Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Ôn thi triết học dành cho học viên cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (322.96 KB, 60 trang )

Câu 1: Triết học là gì? Phân tích vấn đề cơ bản của triết học?
Câu 2: Phân tích sự đối lập giữa phương pháp siêu hình và phương pháp biện chứng
Câu 3: Trình bày những tiền đề ra đời của triết học Mác-Lênin
Câu 4: Vì sao nói sự ra đời của triết học Mác là bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết
học?
Câu5: Phân tích định nghĩa vật chất của V.I.Lênin và ý nghĩa khoa học của định nghĩa
này.
Câu 6: Phân tích nguồn gốc và bản chất của ý thức?
Câu 7: Phân tích quan điểm của triết học Mác-Lênin về vận động của vật chất.
Câu 8: Phân tích quan điểm của triết học Mác-Lênin mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức, từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận.
Câu 9: Phân tích nội dung của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và rút ra ý nghĩa
phương pháp luận
Câu 10: Phân tích nội dung của nguyên lý về sự phát triển và rút ra ý nghĩa phương
pháp luận
Câu 11: Phân tích nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập - ý
nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu quy luật này trong hoạt động thực tiễn.
Câu 12: Phân tích nội dung quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi
về chất và ngược lại. Ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu quy luật này trong
hoạt động thực tiễn.
Câu 13: Phân tích nội dung quy luật phủ định của phủ định. Ý nghĩa phương pháp luận
của việc nghiên cứu quy luật này trong hoạt động thực tiễn.
Câu 14: Phân tích nội dung cặp phạm trù cái chung và cái riêng, từ đó rút ra ý
nghĩa phương pháp luận
Câu 15: phân tích nội dung cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả, từ đó rút ra ý
nghĩa phương pháp luận.
Câu 16: Phân tích nội dung cặp phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên, từ đó rút ra ý
nghĩa phương pháp luận.
Câu 17: Phân tích nội dung cặp phạm trù nội dung và hình thức, từ đó rút ra ý
nghĩa phương pháp luận.
Câu 18: Phân tích nội dung cặp phạm trù bản chất và hiện tượng, từ đó rút ra ý


nghĩa phương pháp luận.
Câu 19: Phân tích nội dung cặp phạm trù khả năng và hiện thực, từ đó rút ra ý
nghĩa phương pháp luận.
Câu 20: Nhận thức là gì? Thực tiễn là gì? Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức lý
luận.
Câu 21: Phân tích con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý.
Câu 22: Trình bày quan điểm của triết học Mác-Lênin về vấn đề chân lý.
Câu 23: Khái niệm quy luật xã hội? Phân tích mối quan hệ giữa quy luật xã hội và
hoạt động có ý thức của con người.
Câu 24: Khái niệm phương thức sản xuất? Tại sao nói phương thức sản xuất là
nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội?
Câu 25: Phân tích nội dung quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính
chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Từ đó rút ra ý nghĩa của việc vận dụng quy luật
này trong thực tiễn ở nước ta hiện nay.

1


Câu 26: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng của xã hội. Đặc điểm của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Câu 27: Khái niệm hình thái kinh tế-xã hội? Vì sao nói sự phát triển của các hình
thái kinh tế-xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên.
Câu 28: Phân tích định nghĩa về giai cấp của Lênin và rút ra ý nghĩa của định
nghĩa đối với việc xem xét vấn đề giai cấp ở nước ta hiện nay
Câu 29: Đấu tranh giai cấp là gì? Phân tích vai trò của đấu tranh giai cấp đối với
sự phát triển của xã hội có giai cấp đối kháng.
Câu 30: Phân tích quan điểm của triết học Mác-Lênin về nguồn gốc và bản chất
của Nhà nước.
Câu 31: Các kiểu và các hình thức nhà nước đã có trong lịch sử. Đặc điểm của Nhà

nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Câu 32: Cách mạng xã hội là gì? Phân tích vai trò của cách mạng xã hội trong sự
phát triển của xã hội.
Câu 33: Phân tích nguyên nhân, những điều kiện khách quan và chủ quan của
cách mạng xã hội.
Câu 34: Tiến bộ xã hội là gì? Trình bày tiêu chuẩn và động lực của tiến bộ xã hội,
từ đó vận dụng vào việc xem xét quá trình đổi mới ở nước ta.
Câu 35: Phân tích quan điểm triết học Mác-Lênin về bản chất con người.
Câu 36: Phân tích mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể, cá nhân và xã hội, từ đó
rút ra ý nghĩa của vấn đề này ở nước ta hiện nay.
Câu 37: Phân tích mối quan hệ giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ trong sự
phát triển lịch sử, từ đó rút ra ý nghĩa của vấn đề này trong việc quán triệt bài học “lấy
dân làm gốc”.
Câu 38: Tồn tại xã hội là gì? Phân tích vai trò của các yếu tố cấu thành tồn tại xã
hội?
Câu 39: Trình bày khái niệm và kết cấu của ý thức xã hội?
Câu 40: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, từ
đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận.
Câu 41: Khoa học là gì? Vai trò của khoa học đối với sự phát triển xã hội?
Câu 42: Văn hóa là gì? Phân tích bản chất, chức năng và đặc điểm của sự phát
triển văn hóa.

2


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC HUẾ
KHOA MÁC-LÊNIN
BỘ MÔN TRIẾT HỌC

HƯỚNG DẪN ÔN TẬP


TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
(TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ)

HUẾ

Lời nói đầu
- Căn cứ vào thông báo số 7785/CTCT ngày 12.9.1998 của Bộ giáo dục và Đào tạo vê
việc dạy và học các môn khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh năm học 1998-1999.
- Căn cứ vào nhu cầu vê tài liệu học tập của sinh viên và học viên Cao học, nghiên cứu
sinh không chuyên ngành Mác-Lênin, Bộ môn Triết học Trường Đại học Khoa học Huế biên
soạn cuốn: “Hướng dẫn ôn tập Triết học Mác – Lênin”.
Đây là tài liệu giúp cho người học nắm được một cách có hệ thống những nguyên lý cơ
bản của Triết học Mác-Lênin và những quan điểm của Đảng ta vận dụng vào cách mạng Việt
Nam.
Tập thể tác giả xin được đón nhận sự hợp tác và những ý kiến trao đổi, xây dựng của
bạn sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh và đồng nghiệp.
Bộ môn Triết học
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC HUÊ

3


Phần A
CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ THẾ GIỚI
Câu 1: Triết học là gì? Phân tích vấn đề cơ bản của triết học?
1. Khái niệm triết học:
“Triết” theo nguyên chữ Hán có nghĩa là trí (bao gồm sự hiểu biết sâu rộng vê vũ trụ và
nhân sinh), theo chữ Hy Lạp là “yêu mến sự thông thái”. Khái niệm “triết học” có những biến
đổi nhất định trong lịch sử, nhưng lúc nào cũng bao hàm: yếu tố nhận thức (sự hiểu biết vê vũ

trụ, vê con người và sự giải thích bằng hệ thống tư duy) và yếu tố nhận định (đánh giá vê đạo
lý để con người có thái độ và hành động).
Theo quan điểm mácxít, triết học là một trong những hình thái ý thức xã hội; là học
thuyết vê những nguyên tắc chung nhất của tồn tại, của nhận thức và của thái độ con người đối
với thế giới; là khoa học vê những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Đặc điểm nổi bật của triết học là cách nhìn chung vê thế giới, là sự nghiên cứu thế giới
xét như một chỉnh thể, cho nên tri thức triết học trước hết là những tri thức phổ quát. Từ cách
xem xét đó, triết học có vai trò giải thích bản chất, nguyên nhân và những quy luật phát triển
của thế giới; vừa có vai trò vạch ra con đường, những phương tiện để nhận thức và cải tạo thế
giới.
Triết học chỉ xuất hiện khi có hai điêu kiện: Vê mặt nhận thức, triết học xuất hiện khi
năng lực tư duy trừu tượng của con người đạt đến trình độ nhất định, cho phép họ tổng kết và
khái quát những tri thức riêng lẻ thành hệ thống quan niệm, quan điểm chung. Vê mặt xã hội,
triết học xuất hiện khi sản xuất vật chất của loài người phát triển đến trình độ làm nảy sinh quá
trình phân công lao động trí óc và lao động chân tay; nhưng quá trình phân công lao động này
trong thực tế chỉ diễn ra khi lịch sử nhân loại bước vào giai đoạn có phân chia giai cấp.
2. Vấn đề cơ bản của triết học
Theo Ăngghen, vấn đê cơ bản của triết học là vấn đê vê mối quan hệ giữa tồn tại và tư
duy, hay là vấn đê vê mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Vấn đê này có hai mặt:
- Mặt thứ nhất, đó là vấn đê giữa ý thức và vật chất, cái nào có trước? cái nào quyết
định cái nào? Tùy theo cách giải quyết vấn đê này mà triết học chia thành hai trào lưu chính:
chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
Chủ nghĩa duy vật cho rằng bản chất của thế giới là vật chất, nên vật chất có trước, tồn
tại độc lập với ý thức và quyết định ý thức; còn ý thức là thuộc tính, là sự phản ánh vật chất.
Chủ nghĩa duy vật trải qua nhiêu giai đoạn phát triển với năm hình thức lịch sử cơ bản: duy
vật cổ đại (mộc mạc, chất phác), duy vật tầm thường thế kỷ V-XV, duy vật cơ học máy móc
thế kỷ XVII-XVIII, duy vật siêu hình thế kỷ XIX và duy vật mác-xít (biện chứng).
Chủ nghĩa duy tâm cho rằng ý thức (tinh thần) là bản chất của thế giới, nên ý thức là cái
có trước và quyết định vật chất; còn vật chất là cái có sau, là sự “biểu hiện” của ý thức. Chủ
nghĩa duy tâm có hai hình thức cơ bản: duy tâm chủ quan (coi ý thức là bản chất của thế giới,

nhưng đó là ý thức của con người nằm trong con người) và duy tâm khách quan (cũng coi ý
thức là bản chất của thế giới, nhưng đó là một thực thể tinh thần tồn tại bên ngoài con người
và độc lập với con người).
Nguồn gốc của chủ nghĩa duy vật: là sự phát triển của tri thức, của khoa học; là lợi ích
và cuộc đấu tranh của các giai cấp, các lực lượng xã hội tiến bộ, cách mạng ở mỗi giai đoạn
phát triển của lich sử. Nguồn gốc của chủ nghĩa duy tâm: là sự tuyệt đối hóa một hình thức
hay một giai đoạn của quá trình nhận thức dẫn đến tách nhận thức và ý thức khỏi thế giới hiện
thực khách quan; thông thường là lợi ích và sự phản kháng của các giai cấp, các lực lượng bảo
thủ trước tiến bộ xã hội.
4


