Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

Nghiên cứu khu hệ chim, đề xuất các biện pháp quản lý và sử dụng bền vững tài nguyên chim ở khu bảo tồn thiên nhiên hang kia pà cò, huyện mai châu, tỉnh hòa bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.45 MB, 68 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHỆP
-------------------------

PHẠM ANH TUẤN

NGHIÊN CỨU KHU HỆ CHIM, ĐỀ XUẤT CÁC BIỆN PHÁP QUẢN LÝ VÀ
SỬ DỤNG BỀN VỮNG TÀI NGUYÊN CHIM Ở KHU BẢO TỒN THIÊN
NHIÊN HANG KIA-PÀ CÒ, HUYỆN MAI CHÂU, TỈNH HÒA BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

Hà Nội, 2010


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHỆP
-----------------------------

PHẠM ANH TUẤN

NGHIÊN CỨU KHU HỆ CHIM, ĐỀ XUẤT CÁC BIỆN PHÁP QUẢN LÝ VÀ
SỬ DỤNG BỀN VỮNG TÀI NGUYÊN CHIM Ở KHU BẢO TỒN THIÊN
NHIÊN HANG KIA-PÀ CÒ, HUYỆN MAI CHÂU, TỈNH HÒA BÌNH


TÀI LIỆU GỐC

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

Hà Nội, 2010


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHỆP
-------------------------

PHẠM ANH TUẤN

NGHIÊN CỨU KHU HỆ CHIM, ĐỀ XUẤT CÁC BIỆN PHÁP QUẢN LÝ VÀ
SỬ DỤNG BỀN VỮNG TÀI NGUYÊN CHIM Ở KHU BẢO TỒN THIÊN
NHIÊN HANG KIA-PÀ CÒ, HUYỆN MAI CHÂU, TỈNH HÒA BÌNH

Chuyên ngành: Quản lý bảo vệ tài nguyên rừng
Mã số: 60.62.68

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. Lê Đình Thủy

Hà Nội, 2010



Công trình được hoàn thànht tại:
Trường Đại Học Lâm Nghiệp Việt Nam

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Lê Đình Thủy

Người phản biện 1: .............................................................
Người phản biện 2: .............................................................

Luận văn đã được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn theo
Vào hồi 16 giờ 15 phút ngày 30 tháng 10 năm 2010

Có thể tìm hiểu luận văn tại Thư viện trường đại học lâm nghiệp



1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Khu bảo tồn thiên nhiên (KBTTN) Hang Kia - Pà Cò thuộc địa phận
hành chính của 5 xã: Hang Kia, Pà Cò, Tân Sơn, Bao La, Cun Pheo, thuộc
huyện Mai Châu, tỉnh Hoà Bình. Khu BTTN có tổng diện tích 6.462 ha, là
vùng rừng thượng nguồn sông Mã và sông Đà, là vùng tiếp giáp của tỉnh Hòa
Bình với Sơn La và Thanh Hóa. Khu vực có địa hình hiểm trở, nhiều núi cao,
nhiều thung lũng nhỏ bị chia cắt nên rừng trong Khu bảo tồn cũng bị chia cắt
thành nhiều mảnh, nhiều kiểu rừng, nhiều trạng thái khác nhau. Theo những
công trình đã công bố nghiên cứu bước đầu ở khu BTTN thì khu vực này rất
phong phú về tài nguyên rừng, kể cả động vật và thực vật, đặc biệt là sự có
mặt của các loài động thực vật đặc hữu, quý hiếm như: Thông Pà Cò....
Cho tới nay, chỉ có rất ít tài liệu điều tra, đánh giá về tài nguyên sinh

vật của khu BTTN Hang Kia-Pà Cò. Các công trình nghiên cứu này phần lớn
mới dừng lại ở mức độ điều tra đánh giá sơ bộ nhằm phục vụ cho việc xây
dựng Luận chứng, chưa đánh giá một cách đầy đủ, có hệ thống và toàn diện
tài nguyên động vật trong khu vực. Cũng chính vì vậy mà chưa có công trình
nào chuyên nghiên cứu về chim của khu vực, đặc biệt là đánh giá một cách
toàn diện về các yếu tố ảnh hưởng, tác động đến thành phần loài và cấu trúc
của khu hệ chim ở khu BTTN Hang Kia - Pà Cò.
Nhằm cung cấp thêm cơ sở khoa học cho việc đề xuất các giải pháp
quản lý bền vững tài nguyên động vật, trong đó có tài nguyên chim rừng của
khu vực, được sự phê duyệt của khoa Sau đại học, trường Đại học Lâm
Nghiệp, chúng tôi đã tiến hành thực hiện đề tài: "Nghiên cứu khu hệ chim, đề
xuất các biện pháp quản lý và sử dụng bền vững tài nguyên chim ở khu Bảo
tồn thiên nhiên Hang Kia - Pà Cò, huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình".


2

Mục đích của đề tài nhằm đánh giá một cách tương đối hoàn thiện đặc
điểm Khu hệ Chim rừng khu BTTN bao gồm:
- Đánh giá đầy đủ về thành phần loài; tính đa dạng của khu hệ trong
cấu trúc thành phần loài.
- Giá trị bảo tồn nguồn gen và giá trị kinh tế của các loài trong khu hệ.
- Các nhân tố ảnh hưởng đến khu hệ.
- Đề xuất các giải pháp quản lý bền vững tài nguyên chim của khu
BTTN.


