Tải bản đầy đủ (.pdf) (60 trang)

Môtíp chuyện tình người và ma trong Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 60 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA: NGỮ VĂN

PHÙNG THỊ LỆ

MÔTÍP CHUYỆN TÌNH NGƯỜI VÀ MA
TRONG LIÊU TRAI CHÍ DỊ CỦA
BỒ TÙNG LINH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học nước ngoài
Người hướng dẫn khoa học

TS. NGUYỄN THỊ BÍCH DUNG


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài này, em luôn nhận được sự hướng dẫn,
chỉ bảo nhiệt tình của Tiến sĩ Nguyễn Thị Bích Dung – Tổ Văn học nước
ngoài, sự động viên khích lệ của các thầy cô giáo trong khoa Ngữ văn –
Trường Đại học Sư phạm hà Nội 2.
Em xin chân thành cảm ơn cô Nguyễn Thị Bích Dung cùng toàn thể
các thầy cô trong khoa Ngữ văn đã giúp đỡ em hoàn thành khóa luận.
Trong khuôn khổ thời gian có hạn nên đề tài khó tránh khỏi những
thiếu sót và hạn chế. Em rất mong nhận được sự đóng góp của các thầy cô
cùng bạn đọc để em tiếp tục hoàn thiện trong quá trình học tập và giảng dạy
sau này.
Hà Nội, ngày…. tháng….. năm 2017
Sinh viên thực hiện

Phùng Thị Lệ



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin khẳng định đề tài nghiên cứu “Môtíp chuyện tình người và ma
trong Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh” là kết quả của riêng mình, đồng
thời đề tài này không trùng với kết quả của tác giả khác.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày… tháng… năm 2017
Người cam đoan

Phùng Thị Lệ


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài......................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ......................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu.................................................................................. 4
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi khảo sát ............................................... 4
5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 4
6. Đóng góp của đề tài ................................................................................... 4
7. Bố cục của khóa luận ................................................................................. 4
NỘI DUNG....................................................................................................... 5
CHƯƠNG 1. BỒ TÙNG LINH VỚI VĂN HỌC DÂN GIAN .................... 5
1.1. Từ tiểu thuyết chí quái Ngụy Tấn, truyền kì đời Đường đến Liêu trai
chí dị của Bồ Tùng Linh ................................................................................ 5
1.1.1. Khái niệm “Tiểu thuyết chí quái”, “Tiểu thuyết truyền kì” ............. 5
1.1.2. Từ tiểu thuyết chí quái Ngụy Tấn, truyền kì đời Đường đến Liêu
trai chí dị của Bồ Tùng Linh ....................................................................... 7
1.2. Môtíp chuyện tình giữa người và ma trong văn học trước Liêu trai chí
dị ................................................................................................................... 13

1.2.1. Khái niệm môtíp ............................................................................. 13
1.2.2. Nhân vật ma trong văn học ............................................................. 14
1.2.3. Môtíp chuyện tình giữa người và ma trong văn học trước Liêu trai
chí dị.......................................................................................................... 16
1.3. Tiểu kết ................................................................................................. 22
CHƯƠNG 2: CHUYỆN TÌNH GIỮA NGƯỜI VÀ MA – BƯỚC ĐỘT
PHÁ MÔTÍP TRUYỀN THỐNG CỦA LIÊU TRAI CHÍ DỊ .................. 24
2.1. Bảng khảo sát và nhận xét .................................................................... 24
2.2. Môtíp hồ mị, ma mị trong Liêu trai chí dị ............................................ 25


2.2.1. Môtíp hồ mị, ma mị trong văn học truyền thống ............................ 25
2.2.2. Môtíp hồ mị, ma mị trong Liêu trai chí dị ...................................... 30
2.3. Chuyện tình giữa người và ma – bước đột phá môtíp truyền thống của
Liêu trai chí dị .............................................................................................. 32
2.3.1. Đột phá trong xây dựng hình tượng nhân vật người và ma trong
Liêu trai ..................................................................................................... 33
2.3.2. Quan niệm phóng khoáng về tình yêu và hạnh phúc...................... 40
2.3.3. Mục đích kết giao giữa người và ma trong Liêu trai gắn liền với
khát vọng ái ân .......................................................................................... 43
2.3.4. Kết thúc có hậu ............................................................................... 47
2.4. Tiểu kết ................................................................................................. 49
KẾT LUẬN .................................................................................................... 50
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Lý do khoa học

Bồ Tùng Linh, một cây bút văn xuôi vĩ đại của văn học Trung Quốc
nửa cuối thế kỉ XVII, nửa đầu thế kỉ XVIII, là tác giả bộ Liêu trai chí dị, cũng
là người thiết kế thành công thế giới nghệ thuật kì ảo, làm say mê bao thế hệ
độc giả từ bao đời nay.
Liêu trai chí dị được sáng tác trong một thời gian dài, là kết tinh một
đời viết sách của Bồ Tùng Linh. Tác phẩm ra đời đã khẳng định được tên tuổi
và tài năng của Bồ Tùng Linh, đặt ông lên hàng những nhà văn kiệt xuất thời
Thuận Trị - Khang Hy.
Tiếng vang của bộ đoản thiên tiểu thuyết đã vượt ra khỏi biên giới
Trung Hoa đến với nhiều nước khác nhau trên thế giới. Người ta đã tốn không
biết bao nhiêu giấy mực để ca ngợi Liêu trai, để nghiên cứu Liêu trai. Tác
phẩm được coi là một đỉnh cao, một tiểu thuyết xuất sắc của văn học Trung
Quốc.
Từ đầu đến cuối bộ tiểu thuyết dài hơn 400 thiên này, tác giả đã tập
trung bút lực để vạch trần, phê phán thực trạng đen tối, mục ruỗng và hủ bại
của chế độ phong kiến Trung Hoa trong buổi chiều tà của nó, đồng thời ca
ngợi những tư tưởng, tình cảm mới mẻ, tiến bộ đang trỗi dậy ngay trong đống
đổ nát của xã hội đương thời. Bằng việc kể những chuyện thần tiên, ma quái,
văn sĩ họ Bồ đã thể hiện được sự cách tân về nghệ thuật và những tiến bộ về
tư tưởng theo chiều hướng tích cực; đây cũng chính là giá trị to lớn của bộ
tiểu thuyết này.
Liêu trai chí dị có quá nửa là những chuyện viết về yêu ma, về chuyện
tình giữa người và ma. Nhân vật chính của Liêu trai là người và ma, và có thể
nguyên nhân chủ yếu tạo nên sức hấp dẫn “khiến mọi người yêu thích bộ Liêu