- Mặt thứ hai, là vấn đê vê khả năng nhận thức của con người.
Toàn bộ các nhà triết học duy vật và đa số những nhà triết học duy tâm đêu thừa nhận
rằng thế giới có thể nhận thức được. Nhưng các nhà duy vật cho rằng, nhận thức là sự phản
ánh thế giới vật chất khách quan trong bộ óc con người. Còn các nhà duy tâm thì cho rằng,
nhận thức chỉ là sự ý thức vê bản chất ý thức.
Trả lời vấn đê này còn có những nhà triết học theo nguyên tắc bất khả tri (không thể
biết). Những người này xuất phát từ việc tuyệt đối hóa tính tương đối của tri thức dẫn đến phủ
nhận khả năng nhận thức của con người.
- Bên cạnh những nhà triết học nhất nguyên (duy vật và duy tâm) giải thích thế giới từ
một bản nguyên, hoặc vật chất hoặc tinh thần, còn có những nhà triết học nhị nguyên luận.
Nhị nguyên luận cho rằng thế giới được sinh ra từ hai bản nguyên độc lập với nhau, bản
nguyên vật chất sinh ra các hiện tượng vật chất, bản nguyên tinh thần sinh ra các hiện tượng
tinh thần. Nhị nguyên luận thể hiện lập trường dung hòa giữa duy vật và duy tâm, đó chỉ là
khuynh hướng nhỏ trong lịch sử triết học và trong cuộc đấu tranh triết học nó càng trở nên gần
với chủ nghĩa duy tâm.
Câu 2: Phân tích sự đối lập giữa phương pháp siêu hình và phương pháp biện chứng
- Phương pháp triết học là phương pháp nhận thức thế giới nói chung, là hệ thống
những nguyên tắc dùng để nghiên cứu thế giới xét như một chỉnh thể. Trong lịch sử triết học

có hai phương pháp cơ bản đối lập nhau: phương pháp siêu hình và phương pháp biện chứng.
Thuật ngữ “siêu hình” (metaphysics), đầu tiên được Aristote dùng để chỉ bộ phận quan
trọng nhất trong hệ thống triết học của mình. Theo đó, nó được hiểu là học thuyết vê những gì
vượt ra ngoài giới hạn của “kinh nghiệm”, vê những đối tượng đằng sau các sự vật hữu hình.
Vì vậy, cho đến thời Phục hưng người ta vẫn coi siêu hình học đồng nghĩa với triết học. Đến
thế kỷ XVII-XVIII, sự phát triển của khoa học tự nhiên đòi hỏi phải phân chia giới tự nhiên
thành những lĩnh vực riêng biệt để nghiên cứu. Chính cách nghiên cứu ấy đã đem lại cho các
nhà khoa học một thói quen, xét sự vật và quá trình trong trạng thái cô lập ở ngoài mối liên hệ,
vận động và phát triển của chúng. Khi cách xem xét này được các nhà duy vật đưa vào triết
học thì nó đã tạo ra phương pháp siêu hình. Như vậy, thuật ngữ “phương pháp siêu hình” được
dùng để chỉ phương pháp triết học đặc trưng cho chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII-XVIII.
Phương pháp siêu hình là cách xem xét thế giới trong sự cô lập tác biệt lẫn nhau hoặc không
vận động, hoặc không phát triển, hoặc vận động và phát triển theo chu kỳ khép kín.
Thuật ngữ “biện chứng” (dialectics), đầu tiên được Platon dùng để chỉ một nghệ thuật
trong tranh luận, theo đó nó được hiểu là những thủ đoạn biện bác chủ quan. Tuy vậy ở thời cổ
đại đã có những tư tưởng biện chứng khách quan (triết học Hêraclít), nhưng vẫn còn mang
tính tự phát và chưa trở thành hệ thống. Đến thế kỷ XVIII, những tư tưởng biện chứng được
phục hồi và được xây dựng thành hệ thống, đặc biệt là ở trong các học thuyết của những nhà
triết học duy tâm cổ điển Đức. Từ lúc này những tư tưởng biện chứng mới hợp thành một
phương pháp triết học đối lập với phương pháp siêu hình. Đến giữa thế kỷ XIX, khái quát hiện
thực xã hội, tổng kết những thành quả lý luận và khoa học, Mác và Ăngghen xây dựng lại
phương pháp biện chứng trên lập trường duy vật đã sáng tạo ra phương pháp biện chứng
mácxít. Phương pháp biện chứng là cách xem xét thế giới trong mối liên hệ phổ biến quy định
ràng buộc nhau và luôn vận động và luôn phát triển.
- Sự đối lập giữa phương pháp siêu hình và phương pháp biện chứng diễn ra trong cách
giải quyết mọi vấn đê triết học, song có thể khái quát ở những nội dung chính sau đây:
Thứ nhất: Phương pháp siêu hình xem xét thế giới trong trạng thái cô lập của các sự vật
hiện tượng; cái này được xét tách rời cái kia mà không thừa nhận rằng giữa chúng có sự ràng
buộc lẫn nhau. Vì vậy phương pháp siêu hình chỉ nhìn thấy tính cá biệt mà không nắm được
5



mối liên hệ, thấy được sự khác biệt mà không nắm được sự thống nhất giữa các sự vật hiện
tượng; chỉ thấy cái bộ phận, cái đơn nhất, cái riêng mà không nắm được cái toàn thể, cái phổ
biến, cái chung. Trái lại, phương pháp biện chứng xem xét thế giới trong mối liên hệ, ràng
buộc giữa các yếu tố của nó và với cái khác. Vì vậy, phương pháp biện chứng nhìn nhận sự vật
toàn diện hơn, thấy được cả sự khác biệt và sự thống nhất giữa các sự vật, hiện tượng, nắm
được cả cải bộ phận và cái toàn thể, cái đơn nhất và cái phổ biến, cái riêng và cái chung.
Thứ hai: Phương pháp siêu hình xem xét thế giới trong trạng thái tĩnh; sự vật hiện tượng
chỉ được xét như cái gì ổn định nằm ngoài sự vận động và phát triển của chúng. Cách xem xét
này cho phép phương pháp siêu hình nắm được tính xác định và ổn định của sự vật, hiện
tượng, nhưng mặt khác cũng dẫn đến những sai lầm nghiêm trọng: đó là quan điểm phủ nhận
sự vận động, phát triển của thế giới; là quan điểm cho rằng thế giới có sự tăng giảm vê lượng,
sự lặp lại, mà không có sự chuyển hóa vê chất, không có sự xuất hiện cái mới thay thế cái cũ,
cái lạc hậu. Vì vậy phương pháp siêu hình không thể vạch ra được bản chất thật sự của mọi sự
vật, hiện tượng; không vạch ra được nguồn gốc, động lực, quy luật và xu hướng vận động phát
triển của chúng. Trái lại, phương pháp biện chứng xem xét thế giới trong trạng thái vận động,
chuyển hóa không ngừng; sự vật, hiện tượng nào cũng được xét như một quá trình, trong sự tự
vận động, tự phát triển của nó. Thừa nhận sự phát triển, phương pháp biện chứng cho rằng:
không chỉ có sự tăng giảm vê lượng mà còn có sự phát triển vê chất; có sự ra đời của cái mới
thông qua phủ định cái cũ; nguồn gốc, động lực của mọi sự phát triển là cuộc đấu tranh giữa
các mặt đối lập của sự vật, hiện tượng. Nhờ cách xem xét ấy, phương pháp biện chứng, vạch
ra được bản chất đích thực của sự vật, hiện tượng; nắm bắt được nguồn gốc và động lực bên
trong của mọi sự vận động, phát triển.
Vì vậy, Lênin nhận xét rằng chỉ có quan điểm biện chứng vê sự phát triển là sâu sắc,
sinh động và chỉ có phép biện chứng mới là chìa khóa để nghiên cứu sự phát triển.
Tuy nhiên, không được tuyệt đối hóa phép biện chứng mà phủ nhận vai trò của phép
siêu hình. Trong thực tế, có những mối liên hệ, có những mặt, có những lúc đặc biệt lại rất cần
đến phép siêu hình.
Câu 3: Trình bày những tiền đề ra đời của triết học Mác-Lênin

* Tiền đề kinh tế-xã hội
Triết học Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX, thời kỳ mà chủ nghĩa tư bản đã
trở thành hệ thống kinh tế thống trị ở các nước Tây Âu và giai cấp vô sản đã bước lên vũ đài
lịch sử như một lực lượng chính trị độc lập.
Mác nhận xét rằng, đến thế kỷ XIX chủ nghĩa tư bản đã trở thành một cơ thể hoàn
chỉnh, làm bộc lộ đầy đủ các mâu thuẫn trong bản chất của nó. Trước hết là mâu thuẫn gay gắt
giữa lực lượng sản xuất có tính chất xã hội với quan hệ sản xuất có tính chất tư hữu tư nhân tư
bản chủ nghĩa, mâu thuẫn này biểu hiện vê mặt xã hội là mâu thuẫn xung đột giữa lao động
với tư bản, giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản cùng
với các mâu thuẫn của nó, đã tạo ra một cơ sở hiện thực cho những phân tích và khái quát lý
luận trong học thuyết của Mác và Ăngghen.
Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản cùng với các mâu thuẫn của nó kéo theo sự phát triển
của phong trào công nhân. Đến cuối thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX, phong trào công
nhân ở các nước Tây Âu đã có bước phát triển mới vê số lượng và chất lượng. Sự tập trung tư
bản cùng với sự hình thành những trung tâm công nghiệp lớn thu hút công nhân thành lực
lượng đông đảo, mâu thuẫn giữa lao động và tư bản trở nên gay gắt làm xuất hiện những cuộc
đấu tranh chính trị ngày càng có tổ chức và tự giác. Các cuộc khởi nghĩa của công nhân ở
Xilêdi (Đức), ở Liông và Pari (Pháp), phong trào Hiến chương (Anh) vào những năm 30-40
chứng minh rằng: giai cấp công nhân trở thành lực lượng quyết định các quá trình kinh tế-xã
6


hội-chính trị của thời đại và bước lên vũ đài lịch sử như một lực lượng chính trị độc lập.
Phong trào công nhân thời kỳ này làm bộc lộ sai lầm của quan niệm tư sản vê sự hân hoan
chung giữa lao động và tư sản, tạo nên những thay đổi căn bản trong quan niệm vê lịch sử của
Mác và Ăngghen; mặt khác, nó đê ra nhu cầu giải thích vê những thực tế của cuộc đấu tranh
của giai cấp vô sản vê sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản vê tổ chức, con đường và phương
tiện cách mạng của giai cấp vô sản. Chủ nghĩa Mác ra đời đã đáp ứng những đòi hỏi này.
Những phân tích và khái quát lý luận vê sự phát triển của chủ nghĩa tư bản và phong
trào công nhân vào nửa đầu thế kỷ XIX là một bộ phận quan trọng trong học thuyết của Mác