3

Chương 1

TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Lược sử nghiên cứu chim ở miền Bắc Việt Nam
Trước năm 1945, hầu hết các nghiên cứu về chim đều được thực hiện
bởi các nhà khoa học nước ngoài. Đặc biệt là các tác giả người Pháp, trong đó
có 2 tác giả đáng quan tâm nhất là Delacour và P.Jabouille (1939). Từ năm
1945 đến 1954, nghiên cứu về chim đều bị gián đoạn do chiến tranh.
Sau 1954, các công trình nghiên cứu về chim mới được thực hiện trở
lại. Đáng chú ý là các công trình nghiên cứu của các tác giả:
Năm 1971, Võ Quý đã công bố công trình “Sinh học các loài chim
thường gặp ở Việt Nam”[9], đó là kết quả tổng hợp nghiên cứu hơn 7 năm về
đời sống của các loài chim phổ biến ở miền Bắc Việt Nam. Trong cuốn sách
này tác giả đã trình bày đầy đủ các đặc điểm về nơi ở, thức ăn, sinh sản và
một số tập tính khác của gần 200 loài chim ở miền Bắc Việt Nam.
Năm 1975 và 1981, Võ Quý đã xuất bản công trình: “Chim Việt Nam,
hình thái và phân loại (tập I, II)” [11]. Đây là công trình nghiên cứu về hình
thái và phân loại chim Việt Nam đầy đủ nhất từ trước đến nay. Năm 1983, Võ
Quý đã cho xuất bản công trình: “Danh sách Chim Việt Nam. Khu hệ và sinh
thái động vật Việt Nam” bằng tiếng Nga.
Năm 1999 Võ Quý, Nguyễn Cử đã xuất bản “Danh lục chim Việt Nam”
[10], bảng danh lục gồm 19 bộ, 81 họ và 828 loài chim đã tìm thấy ở Việt
Nam tính đến năm 1995. Với mỗi loài, các tác giả đã đưa ra các đặc điểm về
hiện trạng và vùng phân bố của chúng.
Năm 2000, cuốn “Chim Việt Nam” [7], của tập thể các tác giả Nguyễn
Cử, Lê Trọng Trải, Karren Phillips được biên soạn trên cơ sở “Chim Hồng
Kông và Nam Trung Quốc” (1994) của các tác giả Clive Viney, Lam Chin


4

Ying và Karren Phillips. Trong sách, các tác giả đã giới thiệu khoảng 500 loài

chim trong tổng số khoảng 850 loài chim hiện ghi nhận ở Việt nam. Mỗi loài
tác giả trình bày các nội dung: Mô tả, phân bố, tình trạng, nơi ở và có kèm
theo ảnh minh hoạ. Đây là một trong những cuốn sách được sử dụng phổ biến
để nhận dạng các loài chim ngoài thực địa hiện nay.
Năm 2007, Lê Đình Thuỷ đã công bố 164 loài chim trong 5 bộ của 19
bộ chim Việt Nam, bao gồm: Bồ nông Pelecaniformes, Hạc Ciconiiformes,
Ngỗng Anseriformes, Sếu Gruiformes, Rẽ Charadriiformes. Công trình này
được xuất bản trong bộ sách Động vật chí Việt Nam: “Chim Việt Nam-Aves"
(Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 2007”. Trong đó có nhiều loài chim
phân bố ở miền Bắc Việt Nam.
Những năm gần đây, nhiều dự án bảo tồn đa dạng sinh học ở Việt Nam
được tài trợ từ quỹ hỗ trợ của chính phủ nước như: Hà Lan, Úc, Đức... từ các
tổ chức phi chính phủ: Tổ chức bảo tồn chim Quốc tế (Birdlife international),
tổ chức bảo vệ động thực vật Quốc tế (IUCN), quỹ Quốc tế về bảo vệ thiên
nhiên (WWF), Ngân hàng Thế giới (WB)…Do vậy mà công tác nghiên cứu,
bảo tồn đa dạng sinh học ở nước ta ngày càng được quan tâm. Cho đến nay tại
hầu hết các Vườn quốc gia (VQG), khu BTTN của Việt Nam, công tác điều
tra cơ bản tài nguyên sinh vật, trong đó có tài nguyên chim đã được tiến hành.
1.2. Những công trình nghiên cứu đã công bố về tài nguyên sinh vật nói
chung, nghiên cứu chim nói riêng ở khu bảo tồn thiên nhiên Hang KiaPà Cò
Cho tới nay, chỉ có rất ít tài liệu điều tra, đánh giá về Tài nguyên sinh
vật của khu BTTN Hang Kia-Pà Cò. Cơ sở dữ liệu đầu tiên về tài nguyên sinh
vật được trình bày trong “Luận chứng kinh tế kỹ thuật khu BTTN Hang KiaPà Cò huyện Mai Châu, tỉnh Hoà Bình” do Chi cục Kiểm lâm tỉnh Hoà Bình


5

và Liên đoàn qui hoạch thiết kế tổng hợp -Viện Điều tra qui hoạch rừng thực
hiện tháng 3 năm 1993.
Gần đây tài nguyên sinh vật của khu BTTN Hang Kia-Pà Cò được điều