1


trai chí dị trong một thời gian lâu dài là do trong đó có nhiều chuyện kể về
chuyện tình giữa hồ ly và con người mà nội dung rất tốt đẹp”. Do vậy, nghiên

cứu những câu chuyện tình yêu giữa người và ma sẽ giúp người đọc nhận
thức rõ hơn về giá trị nội dung cũng như giá trị nghệ thuật của tác phẩm, đồng
thời phát hiện ra những khám phá riêng của tác giả so với những cây bút khác
cùng viết về đề tài này. Vì vậy, chúng tôi mạnh dạn lấy Môtíp chuyện tình
người và ma trong Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh làm đề tài cho khóa luận
tốt nghiệp.
1.2. Lý do sư phạm
Bên cạnh Tam Quốc Diễn Nghĩa, Liêu Trai chí dị cũng được đưa vào
giảng dạy ở phổ thông, đây đều là những tác phẩm tiêu biểu xuất sắc của tiểu
thuyết cổ điển Trung Quốc. Vì vậy, tìm hiểu và nghiên cứu Liêu trai chí dị
của Bồ Tùng Linh là cần thiết và bổ ích, một mặt nâng cao kiến thức về văn
học Trung Quốc, phục vụ cho quá trình học tập văn học Trung Quốc, mặt
khác cũng giúp ích cho công tác giảng dạy sau này.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Ngót ba thế kỷ trôi qua, tiếng nói đa nghĩa trong “Thiên cổ kỳ thư” Liêu
trai vẫn là mối quan tâm lớn của bao tầng lớp độc giả. Về bộ tiểu thuyết nổi
tiếng này, có không ít những công trình nghiên cứu đã được ghi nhận ở nhiều
quốc gia trên thế giới.
Nghiên cứu Liêu trai chí dị, ở Việt Nam từ xưa đến nay cũng có không
ít những công trình dành cho tác phẩm này. Nhưng nhìn chung vẫn còn ít ỏi
so với giá trị tầm cỡ của bộ tiểu thuyết văn ngôn khó nhất của văn học cổ
Trung Quốc.
Nguyễn Chí Viễn trong lời tựa cuốn Liêu trai chí dị toàn tập – NXB
Văn hóa Thông tin – 1996 có viết: Tiếp thu truyền thống chí quái thời Ngụy
Tấn và truyền kỳ đời Đường, Liêu trai đã khai thác toàn truyện lạ, đặc biệt là

2


chuyện chung sống giữa người và hồ ly tinh. Ở đây ta thấy, Nguyễn Chí Viễn

đã khẳng định chính chuyện chung sống giữa người và hồ ly tinh trong tác
phẩm là một nhân tố quan trọng tạo nên cái kỳ lạ, cái kỳ ảo cho tác phẩm –
nét độc đáo của thế giới nghệ thuật trong tác phẩm Bồ Tùng Linh.
Lương Duy Thứ trong cuốn Để hiểu tám bộ tiểu thuyết cổ Trung Quốc
– NXB Khoa học – 1990 đã viết: Tác giả mượn chuyện ma quỷ, hồ ly để gián
tiếp lên án hành vi bỉ ổi của người đời và luôn thể răn đe người đời phải tránh
tà tâm mới khỏi mắc họa. Ở đây Lương Duy Thứ đã khẳng định tác giả Bồ
Tùng Linh đã mượn chuyện ma quỷ, hồ ly để lên án xã hội và khuyên răn mọi
người. Đây chính là ý nghĩa của những câu chuyện về ma, hồ mà Bồ Tùng
Linh muốn gửi tới bạn đọc.
Bên cạnh những bài viết khái quát về Liêu trai của các giáo sư: Trần
Xuân Đề, Lương Duy Thứ, Nguyễn Huệ Chi… thì cũng có nhiều công trình
nghiên cứu, luận án, luận văn, báo cáo, chuyên đề… có giá trị về tác phẩm và
có đề cập đến chuyện tình người và ma. Chuyên luận: Thế giới nhân vật trong
Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh của Tiến sĩ Nguyễn Thị Bích Dung, ngoài
những luận điểm thuyết phục về thế giới nhân vật ma nữ còn đề cập đến mô
típ chuyện tình người và ma cũng với những sáng tạo đột phá của Bồ Tùng
Linh.
Tuy vậy, trong phạm vi khảo sát của mình, chúng tôi nhận thấy chưa có
bài nào đề cập đến môtíp chuyện tình người và ma với tư cách là đối tượng
nghiên cứu riêng biệt. Do đó với khóa luận này, chúng tôi mạnh dạn đưa ra
những ý kiến của riêng mình để đóng góp một phần công sức nhỏ bé vào việc
khám phá thế giới nghệ thuật độc đáo của Liêu trai và ý nghĩa nhân văn sâu
sắc của tác phẩm thông qua môtíp chuyện tình người và ma.

3


3. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu những câu chuyện tình người và ma trong Liêu trai chí dị của

Bồ Tùng Linh từ đó làm nổi bật được giá trị nội dung và nghệ thuật của tác
phẩm.
Thấy được quan niệm nghệ thuật tiến bộ của tác giả Bồ Tùng Linh.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi khảo sát
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Môtíp chuyện tình người và ma trong Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh.
4.2. Phạm vi khảo sát
Liêu trai chí dị, Lời bình: Tản Đà, Lời bạt: Chu Văn, NXB Văn học, (1995).
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong khóa luận, chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
sau:
Phương pháp thống kê, phân loại.
Phương pháp khảo sát tác phẩm.
Phương pháp phân tích văn bản.
Phương pháp so sánh, đối chiếu.
6. Đóng góp của đề tài
Với đề tài “Môtíp chuyện tình người và ma trong Liêu trai chí dị của
Bồ Tùng Linh”, chúng tôi mong muốn đóng góp một phần công sức, tuy nhỏ
bé, của mình vào việc khám phá thế giới nghệ thuật phong phú, độc đáo trong
Liêu trai chí dị.
7. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận thì nội dung khóa luận gồm hai
chương:
Chương 1: Bồ Tùng Linh với văn học dân gian
Chương 2: Chuyện tình giữa người và ma – bước đột phá môtíp truyền
thống của Liêu trai chí dị.