và Ăngghen. Vì vậy, sự phát triển của chủ nghĩa tư bản và phong trào công nhân thời kỳ đó là
những điêu kiện kinh tế-xã hội cho sự ra đời của triết học.
* Tiền đề lý luận
- Sự ra đời của triết học Mác trước hết có kế thừa những thành quả của triết học cổ điển
Đức. Mác và Ăngghen luôn thừa nhận rằng trong sự phát triển trí tuệ của mình, hai ông đã
chịu ơn nhiêu nhà triết học Đức, trong đó nổi bật là Hêghen và Phoiơbắc.
Công lao to lớn của Hêghen là ở chỗ: Ông đã phê phán những hạn chế cơ bản của
phương pháp siêu hình, đã xây dựng phép biện chứng thành hệ thống và xem nó là phương
pháp luận đúng đắn của mọi nhận thức khoa học. Nhưng Mác và Ăngghen cũng chỉ ra rằng,
triết học Hêghen có những hạn chế lớn, đó là sự giải thích duy tâm vê hiện thực; là sự biện hộ
cho những thực tế lịch sử lỗi thời, cho tôn giáo; là triết học tự biện, trừu tượng, xa rời hiện
thực và thực tiễn. Cho nên khi sáng lập triết học của mình Mác và Ăngghen đã không kế thừa
toàn bộ triết học Hê-ghen mà chỉ kế thừa hạt nhân hợp lý, đó là phép biện chứng, đồng thời
cải tạo và xây dựng lại phép biện chứng trên lập trường duy vật.
Đánh giá vê Phoiơbắc, Mác và Ăngghen cho rằng chính nhờ đọc được các tác phẩm của
ông mà họ đã cương quyết đoạn tuyệt với triết học Hêghen. Công lao của Phoiơbắc là ở sự
phê phán quyết liệt chủ nghĩa duy tâm-tôn giáo (nhất là phê phán Hê-ghen), là sự khẳng định
cương quyết tính đúng đắn của các nguyên lý duy vật, là việc giải thích trên lập trường duy
vật bản chất con người, bản chất tôn giáo và đê cao chủ nghĩa nhân đạo. Nhưng Phoiơbắc
cũng có những hạn chế lớn, đó là phương pháp tư duy siêu hình, (khi phê phán Hêghen, ông
đã không thấy được phép biện chứng là hạt nhân hợp lý nên đã bác bỏ và chuyển sang quan
điểm siêu hình); quan điểm trực quan, trừu tượng, phi lịch sử vê bản chất con người, duy tâm
trong lĩnh vực xã hội. Vì vậy khi sáng lập ra triết học của mình, Mác và Ăngghen cũng không
kế thừa toàn bộ triết học Phoiơbắc mà chỉ kế thừa hạt nhân cơ bản đúng đắn đó là nguyên lý
duy vật, đồng thời cải tạo và xây dựng lại chủ nghĩa duy vật dựa trên quan điểm biện chứng.
- Sự ra đời triết học Mác không chỉ do ảnh hưởng của triết học Hêghen và triết học
Phoiơbắc. Mác và Ăngghen khi tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản đã
rút ra những tài liệu thực tiễn phong phú cho những kết luận duy vật-biện chứng của mình.
Ngoài ra, việc hai ông đi sâu nghiên cứu kinh tế-chính trị học cổ điển và chủ nghĩa xã hội
không tưởng phê phán, đã góp phần không nhỏ cho sự hình thành và hoàn thiện thế giới quan

triết học của mình.
* Tiền đề khoa học tự nhiên
Sự ra đời triết học Mác còn được chuẩn bị bởi những thành quả của khoa học tự nhiên.
Những thành quả của khoa học tự nhiên từ cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX làm bộc lộ
những hạn chế của phương pháp tư duy siêu hình, ngày càng chứng minh tính đúng đắn của
các nguyên lý duy vật và biện chứng.
Phát hiện bằng thực nghiệm của Maye (được Lômônôxốp công bố) vê sự bảo toàn vật
chất và vận động, lý luận của Cantơ vê sự hình thành thái dương hệ đã góp phần khẳng định
7


quan điểm biện chứng vê lịch sử vũ trụ và giới tự nhiên: mặt khác đả phá quan niệm duy tâm,
tôn giáo siêu hình vê thế giới.
Từ những năm 30 đến 50 của thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên đã có những thành tựu to
lớn. Thời kỳ này có ba phát minh vĩ đại đóng vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh chống
quan điểm siêu hình và chuẩn bị cho sự ra đời của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Vào những năm 40 của thế kỷ XIX phát minh ra quy luật bảo toàn và chuyển hóa năng
lượng. Quy luật này chứng minh rằng: lực cơ học, nhiệt, ánh sáng, điện, từ các quá trình hóa
học, nghĩa là các hình thức khác nhau của vận động vật chất không tách rời nhau, mà liên hệ
và chuyển hóa lẫn nhau nên không hê mất đi. Nó chứng minh rằng không có sự sinh ra và mất
đi của năng lượng, mà chỉ có sự chuyển hóa năng lượng từ dạng này sang dạng khác. Như vậy
quy luật này là cơ sở khoa học tự nhiên cho quan điểm biện chứng vê thế giới.
Vào những năm 30 của thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên đã phát minh ra học thuyết cấu
tạo tế bào của cơ thể sống. Học thuyết này bác bỏ quan niệm siêu hình vê sự khác biệt tuyệt
đối giữa thực vật và động vật. Ngược lại, nó khẳng định sự thống nhất vê nguồn gốc và hình
thái giữa thực vật và động vật, giải thích quá trình phát triển của chúng, đặt cơ sở cho quan
điểm duy vật biện chứng vê sự phát triển của toàn hệ sinh học.
Phát minh lớn thứ ba là học thuyết tiến hóa của sinh giới ra đời vào những năm 50 của
thế kỷ XIX. Học thuyết tiến hóa chứng minh rằng sinh giới không phải là bất biến mà thường
xuyên biến đổi, nằm trong quá trình tiến hóa không ngừng của giới tự nhiên. Nó khẳng định

sự tiến hóa của sinh giới diễn ra theo con đường chọn lọc tự nhiên và chọn lọc nhân tạo. Lênin
đánh giá rằng thuyết tiến hóa đánh dấu sự cáo chung của quan niệm siêu hình vê tính bất biến
của các loài và quan niệm vê nguồn gốc thần thánh của sinh giới đem lại cơ sở thật sự khoa
học cho sinh học. Mác và Ăngghen xác nhận rằng thuyết tiến hóa đem lại cái cơ sở lịch sử tự
nhiên cho học thuyết của hai ông, đã đập tan thần học trong học thuyết vê sự phát triển của
thực vật và động vật; rằng trước đó chưa hê có một sự chứng minh nào thành công to lớn như
thế vê sự phát triển lịch sử trong giới tự nhiên.
Như vậy, những thành tựu của khoa học tự nhiên nửa đầu thế kỷ XIX cũng là tiên đê
cho các quan điểm duy vật và biện chứng vê thế giới của Mác và Ăngghen.
Câu 4: Vì sao nói sự ra đời của triết học Mác là bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết
học?
Khái quát hiện thực xã hội, kinh nghiệm của phong trào công nhân và những thành tựu
của khoa học tự nhiên, nghiên cứu có phê phán những tư tưởng triết học trước đó, Mác và
Ăngghen đã sáng tạo ra triết học của mình, thực hiện một bước ngoặt cách mạng trong lịch sử
triết học. Điêu đó thể hiện ở những nội dung sau đây:
- Triết học Mác ra đời lần đầu tiên đem lại cho giai cấp vô sản một hệ tư tưởng; một lý
luận dẫn đường thực hiện bước giải phóng giai cấp vô sản vê mặt tinh thần. Mác cho rằng, nếu
trái tim của sự giải phóng nhân loại là giai cấp vô sản, thì khối óc sự giải phóng đó là triết học
của giai cấp vô sản, là thế giới quan của nó. Triết học Mác là vũ khí lý luận chung cấp cho giai
cấp vô sản những công cụ nhận thức và cải tạo thế giới, cho nên Mác viết: “giống như triết
học tìm thấy ở giai cấp vô sản là một vũ khí vật chất, giai cấp vô sản tìm thấy ở triết học là
một vũ khí tinh thần”. Như vậy, với sự ra đời ở triết học Mác, phong trào vô sản đã có một
bước ngoặt, từ chỗ là một phong trào tự phát, chưa có lý luận, bị lệ thuộc vào tư tưởng, nó trở
thành một phong trào tự giác, có lý luận và độc lập vê tư tưởng.
- Với sự ra đời của triết học Mác, lần đầu tiên thực tiễn trở thành phạm trù trung tâm
của triết học. Điêu đó làm biến đổi tận gốc vai trò xã hội của triết học và khắc phục được
những thiếu sót căn bản của triết học trước kia. Trung tâm chú ý của triết học Mác không chỉ
là giải thích, mà còn và chủ yếu là vạch ra con đường, những phương tiện cải tạo thế giới bằng
8



thực tiễn cách mạng. Đối với triết học Mác thì thực tiễn có vai trò quyết định mọi sự phát triển
xã hội, khoa học và cả triết học. Không một nhà triết học nào trước Mác hiểu được vai trò
quyết định của thực tiễn đối với lý luận và đối với toàn bộ lịch sử nhân loại. Vì hạn chế đó,
các nhà duy vật trước Mác đã rơi vào quan điểm duy tâm siêu hình khi đê cập đến những vấn
đê xã hội. Chủ nghĩa duy tâm phản ánh lợi ích của giai cấp thống trị bảo thủ, cho nên nó xa rời
thực tiễn, tách khỏi hiện thực, làm cho quần chúng không thấy được những cơ sở vật chất của
các quan hệ bóc lột.
Chỉ ra vai trò quyết định của thực tiễn, Mác và Ăngghen cũng luôn nhấn mạng vai trò to
lớn của hoạt động tinh thần, của lý luận. Vì vậy hai ông đã phát triển học thuyết cân đối vê
mối liên hệ giữa lý luận cách mạng và thực tiễn cách mạng. Lý luận cách mạng có vai trò chỉ
đạo thực tiễn, làm cho thực tiễn từ tự phát thành thực tiễn cách mạng, tự giác. Khi lý luận cách
mạng thâm nhập vào quần chúng sẽ đem lại cho họ những hiểu biết quy luật của đời sống xã
hội, hướng dẫn họ thực hiện một cách tự giác những nhiệm vụ của cuộc đấu tranh thực tiễn,
lúc đó trở thành sức mạnh vật chất.
Là thế giới quan và phương pháp luận của giai cấp vô sản, triết học Mác có sự thống
nhất sâu sắc giữa tính Đảng, tính cách mạng và tính khoa học. Triết học Mác là sự phản ánh
lợi ích của giai cấp vô sản và nhân dân lao động; đồng thời nó là lý luận cho cuộc đấu tranh
của họ nhằm xóa bỏ mọi chế độ người bóc lột người, đưa nhân loại lên chủ nghĩa cộng sản.
Đó là tính Đảng, tính cách mạng của triết học Mác không đối lập với tính khoa học của nó.
Khi phản ánh lợi ích của giai cấp vô sản và phục vụ cho cuộc đấu tranh vì chủ nghĩa cộng sản,
triết học Mác phản ánh đúng yêu cầu và những quy luật khách quan của lịch sử.
Sự ra đời của triết học Mác cũng là sự sáng lập chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép
biện chứng duy vật. Đây là những hình thức cao của chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng,
khắc phục những thiếu sót căn bản của triết học trước kia. Trước Mác chủ nghĩa duy vật thì
siêu hình, còn phép biện chứng thì lại gắn với lập trường duy tâm, như vậy chúng tách rời,
thậm chí đối lập nhau, chỉ khi triết học Mác ra đời mới có sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy
vật và phép biện chứng, tạo ra một triết học phát triển cao hơn vê chất so với trước đó.
- Sự ra đời triết học Mác cũng là sự sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đây là biểu
hiện rõ rệt nhất của cuộc cách mạng triết học do Mác và Ăngghen thực hiện. Chỉ khi chủ

