thị trường điện khu vực, xây dựng các nhà máy điện v.v…


21

Quá trình cải tổ cơ cấu ngành điện Việt Nam và xây dựng thị trường điện sẽ mở
ra môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp kinh doanh điện trên thị
trường điện Việt Nam. Các doanh nghiệp sẽ phải đổi mới một cách cơ bản về tổ chức,
chiến lược kinh doanh, đầu tư v.v... để phù hợp với môi trường kinh doanh mới.
Vì thị trường điện là một vấn đề rất mới đối với Việt Nam, cho nên cần thiết phải có
những nghiên cứu về thị trường điện, từ đó áp dụng một cách linh hoạt, hợp lý để xây
dựng thị trường điện Việt Nam thích hợp trong từng giai đoạn.
2.1.2 Một số khái niệm chung.
Quá trình sản xuất và kinh doanh của ngành công nghiệp điện ở bất cứ quốc gia
nào bao giờ cũng gồm 3 khâu thống nhất với nhau: Sản xuất, truyền tải và phân phối
điện năng. Không giống như các loại hàng hóa khác, điện năng là một loại hàng hóa đặc
biệt, không thể dự trữ được sau khi đã sản xuất ra. Vì vậy, việc cân bằng giữa sản xuất
và tiêu thụ tại mọi thời điểm là quy luật cơ bản của chu trình sản xuất và kinh doanh
điện năng.
Từ trước đến nay, theo cấu trúc truyền thống, các chức năng nêu trên thường được

tập trung trong một công ty: Công ty Điện lực quốc gia. Tài sản của công ty điện lực
hầu hết thuộc sở hữu Nhà nước hoặc một chủ sở hữu nhất định. Dưới dạng ngành dọc
toàn phần như vậy, một công ty sở hữu và vận hành toàn bộ các nhà máy cùng lưới
truyền tải và phân phối, đồng thời đảm nhận việc bán lẻ điện năng tới người sử dụng.
Công ty được độc quyền trong việc sản xuất và bán sản phẩm trong phạm vi dịch vụ của
mình.
Sự tập trung các chức năng trong một công ty như vậy là do xuất phát từ quan
điểm cho rằng nếu như một công ty sở hữu và điều khiển toàn bộ quá trình thì chi phí
cho sản xuất, truyền tải và phân phối điện năng sẽ thấp hơn.
Vậy bản chất độc quyền là gì? Độc quyền là tình trạng xảy ra khi thị trường có
một ngươi bán. Do không có sự cạnh tranh, người giữ độc quyền có thể tự định đoạt
giá bán sản phẩm của mình nhằm mang lại lợi nhuận cao nhất.
Hiện tượng độc quyền có thể xảy ra đối với cả khu vực sở hữu công cộng (ví dụ:
Bưu chính viễn thông, giao thông, cấp nước, v.v...) lẫn khu vực sở hữu tư nhân. Dù
thuộc khu vực sở hữu nào, các đơn vị độc quyền thường được hình thành ở các lĩnh vực
mà Nhà nước (bằng các luật và quy chế) muốn giới hạn sự cạnh tranh.
Theo kinh tế học, đọc quyền tự nhiên xuất hiện khi, do quy luật tăng hiệu quả


22

kinh tế theo quy mô, hiệu quả sản xuất và phân phối của một doanh nghiệp hoặc một
ngành đạt được tối đa khi chỉ có một người cung cấp duy nhất. Khi đó, chi phí trung
bình trên một đơn vị sản phẩm giảm nhanh khi sản lượng tăng lên và thường xuất hiện ở
những ngành có chi phí cố định lớn.
Điện năng là một loại hàng hóa đặt biệt, với đặc thù là sản xuất và tiêu thụ xảy ra
đồng thời, các hoạt động điện lực có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong một hệ
thống điện thống nhất nên mang tính độc quyền tự nhiên cao - dù có sự tham gia rộng
rãi của các thành phần kinh tế. Vì vậy, cần phải điều tiết hoạt động này để hạn chế độc
quyền tự nhiên, không biến độc quyền Nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp.