4



NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. BỒ TÙNG LINH VỚI VĂN HỌC DÂN GIAN
1.1. Từ tiểu thuyết chí quái Ngụy Tấn, truyền kì đời Đường đến Liêu trai
chí dị của Bồ Tùng Linh
1.1.1. Khái niệm “Tiểu thuyết chí quái”, “Tiểu thuyết truyền kì”
1.1.1.1. Tiểu thuyết chí quái
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, tiểu thuyết chí quái “là một thể loại
văn xuôi tự sự trong văn học Trung Quốc, thường ghi chép những chuyện li
kỳ quái đản, xuất hiện và phát triển từ thời Lục Triều từ đầu thế kỉ III đến
cuối thế kỉ VI”. Tiểu thuyết chí quái tiếp tục phát triển truyền thống của thần
thoại, ngụ ngôn, dã sử, tạp sử các thời đại trước nhưng có căn nguyên sâu xa
trong điều kiện lịch sử thời Lục Triều (281 – 598), một giai đoạn cực kì hỗn
loạn, đầy rẫy những đau thương, chết chóc, lan tràn đủ mọi thứ mê tín và tôn
giáo.
Nội dung của tiểu thuyết chí quái rất phức tạp, có loại ghi những
chuyện kì lạ về các mặt địa lí, động vật thực vật như Bác vật chí, Thần dị chí,
có loại mang tính chất dã sử như: Hán Vũ Đế nội truyện, Thập dị kí, có loại kể
những chuyện thần quái như Liệt dị truyện, Oan hồn chí… Gạt bỏ bộ áo
hoang đường, loại nào cũng có những truyện có giá trị hiện thực song đáng
chú ý hơn cả là những mẩu chuyện dân gian được cải biên ghi lại trong Sưu
thần kí của Can Bảo. Tiểu thuyết chí quái đã chuẩn bị cho sự ra đời của tiểu
thuyết đời Đường và có ảnh hưởng nhiều mặt đối với kịch, tiểu thuyết các
thời đại sau.
1.1.1.2. Tiểu thuyết truyền kì
Truyện truyền kì có nguồn gốc từ truyện kể dân gian Trung Quốc, sau
đó được tác giả ghi chép lại, nâng cao thành một thể loại văn học.

5



Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa truyền kì là “thể loại tự sự ngắn
cổ điển của văn học Trung Quốc thịnh hành ở thời Đường”. “Kì có nghĩa là
không có thực, nhấn mạnh tính chất hư cấu”. Các tác giả Từ điển văn học ( bộ
mới) giới thuyết về khái niệm này đầy đủ, chi tiết hơn: “Truyền kì là một hình
thức văn xuôi tự sự Trung Quốc, bắt nguồn từ truyện kể dân gian, sau các nhà
văn nâng lên thành văn chương bác học, sử dụng các môtíp kì quái, hoang
đường, lồng vào trong cốt truyện có ý nghĩa trần thế. Tuy nhiên trong truyện
bao giờ cũng có nhân vật là người thật và chính nhân vật mang hình thức phi
nhân thì cũng chỉ là sự cách điệu, phóng đại của tâm lí, tính cách một loại
người nào đấy, và vì thế truyện truyền kì mang đậm yếu tố nhân bản, có giá
trị nhân bản sâu sắc.” Nhìn chung, các nhà nghiên cứu đều thống nhất truyền
kì là một thể loại văn xuôi tự sự thời trung đại được đặc trưng bởi tính chất hư
cấu, kì lạ trong nhân vật, cốt truyện nhằm phản ánh hiện thực.
Truyền kì đạt được thành tựu rực rỡ vào đời Đường. Cách xây dựng
nhân vật, tình tiết, ngôn ngữ đều có những khai phá và sáng tạo. Hồng Mại
(đời Tống) đã đánh giá truyền kì đời Đường là “kì diệu một thời”.
Đặc trưng quan trọng nhất của truyền kì là sự kết hợp yếu tố kì và thực.
Cái kì trong truyện truyền kì đã phát triển từ thụ động đến ý thức: từ ảnh
hưởng của văn học dân gian, sử kí, tôn giáo, đến việc được nhà văn sử dụng
như một thủ pháp nghệ thuật, một hạt nhân tự sự quan trọng trong kết cấu tác
phẩm. Cái kì trong truyện truyền kì kết hợp với cái thực trong một kết cấu
thống nhất làm nên đặc trưng của thể loại.
Đặc trưng thứ hai của truyền kì, với tư cách một thể loại văn học nghệ
thuật là sự kết hợp nhiều thể loại văn chương. Trong tác phẩm bên cạnh thể
loại văn xuôi còn nhiều thể loại khác tạo nên một chỉnh thể thẩm mĩ “hàng
hàng châu ngọc, lời lời gấm thêu”. Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử khái quát “

6



truyền kì dùng văn xuôi để kể, đến chỗ tả cảnh, tả tình thì dùng văn biền ngẫu,
đến khi nhân vật bộc lộ cảm xúc thì thường làm thơ”.
Một truyện truyền kì dung lượng thường không lớn. Bố cục mỗi truyện
thường chia thành ba phần: mở đầu giới thiệu danh tính, nguồn gốc nhân vật,
giữa truyện kể lại hành trạng, cuộc đời nhân vật và kết thúc khẳng định tính
chân thực của câu truyện. Phần lời bình nằm cuối mỗi truyện cũng được xem
là một bộ phận hữu cơ trong kết cấu chỉnh thể của thể loại.
1.1.2. Từ tiểu thuyết chí quái Ngụy Tấn, truyền kì đời Đường đến Liêu trai
chí dị của Bồ Tùng Linh
Liêu trai là đứa con tinh thần mà Bồ Tùng Linh thai nghén lâu nhất, nó
là kết quả của hàng chục năm ròng bền bỉ, kiên nhẫn ghi chép, sưu tầm, suy
ngẫm, chiêm nghiệm trong day dứt của một nhà nho bất đắc chí với thời cuộc.
Ông đã chọn thể loại văn học truyền thống với một cách thức thể hiện khác
thường để cất lên tiếng nói của riêng mình.
Cuốn sách được ông ấp ủ trong gần hết cuộc đời của mình: hai mươi
tuổi bắt đầu sưu tầm ghi chép các câu chuyện dân gian, ba mươi tuổi bắt tay
vào viết, bốn mươi tuổi thì hoàn thành và năm mươi tuổi hoàn tất. Có thể nói
ông đã dành hết tâm huyết của cuộc đời cho đứa con tinh thần này, tiếng vang
của bộ sách đã đưa tên tuổi ông trở thành bất tử
Sinh ra trong một gia đình thương nhân đã sa sút. Thân sinh của Bồ
Tùng Linh là Bồ Bàn Canh, do lận đận trên đường khoa cử, nên bỏ Nho học
chuyển sang làm thương nhân, nhưng gia thế vẫn không được phục hồi, gia
đình trước sau vẫn phải sống trong cảnh nghèo túng. Từ ngày còn nhỏ, Bồ
Tùng linh chịu sự giáo dục nghiêm khắc của gia đình, nhiệt tình say sưa với
việc khoa cử. Nhưng con đường khoa hoạn của ông khá long đong, nhiều
phen đến Tế Nam thi Hương đều bị hỏng, có những cuộc thi vì ốm, phải bỏ
dở nửa chừng. Đi thi mãi đến năm 60 tuổi mà vẫn không đỗ đạt, năm 71 tuổi,