nghĩa duy vật lịch sử xuất hiện thì chủ nghĩa duy vật nói chung mới trở thành triệt để. Nó
không chỉ khắc phục lập trường duy tâm vê xã hội trong triết học trước đó, mà còn là cơ sở lý
luận vê phương pháp luận khoa học cho toàn bộ xã hội học, cho hoạt động thực tiễn cách
mạng của giai cấp công nhân và đảng của nó.
- Sự ra đời triết học Mác làm thay đổi căn bản tính chất của triết học, đối tượng và mối
quan hệ của nó với các khoa học khác. Truyên thống trước đó, triết học được coi là khoa học
của mọi khoa học, hòa lẫn hoặc tách rời với các khoa học cụ thể khác. Triết học Mác không
hòa lẫn vào các khoa học cụ thể mà cũng không tách rời chúng. Trong sự hình thành và phát
triển của mình, triết học Mác không chỉ dựa trên sự khái quát thực tiễn xã hội, mà còn dựa
trên sự khái quát của những thành tựu khoa học cụ thể (cả tự nhiên và xã hội). Khoa học cụ
thể cung cấp những tài liệu hết sức phong phú cho triết học Mác nghiên cứu các quy luật
chung nhất của hiện thực khách quan. Đồng thời triết học Mác cung cấp những hiểu biết vê
các quy luật chung nhất của hiện thực khách quan sẽ giúp cho các khoa học cụ thể nghiên cứu
có hiệu quả các quy luật đặc thù.
Câu5: Phân tích định nghĩa vật chất của V.I.Lênin và ý nghĩa khoa học của định nghĩa
này.
Tiếp thu tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, trên cơ sở khái quát những thành tựu mới
nhất của khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, vê mặt triết học trên cơ sở phê
9


phán những quan điểm duy tâm và siêu hình vê vật chất, Lênin đã đưa ra định nghĩa vê vật
chất như sau:
* Nội dung định nghĩa vật chất của V.I.Lênin:
“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho
con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại
không lệ thuộc vào cảm giác” (V.I.Lênin toàn tập, T.18, NXB Tiến bộ, Matxcơva, 1980,
tr.151).
* Phân tích định nghĩa vật chất của V.I.Lênin:
Trong định nghĩa trên, chúng ta cần phân tích những nội dung chủ yếu sau đây:

a. “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan…”
- “Vật chất” là một phạm trù khái quát nhất, rộng nhất của lý luận nhận thức.
+ Phạm trù vật chất phải được xem xét dưới góc độ của triết học, chứ không phải dưới
góc độ của các khoa học cụ thể. Điêu này sẽ giúp chúng ta tránh được sai lầm khi đồng nhất
phạm trù vật chất trong triết học với các khái niệm vật chất thường dùng trong các khoa học
cụ thể hoặc đời sống hằng ngày.
+ Không thể định nghĩa phạm trù vật chất theo phương pháp thông thường. Vê mặt
nhận thức luận, Lênin chỉ có thể định nghĩa phạm trù vật chất trong quan hệ với phạm trù đối
lập của nó, đó là phạm trù ý thức (phương pháp định nghĩa thông qua cái đối lập với nó).
(Xem thêm chương khái niệm ở giáo trình Lôgic hình thức)
Khi định nghĩa vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan,
Lênin đã bỏ qua những thuộc tính riêng lẻ, cụ thể, nhiêu màu, nhiêu vẻ của các sự vật, hiện
tượng, mà nêu bật đặc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất có ở tất cả các sự vật, hiện tượng trong
thế giới hiện thực khách quan. Đó là đặc tính “tồn tại với tư cách là thực tại khách quan”, tồn
tại ở ngoài ý thức con người và độc lập với ý thức. Đặc tính này là dấu hiệu cơ bản để phân
biệt vật chất với cái không phải là vật chất.
- Tính trừu tượng của phạm trù vật chất: Phạm trù vật chất khái quát đặc tính chung
nhất của mọi khách thể vật chất xét trong quan hệ với ý thức nên vê hình thức nó là cái trừu
tượng. Vì thế, không được đồng nhất vật chất với các dạng cụ thể của nó giống như quan niệm
của các nhà duy vật trước Mác.
b. Thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác.
Trong phần này, Lênin đã giải quyết được những điêu sau đây:
- Thứ nhất, Lênin đã giải quyết được mối quan hệ giữa tính trừu tượng và tính hiện thực
cụ thể cảm tính của phạm trù vật chất. Vật chất không phải tồn tại vô hình, thần bí mà tồn tại
một cách hiện thực, được biểu hiện cụ thể dưới dạng các sự vật, hiện tượng cụ thể mà các giác
quan của chúng ta có thể nhận biết một cách trực tiếp hay gián tiếp.
- Thứ hai, Lênin đã giải quyết được mặt thứ nhất của vấn đê cơ bản triết học trên lập
trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Thực tại khách quan đưa lại cảm giác cho con
người, chứ không phải cảm giác (ý thức) sinh ra thực tại khách quan. Điêu đó có nghĩa là, vật
chất là cái có trước và đóng vai trò quyết định, nội dung khách quan của ý thức.

c. Thực tại khách quan được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn
tại không lệ thuộc vào cảm giác.
Đến đây, Lênin đã khẳng định rằng con người có khả năng nhận thức được thế giới hiện
thực khách quan. Tức là Lênin đã giải quyết được mặt thứ hai của vấn đê cơ bản triết học trên
lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
* Ý nghĩa của định nghĩa vật chất của V.I.Lênin:
- Giải quyết một cách đúng đắn vấn đê cơ bản của triết học trên lập trường chủ nghĩa
duy vật và biện chứng.
10


- Khắc phục được những quan niệm trực quan, siêu hình, máy móc vê vật chất của chủ
nghĩa duy vật trước Mác và những biến tướng của nó trong trào lưu triết học tư sản hiện đại.
- Chống lại tất cả các quan điểm duy tâm và tạo ra căn cứ vững chắc để nghiên cứu xã
hội.
- Khẳng định thế giới vật chất là khách quan và vô cùng, vô tận, luôn luôn vận động và
phát triển không ngừng nên nó đã có tác dụng định hướng, cổ vũ các nhà khoa học khi sâu vào
nghiên cứu thế giới vật chất, để ngày càng làm phong phú thêm kho tàng tri thức của nhân
loại.
Câu 6: Phân tích nguồn gốc và bản chất của ý thức?
Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, ý thức của con người là sản phẩm của quá trình
phát triển tự nhiên và lịch sử-xã hội. Do đó, muốn hiểu được nguồn gốc và bản chất của ý
thức, cần phải xem xét trên cả mặt tự nhiên và xã hội.
I. Nguồn gốc ý thức:
1. Nguồn gốc tự nhiên:
a. Ý thức là thuộc tính phản ánh của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ não người.
- Phản ánh là thuộc tính chung của vật chất. Phản ánh đó là năng lực giữ lại, tái hiện lại
của hệ thống vật chất này những đặc điểm của hệ thống vật chất khác và ngược lại. Nó được
thực hiện trong sự tác động qua lại giữa các hệ thống vật chất.
- Thuộc tính phản ánh của vật chất có quá trình phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản

đến phức tạp, từ chưa hoàn chỉnh đến ngày càng hoàn thiện hơn.
+ Phản ánh của giới vô sinh. Phản ánh này đơn giản, thụ động, không có chọn lọc.
+ Trên cơ sở phản ánh của thế giới vô sinh xuất hiện một hình thức phản ánh mới cao
hơn vê chất, đó là phản ánh của giới hữu sinh. Hình thức phản ánh này gắn liên với quá trình
chuyển hóa từ giới vô sinh qua giới hữu sinh. Hình thức này có quá trình phát triển lâu dài từ
thấp đến cao: kích thích, cảm ứng, tâm lý sơ cấp của động vật và cùng với quá trình vượn biến
thành người, phản ánh của động vật cấp cao chuyển hóa thành phản ánh ý thức của con người.
Như vậy, ta thấy rằng các dạng vật chất có trình độ tiến hóa càng cao thì sự phản ánh
càng cao; ý thức chỉ xuất hiện cùng với sự xuất hiện dạng vật chất có tổ chức cao là bộ não
của con người, chứ không phải với mọi dạng vật chất; ý thức chỉ là thuộc tính phản ánh của
vật chất, do đó, không được đồng nhất vật chất với ý thức và cũng không được tách ý thức ra
khỏi vật chất.
b. Khách thể vật chất bên ngoài
Bộ não con người với tư cách là hệ thống phản ánh. Vì vậy, muốn có ý thức thì phải có
sự tác động của khách thể vật chất bên ngoài vào bộ não của con người.
Thế nhưng, tại sao con vật cũng có sự tác động của khách thể vật chất bên ngoài lên bộ
não của nó mà lại không có ý thức? Sở dĩ như vậy là vì khác với tâm lý động vật, ý thức con
người ngoài nguồn gốc tự nhiên còn có nguồn gốc xã hội.
2. Nguồn gốc xã hội.
Sự ra đời của ý thức gắn liên với quá trình hình thành và phát triển của bộ não con
người dưới ảnh hưởng của lao động và ngôn ngữ.
a. Lao động:
- Lao động là phương thức tồn tại cơ bản đầu tiên của con người, là hoạt động đặc thù
của con người, làm cho con người khác với tất cả các động vật khác.
+ Trong lao động, con người đã biết chế tạo ra các công cụ lao động và sử dụng các
công cụ đó để tạo ra của cải vật chất.
11


+ Lao động là hành động có mục đích, tác động vào thế giới khách quan nhằm thỏa mãn

nhu cầu của con người. Do đó, ý thức con người phản ánh một cách tích cực, chủ động và
sáng tạo.
- Trong quá trình lao động, bộ não con người phát triển và ngày càng hoàn thiện, làm
cho khả năng tư duy trừu tượng của con người cũng ngày càng phát triển.
- Lao động ngay từ đầu đã liên kết mọi thành viên trong xã hội với nhau, làm nảy sinh ở
họ nhu cầu giao tiếp. Vì vậy, ngôn ngữ ra đời và không ngừng phát triển cùng với lao động.
b. Ngôn ngữ:
- Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu thứ hai, là “vỏ vật chất” của tư duy, là phương tiện, là
công cụ để con người giao tiếp trong xã hội, phản ánh khái quát sự vật, tổng kết kinh nghiệm
thực tiễn và trao đổi chúng giữa các thế hệ.
- Ý thức là một hiện tượng xã hội, do đó, nếu không có ngôn ngữ thì ý thức không thể
hình thành và phát triển được.
- Chính vì vậy, Ph.Ăngghen đã khẳng định rằng: “Sau lao động, đồng thời với lao động
là ngôn ngữ,.. đó là hai sức kích thích chủ yếu của sự chuyển biến bộ não của loài vật thành bộ
não của con người, tâm lý động vật thành ý thức” (Ph.Ăngghen: Biện chứng của tự nhiên,
NXB Sự thật, Hà Nội,1974, tr. 257)
II. Bản chất của ý thức:
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, ý thức là sự phản ánh thế giới khách
quan vào bộ não người thông qua hoạt động thực tiễn, nên bản chất của ý thức là hình ảnh chủ
quan của thế giới khách quan, là sự phản ánh sáng tạo, tích cực và chủ động vê thế giới khách
quan. Đó chính là sự khác biệt rất cơ bản của ý thức con người so với tâm lý động vật và sự
“suy nghĩ” của máy móc.
Phản ánh của ý thức là sáng tạo, vì nó bao giờ cũng do nhu cầu thực tiễn quy định.
Song, sự sáng tạo của ý thức là sự sáng tạo của sự phản ánh, trong khuôn khổ và theo tính chất
của quy luật phản ánh.
Con người khác với động vật là thông qua hoạt động thực tiễn có mục đích, có định
hướng, tác động vào sự vật, hiện tượng trong thế giới, buộc chúng phải bộc lộ đặc tính, kết
cấu, quy luật lao động để phản ánh và nhận thức. Khi con người nhận thức được quy luật, thì
con người vận dụng tri thức đó vào việc cải biến thế giới khách quan nhằm phục vụ cho cuộc
sống của mình.