tra bổ sung trong dự án: “Đầu tư, xây dựng và phát triển rừng khu BTTN
Hang Kia- Pà Cò, huyện Mai Châu thuộc dự án trồng mới 5 triệu ha rừng năm
2005-2010” do Chi cục Kiểm lâm tỉnh Hoà Bình thực hiện.
Kết quả đã ghi nhận tại khu vực có 64 loài thú thuộc 8 bộ và 24 họ; 146
loài chim, thuộc 15 bộ, 46 họ. Trong công trình này các tác giả đã sơ bộ đánh
giá hiện trạng và phân bố của một số loài theo các dạng sinh cảnh của khu
vực. Đặc biệt đã ghi nhận 8 loài chim quý hiếm và có giá trị kinh tế có mặt
trong khu vực, như: Diều hoa Miến Điện (Spilornis cheela); Gà so ngực gụ
(Arborophila charltonii); Gà lôi trắng (Lophura nycthemera)... Mặc dù các
thông tin thu được về hiện trạng, phân bố của các loài quý hiếm chủ yếu là
qua thông tin từ thợ săn, danh sách các loài ghi nhận còn hạn chế, có thể nói
đây là công trình khá đầy đủ về Khu hệ chim khu vực cho đến nay. Nhìn
chung, các công trình trên còn chưa đề cập đến các nhân tố ảnh hưởng tới tài
nguyên rừng, đặc biệt là chim rừng của khu vực. Vì vậy những nghiên cứu bổ
sung của đề tài này là hết sức cần thiết, đáp ứng nhu cầu thực tế đặt ra.


6


7

Chương 2
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI KHU VỰC NGHIÊN CỨU
2.1. Sơ lược lịch sử hình thành và phát triển Khu BTTN Hang Kia- Pà cò
Khu BTTN Hang Kia - Pà Cò là một trong các khu BTTN của hệ thống
rừng đặc dụng Việt Nam, được thành lập theo Quyết định số 194/CT ngày
9/8/1986 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) và
Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Sơn Bình ra quyết định 330 QĐ/UB ngày 16 tháng
10 năm 1990 về việc thành lập Trạm Quản lý bảo vệ rừng Hang Kia - Pà Cò.

2.2. Điều kiện tự nhiên
2.2.1 Vị trí địa lý
+ Địa giới:
Khu BTTN Hang Kia - Pà Cò nằm về phía tây bắc tỉnh Hòa Bình thuộc
phạm vi của 5 xã là: Hang Kia, Pà Cò, Cun Pheo, Bao La và Tân Sơn thuộc
huyện Mai Châu tỉnh Hòa Bình. Khu BTTN nằm trọn trong hai xã vùng cao
Hang Kia, Pà cò và một dải rừng trên núi đá vôi còn sót lại (có diện tích
không đáng kể) của ba xã Tân Sơn, Cun Pheo và Bao La, chạy dọc theo ranh
giới với khu bảo tồn thuộc địa phận xã Tân Sơn và Hang Kia.
+ Ranh giới:
Phía Bắc giáp các xã Lóng Luông, Chiềng Yên của huyện Mộc Châu,
tỉnh Sơn La.
Phía Nam giáp Xã Cun Pheo, Piềng Vế, Bao La của huyện Mai Châu,
tỉnh Hòa Bình.
Phía Đông giáp xã Đồng Bảng, Nà Mèo của huyện Mai Châu, tỉnh
Hòa Bình.


8

Phía Tây giáp Xuân Nha, Lóng Luông của huyện Mộc Châu, tỉnh
Sơn La
Toạ độ địa lý: 200 40’30” đến 200 45’30” độ vĩ Bắc.
104051’20” đến 1050 00’35” độ kinh Đông.
+ Diện tích: 6.462,2 ha.
2.2.2. Địa hình, địa thế
Khu BTTN có 2 dạng địa hình núi đất xen lẫn núi đá vôi, địa hình cao ở
phía Tây Bắc, thấp dần về phía Đông Nam, độ cao từ 1.500m đến 800m,
trung bình 1.000m so với mực nước biển.
Khu vực phía Tây Bắc khu bảo tồn có độ cao trung bình trên 1.100m,

đỉnh Pà Khốm 1.526m là đỉnh cao nhất của khu bảo tồn. Vùng giữa và phía
Đông Khu bảo tồn có độ cao thấp hơn, trung bình 800 - 1.000m.
Địa hình khu bảo tồn phần lớn là sườn và dông của 4 hệ thống núi chính:
+ Hệ thống núi đá vôi xen núi đất chạy từ Pà Háng lớn tới xóm Cang,
chạy dọc ranh giới xã Pà Cò với xã Lóng Luông của tỉnh Sơn La.
+ Hệ thống núi đá vôi là ranh giới giữa xã Pà Cò và xã Hang Kia.
+ Hệ thống núi đá vôi xen núi đất chạy theo hướng từ Bản Cang tới
Thung Ẩn, Thung Mặn.
+ Hệ thống núi đá vôi xen núi đất chạy theo hướng từ Xà Lính xã Pà
Cò tới Bò Báu của xã Tân Sơn và Bao La, Piềng Vế.
Các hệ thống núi trên có hướng từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Xen
kẽ các dông núi là các thung lũng hẹp và các dải đất dốc tụ chân núi đá,
đây là phần đất canh tác quan trọng của đồng bào H’Mông, Thái, Mường
của các xã vùng cao này.
Địa hình trong Khu bảo tồn không chỉ bị chia cắt do các dãy núi mà
còn bị chia cắt bởi nhiều dông núi phụ xuất phát từ các dãy núi trên phát triển


9

về hai bên tạo ra các thung, áng, khe suối cạn và các hố hút nước (do hiện
tượng Caster) của vùng núi đá vôi tạo nên.
Khu bảo tồn có độ dốc trung bình 20-250, nhiều nơi có độ đốc >350, rất
khó đi lại.
Nhìn chung, địa hình khu bảo tồn thuộc loại trung và tiểu địa hình vùng
núi. Càng vào sát các đỉnh núi đá vôi, núi càng cao và độ dốc càng lớn, có
nhiều sườn núi đá, vách đá dựng đứng. Địa hình phức tạp và bị chia cắt mạnh
là yếu tố quan trọng tạo nên sự đa dạng về địa hình, dạng sinh cảnh và thảm
thực vật là cơ sở tạo nên tính đa dạng sinh học cao của khu BTTN.
2.2.3. Địa chất và thổ nhưỡng