7



ông được ban cho một danh nghĩa không có ý nghĩa gì là “Tuế Cống Sinh”.
Nỗi lòng của ông trước sau vẫn lắm bi ai, đau xót. Ông ví mình như Biện
Hòa, người ôm ngọc ba lần dâng cho ba vua Lệ Vương, Võ Vương, Văn
Vương, nhưng hai lần bị chặt cụt chân. Bồ Tùng Linh tiếc tài năng của mình
không được nhà cầm quyền biết đến.
Ông không những gặp nhiều điều bất ý trên con đường khoa cử mà còn
gặp khó khăn vô vàn trong cuộc sống. Ông sống ở thôn quê làm thầy giáo dạy
tư. Bồ Tùng Linh nghèo đến nỗi “nhà không vách, không phên, cây cối um
tùm, gai góc”. Cuộc sống nghèo túng nơi nông thôn hẻo lánh đó giúp ông
hiểu được phần nào đời sống, tình cảm của quần chúng nhân dân. Một số
chuyện trong Liêu trai chí dị biểu hiện tình cảm chân thật đáng quý của ông
đối với người nông dân chất phác.
Trong bài Tự chí ở đầu sách, Bồ Tùng Linh viết:
“Tài học ví đâu Can Bảo, sách thần linh muốn chép như ai
Tình hoài giống với Hàng Châu, chuyện ma quỷ thích nghe người nói
Nghe câu nào chép câu ấy, góp chuyện ngắn, nên tập dài
Ngày lâu còn lắm nơi giữ cho, người thích cho nên phải tìm đến.”
Xem thế đủ biết Liêu trai chí dị nguyên là những câu chuyện truyền
thuyết lưu truyền trong nhân dân và trong những phần tử trí thức thuộc tầng
lớp thấp trong xã hội, do đó nó vẫn giữ được tình cảm của nhân dân và phong
cách của truyền thuyết dân gian. Bên cạnh đó còn có giai thoại cho rằng: Bồ
Tùng Linh thường trải chiếu bên đường chờ cho nông dân đi làm về thì pha
nước mời họ uống và sưu tầm những lời kể của họ.
Ngoài ra, thực tế cho thấy không có một thành tựu đặc sắc nào của
Trung Quốc lại không được kế thừa từ những yếu tố truyền thống. Chẳng hạn
nói đến thơ Đường thì không thể không nhắc đến lịch sử phát triển của thơ
Trung Hoa trong suốt 15 thế kỉ, nói đến thành tựu của tiểu thuyết Minh Thanh

8



không thể không nhắc đến truyện chí quái, chí nhân đời Tấn, truyền kì đời
Đường và thoại bản Tống Nguyên là những thể loại có ảnh hưởng trực tiếp
đến sự phát triển của tiểu thuyết Minh Thanh.
Chính vì lẽ đó có thể khẳng định Liêu trai chí dị là bộ tiểu thuyết đoản
thiên ra đời trên cơ sở kế thừa thành tựu của nền văn học truyền thống và các
sáng tác dân gian. Cội nguồn trực tiếp ảnh hưởng đến tác phẩm Liêu trai chí
dị là những sáng tác dân gian và truyện chí quái Lục Triều, truyền kì đời
Đường . Ảnh hưởng văn học dân gian với Liêu trai chí dị thể hiện ở việc nhào
nặn, vận dụng các môtíp thần thoại, cổ tích nhuần nhuyễn, sử dụng các đề tài,
cốt truyện… của văn học dân gian, tới mức nói đến “không khí Liêu trai”,
“Thế giới Liêu trai” là người ta liên tưởng ngay đến thế giới của những câu
chuyện cổ tích, thần thoại.
1.1.2.1. Về đề tài
Đề tài chủ yếu của Liêu trai chí dị do tác giả sưu tầm trong dân gian,
hoặc rút từ truyện chí quái đời Lục triều, các truyện truyền kì đời nhà Đường
rồi gia công sáng tạo thêm. Hầu hết các truyện nói về thần tiên ma quái, hồ ly
lang sói, hổ báo… cho đến cỏ cây hoa lá, khói mây, đã xuất hiện trong các tác
phẩm của chí quái Ngụy Tấn và Đường truyền kì nay lại xuất hiện trong Liêu
trai. Bồ Tùng Linh đã sử dụng những cốt truyện cũ để sáng tạo nên những câu
truyện mang tư tưởng của chính ông. Nhưng không chỉ vậy, xuyên suốt các
tác phẩm là những câu truyện về người và việc trong cuộc sống hiện thực. Tất
cả những đề tài trên như đề tài tình yêu giữa người với ma, đề tài khoa cử
được tác giả xử lý khéo léo, ít nhiều ngầm chỉ trích nền chính trị tàn bạo của
triều đình Mãn Thanh đương thời, phê phán thói hư tật xấu của bọn nho sĩ, thể
hiện những tư tưởng dân chủ trong vấn đề hôn nhân và tình yêu.

9



1.1.2.2. Về cốt truyện
Thực ra, các cốt truyện trong Liêu trai chí dị không phải hoàn toàn mới
lạ, cũng không phải hoàn toàn do Bồ Tùng Linh sáng tạo ra. Nó là sự kế thừa
của mạch nguồn văn học truyền thống Trung Quốc, đó là truyền thống kể
chuyện dân gian (sưu tầm, nghe đến đâu ghi chép lại đến đấy) và truyền thống
sáng tác bằng văn ngôn từ chí quái chí nhân đời Tấn đến truyền kì đời Đường,
truyền kì và thoại bản đời Tống.
Ta có thể bắt gặp cốt truyện của Nhậm Thị truyện trong các thiên
truyện viết về hồ ly trong Liêu trai như Liên Hương, Lâm Tứ Nương, Tân
Thập tứ nương… Tuy nhiên, cốt truyện Liêu trai phần lớn đều ngắn gọn với
lối triển khai nhanh, kết thúc gọn. Đặc điểm dễ nhận thấy ở truyện ngắn Bồ
Tùng Linh là cốt truyện đơn tuyến và sự giảm thiểu tối đa sự kiện và nhân vật.
Ở Liêu trai, sau những lời dẫn truyện sơ lược, tác giả chuyển ngay điểm nhìn
trần thuật sang nhân vật. Do đó mà những lời đối thoại chiếm tỉ lệ rất cao. Sự
thay đổi điểm nhìn trần thuật, các đoạn đối thoại được móc nối rất sống động
làm cho cốt truyện được mở ra rất nhanh. Ngược lại, lối kết thúc truyện lại rất
bất ngờ và logic. Cách kết thúc bất ngờ và logic của truyện ngắn Bồ Tùng Linh
tạo được dư âm trong lòng người đọc và chứa đựng những ý nghĩa triết lí sâu sắc
về cuộc đời. Với bút pháp táo bạo tân kì, Bồ Tùng Linh đã đem đến cho sáng tác
của mình một diện mạo mới, nó không còn khô cứng vô cảm như những xác ướp
của quá khứ mà lung linh sinh động và có một sức lôi cuốn kì diệu.
1.1.2.3. Về kết cấu
Hầu hết các truyện trong Liêu trai chí dị đều được xây dựng theo kết
cấu truyền thống, kết cấu theo trình tự tự nhiên giống như những tác phẩm chí
quái, truyền kì trước đó, cái gì xảy ra trước kể trước, cái gì xảy ra sau kể sau.
Nó không nhằm mục tiêu miêu tả đời sống theo kiểu xén ngang mà thường là
kể chuyện có đầu cuối, các số phận được miêu tả một cách trọn vẹn, các sự