Khi xem xét hoạt động truyền tải điện, có thể thấy rằng đây là một dạng thị trường
độc quyền tự nhiên. Chi phí cố định cao trong khi chi phí thường xuyên lại có xu
hướng thấp. Vì những lý do như vậy, Nhà nước phải đưa ra các quy định cụ thể để tạo
ra tính cạnh tranh trong các hoạt động của các đơn vị tham gia thị trường điện.
Hơn nữa, hệ thống phân phối và truyền tải là các ranh giới tự nhiên. Lưới phân
phối và truyền tải trong một khu vực do một đơn vị sở hữu và điều khiển mà không có
một đơn vị nào khác được quyền thâm nhập vào. Để cạnh tranh trong hoạt động truyền
tải và phân phối, một đơn vị phải xây dựng lưới truyền tải và phân phối riêng của mình,
điều này chắc chắn là khó thực hiện; đồng thời, nếu có đầu tư xây dựng được chắc chắn
sẽ tốn kém không chỉ về tiền bạc mà còn ảnh hưởng lớn đến hiệu quả kinh tế xã hội trong
việc sử dụng các cơ sở hạ tầng của Quốc gia hay khu vực.
Tóm lại: Từ những phân tích về bản chất độc quyền và độc quyền tự nhiên,
nguyên nhân của sự độc quyền trong ngành điện trong một thời gian dài như vậy là do
bản chất của quá trình sản xuất và kinh doanh của ngành công nghiệp điện.
Khái niệm về thị trường điện: Cũng như các giao dịch thương mại khác, các
giao dịch điện năng cũng cần có các thiết chế như: Người mua, người bán, các hợp đồng,
các cơ chế quản lý thị trường, cơ cấu giá thành, người vận hành thị trường và người vận
hành hệ thống. Như vậy, thị truờng điện là nơi xảy ra các giao dịch điện năng giữa
người bán và người mua, người truyền tải, được xác định bằng các hợp đồng kinh tế
[17, 9].
Thị trường điện hoàn hảo: Một thị trường điện cạnh tranh hoàn hảo đạt được khi
giá trị lợi ích xã hội ròng là cao nhất. Lý thuyết kinh tế vi mô cho thấy rằng lợi ích xã hội
ròng bằng thặng dư của bên mua cộng thặng dư của bên bán (xem hình 1.1). Giá trị này sẽ


23

đạt giá trị cao nhất trong một thị trường cạnh tranh hoàn hảo trong khi sẽ thấp hơn ở các
dạng thị trường với điều kiện khác như thị trường độc quyền hay bán tự do. Vì vậy, khi tiến
hành thực hiện thị trường cạnh tranh, các cấu trúc được xem xét cần hướng đến thị trường

cạnh tranh hoàn hảo để tối ưu hóa giá trị lợi ích xã hội ròng. Vậy, thị trường điện hoàn hảo là
thị trường mà lợi ích xã hội cao nhất hay nhiều người được sử dụng điện nhất.

Hình 2.1 Lợi ích ròng xã hội trong thị trường điện cạnh tranh.
2.1.3 Cấu trúc thị trường điện.
2.1.3.1 Lý do hình thành thị trường điện.
Sự phát triển của công nghiệp điện trên thế giới được chia thành hai giai đoạn :
1-Giai đoạn đầu công nghiệp điện được tổ chức theo kiểu độc quyền, trong một
khu vực địa lý hoặc trong một quốc gia chỉ có một công ty điện duy nhất làm tất cả các công
việc từ sản xuất, truyền tải đến phân phối bán lẻ cho người dùng điện. Công ty điện này
thường là sở hữu Nhà nước hoặc một công ty tư nhân lớn. Nhà nước lập ra hệ thống các
quy định, quy tắc để hệ thống điện này vận hành. Trong hệ thống điện này không có cạnh
tranh.
2-Giai đoạn 2: Từ những năm 80 của thế kỷ trước, một số nước bắt đầu sửa lại các
quy tắc xóa bỏ độc quyền cũ nhằm cho phép cạnh tranh trong công nghiệp điện và như
vậy tạo ra thị trường điện nhằm khuyến khích đầu tư vào công nghiệp điện (de-regulated).
Các lý do dẫn đến thị trường điện :
- Sự cần thiết phải thay đổi cơ chế độc quyền: Có 3 nguyên nhân cơ bản dẫn tới
việc cần phải thay đổi cơ chế độc quyền là những cơ sở cho sự độc quyền trong thị trường
điện đang ngày càng biến mất vào cuối thế kỷ 20. Đó là: Sự độc quyền mang lại cho các
công ty điện một ưu thế là gần như không có rủi ro về kinh doanh trong quá trình phát


24

triển hệ thống điện; hiện nay hầu như không có nơi nào trên thế giới, nơi có điện mà
không có "lưới điện"; chi phí xây dựng đã được khấu hao từ nhiều thập kỷ trước đây.
- Tư nhân hóa: Tư nhân hóa có nghĩa là Chính phủ bán các Công ty thuộc sở hữu
Nhà nước cho các nhà đầu tư tư nhân. Sự thúc đẩy tư nhân hóa và các quan điểm chính trị
đi kèm, luôn hỗ trợ quá trình tự do hóa ngành công nghiệp này.