Theo Luận chứng kinh tế kỹ thuật (Chi cục Kiểm Lâm Hoà Bình 1993),
thì địa chất và thổ nhưỡng trong khu BTTT có một số đặc điểm sau:
a. Địa chất
Nền địa chất khu bảo tồn có lịch sử kiến tạo thuộc kỷ Đệ Tam Triassis
(Trias), thuộc thời kì Ladini, cách ngày nay khoảng 220 triệu năm. Địa hình
kiến tạo chịu nhiều ảnh hưởng của hoạt động tạo sơn Indexin kỷ Trias thuộc
đại Trung sinh. Núi đá vôi khu vực có tuổi địa chất trẻ (Kỷ đệ tam), nên các
dãy núi ở đây có đỉnh núi nhọn do quá trình bào mòn địa chất tự nhiên không
mạnh mẽ.
b. Đá mẹ
Đá mẹ trong khu BTTN có 3 nhóm chính:
- Đá Trầm tích, Đá vôi, Cuội sỏi kết là đại diện cơ bản, phân bố rộng khắp.
- Đá Mácma axít, với các loại đá phổ biến như Granit, Sa thạch khối,
Phấn sa, Đá sét… phân bố rải rác trong KBT.
- Đá biến chất với nhiều loại khác nhau, chiếm diện tích nhỏ.


10

Trừ hệ thống núi đá vôi phân bố theo dải, còn các loại đá mẹ khác: Đá
sét, Phiến thạch sét, Phấn sa, Sa thạch thô, Cuội kết thường không đại diện,
thường phân bố theo vệt, theo vùng nhỏ trên nền Đá vôi cổ. Sự đa dạng về đá
mẹ đã tạo ra các loại đất khác nhau, là điều kiện cho nhiều loài cây phát triển.
c. Thổ nhưỡng
Thổ nhưỡng trong KBTTN Hang Kia - Pà Cò có 5 nhóm đất chính:
- Đất Feralit mùn màu nâu xám trên núi đá vôi, nằm trên đỉnh các núi
đá vôi có diện tích nhỏ (chiếm khoảng 0,3% diện tích). Lớp thảm mục dày
trung bình, đất tơi xốp, tầng đất mỏng (15-30cm) và giàu dinh dưỡng, tỉ lệ
mùn từ 3 - 5%.
- Đất dốc tụ chân núi đá vôi trong thung lũng (chiếm khoảng 4,9% diện

tích). Đất được dồn tụ từ các sườn núi do quá trình rửa trôi và bào mòn tích tụ
lại, tầng đất dầy ( >100cm), có nơi đất dầy 3 -5m mang theo các sản phẩm
phong hóa từ đá vôi, đất giàu dinh dưỡng, tơi xốp, lớp mặt màu nâu đen,
thành phần cơ giới thịt nhẹ.
- Đất dốc tụ chân núi đá sét (chiếm khoảng 30,8% diện tích). Loại đất
này phổ biến ở vùng chân núi đá, tầng mặt bị xói mòn, đất feralit màu đỏ
vàng, thành phần cơ giới thịt nhẹ và trung bình, tỉ lệ đá lẫn cao 10 - 30%, tầng
đất mỏng.
- Đất Feralit xám trên đá mẹ Phiến sét (chiếm khoảng 59,1% diện
tích). Nhóm đất này là sản phẩm của phong hóa từ Đá phấn sét, thành phần
cơ giới chủ yếu là thịt trung bình và thịt nặng, đất tương đối tơi xốp, không
rời rạc, có tính dính. Tuy nhiên vì bị khô liên tục đất thường cứng, khó canh
tác. Đất này thường phù hợp với một số cây trồng Lâm nghiệp như Lát,
Thông... tầng đất thường mỏng ở những nơi dốc lớn và đỉnh. Tỉ lệ đá lẫn 10
- 30%, tỉ lệ mùn 1 - 1,5%.


11

- Đất Feralit xám trên nền Sa thạch (chiếm khoảng 4,9%). Nhóm đất
này có màu sắc đặc trưng xám trắng, sản phẩm của khoáng vật: Thạch anh,
Fenspat, Limonit. Thành phần cơ giới chủ yếu thịt nhẹ và thịt pha cát, đất tơi
xốp, dễ canh tác, tính thấm nhanh, tính giữ nước khá, hơi rời rạc, dễ bị rửa
trôi và xói mòn mặt. Tỉ lệ đá lẫn 10 - 30%, tỉ lệ mùn 1 - 2%.
Nhìn chung đất trong khu vực là đất sét nhẹ tới đất thịt nhẹ, màu nâu
vàng hay vàng nhạt, tầng đất dày, có thành phần cơ giới từ nhẹ đến trung
bình. Đất tơi, xốp, có độ ẩm thấp tới trung bình; kết cấu viên nhỏ và có tầng
mùn trung bình, dễ bị rửa trôi, dễ khô cứng.
Đất ở nơi mất rừng rất dễ bị rửa trôi, thoái hoá nhanh đặc biệt trên núi
đá vôi, rất khó cho quá trình và phục hồi phát triển thảm thực vật rừng.