10



việc có gốc gác, quá trình, kết thúc. Nhưng khác với các bộ tiểu thuyết trường
thiên thường lấy đối tượng phản ánh là những biến cố lịch sử, những vận
động biến đổi của các triều đại, dòng họ, tức là phản ánh hiện thực trên bình
diện rộng cả về không gian và thời gian, Liêu trai miêu tả những lát cắt của
cuộc sống phức tạp, những mảng mẩu của cuộc sống ở phạm vi hẹp hơn.
Trong khi miêu tả, tác giả cố gắng làm cho sự việc thêm éo le, ly lỳ,
khúc chiết. Về mặt này, nó phát huy được đặc điểm truyền thống của truyện
ngắn Trung Quốc. Nhìn chung, tác giả dụng công dàn dựng để mỗi truyện
một khác. Thi sĩ Tản Đà khi dịch Liêu trai có nhận xét: “Truyện Kiều bao
nhiêu câu lục bát mà không câu nào giống câu nào, Liêu trai bao nhiêu truyện
lớn nhỏ mà không truyện nào phảng phất truyện nào”.
1.1.2.4. Về nhân vật
Tiếp thu những tinh hoa của văn học truyền thống nhưng sự hấp dẫn
của Liêu trai lại không phải là ở tính hấp dẫn, ly kì của cốt truyện như các tác
phẩm dân gian. Sự hấp dẫn của Liêu trai nằm ở hệ thống nhân vật và sự tương
tác giữa chúng trong các quan hệ cuộc sống. Mặc dù theo bút pháp của các
truyện truyền kì trước đó, chia nhân vật thành nhiều tuyến khác nhau: thiện và
ác, thực và ảo nhưng các nhân vật trong Liêu trai lại độc đáo với những nét
tính cách rất riêng.
Liêu trai xuất hiện đủ các hạng người, từ nông thôn đến thành thị, từ
đồng bằng cho đến nơi hoang vu, từ đất liền ra ngoài hải đảo, từ cõi phàm lên
cõi tiên, từ dương gian xuống âm phủ… Thế giới ấy có từ vua quan đến
những người đáy cùng xã hội, không thiếu một ai, và nó không chỉ có người
mà có cả ma quỷ, yêu tinh, có Phật, có tiên nữ, đạo nhân,… Những kiểu nhân
vật này đã xuất hiện phổ biến trong các câu truyện chí quái, truyền kì trước đó
qua các sáng tác của Can Bảo, Thẩm Ký Tế, Thang Hiển Tổ,… nhưng đến

11



với Liêu trai, mỗi nhân vật lại mang một màu sắc độc đáo. Nổi bật lên trong
thế giới phức tạp ấy là nhân vật nho sinh và mĩ nhân ma.
Hai kiểu nhân vật nho sinh và mĩ nhân ma trở thành điểm quy chiếu
của toàn bộ thế giới nhân vật trong Liêu trai, trở thành đầu mối của hầu hết
các mối quan hệ trong Liêu trai. Không có kẻ sĩ, mĩ nhân thì sẽ không thể có
Liêu trai, nói đến Liêu trai, người ta nghĩ ngay đến chuyện tình giữa người và
ma, đến những điều sâu thẳm trong tâm hồn…
Điểm cách tân mới mẻ của Liêu trai so với tự sự dân gian và chí quái
truyền kì là ở chỗ tác giả tạo dựng được một nhân vật dẫn truyện – nhân vật
thư sinh. Nhân vật này dẫn dắt độc giả thâm nhập vào thế giới kì ảo của Liêu
trai, hướng dẫn độc giả khám phá và cắt nghĩa cuộc sống theo quan điểm cá
nhân của riêng nó. Trong các câu chuyện kể dân gian, người kể chuyện đóng
vai trò kể lại, trình bày truyện chứ không phải dẫn truyện nên hiện thực được
quan sát theo quan niệm đạo lý của chính họ. Vì vậy cái thế giới mà họ tạo ra
cũng rạch ròi và giản đơn: âm dương được phân đôi, không chia cắt cũng
không nhập vào làm một, người và quỷ cũng được phân định rạch ròi, con
người mang phẩm chất tốt, ma quỷ là lực lượng thù địch tàn bạo. Đến Liêu
trai, cái nhìn khác đi, thế giới trong Liêu trai ma quỷ lẫn lộn với con người,
trong con người có người tốt người xấu, ma quỷ thì không phải lúc nào cũng
xấu, thậm chí có lúc còn giúp người, có lúc người và hồ, ma trở thành tri kỉ
tâm giao sâu sắc. Điều này đã làm cho hiện thực mà tác giả tái hiện trở nên
đời hơn, thực hơn, bao quát hơn, nó không còn là câu chuyện của một thời đại
nữa mà là của mọi thời đại.
1.1.2.5. Về tình tiết
Khi đánh giá về nghệ thuật Liêu trai, Lỗ Tấn trong “Trung Quốc tiểu
thuyết sử lược”, chương 25 có viết: “Dùng phương pháp truyền kì để chép
truyện chí quái, biến ảo khác thường mà như xảy ra trước mắt”. Liêu trai đã