Câu 7: Phân tích quan điểm của triết học Mác-Lênin về vận động của vật chất.
a. Vận động là gi?
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận động là mọi sự biến đổi nói
chung.
b. Vận động là phương thức tồn tại của vật chất.
Vật chất chỉ có thể tồn tại bằng cách vận động và thông qua vận động mà nó biểu hiện
sự tồn tại của mình. Nói cách khác, không thể có vật chất mà không có vận động.
Vận động của vật chất là tự thân vận động. Vật chất không do ai sáng tạo ra và nó
không thể bị tiêu diệt, mà vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất, nên vận động cũng
không do ai sáng tạo ra và không thể bị tiêu diệt. Nếu một hình thức vận động nào đó của một
sự vật nhất định mất đi thì tất yếu sẽ nảy sinh một hình thức vận động khác thay thế, nghĩa là
các hình thức vận động của vật chất chỉ chuyển hóa lẫn nhau mà thôi, chứ vận động của vật
chất thì vĩnh viễn tồn tại cùng với sự tồn tại vĩnh viễn của vật chất.
c. Các hinh thức vận động cơ bản của vật chất:
12


Dựa trên những thành tựu khoa học của thời đại mình, Ph.Ăngghen đã phân chia vận
động thành năm hình thức cơ bản: vận động cơ học, vận động lý học, vận động hóa học, vận
động sinh học và vận động xã hội. Vận động xã hội là hình thức có trình độ cao nhất.
Mỗi hình thức vận động nói trên, có trình độ cao thấp khác nhau. Do đó, chúng ta sẽ
phạm sai lầm nếu quy hình thức vận động cao vào hình thức vận động thấp và ngược lại.
Tuy có sự khác nhau vê chất, nhưng giữa các hình thức vận động có sự liên hệ, tác động
chuyển hóa qua lại. Thông qua sự liên hệ, chuyển hóa phổ biến của mọi hình thức vận động
trong vũ trụ mà vận động vật chất được bảo toàn.
Những dạng vật chất phức tạp như cơ thể sống, xã hội loài người bao hàm nhiêu hình
thức vận động trong sự liên hệ tác động qua lại, nhưng bao giờ cũng được đặc trưng bởi một
hình thức vận động cơ bản xác định. Ví dụ, trong cơ thể sống bao gồm các hình thức vận động
cơ học, lý học, hóa học, sinh học, song hình thức vận động sinh học là hình thức đặc trưng cơ
bản quy định sự khác nhau giữa cơ thể sống với những dạng vật chất khác.

d. Vận động và đứng im.
Trong khi coi vận động là thuộc tính bên trong vốn có của vật chất, chủ nghĩa duy vật
không phủ nhận sự đứng im, mà coi đứng im như một trường hợp riêng của vận động. Không
có đứng im tương đối thì không thể hình thành các sự vật, hiện tượng riêng lẻ, cụ thể.
Vận động là tuyệt đối, đứng im là tương đối. Đứng im là tương đối bởi vì:
- Hiện tượng đứng im chỉ xảy ra trong một quan hệ nhất định chứ không phải trong mọi
quan hệ cùng một lúc.
- Đứng im chỉ xảy ra đối với một hình thức vận động trong một lúc nào đó, chứ không
phải đối với tất cả mọi hình thức vận động trong cùng một lúc.
- Đứng im chỉ là biểu hiện của một trạng thái vận động: vận động trong thăng bằng,
trong sự ổn định tương đối, khi nó còn là nó mà chưa chuyển thành cái khác.
- Vận động tuyệt đối. Do đó, nó làm cho sự vật, hiện tượng không ngừng biến đổi, làm
cho sự đứng im tương đối luôn luôn bị phá vỡ. Đứng im chỉ là tạm thời vì: vận động cá biệt có
xu hướng trở thành cân bằng, vận động toàn bộ lại có xu hướng phá vỡ sự cân bằng riêng biệt
đó.
Tóm lại, vận động là tuyệt đối, vĩnh viễn, đứng im là tương đối, tạm thời, vật chất
không thể nào tồn tại như thế nào khác ngoài cách vận động và vật chất đang vận động đó
không thể vận động như thế nào khác ngoài vận động trong không gian và thời gian, vật chất
vận động là vô tận nên không gian và thời gian vật chất cũng vô tận.
Câu 8: Phân tích quan điểm của triết học Mác-Lênin mối quan hệ giữa vật chất và
ý thức, từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận.
Khi bàn đến vấn đê này, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định:
1. Vật chất có trước ý thức, sinh ra ý thức và quyết định ý thức:
- Vật chất tồn tại khách quan và không phụ thuộc vào ý thức, còn ý thức là thuộc tính
phản ánh của một dạng vật chất có tổ chức cao (bộ óc người).
- Vật chất là nguồn gốc, động lực và mục đích của ý thức.
- Trong đời sống xã hội thì tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội.
Khi khẳng định vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức, chủ nghĩa duy vật biện
chứng đồng thời cũng vạch rõ sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất.
2. Ý thức có tính độc lập tương đối, tác động trở lại đối với vật chất.

- Sự phản ánh của ý thức là sự phản ánh tích cực, chủ động và sáng tạo.
- Sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực tiễn.
- Sự tác động của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai khuynh hướng:
13


+ Khi ý thức phản ánh đúng quy luật khách quan thì nó đóng vai trò thúc đẩy sự vận
động và phát triển của thế giới hiện thực khách quan. Trong trường hợp này ý thức giúp cho
con người xác định đúng đắn mục tiêu, phương hướng, biện pháp tổ chức hoạt động thực tiễn
một cách có hiệu quả.
+ Khi ý thức phản ánh không đúng quy luật khách quan thì lúc này nó sẽ làm kìm hãm
sự vận động và phát triển của những điêu kiện vật chất nhất định.
Hiệu quả của sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất thuộc vào các điêu kiện sau:
+ Những điêu kiện vật chất cần thiết cho ý thức đó thực hiện.
+ Trình độ phản ánh của ý thức đó đối với vật chất, nếu ý thức phản ánh càng đầy đủ,
càng chính xác bao nhiêu thì hiệu quả tác động của nó càng cao bấy nhiêu.
+ Mức độ xâm nhập của ý thức đó vào trong quần chúng nhân dân, mức độ xâm nhập
của ý thức càng lớn thì hiệu quả tác động của nó càng cao.
3. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Nếu vật chất là nguồn gốc khách quan, là cơ sở sản sinh ra ý thức; còn ý thức là sản
phẩm, là sự phản ánh thế giới khách quan thì trong nhận thức và hành động, con người phải
xuất phát từ hiện thực khách quan, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, chống lại
chủ nghĩa chủ quan duy ý chí.
- Ý thức có tính độc lập tương đối, tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực
tiễn. Do đó, cần phải phát huy tính tích cực của ý thức đối với vật chất bằng cách nâng cao
năng lực nhận thức các quy luật khách quan và vận động chúng vào trong hoạt động thực tiễn
của con người. Sức mạnh ý thức của con người không phải ở chỗ tách rời điêu kiện vật chất
mà là biết dựa vào đó, phản ánh đúng quy luật khách quan để cải tạo thế giới khách quan.
- Chúng ta phải chống lại bệnh chủ quan duy ý chí cũng như thái độ tiêu cực, thụ động.
Xuất phát từ ý nghĩa đó, Đảng ta đã chỉ rõ một trong những điêu kiện cơ bản để đảm

bảo sự lãnh đạo đúng đắn của mình là phải “luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành
động theo quy luật khách quan”, (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội. 1986, tr.30)
Câu 9: Phân tích nội dung của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và rút ra ý nghĩa
phương pháp luận
- Phép siêu hình không thừa nhận mối liên hệ phổ biến của thế giới. Theo quan điểm
này, sự vật hiện tượng trong thế giới vê cơ bản không có sự liên hệ, ràng buộc, quy định lẫn
nhau. Cho nên đối với phép siêu hình, thế giới chỉ là một tập hợp rời rạc các sự vật cô lập
nhau. Cách nhìn ấy không cho phép chúng ta vạch ra cái chung, cái bản chất và quy luật của
các sự vật hiện tượng.
- Trái với quan điểm siêu hình, phép biện chứng duy vật thừa nhận mối liên hệ phổ biến
của các sự vật, hiện tượng trong thế giới và coi đó là nguyên lý cơ bản của nó. Khái niệm liên
hệ nói lên sự quy định, ảnh hưởng, ràng buộc, tác động và chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự
vật, hiện tượng và quá trình. Phép biện chứng duy vật phát biểu rằng: mọi sự vật, hiện tượng
quá trình muôn vẻ trong thế giới đêu tồn tại trong mối liên hệ phổ biến với nhau, không có cái
gì tồn tại biệt lập với cái khác. Điêu đó là dễ hiểu, vì vật chất tồn tại thông qua vận động, mà
vận động cũng là liên hệ. Ăngghen viết: “tất cả thế giới mà chúng ta có thể nghiên cứu được,
là một hệ thống, một tập hợp các vật thể khăng khít với nhau… Việc các vật thể có liên hệ qua
lại với nhau đã có ý nghĩa là các vật thể này tác động lẫn nhau và sự tác động qua lại ấy chính
là sự vận động”.
Như vậy phép biện chứng duy vật thừa nhận liên hệ diễn ra trong mọi lĩnh vực, mọi sự
vật và quá trình của hiện thực, nó có tính khách quan, xuất phát từ tính thống nhất vật chất của
14


thế giới. Phép biện chứng duy vật cũng chỉ ra rằng, liên hệ của thế giới rất đa dạng, bởi thế
giới bao gồm vô số sự vật hiện tượng muôn vẻ khác nhau. Tùy theo tính chất, vai trò, phạm vi
của liên hệ mà người ta phân thành nhiêu loại: liên hệ bên trong và liên hệ bên ngoài, liên hệ
cơ bản và không cơ bản, liên hệ không gian và thời gian, liên hệ trực tiếp và gián tiếp… Sự
phân loại các liên hệ này chỉ có ý nghĩa tương đối, bởi vì mỗi loại liên hệ chỉ là một hình thức,