Đất ở nơi còn rừng, hay nơi đất còn tính chất đất rừng rất thuận lợi cho
quá trình phát triển và phục hồi thảm thực vật rừng.
2.2.4 Khí hậu thuỷ văn
a. Khí hậu
Theo tài liệu của trạm khí tượng thủy văn huyện Mai Châu thì khu
BTTN nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa vùng núi cao có:
+ Khí hậu khu vực chia 2 mùa rõ rệt. Mùa nóng từ tháng 5 tới tháng 9
có nhiệt độ bình quân 20 - 250C, Mưa to thường tập trung vào mùa nóng,
chiếm 85 - 90% lượng mưa cả năm, độ ẩm mùa nóng trung bình 80 - 85%.
Mùa lạnh từ tháng 10 tới tháng 4 năm sau, trong mùa lạnh nhiệt độ
thường thấp hơn 200C. Trong các đợt rét nhiệt độ thường xuống dưới 130C và
cá biệt có khi xuống tới 3 - 50C. Mùa lạnh tuy có lượng mưa chỉ chiếm 1015% lượng mưa cả năm nhưng không khô, độ ẩm khá cao, thường 70 - 80%
và nhiều ngày có sương mù, ẩm ướt.


12

+ Lượng mưa trung bình 1.700 - 2.000 mm. Mùa mưa tập trung thường
gây ra ngập úng cục bộ trong thời gian ngắn ở các thung, khe hoặc quanh các
lỗ hút xuống sông suối ngầm. Mùa lạnh, nước ở các khe suối thường cạn kiệt,
đôi chỗ còn các đám sình lầy, nước ngọt chủ yếu còn trong các mỏ.
+ Sương mù: Thường xuất hiện trong tháng 1 và 2 hàng năm.
+ Sương muối: Rất ít xuất hiện trong khu vực.
+ Gió: Hướng gió thịnh hành là Đông Bắc, Đông Nam. Hàng năm vào
các tháng 4 – 8, đôi khi có gió Tây khô nóng xuất hiện mỗi đợt 2 - 4 ngày với
tốc độ gió 10 - 15m/g.
+ Mưa đá: Tần suất xuất hiện mưa đá rất nhỏ.
b. Thuỷ văn
Trong khu bảo tồn không có sông, suối lớn. Đáng chú ý là hệ thống các
suối nhỏ đón nước từ dãy núi ranh giới với tỉnh Sơn La và giữa các xã Pà Cò

với Hang Kia đổ xuống vùng trung tâm. Các suối kể trên có đoạn lộ, đoạn
mất, không thường xuyên có nước. Mật độ suối thấp, do độ dốc lớn và có
nhiều hút nước, sông ngầm, hang động vùng đá vôi nên chỉ có lũ cục bộ trong
những ngày mưa lớn và rất ít nước vào mùa khô.
Tóm lại : Khu bảo tồn thuộc vùng cao núi đá vôi của huyện Mai Châu,
có khí hậu nhiệt đới gió mùa. Có hai mùa trong năm, mùa nóng nhiệt độ cao và
mưa nhiều, mùa đông có nhiệt độ thấp, lạnh và ẩm, riêng mùa đông lại có
sương mù nên ít gây hại tới sinh trưởng và phát triển của của các loài thực vật.
2.2.5. Thực vật rừng
a. Thảm thực vật
Dựa trên kết quả điều tra thực tế, kết hợp với Luận chứng kinh tế kỹ
thuật của khu bảo tồn, theo thang phân loại thảm thực vật rừng của Thái Văn


13

Trừng (1978), có thể thống kê trong Khu BTTN Hang Kia - Pà Cò có 8 kiểu
rừng chính:
- Rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới
Kiểu rừng này có diện tích nhỏ, phân bố tập trung ở phía Đông Bắc xã
Tân Sơn, sát với xã Đồng Bảng, phía Đông Bắc của KBT, nằm trên đỉnh các
núi thấp, dọc bên trái theo tuyến đường ô tô từ trụ sở Ban quản lý (BQL) khu
BTTN tới ranh giới với xã Đồng Bảng. Thành phần thực vật đa dạng, với
nhiều loài có giá trị như:
+ Cây gỗ gồm: Bời lời nhớt, Gội nếp, Trường sâng, Giổi lá mỡ, Gáo bi,
Chò nhai, Chò xanh, Côm tầng, Ong bù, Dạ nâu, Vàng anh, Cứt ngựa, Cà
Muối, Chò đãi, Chẹo, Cà lồ, Dẻ gai bắc bộ, Dâu da xoan, Dung Giấy, Đỏm
gai, Đại phong tử, Gạo, Mãi táp, Hoắc quang, Hà nu, Đáng, Sồi Hồng, Kiêng
quang, Dẻ gai ấn độ, Lim xẹt, Kháo tầng, Gội gác, Dẻ cau, Lòng mang, Dền,
Màu cau the, Màu cau quạ, Mùng quân rừng, Nhò vàng (Mạy tèo), Thôi ba,

Thẩu tấu, Thanh thất, Xoan nhừ, Sấu... Đôi nơi còn có những cây gỗ tốt điển
hình như: Đinh, Trai, Giổi, Táu mật, Vàng tâm, Rè vàng.
+ Cây bụi gồm: Lá han, Gai dại, Bọ mắm, Cây áng sơn, Lấu, Găng gai,
Bồ cu vẽ, Bọt ếch, Hèo gân dày, Phèn đen, Quanh châu, Mua, Bỏng nổ và
nhiều loài cây khác.
+ Tầng thảm tươi có: Thu hải đường, Ráy, Gai dại, Tắc kè đá, nhiều
loài Quyết thực vật, Cỏ lá, Cao cẳng, Cỏ đĩ, Nứa đặc... phân bố thưa thớt.
+ Thực vật ngoài tầng gồm: Đùng đình, Cọ xẻ, dây Đồng tiền, dây
Muồng, dây Mỏ quạ, dây Móc câu, dây Sống rắn, dây Dất na, Dất nhung,
Móc hùm, Móc mèo, Dây gắm, Móng bò, Dây bướm, dây Móng bò, một số
loài phong lan...
Ưu hợp thực vật điển hình ở loại rừng này bao gồm:


14

+ Ưu hợp: Kháo, Re hương, Dẻ, Lim xẹt, Trường, Dâu da
+ Ưu hợp: Chẹo, Xoan hương, Ba soi, Nóng sổ, Ong bù, Hoắc quang
- Rừng kín thường xanh nhiệt đới trên đá vôi xương xẩu
Kiểu rừng này nằm ở các thung lũng hẹp dưới chân núi đá vôi, hoặc
trên sườn, đỉnh các dải núi đá vôi có độ cao < 700m thuộc các xã trong khu
bảo tồn.
Đặc điểm chung của kiểu rừng này là tuy rừng còn nhưng trữ lượng
thấp vì những cây tốt, cây to đã bị khai thác, mật độ cây trung bình 500 – 700
cây/ha, độ khép tán đạt từ 0,5 - 0,7. Cây có kích thước tương đối nhỏ, Hvn
=10 - 15m, D1.3 = 18 - 25 cm.
Quần xã thực vật điển hình ở kiểu rừng này là:
+ Ưu hợp: Nghiến - Trai lý - Chò nhai - Gội - Thôi chanh - Mạy tèo Ô rô. Hiện nay chỉ còn ở phía Bắc bản Thung Ản, trạng thái rừng ở đây được
ghi nhận IIIA1 và IIIA2.
+ Ưu hợp: Trai - Trường sâng - Dẻ - Kháo - Mạy tèo - Tiêng. Ưu hợp

này phân bố khá rộng ở Tân Sơn, Pà Cò, trạng thái rừng ở đây được ghi nhận
IIIA1 và IIIA2, tầng rừng có kết cấu 3 tầng khá rõ.
+ Ưu hợp: Cà Lồ - Trường sâng - Đa - Dẻ - Kháo - Ong bù - Nóng sổ.
Ưu hợp này phân bố ở chân các núi đá vôi trong khu vực Tân Sơn, Hang Kia
và tập trung nhiều quanh thung Nước Lụt, Thung Mái, Trạng thái rừng ở đây
được ghi nhận IIIA1, tầng rừng có kết cấu 2 tầng khá rõ.
+ Thị rừng - Dẻ - Kháo - Xoan nhừ - Dâu da xoan - Mạy tèo. Ưu hợp
này phân bố xen kẽ với ưu hợp Cà Lồ và thường ở chân - sườn hay đỉnh các
núi đá vôi trong khu vực Tân Sơn, Hang Kia. Trạng thái rừng ở đây được ghi
nhận IIIA1, tầng rừng có kết cấu 2 tầng khá rõ. Tầng cây bụi thảm tươi dày,
xuất hiện Ráy, Chàm, Đơn buốt...


15

+ Ưu hợp Dẻ, Trâm, Kháo, Sơn rừng, Trương vân, Thông Pà Cò,
Thông Tre, Đỗ quyên. Ưu hợp này hiện nay chỉ còn ở khu vực đỉnh dông núi
đá vôi từ bản Cang chạy lên Pà Háng Lớn mà trung tâm là quanh đỉnh Pà Cò.
rừng ở đây còn khá tốt, trạng thái rừng ở đây được ghi nhận IIIA1.
- Rừng kín thường xanh á nhiệt đới núi thấp trên đá vôi xương xẩu
Kiểu rừng này phân bố khá rộng, nhưng tập trung nhiều quanh khu vực
từ bản Hang Kia đi bản Thung Ẳng, Thung Mặn và chạy dọc ranh giới xã Pà
Cò với xã Lóng Luông tỉnh Sơn La.
Đặc điểm chung của kiểu rừng này là: Có độ khép tán đạt TB 0,5 - 0,8.
Chiều cao tầng cây gỗ 10 - 15m. Đường kính cây phần lớn 20 - 22cm, nhiều
cây cá biệt gỗ xấu còn lại có đường kính 50 - 80cm. Rừng non có thành phần
cây chính không khác nhiều so với rừng loại IIIA1 nhưng kích thước đường
kính, chiều cao, mật độ nhỏ hơn, tỷ lệ cây ưa sáng nhiều hơn. Các chỉ số
D1.3, Hvn, mật độ cây tăng dần theo chiều tăng trạng thái rừng. Tầng A1 bao
gồm một số loài cây cao, to như: Trường sâng, Dâu da xoan, Giổi găng, Re

hương, Re bầu, Bạc tán...Tầng A2 gồm nhiều loài cây phổ biến của vùng núi
Sơn La, phân bố ở đây như: Tô hạp, Vối thuốc, Súm đá, Giổi găng, Giổi bà,
Dẻ gai Trung quốc, Dẻ gai ấn độ, Dẻ cau, Re hương, Lòng Trứng, Chắp xanh,
Thôi chanh, Chè lá ròn, Chè Sim, Cà muối...
- Rừng kín thường xanh mưa ẩm á nhiệt đới núi thấp
Kiểu rừng này phân bố trên độ cao 700 m trở lên ở các xã Tân Sơn, Bao La
và Cun Pheo. Thực vật bao gồm các loài thuộc các họ Alangiaceae,
Araliaceae, Juglandaceae, Juglandaceae Magnoliaceae, Theaceae, Lauraceae,
Fagaceae...
Đặc điểm chung của trạng thái rừng: Độ khép tán đạt TB 0,5 - 0,8.
Chiều cao tầng cây gỗ 12 - 15m. Đường kính cây phần lớn 20 - 25cm, nhiều