12


kế thừa tinh hoa nghệ thuật của truyện chí quái thời Ngụy Tấn và truyền kì
đời Đường, đồng thời nâng cao thành tựu nghệ thuật của hai thể loại này lên
một tầm cao mới. So với chí quái thì Liêu trai miêu tả một cách tường tận, tỉ
mỉ hơn; so với truyền kì thì cô đọng và hàm súc hơn. Cách viết của Liêu trai
có nhiều chỗ phát triển và sáng tạo. Ngoài cách miêu tả nhân vật, ta còn thấy
rõ điều đó ở việc miêu tả các tình tiết câu truyện. Khi lựa chọn tài liệu và khi
hạ bút, Bồ Tùng Linh luôn chú ý những tình tiết éo le, thú vị được “lạ hoá” và
ra sức thay đổi cách viết để hấp dẫn người đọc. So sánh các truyện truyền kì
đời Đường với các truyện trong Liêu trai của tác giả họ Bồ, ta có thể thấy sự
đồng dạng trong môtíp cốt truyện, song về mặt bố cục, tổ chức sắp xếp sự
kiện, nhân vật, tình tiết thì rõ ràng truyện của Bồ Tùng Linh gây được hiệu
quả nghệ thuật mạnh mẽ hơn với những câu chuyện chân thật và mang đậm
tính nhân văn.
Tựu chung lại, có thể khẳng định rằng Bồ Tùng Linh đã tiếp thu, kế
thừa những nguyên mẫu thần thoại, cổ tích và truyền thống văn học chí quái,
truyền kì Trung Quốc. Đó là một sự kế thừa xuất sắc. Bằng tài năng và sự
sáng tạo độc đáo, ông đã chuyển hóa cốt truyện dân gian, sáng tạo lại những
cốt truyện truyền kì, chí quái thành những tác phẩm văn học mẫu mực, đem
lại cho nó hơi thở mạnh mẽ của thời đại. Bồ Tùng Linh có thể coi là người
học trò thành công nhất của người thầy văn học dân gian.
1.2. Môtíp chuyện tình giữa người và ma trong văn học trước Liêu trai
chí dị
1.2.1. Khái niệm môtíp
“Môtíp (motif) là một công thức có tính ước lệ, biểu trưng nghệ thuật
của một cốt truyện và thường được lặp đi, lặp lại ghi nhận những ấn tượng về
thực tại đặc biệt mạnh mẽ, quan trọng và lặp lại nhiều lần, nó là một đơn vị
trần thuật đơn giản nhất, bằng hình tượng và cũng là những mẫu khái quát sơ


13


khởi có đặc điểm là tính đồng nhất và giống nhau”(Từ điển thuật ngữ văn
học). Thuật ngữ môtíp thường có quan hệ giữa đề tài và cốt truyện. Môtíp có
thể là hạt nhân của cốt truyện. Trải qua một quá trình gia tăng, nối dài, phát
triển, nó sẽ trở thành cốt truyện. Thứ hai, đề tài – cốt truyện có thể được coi là
sự kết hợp của những môtíp. Cốt truyện với tính chất là một sơ đồ phức tạp
được hình thành từ một loạt môtíp, nó có thể được lồng ghép trong cốt truyện
và các thành phần của cốt truyện.
Trong công trình 150 thuật ngữ văn học, nhà nghiên cứu Lại Nguyên
Ân cho rằng môtíp “là những thành tố, hoặc những bộ phận lớn nhỏ trong cốt
truyện đã được hình thành ổn định bền vững và được sử dụng nhiều lần trong
sáng tác văn học nghệ thuật, nhất là trong văn học nghệ thuật dân gian”.
Môtíp có thể phân xuất ra từ một hoặc một số tác phẩm văn học, của một nhà
văn, hoặc trong văn cảnh toàn bộ sáng tác của nhà văn ấy, hoặc trong văn
cảnh một khuynh hướng văn học, một thời đại văn học nào đó (Lại Nguyên
Ân, 1999).
Như vậy, môtíp là đơn vị lặp đi lặp lại ở nhiều tác phẩm khác nhau, có
quá trình hình thành lâu dài. Môtíp biểu hiện quan niệm, tư tưởng của tác giả
và có những chức năng nghệ thuật cụ thể. Tuy nhiên, tính bền vững của môtíp
chỉ mang tính tương đối. Hình thái, chức năng biểu đạt của các môtíp sẽ có ít
nhiều sự chuyển hóa qua các tác phẩm của từng thời kỳ văn học.
1.2.2. Nhân vật ma trong văn học
Theo cách hiểu thông thường nhất, thì ma (quỷ) chính là “Hồn người
chết hiện về, theo mê tín”. Ma không chỉ tồn tại trên sách báo, mà quan trọng
hơn, nó tồn tại trong chính tâm linh của con người.
Vương Bình trong cuốn Nghiên cứu về tâm lý sáng tác của tác giả Liêu
trai, đã khẳng định cơ sở để dân gian tin vào ma quỷ có liên quan đến tín

ngưỡng và linh hồn, xuất phát từ quan niệm vạn vật hữu linh. Con người được

14


chia thành hai phần, khi chết đi, thì phần “nhập thổ” chỉ là thể xác (thể
phách), còn linh hồn (tinh anh) trở nên “phi vật chất và bất tử” bay lên trời.
Và cái linh hồn “phi vật chất bất tử” ấy chính là ma. Không những thế, ma
còn là cái bóng, là “cái tôi” thứ hai, là phiên bản của chính chủ thể và hoàn
toàn có thể tách ra khỏi thân thể. Có lẽ phải hiểu như thế thì mới có thể lý giải
được tại sao những tinh hoa, tinh cáo… (dù không phải linh hồn người chết),
lại có thể biến thành ma, và dân gian vẫn xếp chúng vào loại “ma quái”.
Xưa nay có rất nhiều cách phân loại ma. Trong dân gian thường phân
biệt ma theo hình dáng bên ngoài (ma đẹp – ma xấu), theo chức năng (ma
thiện – ma ác)… Ngoài ra có thể phân loại ma theo nguồn gốc (ma người và
ma phi người)…
Đứng về mặt khoa học, người ta không tin là có ma. Nhưng ma lại thực
sự tồn tại trong trí tưởng tượng của con người, trong văn học nghệ thuật. Ma
có thể là thực, là ảo, là sản phẩm của trí tưởng tượng, nhưng một khi đi vào
văn học, nó sẽ trở thành hình tượng nghệ thuật, mang trong mình một quan
niệm về triết lý, nhân sinh, về lý tưởng thẩm mĩ của tác giả. Và chẳng một
độc giả đích thực nào lại quan tâm đến việc nó “ thật” hay “ không thật”. Bởi
chính sự mơ hồ, hư ảo mới đáng kể, nó xác định giá trị nghệ thuật của tác
phẩm.
Lê Nguyên Cẩn cho rằng “ma là môtíp nghệ thuật kì ảo quen thuộc
trong văn chương, là sản phẩm của trí tưởng tượng sáng tạo của nghệ sĩ thể
hiện ngay từ sự vay mượn chính hình ảnh con người, là phương tiện độc đáo
giàu tính tạo hình khách thể”.
Ma là hình tượng kỳ lạ, hoang đường, bí ẩn, quái dị mà “loài người
chưa tìm ra cội rễ, căn nguyên”. Nó là sản phẩm tuyệt vời của trí tưởng tượng,

gắn liền với ý đồ sáng tạo của nhà văn, giúp cho người đọc có một cái nhìn
xuyên suốt về cuộc sống, nhờ sự đan cài giữa thực và ảo, âm và dương, quá