Quá trình cơ cấu lại ngành điện không phải là một phần của quá trình tư nhân
hóa, mà quá trình này dường như trùng hợp ngẫu nhiên với quá trình tư nhân hóa trong
phạm vi quốc gia, từ sự cần thiết thu hút vốn đầu tư. Như vậy, quá trình xóa bỏ sự độc
quyền gần như luôn luôn song hành cùng quá trình tư nhân hóa.
- Giảm chi phí: Cạnh tranh sẽ tạo ra động lực cho sự đổi mới, năng suất hơn và
giảm chi phí sản xuất. Giảm chi lợi phí để tăng nhuận là mục tiêu của các nhà sản xuất.
Để đạt được mục tiêu này, các công ty bắt buộc phải đầu tư công nghệ sản xuất mới trong
phát triển hệ thống điện. Ví dụ, người ta đã so sánh chi phí công suất trung bình bán ra
của 6 Công ty lớn ở Hoa Kỳ, với chi phí của một trạm biến áp tiêu chuẩn trong giai đoạn
1930 - 2000. Kết quả là giảm giá điện không theo kịp với sự giảm giá thiết bị.
- Thị trường độc quyền không tạo động lực cho sự đổi mới: Hoạt động độc quyền
và việc thiếu đi sự cạnh tranh đã dẫn tới các công ty trong ngành điện mất đi động lực để
cải thiện năng suất, tính chủ động trong kinh doanh hoặc chấp nhận rủi ro về những ý
tưởng mới mà có thể giúp gia tăng lợi ích cho các khách hàng. Ví dụ, từ sau chiến tranh
thế giới II đến năm 1990 thì ở ngành điện trước khi dẫn đến thị trường điện, các công ty
điện vẫn cung cấp tới khách hàng của họ những sản phẩm không có gì thay đổi so với
50 năm trước đó.
- Cạnh tranh sẽ cải thiện mối quan tâm khách hàng: Việc cạnh tranh sẽ thúc đẩy
các nhà sản xuất quan tâm hơn tới khách hàng của họ, cung cấp nhiều lựa chọn hơn
cho khách hàng hoặc giúp khách hàng tăng khả năng quản lý lượng điện tiêu thụ.
Chẳng hạn, một công ty độc quyền lắng nghe khách hàng của họ khi khách hàng nói
lên yêu cầu của mình và sau đó giải quyết các yêu cầu đó; còn một công ty cạnh tranh
luôn tìm hiểu các yêu cầu của khách hàng và giải quyết các yêu cầu đó trước khi khách
hàng phàn nàn.
Tóm lại, cạnh tranh và tập trung vào khách hàng có nghĩa không chỉ là giá thấp
mà còn tăng sự lựa chọn cho khách hàng. Để có thị trường điện một việc quan trọng phải
làm là tái cấu trúc công nghiệp điện chia tách cấu trúc công nghiệp điện cũ, thành lập


25


các tổ chức mới thích hợp với thị trường điện, trong đó có các Cơ quan Nhà nước quản
lý thị trường điện và các quy tắc về quan hệ giữa Cơ quan quản lý Nhà nước và các
doanh nghiệp điện (re structuring) .
Nhà nước cũng phải tư hữu hóa các công ty sản xuất, truyền tải và vận hành do
mình sở hữu, bằng cách cổ phần hóa hoặc bán cho các công ty tư nhân. Nhà nước cũng
phải thay đổi chính sách và quy định để cho phép các nhà đầu tư được bỏ vốn vào công
nghiệp điện.
Nhà nước tạo ra các điều kiện thuận lợi nhất cho các nhà sản xuất và người mua
điện được cạnh tranh với nhau trong việc sản xuất và bán lẻ điện. Lưới điện do nhà
nước sở hữu được mở cửa tự do và công bằng cho mọi người sử dụng để buôn bán điện
( lưới điện mở ).
2.1.3.2. Các thành phần cơ bản của thị trường điện [1,10].
 Thị trường điện bán buôn.

Các thành phần chính của thị trường điện bán buôn :
1-Các công ty sản xuất điện (GENCO): Mỗi công ty sở hữu một hoặc nhiều nhà máy
điện. Các GENCO có chức năng vận hành và bảo dưỡng các nhà máy điện. Thông
thường, các GENCO là các chủ sở hữu của nhà máy. Khi có các GENCO, lưới điện
truyền tải cần được mở cho việc tự do truyền tải điện của các GENCO thông qua các
hợp đồng và chỉ được hạn chế dựa trên tính toán theo thị trường.
2-Các công ty mua điện đó là các công ty phân phối điện địa phương (LDC): Các
công ty này quản lý lưới điện phân phối trung hạ áp, hoặc một bộ phận lưới cao áp (110
kV) mua điện từ GENCO và bán điện đến các hộ tiêu thụ trong một vùng nhất định.
Công ty phân phối điện (DISCO): Mỗi công ty cấp điện cho một khu vực sử dụng điện
hay một tập hợp các hộ tiêu thụ điện.
Công ty phân phối điện thông thường chỉ có chức năng quản lý và bảo dưỡng hệ
thống phân phối để đảm bảo tính ổn định và độ tin cậy. Ngoài trừ trong các mô hình
mua bán điện độc quyền ở cấp phân phối, trong đó công ty phân phối điện vừa làm chức
năng quản lý hệ thống phân phối, vừa độc quyền trong việc bán điện đến các hộ tiêu thụ.

3-Các công ty truyền tải điện (TRANSCO): Mỗi công ty sở hữu một phần lưới điện
cao áp. Các công ty này tải điện từ các GENCO đến LDC. Trên hình 1.2 là thị trường điện
có nhiều TRANSCO được nối với nhau bằng các đường dây dài siêu cao áp; trên hình 1.3


×