một bộ phận, một mắt khâu của mối liên hệ phổ biến của thế giới xét như một chỉnh thể. Tuy
nhiên, sự phân loại các liên hệ là cần thiết, vì rằng vị trí của từng mối liên hệ trong việc quy
định sự vận động, phát triển của sự vật và hiện tượng không như nhau.
Sự phân loại các liên hệ còn là cơ sở để xác định phạm vi nghiên cứu của phép biện
chứng duy vật và của các ngành khoa học cụ thể. Những hình thức riêng biệt, cụ thể của từng
mối liên hệ thuộc phạm vi nghiên cứu của từng ngành khoa học cụ thể, còn phép biện chứng
duy vật nghiên cứu những mối liên hệ chung nhất, phổ biến nhất của thế giới. Vì thế, Ăngghen
viết: “phép biện chứng là khoa học vê mối liên hệ phổ biến”.
- Nghiên cứu nguyên lý vê mối liên hệ phổ biến có ý nghĩa phương pháp luận to lớn đối
với hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Nếu các sự vật, hiện tượng trong thế giới đêu tồn tại trong mối liên hệ phổ biến và nhiêu
vẻ, thì muốn nhận thức và tác động vào chúng, phải có quan điểm toàn diện, khắc phục quan
điểm phiến diện, một chiêu. Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta khi phân tích sự vật phải
đặt nó trong mối liên hệ với sự vật hiện tượng khác; phải xem xét tất cả các mặt, các yếu tố, kể
cả khâu trung gian, gián tiếp của chúng. Chỉ có như vậy, chúng ta mới nắm bắt được một cách
đầy đủ bản chất của sự vật, tránh được những kết luận phiến diện chủ quan, vội vàng.
Tuy nhiên quan điểm toàn diện không có nghĩa là cách xem xét cào bằng, tràn lan mà
phải thấy được tính chất, vị trí của từng mối liên hệ, từng mặt, từng yếu tố trong tổng thể của
chúng. Như vậy, quan điểm toàn diện bao hàm quan điểm lịch sử cụ thể. Quan điểm này đòi
hỏi, phải xét sự vật trong từng liên hệ cụ thể của nó, gắn với những tính chất, vị trí cụ thể của
mối liên hệ cụ thể đó; phải biết phân loại các liên hệ của sự vật để nắm lấy cái cơ bản, cái có
tính quy luật của nó; đồng thời phải xét cả những điêu kiện cụ thể của sự vật trong đó xuất
hiện từng liên hệ quy định từng tính chất và xu hướng cụ thể của nó. Từ đó mà tìm ra những
phương thức cụ thể để tác động đến sự vật.
Câu 10: Phân tích nội dung của nguyên lý về sự phát triển và rút ra ý nghĩa
phương pháp luận
- Trong phép biện chứng duy vật, nguyên lý vê mối liên hệ phổ biến thống nhất hữu cơ
với nguyên lý vê sự phát triển, bởi vì liên hệ tức là vận động, mà không có vận động thì không
có sự phát triển. Nhưng “vận động” và “phát triển” là hai khái niệm khác nhau. Khái niệm
“vận động” khái quát mọi sự biến đổi nói chung, không tính đến xu hướng và kết quả của

những biến đổi ấy như thế nào. Sự vận động diễn ra không ngừng trong thế giới và có nhiêu
xu hướng.
Khái niệm “phát triển” không khái quát mọi sự biến đổi nói chung; nó chỉ là khái quát
những vận động đi lên, cái mới ra đời thay thế cho cái cũ. Tiêu chuẩn để xác định sự phát triển
là có xuất hiện “cái mới” trong những biến đổi của sự vật hiện tượng. Sự phát triển trong thế
giới theo các chiêu hướng cơ bản sau: phát triển vê trình độ (từ thấp đến cao), phát triển vê
cấu trúc (từ đơn giản đến phức tạp), phát triển vê bản chất (từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện
hơn). Sự phân biệt đó vê các chiêu hướng chỉ là tương đối, một sự phát triển thường bao hàm
cả các chiêu hướng này.
- Phép biện chứng duy vật khẳng định rằng sự phát triển, đổi mới là hiện tượng diễn ra
không ngừng trong tự nhiên, trong xã hội và trong tư duy, mà nguồn gốc của nó là cuộc đấu
15


tranh giữa các mặt đối lập trong bản thân sự vật và hiện tượng. Nhưng không nên hiểu sự phát
triển bao giờ cũng diễn ra một cách đơn giản, theo đường thẳng. Xét từng trường hợp cá biệt,
thì có những vận động đi lên, tuần hoàn, thậm chí đi xuống, nhưng xét cả quá trình, trong
phạm vi rộng lớn thì vận động đi lên là khuynh hướng thống trị. Khái quát tình hình trên đây,
phép biện chứng duy vật khẳng định rằng, phát triển là khuynh hướng chung của sự vận động
của sự vật và hiện tượng.
- Quan điểm biện chứng xác định nguồn gốc bên trong của mọi sự phát triển. Cho nên
thế giới phát triển là tự thân phát triển, là quá trình bao hàm mâu thuẫn và thường xuyên giải
quyết mâu thuẫn, vừa liên tục vừa có gián đoạn; là quá trình bao hàm sự phủ định cái cũ và ra
đời cái mới. Sự phát triển như là vận động đi lên ra đời cái mới, nhưng cái mới không đoạn
tuyệt với cái cũ mà kế thừa tất cả những gì tích cực của cái cũ. Tất cả những điêu đó nói lên
tính chất phức tạp của sự phát triển, nhưng bao giờ cũng theo khuynh hướng đi lên.
- Đối lập với quan điểm trên đây của phép biện chứng; phép siêu hình nói chung phủ
nhận sự phát triển, tuyệt đối hóa tính ổn định của các sự vật hiện tượng. Nếu có thừa nhận sự
phát triển, thì phép siêu hình cho rằng đó chỉ là sự tăng giảm vê lượng, sự lặp lại mà không có
chuyển hóa vê chất, không có sự ra đời cái mới thay thế cho cái cũ. Lênin nhận xét rằng, quan

niệm siêu hình là cứng nhắc, nghèo nàn, khô khan, chỉ có quan niệm biện chứng là sinh động,
mới cho ta chìa khóa của “sự tự vận động” của tất thảy mọi cái đang tồn tại, của những “bước
nhảy vọt” và “sự gián đoạn của tính tiệm tiến”, của sự “chuyển hóa thành mặt đối lập”, của
“sự tiêu diệt cái cũ và sự nảy sinh ra cái mới”. Cũng vì vậy mà ông nhấn mạnh rằng, phép biện
chứng là học thuyết “hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện vê sự phát triển”.
- Nghiên cứu nguyên lý vê sự phát triển, giúp cho chúng ta nhận thức rằng, muốn thực
sự nắm được bản chất của sự vật hiện tượng, nắm được quy luật và xu hướng của chúng phải
có quan điểm phát triển, khắc phục tư tưởng bảo thủ trì trệ.
Quan điểm này yêu cầu khi phân tích sự vật phải xét nó như một quá trình; đặt nó trong
sự vận động, sự phát triển mới nắm được quy luật và những xu hướng của nó. Quan điểm phát
triển còn bao hàm yêu cầu xét sự vật trong từng giai đoạn cụ thể của nó nhưng không được
tách rời với các giai đoạn khác mà phải liên hệ chúng với nhau mới có thể nắm được logic của
toàn bộ tiến trình vận động sự vật. Quan điểm phát triển cũng đòi hỏi tinh thần lạc quan tích
cực trong thực tiễn, khắc phục mọi sụ trì trệ bảo thủ.
Câu 11: Phân tích nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu quy luật này trong hoạt động thực tiễn.
I. Nội dung quy luật:
- Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (còn gọi là quy luật mâu thuẫn)
là quy luật quan trọng nhất của phép biện chứng duy vật, là “hạt nhân của phép biện chứng”.
Bởi vì nó vạch ra nguồn gốc, động lực bên trong của sự vận động và phát triển.
- Khái quát nội dung quy luật:
Mọi sự vật, hiện tượng đêu bao hàm mâu thuẫn bên trong. Mỗi sự vật, hiện tượng đêu là
thống nhất của các mặt, các thuộc tính, các khuynh hướng đối lập nhau. Chính sự đấu tranh
của các mặt đối lập đó làm cho sự vật, hiện tượng vận động, phát triển.
- Phân tích nội dung quy luật:
1. Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan và phổ biến.
- “Mặt đối lập”?
Mặt đối lập là những mặt có khuynh hướng thay đổi, phát triển chống đối nhau, trái
ngược nhau trong một chỉnh thể làm nên sự vật hiện tượng.
Mỗi sự vật, hiện tượng có thể có nhiêu yếu tố, nhiêu mặt,.. cấu thành, nhưng có hai mặt
đối lập cơ bản thống nhất với nhau quyết định kết cấu tạo thành sự vật, hiện tượng.

16


-“Mâu thuẫn”?
“Mâu thuẫn” là khái niệm để chỉ sự liện hệ và tác động lẫn nhau của các mặt đối lập
trong một sự vật, hiện tượng nhất định.
Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan, vì mâu thuẫn tồn tại trong bản thân sự vật, hiện
tượng.
Mâu thuẫn tồn tại phổ biến trong tự nhiên, xã hội và tư duy (mâu thuẫn trong tư duy là
sự phản ánh mâu thuẫn của hiện thực khách quan).
2. Mâu thuẫn là một chỉnh thể, trong đó hai mặt đối lập vừa thống nhất vừa đấu
tranh với nhau.
- Trong một mâu thuẫn, hai mặt đối lập vừa có quan hệ thống nhất với nhau, vừa đấu
tranh lẫn nhau.
- Khái niệm “thống nhất” trong quy luật biểu hiện: Các mặt đối lập liên hệ ràng buộc
với nhau, quy định lẫn nhau và làm tiên đê tồn tại của nhau.
Khái niệm “thống nhất” trong quy luật này còn được hiểu là sự “đồng nhất”, nghĩa là
cũng thừa nhận trạng thái ổn định của mối liên hệ của các mặt đối lập. Đồng thời cũng thừa
nhận sự chuyển hóa lẫn nhau của các mặt đối lập.
- Khái niệm “đấu tranh” của các mặt đối lập có nghĩa là các mặt đối lập bài trừ lẫn
nhau, phủ định lẫn nhau. Sự đấu tranh của các mặt đối lập là một quá trình phức tạp. Quá trình
đó có thể chia ra nhiêu giai đoạn. Mỗi giai đoạn lại có những đặc điểm riêng của nó. (Xem
S.1)
Hệ thống sự vật,
hiện tượng mới

Chuyến hóa

Khuynh
hướng

phát
triển

Đối lập

Các
giai
đoạn
phát
triển

Sự khác nhau
căn bản
Sự tượng
khác nhau
Sự vật, hiện
(hệ thống cũ)

S.1 Quá trình phát triển của một mâu thuẫn.