15


khứ và hiện tại. Thực tế cuộc sống quá nghiệt ngã, luôn vùi dập con người
nhỏ bé và yếu ớt. Nhưng trong cơn sợ hãi tưởng chừng tuyệt vọng ấy, họ vẫn
chờ đợi một liệu pháp tinh thần, có thể an ủi, thỏa mãn những ước mơ, những
khát vọng. Ma là “phép thắng lợi tinh thần” đáp ứng được khát vọng mà thực
tế không đáp ứng được của con người trong một xã hội đầy biến động. Vì
vậy, dù là sản phẩm của trí tưởng tượng, ma sẽ trường tồn cùng với con
người, với những ước mơ và khát vọng vô tận.
1.2.3. Môtíp chuyện tình giữa người và ma trong văn học trước Liêu trai
chí dị
Có lẽ nhân vật ma quái xuất hiện đầu tiên là trong các thần thoại, khi tư
duy con người còn rất nguyên sơ. Tất cả những gì người nguyên thủy không
giải thích được đều cho đấy là việc làm của thần hay ma quái. Nếu thần linh
là lực lượng tạo nên các hiện tượng tự nhiên và giúp đỡ con người thì ma quái
lại là những lực lượng gây hại cho con người. Ma quái xuất hiện, tiếp cận, gần
gũi với con người cũng nhằm mục đích như vậy. Bên cạnh đó, môtíp người
gặp gỡ và ái ân với ma quái lúc này lại được thể hiện dưới môtíp “duyên kỳ
ngộ”.
Theo sách Lễ ký, Trung Quốc thuở sơ khai là nơi dân tộc Hoa Hạ cư
trú. Tộc người này cư trú ở hai bờ Nam – Bắc sông Hoàng Hà. Trải qua hàng
ngàn năm, từ đại bản vùng thượng lưu sông Hoàng Hà đó đã phát triển thành
một quốc gia cường thịnh, lấy văn minh nông nghiệp làm cội nguồn. Quy luật
quần cư từ thuở sơ khai là dân cư tập trung ở những vùng đồng bằng ven
những con sông lớn. Ở đó sự phì nhiêu của con sông đem lại sự sống cho con
người. Đối với người Trung Hoa thì sông Trường Giang và Hoàng Hà thực sự

là những dòng sông thiêng. Chúng đã tạo lập một nền văn minh lúa nước vào
loại sớm nhất của nhân loại. Cội nguồn văn hóa nông nghiệp là yếu tố lớn
nhất quyết định đến phương thức tư duy của người Trung Hoa nói riêng và

16


người phương Đông nói chung. Trong phương thức tư duy, phương Đông duy
linh, phương tây duy lý. Vì vậy văn học Trung Quốc chẳng riêng loại truyện
thần quái mà loại truyện khác cũng ham chép những cái quái dị. Những câu
chuyện kì quái, ma mị bắt nguồn từ đó.
Người Tàu quan niệm vạn vật hữu linh. Vì vậy với họ, 108 vị anh hùng
Lương Sơn Bạc là 36 ngôi thiên cang, 72 ngôi địa sát (các tinh tú trên trời),
còn chàng Giả Bảo Ngọc si tình là hóa thân của viên đá Thần Anh muốn nếm
trải mùi trần, Lâm Đại Ngọc là cây cỏ Giáng Châu hóa kiếp dùng nước mắt
đền ơn tri kỉ. Tác phẩm Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh cũng vậy, hình
tượng yêu ma đội lốt người, chung sống với con người nhằm thể hiện khao
khát hạnh phúc nhân gian.
Trong văn học dân gian Việt Nam, những câu chuyện ma quỷ cũng
xuất hiện trong các truyền thuyết, cổ tích, giai thoại… Lĩnh Nam chích quái là
tập sách ghi chép lại những truyền thuyết và truyện cổ dân gian. Theo đó, một
số truyện dân gian đã có hình ảnh yêu tinh ma quái.
Ở Trung Quốc, trong các câu chuyện thần thoại cổ cũng đã xuất hiện
hình ảnh hồ ly đội lốt người và cùng con người dệt nên những câu chuyện
tình đẹp. chẳng hạn như truyện Hạ Vũ trị thủy đã kể lại chuyện tình giữa vua
Vũ và cô gái họ Đồ Sơn: Vũ đi trị thủy, thấy người con gái họ Đồ Sơn, Vũ
chưa gặp mà đi tuần xuống phía nam. Người con gái họ Đồ Sơn sai hầu gái
đón Vũ ở phía nam núi Đồ. Người con gái họ Đồ Sơn chính là con chồn trắng
chín đuôi hóa thành. Vua Hạ Vũ trị thủy nhờ được sự giúp đỡ của nàng mới
thành công. Sau này vua lấy người con gái họ Đồ Sơn đó làm vợ và sống vui

vẻ, hạnh phúc…
Tuy nhiên, ma quái trong truyện cổ dân gian xuất hiện chủ yếu như một
loại nhân vật chức năng, chưa phải nhân vật có hành động, cảm nghĩ thực sự.
Ma quỷ đều là những nhân vật đại diện cho cái ác, có chức năng gây khó

17


khăn, cản trở, đe dọa cuộc sống của con người, thậm chí là cướp đi mạng
sống của con người.
Như vậy, những nhân vật hồ, ma xuất hiện và đi vào văn học rất
sớm.Tồn tại trong môi trường văn hóa dân gian, chúng có sức sống lâu bền.
Bồ Tùng Linh đã sưu tầm những lời kể của dân gian để sáng tạo nên thế giới
Liêu trai vô cùng đặc sắc. Chính vì lẽ đó mà những nhân vật hồ, ma trong
Liêu trai chí dị đều mang đậm màu sắc dân gian và đó cũng là nguyên nhân lí
giải cho việc những câu chuyện trong Liêu trai hầu hết lấy từ cốt truyện dân
gian. Bồ Tùng Linh đã sáng tạo trên nền của văn học dân gian để mang đến
một màu sắc Liêu trai riêng của chính văn sĩ họ Bồ.
Ở Trung Quốc không chỉ trong dân gian, hình tượng hồ ma được lưu
truyền mà theo từng giai đoạn phát triển của văn học, hình tượng này cũng
được phát triển theo. Quá trình phát triển của văn học cũng là quá trình hoàn
thiện dần về hình tượng ma, hồ cũng như sự thay đổi về môtíp chuyện tình
giữa hồ ma với con người. Có thể nói các môtíp được phát triển qua các giai
đoạn:
Giai đoạn Tiên Tần Lưỡng Hán, Ngụy Tấn, Nam Bắc Triều đã có sự
xuất hiện của nhân vật hồ ly. Trong Liệt dị truyện của Tào Phi thì hồ ly xuất
hiện là một con vật dữ thường đến phá hoại cuộc sống của dân chúng. Qua
hình ảnh hồ yêu dữ đó, tác giả muốn lên án các thói xấu của xã hội. Có thể
nói ở giai đoạn này, nhân vật ma quỷ xuất hiện còn mang tính hoang sơ, là đại
diện cho cái xấu, cái ác. Từ đó ma đến với con người cũng chỉ với mục đích