16

cây cá biệt còn lại có đường kính 50-80cm. Bao gồm một số loài cây: Re
hương, Re bầu, Bạc tán, Kháo nhớt, Kháo tầng, Trường sâng, Dâu da xoan,
Giổi găng, Dẻ cau, Sồi bànĐinh, Nhội, Lòng mang, Trâm, Trám trắng, Trám
ba cạnh, Thị đá, Nanh chuột, Đa, Si...
- Rừng thứ sinh phục hồi sau nương rẫy và sau khai thác
Phân bố chủ yếu ở xã Tân Sơn. Bao gồm rừng thứ sinh phục hồi sau
nương rẫy nhiệt đới và rừng thứ sinh phục hồi sau khai thác á nhiệt đới núi
thấp. Mặc dù chúng được hình thành ở 2 kiểu rừng khí hậu khác nhau nhưng
đều là sản phẩm sau sự tác động mạnh của con người nên cấu trúc của rừng
không khác nhau nhiều. Thành phần loài và cấu trúc rừng đơn giản, bao gồm
các loài sau : Trường sâng, Cứt ngựa, Cà Muối, Chò đãi, Chẹo, Cà lồ, Dẻ gai
bắc bộ, Dâu da xoan, Dung giấy, Đỏm gai, Đại phong tử, Gạo, Mãi táp, Hoắc
quang, Hà nu, Đáng, Sồi hồng, Kiêng quang, Dẻ gai ấn độ, Lim xẹt, Kháo
tầng, Gôi gác, Dẻ cau, Lòng mang, Dền, Màu cau the, Màu cau quạ, Mùng
quân rừng, Nhò Vàng (Mạy tèo), Thôi ba, Thẩu tấu, Sung quả nhỏ, Sảng lá to,

Sâng xoan, Thị rừng, Thôi ba, Thẩu tấu, Thanh thất, Xoan nhừ, Sấu, Ngái,
Thành ngạnh, Re bầu, Re hương, Vả, Dâu rừng, Trám trắng, Trám ba cạnh...
- Rừng trồng
Rừng trồng có diện tích 10,3 ha, chiếm 0,2% diện tích tự nhiên, phân
bố trên địa phận xã Cun Pheo, Pà Cò và Tân Sơn. Loài cây trồng chủ yếu là
Keo và Bạch đàn. Do mới được gây trồng nên cây rừng còn nhỏ. Đường kính
bình quân 5-7 cm, chiều cao bình quân 7-9 m với tầng tán liên tục. Việc phục
hồi lại rừng ở đây ngoài biện pháp khoanh nuôi, bảo vệ lợi dụng tái sinh tự
nhiên, có thể tiến hành trồng rừng bằng các loài cây bản địa như Thông pà cò,
Chò chỉ, Giổi xanh, Trai, Nghiến...


17

- Trảng cỏ, cây bụi, cây gỗ rải rác
Kiểu thảm này có 235,0 ha, chiếm 3,6% tổng diện tích tự nhiên của khu
bảo tồn và phân bố rải rác khắp các khu vực, ở cả 2 vành đai độ cao, nhưng
tập trung hơn cả vẫn là ở đai rừng á nhiệt đới. Các loài cỏ phổ biến trong kiểu
thảm này là: Cỏ tranh, Cỏ rác, Cỏ lá tre cao, Cỏ chân nhện, Cỏ lau, Cỏ chít,
Cỏ lào, Đơn buốt, Ngải cứu... Do bị tàn phá nặng nên nguồn cây mẹ và nguồn
giống tái sinh của các loài cây gỗ rất ít. Bởi vậy, khả năng phục hồi rừng tự
nhiên trên những diện tích này đòi hỏi phải có một thời gian dài.
- Khu nông nghiệp và dân cư
Diện tích 1.334,4 ha, chiếm 21,3% tổng diện tích tự nhiên. Hệ sinh thái
đồng ruộng nương rẫy trong khu vực nghiên cứu nằm rải rác. Ruộng nước bậc
thang ở dọc các mỏ nước, dọc các suối gần dân cư. Nương lúa, sắn, rong riềng
ở rất xa và thường bám vào chân các núi đá có rừng, ở sâu trong rừng của khu
bảo tồn. Cây trồng chủ yếu ở đây là cây lương thực ngắn ngày như: Lúa nước,
Lúa nương, Ngô, Lạc, Đỗ xanh, Khoai sọ, Khoai lang, Vừng, Rong riềng, Đỗ
tương, Dưa, Dứa, Mía, Vừng, Rau cải... Cây công nghiệp không đáng kể.

Các làng xóm nằm rải rác trong tất cả các xã, nhưng chủ yếu nằm ở
thung lũng chân các dải núi đá vôi hay núi đất nơi có các mó nước. Làng bản
nằm rải rác trong rừng, không tập trung trừ hai bản Thung Ẳng, Thung Mặn là
dân cư ở tập trung đông đúc. Trong khu đan cư làng xóm, người dân thường
chăn nuôi gia súc thả rông và trồng nhiều các loài cây nông nghiệp, cây ăn
quả, cây làm thuốc như: Nhãn Vải, Cam, Chanh, Mía, ổi, Xoài, Mận, Mít,
Hồng, Vông nem, Bưởi, Chuối, Cây hoa, Cây cảnh... Quanh các miếu thờ của
các gia đình, dòng họ, làng xóm còn giữ được một số cây rừng như: Nghiến,
Đăng, Đinh, Bồ hòn, Đa, Sanh, Dẻ, Giổi, Xoan nhừ, Ruối...