- Vê mối quan hệ giữa thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, Lênin viết: “Sự
thống nhất (phù hợp, đồng nhất, tác dụng ngang nhau) của các mặt đối lập là có điêu kiện, tạm
17


thời, thoáng qua, tương đối. Sự đấu tranh của các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối,
cũng như sự phát triển sự vận động là tuyệt đối” (V.I.Lênin toàn tập, T.29, Nxb Tiến bộ,
Mátxcơva, 1981, tr.379 - 380). Sự thống nhất của các mặt đối lập có tính chất tạm thời, thoáng
qua, tương đối, cũng như trạng thái đứng im của sự vật, bởi vì mọi sự vật, hiện tượng cụ thể
đêu có quá trình phát sinh, phát triển và tiêu vong để nhường chỗ cho các sự vật, hiện tượng

khác cao hơn, hoàn thiện hơn, mới hơn vê chất ra đời.
Đấu tranh của các mặt đối lập là tuyệt đối vì: trong mọi sự vật hiện tượng đêu có mâu
thuẫn và mâu thuẫn quán xuyến từ đầu đến cuối quá trình phát triển của sự vật. Tính tuyệt đối
của sự đấu tranh của các mặt đối lập nói lên sự vận động, sự biến đổi liên tục của sự vật, hiện
tượng. Đấu tranh của các mặt đối lập là điêu kiện quan trọng nhất, có tính quyết định đối với
sự chuyển hóa của các mặt đối lập.
- Đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực bên trong của sự vận động và
phát triển của sự vật, hiện tượng.
3. Sự chuyển hóa của các mặt đối lập.
- Sự chuyển hóa của các mặt đối lập là kết quả của quá trình đấu tranh của các mặt đối
lập.
- Sự chuyển hóa của các mặt đối lập được thực hiện ở giai đoạn chín muồi của mâu
thuẫn. Sự chuyển hóa diễn ra dưới nhiêu hình thức và tùy thuộc vào những điêu kiện cụ thể.
Hai hình thức khái quát nhất của sự chuyển hóa là:
+ Các mặt đối lập chuyển sang mặt đối lập của chính mình.
+ Các mặt đối lập cũ bị xóa bỏ và hình thành các mặt đối lập mới trong sự vật mới.
4. Phân loại mâu thuẫn
Thế giới phong phú, đa dạng và phức tạp, nhưng nhìn chung có 4 loại mâu thuẫn cơ
bản:
Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài: Mâu thuẫn bên trong là mâu thuẫn giữa
các mặt, các yếu tố, các thuộc tính, các quá trình cấu thành nên sự vật, hiện tượng. Mâu thuẫn
này giữ vai trò quyết định sự vận động, phát triển của sự vật hiện tượng. Mâu thuẫn bên ngoài
là mâu thuẫn giữa các sự vật hiện tượng, hoặc giữa các mặt, các yếu tố, các thuộc tính, các quá
trình giữa sự vật, hiện tượng với nhau. Mâu thuẫn này không giữ vai trò quyết định sự vận
động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Nó chỉ có tác dụng ảnh hưởng khi liên hệ được với
mâu thuẫn bên trong.
Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản: Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn phát
sinh, hình thành, tồn tại cùng sự phát sinh, hình thành, tồn tại của vật, hiện tượng và giữ vai
trò quyết định sự vận động, phát triển của sự vật hiện tượng. Mâu thuẫn không cơ bản là mâu
thuẫn phát sinh, hình thành, tồn tại cùng sự phát sinh, hình thành, tồn tại của vật, hiện tượng

và không giữ vai trò quyết định mà chỉ ảnh hưởng nhất định đến sự vận động, phát triển của
sự vật hiện tượng.
Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn không chủ yếu: Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi
lên hàng đầu và giữ vai trò quyết định sự vận động, phát triển của sự vật hiện tượng ở mỗi giai
đoạn phát triển. Mâu thuẫn không chủ yếu là mâu thuẫn phát sinh và không giữ vai trò quyết
định nhưng gây ảnh hưởng nhất định đến sự vận động, phát triển của sự vật hiện tượng ở mỗi
giai đoạn phát triển.
Mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng (loại mâu thuẫn này chỉ có trong
lĩnh vực đời sống xã hội): Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa các giai cấp có lợi ích cơ
bản đối lập nhau. Mâu thuẫn này chỉ được giải quyết thông qua cách mạng xã hội. Mâu thuẫn
không đối kháng là mâu thuẫn giữa các giai tầng có lợi ích cơ bản không đối lập nhau. Mâu
thuẫn này được giải quyết bằng phương pháp hòa bình thông qua giáo dục và đổi mới xã hội.
18


II. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Quy luật mâu thuẫn đem lại phương pháp khoa học cho việc xem xét và giải quyết các
vấn đê: phương pháp phân tích và giải quyết mâu thuẫn.
- Phải thừa nhận tính khách quan của mâu thuẫn. Yêu cầu này đòi hỏi chúng ta, muốn
nắm được bản chất của sự vật, hiện tượng cần phải biết phân tích các mặt đối lập của mâu
thuẫn.
- Phải biết phân tích cụ thể một mâu thuẫn cụ thể và phải có biện pháp cụ thể để giải
quyết đối với từng loại mâu thuẫn.
- Phải nắm vững nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn: Bất kỳ mâu thuẫn nào, bất kỳ giai
đoạn nào của mâu thuẫn, cũng chỉ được giải quyết bằng con đường đấu tranh giữa các mặt đối
lập, chứ không phải bằng con đường điêu hòa giữa chúng.
Câu 12: Phân tích nội dung quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi
về chất và ngược lại. Ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu quy luật này trong
hoạt động thực tiễn.
I. Nội dung quy luật:

Mỗi sự vật, hiện tượng là sự thống nhất giữa hai mặt: chất lượng (chất) và số lượng
(lượng). Từ những thay đổi dần dần vê lượng dẫn sẽ đến những thay đổi vê chất và ngược lại;
là cách thức của sự vận động và phát triển.
1. Khái niệm chất và lượng
a. Khái niệm chất:
- Chất là tính quy định vốn có của các sự vật và hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ của
những thuộc tính, những yếu tố cấu thành sự vật, nói lên sự vật đó là gì, phân biệt nó với các
sự vật và hiện tượng khác.
- Phân biệt chất với tính cách là phạm trù triết học với chất hiểu theo khái niệm thường
dùng hàng ngày hoặc với khái niệm chất liệu.
- Phân biệt chất với thuộc tính. Mỗi chất gồm nhiêu thuộc tính.
- Mỗi sự vật, hiện tượng có thể có một hoặc nhiêu chất tuy theo những mối quan hệ xác
định
- Chất tồn tại khách quan.
- Chất biểu hiện tình trạng tương đối ổn định của sự vật, hiện tượng.
- Trong những trường hợp đặc biệt, chất là cái trừu tượng và dường như nằm ngoài sự
vật, hiện tượng.
b. Khái niệm lượng
- Lượng là tính quy định của sự vật, hiện tượng vê mặt qui mô, trình độ, tốc độ phát
triển của nó, biểu thị bằng các con số, các thuộc tính, các yếu tố,.. cấu thành nó.
- Lượng không chỉ biểu hiện bằng các con số, các đại lượng xác định cụ thể, mà lượng
còn được nhận thức bằng khả năng trừu tượng hóa.
- Lượng là nhân tố quy định bên trong, nhưng đồng thời cũng có những lượng chỉ nói
lên nhân tố dường như bên ngoài sự vật.
- Lượng tồn tại khách quan.
- So với chất, lượng là cái thường xuyên biến đổi.
* Sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ có ý nghĩa tương đối.
2. Tính thống nhất và mối quan hệ phổ biến của lượng và chất.
a. Khái niệm “Độ”
Mỗi sự vật là một thể thống nhất của hai mặt chất và lượng. Hai mặt đó không tách rời

nhau, mà tác động lẫn nhau một cách biện chứng.
19


- “Độ” là khái niệm nói lên mối quan hệ quy định lẫn nhau của chất và lượng. Nó là
giới hạn mà trong đó sự vật, hiện tượng vẫn còn là nó mà chưa biến thành cái khác. Trong giới
hạn “độ” lượng biến đổi nhưng chưa dẫn đến chuyển hóa vê chất.
- Độ cũng biến đổi khi những điêu kiện tồn tại của sự vật, hiện tượng biến đổi.
b. Những hình thức biến đổi từ lượng dẫn đến sự biến đổi vê chất.
Ranh giới của lượng do chất quy định, nhưng sự chuyển hóa thì bao giờ cũng bắt đầu từ
sự thay đổi vê lượng. Các hình thức cơ bản của sự chuyển hóa:
+ Tăng lên hoặc giảm đi đơn thuần vê mặt số lượng
+ Sự dung hợp của nhiêu lực lượng thành một hợp lực vê căn bản khác với tổng số
những lực lượng cá biệt.
+ Thay đổi vê kết cấu, tổ chức, qui mô của sự vật, hiện tượng.
- Khi lượng thay đổi vượt quá giới hạn của độ thì dẫn đến thay đổi vê chất. Sự thay đổi
vê chất được gọi là bước nhảy (có 4 loại bước nhảy cơ bản: bước nhảy toàn phần, bước nhảy
cục bộ, bước nhảy dần dần, bước nhảy đột biến), đó là bước ngoặt căn bản trong sự biến đổi
dần dần vê lượng.
- Giới hạn mà ở đó xảy ra bước nhảy được gọi là điểm nút.
- Sự chuyển hóa đòi hỏi phải có điêu kiện.
c. Ảnh hưởng của chất mới đối với sự biến đổi của lượng
Khi chất mới ra đời nó tạo ra một lượng mới phù hợp với nó để có một sự thống nhất
mới giữa chất và lượng. Sự quy định này được biểu hiện ở qui mô và nhịp điệu phát triển mới
của lượng.
Tóm lại, quy luật lượng-chất chỉ ra cách thức biến đổi sự vật, hiện tượng. Đó là quá
trình tác động lẫn nhau giữa hai mặt: chất và lượng. Lượng biến đổi mâu thuẫn với chất cũ,
chất mới ra đời với lượng mới. Lượng mới lại tiếp tục biến đổi đến giới hạn nào đó lại phá vỡ
chất đang kìm hãm nó, tạo nên chất mới với lượng mới. Như vậy phát triển là quá trình vô
hạn, vừa mang tính liên tục (biểu hiện ở sự biến đổi của lượng) vừa có tính gián đoạn (biểu

hiện ở sự thay đổi vê chất).
II. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Sự vận động và phát triển là kết quả của quá trình tích lũy vê lượng. Trong hoạt động
thực tiễn cần chống lại hai khuynh hướng:
+ Tư tưởng chủ quan, duy ý chí, nôn nóng, chưa có sự tích lũy đầy đủ vê lượng đã
muốn thực hiện bước nhảy vê chất. Hoặc chỉ nhấn mạnh đến bước nhảy, xem nhẹ tích lũy vê
lượng, dẫn đến các hành động phiêu lưu mạo hiểm.
+ Tư tưởng bảo thủ, trì trệ, ngại khó không dám thực hiện bước nhảy vê chất. Hoặc chỉ
nhấn mạnh đến sự biến đổi dần dần vê lượng, từ đó rơi vào chủ nghĩa cải lương và tiến hóa
luận.
- Cần có thái độ khách quan, khoa học và có quyết tâm thực hiện bước nhảy khi điêu
kiện thực hiện bước nhảy đã chín muồi.
+ Cần phân biệt các bước nhảy trong tự nhiên và trong xã hội.
+ Phải nhận thức đúng đắn các bước nhảy khác nhau vê qui mô, nhịp độ.
+ Chống chủ nghĩa giáo điêu
Câu 13: Phân tích nội dung quy luật phủ định của phủ định. Ý nghĩa phương pháp
luận của việc nghiên cứu quy luật này trong hoạt động thực tiễn.
Quy luật phủ định của phủ định vạch rõ xu hướng đi lên của sự vật, hiện tượng trong
quá trình vận động, phát triển.
1. Phủ định biện chứng:
20