lợi thân, hại nhân.
Để tìm hiểu nguyên do, ta ngược dòng thời gian trở về thời kì đó.
Trước đây người Hoa Hạ cư trú dọc theo lưu vực sông Hoàng Hà vì ít được
hưởng ân lực thuận lợi của tự nhiên nên nhân dân phải lao động vô cùng cực
khổ. Trong tình hình như vậy, những nhu cầu thiết yếu của cuộc sống không

18


được đáp ứng. Tự nhiên họ vứt bỏ những suy nghĩ viển vông, ảo tưởng trong
thực tế. Hơn nữa trong giai đoạn này Khổng Tử đề xuất chủ trương: tu thân,
trị quốc, bình thiên hạ. Tư tưởng nhà Nho trong giai đoạn này đã trở thành
chính thống nên những truyện kiểu như thần thoại, truyền thuyết thường bị
công kích, đả phá mạnh mẽ. Những lời nói hoang đường chẳng đáng để tâm,
luôn bị lãng quên trong kí ức của mọi người bởi vậy hình tượng yêu ma trong
thời kì này thường xuất hiện chỉ với mục đích để hại người và nếu có tình yêu
thì những mối tình cũng có kết thúc đau khổ.
Sang giai đoạn đời Đường, cùng với sự ra đời và phát triển và ra đời
của các tác phẩm truyền kì thì hình tượng ma, hồ và các câu chuyện tình cũng
phát triển cao thêm một bậc. Có sự phát triển này trước hết đó là nhờ sự phát
triển kinh tế, xã hội đời Đường. Ngoài ra ở thời này Nho giáo không còn giữ
vị trí độc tôn nữa mà song song với nó là sự phát triển của Phật giáo và Đạo
giáo. Chính vì vậy mà các tác phẩm văn học thời kì này được khai phóng về
tư tưởng và giải phóng về hình thức. Các nhà văn có ý thức hơn trong sáng tác
như: tổ chức cốt truyện, xây dựng nhân vật. Nguyên tắc sáng tác của các tác
giả thời kì này là phi kỳ bất truyền cho nên được gọi là truyền kì, truyền lại
những điều kì lạ khác thường. Và cùng với sự trưởng thành của thể loại
truyền kì, thì hình tượng ma hồ xuất hiện trong những tác phẩm đời Đường
cũng phong phú và đa dạng hơn. Hồ ly biến thành người và cùng chung sống
với người tạo thành những câu chuyện tình ái rất đẹp; biến thành người con

gái đẹp để mê hoặc, quyến rũ đàn ông. Nếu như ở giai đoạn trước, những
nhân vật ma, hồ xuất hiện mang nguyên tính vật thì ở giai đoạn này, hình
tượng này đã nhân tính hơn, đã được nhân cách hóa. Như nàng Nhậm Thị
trong Nhậm Thị truyện của Thẩm Ký Tế nguyên là hồ ly đã đến làm vợ của
Trịnh Lục, bất chấp cho dù khác loài. Nàng có vẻ đẹp tuyệt vời khiến Trịnh
Lục phải thốt ra: “dung mạo tuyệt vời của nàng đã chinh phục ta”. Không chỉ

19


đẹp mà nàng còn rất thông minh, giỏi tính toán. Ở đây hành động của phái nữ
được tự do hơn, hành vi của người con gái đời Đường cũng mạnh bạo hơn
trước rất nhiều. Như vậy, cùng với vấn đề giải phóng tư tưởng, giải phóng cá
tính, các tác giả đời Đường đã đề cập đến tình yêu và hạnh phúc lứa đôi. Các
tác giả đã mượn những câu chuyện tình yêu này để nói lên những khát vọng
trần thế của con người. Những môtíp kiểu này trong truyền kì đời Đường đã
tạo tiền đề quan trọng cho sự sáng tạo những môtíp chuyện tình người và ma
trong Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh.
Giai đoạn Tống Nguyên Minh, ta thấy những câu chuyện ma quái ít
được nói đến hơn vì Lý học được đề cao. Sự giáo dục ở thời này là tồn thiên
lý diệt nhân dục. Chính vì thế mà trong các tác phẩm văn học ít có tư tưởng
bay bổng hơn vì thế những môtíp chuyện tình yêu giữa người với ma hồ ít
xuất hiện và xuất hiện chủ yếu với môtíp hồ mị (quyến rũ mê hoặc hại người).
Câu chuyện Đát Kỷ chính là một câu chuyện tiêu biểu. Đát Kỷ chính là hóa
thân của con chồn trắng chín đuôi. Ngày Đát Kỷ vào cung cũng chính là ngày
hồ ly nhập vào Đát Kỷ. Sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành cùng bản tính
dâm dục của Đát Kỷ đã làm cho Trụ Vương mê đắm và khiến Trụ Vương trở
thành ông vua cuối cùng của nhà Thương (Phong thần diễn nghĩa – Hứa
Trọng Lâm). Từ lối mòn tư duy truyền thống, Hứa Trọng Lâm đã biến hồ mị
như Đát Kỷ trở thành “điển phạm” của văn học Hán. Trong một xã hội bị quy

định bởi một hệ thống những quy phạm đạo đức luân lý, thì quan niệm “hồ
mị” - vạ mất nước, họa sát thân càng trở nên nặng nề. Đến giai đoạn này, ý
nghĩa những câu chuyện tình yêu với hồ ma đã quay trở về với những môtíp
đã từng xuất hiện trong văn học Tiên Tần, Ngụy Tấn, Nam Bắc Triều.
Đầu đời Minh, Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu cũng là một tác phẩm
truyền kỳ xuất sắc, được tác giả biên tập lại từ những câu chuyện dân gian:
“Tôi đã biên tập những chuyện kỳ quái xưa nay thành sách Tiễn đăng lục gồm

20


×