18

b. Hệ thực vật
Qua các tài liệu đã công bố của các tác giả nghiên cứu về thực vật. Hệ
thực vật bậc cao ở khu BTTN Hang Kia - Pà Cò được chúng tôi thồng kê ở
bảng 2.1 sau đây:
Bảng 2.1: Tài nguyên thực vật rừng KBTTN Hang Kia - Pà Cò
Ngành thực vật

Số họ

Số chi

Số loài

Thông đất (Lycopodiophyta)

2


2

4

Mộc tặc (Equisetophyta)

1

1

1

Dương xỉ (Polypodiophyta)

15

25

47

Hạt trần (Pinophyta)

6

9

11

Ngọc lan (Magnoliophyta)


128

426

697

Tổng cộng:

152

463

760

Hạt kín lớp ngọc lan (Magnoliopsida)

106

348

552

Hạt kín lớp hành (Liliopsida)

22

78

145


Trong ngành hạt kín chia ra:

Theo Sách đỏ Việt Nam, 2007 (phần thực vật), KBTTN Hang Kia –
Pà Cò có 50 loài có tên trong danh sách các loài thực vật quý hiếm. Trong
đó gồm 18 loài đang nguy cấp (EN), 29 loài ở mức độ sẽ nguy cấp (VU), 3
loài rất nguy cấp (CR).
Những loài đặc trưng của khu vực là Thông đỏ, Thông Pà Cò, Nghiến,
Trai, Đinh, Thông tre, Pơ mu… Các loài cây quí, hiếm, bị đe dọa này cần có
sự bảo vệ đặc biệt góp phần làm tăng giá trị của hệ thực vật và vai trò của
công tác bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng.


19

2.2.6 Khu hệ động vật
Theo kết quả điều tra năm 1993, 2008 của Chi cục Kiểm Lâm Hoà
Bình, Viện ĐTQH rừng thuộc Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Viện
Sinh thái & Tài nguyên sinh vật, thành phần phân loại học của 4 lớp (Thú,
Chim, Bò sát, ếch nhái) tại khu BTTN Hang Kia - Pà Cò được chúng tôi
thống kê trong bảng 2.2 sau đây:
Bảng 2.2: Động vật KBTTN Hang Kia - Pà Cò
Số bộ
TT

Số họ

Số loài

Lớp
1993


2008

1993

2008

1993

2008

1

Thú (Mamalia)

8

8

23

24

62

62

2

Chim (Aves)


14

15

43

46

144

146

3

3

20

21

74

67

25

26

86


91

280

276

3

Bò sát (Reptilia) - Ếch
nhái (Amphibia)
Tổng số

Nguồn: ( Báo cáo đa dạng sinh học khu bảo tồn thiên nhiên Hang Kia-Pà Cò năm 2008)

2.3. Kinh tế, văn hóa và xã hội
2.3.1. Dân tộc, dân số và lao động
Khu BTTN nằm trên địa bàn 5 xã bao gồm Hang Kia, Pà Cò, Tân
Sơn, Cun Pheo và xã Bao La. Theo số liệu thống kê đến tháng 5 năm 2010
toàn khu có tổng số dân là 11.188 người sống trong 2.230 hộ gia đình. Nơi
đây tập trung 4 dân tộc cùng chung sống. Dân tộc H’Mông chiếm tỷ lệ nhiều
nhất với 44,4%; tiếp đến là dân tộc Mường 43,2%; dân tộc Thái chiếm 8,7%,
dân tộc kinh chiếm 3,7%.Trong những năm qua, do thực hiện tốt công tác kế
hoạch hóa gia đình nên mức độ gia tăng dân số tự nhiên đạt ở mức 1,2%. Mật


20

độ dân số bình quân đạt 85,5 người/km2. Dân số phân bố không đều, tập
trung chủ yếu ở trung tâm các xã.

Tổng số lao động là 5.301 người chiếm 47,4% tổng số nhân khẩu, trong
đó lao động nông lâm nghiệp là chủ yếu (92,5% tổng số lao động). Lực lượng
lao động qua đào tạo, có trình độ chuyên môn kỹ thuật chiếm tỷ lệ thấp
khoảng 5%. Điều đó đã ảnh hưởng đến hiệu quả lao động trong các ngành
nghề trên địa bàn.
2.3.2. Các hoạt động kinh tế chủ yếu
a, Trồng trọt
Sản xuất nông nghiệp là ngành sản xuất chính chiếm vị trí quan trọng
trong cơ cấu kinh tế của các xã có khu bảo tồn, là nguồn thu nhập chủ yếu
của các hộ sản xuất nông nghiệp, trong nông nghiệp trọng tâm là trồng trọt
và chăn nuôi gia súc gia cầm. Cây trồng chủ yếu là cây lương thực, cây màu
các loại và một số cây ăn quả dài ngày: cây mận, cây đào... Diện tích đất
nông nghiệp toàn Khu bảo tồn thiên nhiên là: 2899,5 ha chiếm 21,5 % diện
tích tự nhiên. Trong đó diện tích trồng cây ăn quả là: 699,2 ha, (riêng xã
Hang Kia-Pà Cò là 320 ha) trồng cây lương thực (ngô, lúa) là 2.200,3 ha
chiếm 75,8% diện tích đất nông nghiệp, bình quân 1,3 ha/hộ. Lương thực đạt
360kg/người /năm.
Do đặc điểm địa hình nên nước cho sản xuất nông nghiệp thường bị
thiếu về mùa khô nên 85-90% diện tích trồng cây lương thực là 1 vụ. Bên
cạnh đó, kỹ thuật canh tác còn lạc hậu, khoa học kỹ thuật áp dụng vào sản
xuất còn hạn chế, quá trình canh tác còn phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên nên
năng suất trong trồng trọt tuy có tăng nhưng còn chậm.


×