- “Phủ định”: là khái niệm nói lên quá trình vận động của sự vật, hiện tượng. Trong đó
sự vật, hiện tượng này thay thế cho sự vật, hiện tượng khác.
- “Phủ định biện chứng”: là phủ định mà trong đó cái mới ra đời thay thế cho cái cũ. Cái
mới làm tiên đê, tạo điêu kiện cho sự phát triển của sự vật, hiện tượng. Phép biện chứng duy
vật cho rằng: sự diệt vong của cái cũ và sự ra đời của cái mới, sự thoái hóa và sự phát triển có
liên hệ nội tại với nhau. Không có mặt này cũng không có mặt kia.
“Phủ định trong phép biện chứng không chỉ có ý nghĩa đơn giản là nói không hoặc giả

là tuyên bố rằng một sự vật không tồn tại, hay phá hủy sự vật ấy theo một cách nào đó… Cho
nên phải thiết lập sự phủ định thứ nhất như thế nào cho sự phủ định lần thứ hai vẫn có khả
năng thực hiện được hay trở thành có khả năng thực hiện được” (Ăngghen “Chống Đuy-rinh”,
Nxb Sự thật, Hà Nội, 1976, tr. 230-321).
- Đặc trưng của phủ định biện chứng:
Thứ nhất: Tính khách quan
Thứ hai: Tính kế thừa
Phủ định biện chứng là kết quả của sự tự thân phát triển trên cơ sở những mâu thuẫn
vốn có của sự vật và hiện tượng nên nó không thể là một sự phủ định tuyệt đối, một sự phủ
định sạch trơn.
Phép biện chứng duy vật coi sự kế thừa là nội dung cơ bản của phủ định biện chứng.
2. Nội dung quy luật:
Tất cả mọi sự vật, hiện tượng đêu luôn luôn vận động, phát triển, quá trình đó cũng là
quá trình phủ định lẫn nhau của các mặt đối lập. Khuynh hướng tất yếu của sự vận động là: cái
mới thay thế cho cái cũ, cái mới làm tiên đê tạo điêu kiện cho sự phát triển của sự vật, hiện
tượng. Nhưng sự phát triển có tính chu kỳ.
a. Tính chu kỳ của sự phát triển:
Từ một điểm xuất phát (A) qua một số lần phủ định biện chứng (B(n)) sự vật dường
như lặp lại điểm xuất phát (A’) nhưng trên cơ sở cao hơn.

┤A



B(n)

→A’├ →

- Sự phủ định biện chứng lần thứ nhất (B) là bước trung gian trong sự phát triển. Trình
độ mới của (A) phải qua (B) mà được thực hiện chứ không phải (B) là giai đoạn cao hơn (A).

- Sự phủ định biện chứng lần thứ hai (A’) là phủ định của phủ định.
- (A’) là giai đoạn kết thúc của một chu kỳ phát triển đồng thời lại là điểm xuất phát của
một chu kỳ phát triển mới.
- Để hoàn thành một chu kỳ phát triển, sự vật hiện tượng phải trải qua ít nhất hai lần
phủ định biện chứng.
b. Hình thức và khuynh hướng của sự phát triển:
Quy luật phủ định của phủ định khái quát tính tất yếu tiến lên của sự vận động của sự
vật và hiện tượng. Sự phát triển đi lên đó không diễn ra theo con đường thẳng mà theo đường
“xoáy ốc”.
Lênin viết: “Một sự phát triển hình như diễn lại những giai đoạn đã qua nhưng dưới một
hình thức khác ở một trình độ cao hơn (phủ định của phủ định), một sự phát triển có thể nói là
theo đường xoáy ốc chứ không theo đường thẳng (Lênin toàn tập, T.26, Nxb Tiến bộ,
Maatsxcơva, 1981, tr.65).
- “Đường xoáy ốc” biểu hiện các mặt của quá trình phát triển biện chứng: tính kế thừa,
tính lặp lại, tính tiến lên của sự vận động.
- “Đường xoáy ốc” thể hiện tính phức tạp trong quá trình biến đổi, phủ định của sự vật.
Mỗi vòng mới của đường xoáy ốc thể hiện tính vô tận của sự phát triển từ thấp đến cao.
3. Ý nghĩa phương pháp luận:
21


- Quy luật phủ định của phủ định giúp ta hiểu rằng quá trình phát triển không diễn ra
theo đường thẳng mà rất quanh co, phức tạp, phải trải qua nhiêu lần phủ định biện chứng,
nhiêu khâu trung gian.
- Là cơ sở lý luận để hiểu vê sự ra đời của cái mới: trong thực tiễn xã hội, các quá trình
diễn ra phức tạp, nhưng cái cũ nhất định sẽ mất đi, cái mới nhất định sẽ xuất hiện. Cái mới ra
đời trên cơ sở kế thừa những yếu tố tích cực của cái cũ. Phải biết phát hiện cái mới, duy trì và
phát triển cái mới.
- Phải có cách nhìn biện chứng khi phê phán cái cũ, kế thừa những yếu tố hợp lý của cái
cũ. Tránh nhìn đơn giản trong việc nhận thức các sự vật, hiện tượng, đặc biệt là các hiện tượng

xã hội. Cần chống lại hai khuynh hướng: kế thừa không chọn lọc hoặc phủ định sạch trơn.
Câu 14: Phân tích nội dung cặp phạm trù cái chung và cái riêng, từ đó rút ra ý
nghĩa phương pháp luận
1. Khái niệm cái chung, cái riêng, cái đơn nhất.
Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những mối
liên hệ giống nhau ở nhiêu sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ.
Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình
riêng lẻ nhất định.
Cái đơn nhất là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính chỉ có ở
một kết cấu vật chất nhất định, mà không lặp lại ở kết cấu khác.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng:
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng cả cái riêng và cái chung đêu tồn tại khách quan
và quan hệ biện chứng với nhau.
- Cái chung thì tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng. Điêu đó có nghĩa là cái
chung thực sự tồn tại, nhưng chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng. Không có cái
chung thuần túy, trừu tượng tồn tại bên ngoài cái riêng.
- Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến cái chung, bao hàm cái chung. Điêu đó
cho thấy là cái riêng tồn tại độc lập nhưng sự tồn tại độc lập đó không có nghĩa là cái riêng
hoàn toàn cô lập với cái khác mà bất cứ cái riêng nào cũng nằm trong mối liên hệ đưa tới cái
chung. Cái riêng không những chỉ tồn tại trong mối liên hệ dẫn tới cái chung mà thông qua
hàng nghìn sự chuyển hóa, nó còn liên hệ với cái riêng loại khác.
- Cái chung là bộ phận của cái riêng, còn cái riêng không gia nhập hết vào cái chung vì
vậy cái riêng phong phú hơn cái chung. Bởi ngoài những đặc điểm gia nhập vào cái chung, cái
riêng còn giữ lại những đặc điểm riêng biệt mà chỉ nó mới có. Trong khi đó, cái chung phải là
cái sâu sắc hơn vì nó phản ánh những mối liên hệ ở bên trong, phổ biến tồn tại trong cái riêng
cùng loại, nó gắn liến với các cái riêng, quy định sự tồn tại và phát triển của sự vật.
- Trong quá trình phát triển khách quan của sự vật, trong những điêu kiện nhất định cái
đơn nhất có thể biến thành cái chung và ngược lại cái chung có thể biến thành cái đơn nhất. Sỡ
dĩ có tình trạng này là do trong hiện thực cái mới không bao giờ xuất hiện đầy đủ ngay trong
một lúc mà lúc đầu xuất hiện dưới dạng đơn nhất cá biệt. Nhưng theo quy luật, cái mới nhất

định sẽ phát triển mạnh lên, ngày càng trở nên hoàn thiện tiến tới trở thành cái chung. Ngược
lại, cái cũ ngày càng mất dần đi từ chỗ là cái chung biến dần thành cái đơn nhất.
- Trong phạm vi khái quát của con người, cái được xem là cái chung trong quan hệ này
lại có thể được xem là cái riêng, cái đơn nhất trong quan hệ khác.
3. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Không được tuyệt đối hóa cái chung hay cái riêng mà phải thấy được mối quan hệ
biện chứng giữa chúng. Nếu tuyệt đối hóa cái chung thì sẽ dẫn đến giáo điêu chủ nghĩa, rập
khuôn một cách máy móc. Ngược lại nếu tuyệt đối hóa cái riêng thì sẽ dẫn đến chủ nghĩa kinh
22


nghiệm, chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa tập thể phường hội, địa phương chủ nghĩa và chủ nghĩa
dân tộc hẹp hòi.
- Trong nhận thức và thực tiễn để phát hiện cái chung cần phải xuất phát từ những cái
riêng, từ những sự vật, hiện tượng quá trình riêng lẻ cụ thể chứ không được xuất phát từ ý
muốn chủ quan của chủ thể, và để giải quyết những vấn đê riêng một cách có hiệu quả thì
không lảng tránh việc giải quyết những vấn đê chung, để tránh tình trạng sa vào mò mẫm tùy
tiện.
- Trong hoạt động thực tiễn cần tạo mọi điêu kiện thuận lợi cho cái đơn nhất chuyển hóa
thành cái chung nếu cái đơn nhất đó có lợi, và cũng phải tạo điêu kiện để cái chung chuyển
hóa thành cái đơn nhất nếu cái chung đó là lạc hậu.
Câu 15: phân tích nội dung cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả, từ đó rút ra ý
nghĩa phương pháp luận.
1. Khái niệm nguyên nhân và kết quả:
- Nguyên nhân là phạm trù triết học chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự
vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra một sự biến đổi nhất định.
- Kết quả là phạm trù triết học chỉ là những biến đổi xuất hiện do sự tác động lẫn nhau
trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau.
- Phân biệt nguyên nhân và nguyên cớ, nguyên nhân và điêu kiện:
+ Nguyên cớ là một sự kiện nào đó trực tiếp xảy ra trước kết quả, có liên hệ với kết quả

nhưng chỉ là liên hệ bên ngoài không bản chất.
+ Điêu kiện: Đó là tổng hợp những hiện tượng không phụ thuộc vào nguyên nhân
nhưng lại có tác dụng biến khả năng chứa đựng trong nguyên nhân thành kết quả, thành hiện
thực. Vì vậy, điêu kiện là cái không thể thiếu được cho sự xuất hiện kết quả.
2. Tính khách quan và phổ biến của mối quan hệ nhân quả:
- Tính khách quan:
Thế giới thống nhất ở tính vật chất. Điêu đó cho thấy vật chất đang vận động quy đến
cùng là nguyên nhân duy nhất, là nguồn gốc của mọi sự vật, hiện tượng, quá trình. Và mỗi sự
vật, hiện tượng, quá trình đêu có căn cứ của nó trong những sự vật, hiện tượng, quá trình khác.
Cho nên không có sự vật hiện tượng nào không có nguyên nhân mà chỉ có chúng ta chưa tìm
ra nguyên nhân của hiện tượng đó, và cũng không có một hiện tượng nào không sinh ra kết
quả mà chỉ có chúng ta chưa tìm ra được kết quả của nó.
- Tính phổ biến:
Tính phổ biến của quan hệ nhân quả thể hiện ở chỗ mọi sự vật và hiện tượng đêu nảy
sinh từ những sự vật hiện tượng khác. Trong đó cái sản sinh ra cái khác được gọi là nguyên
nhân và cái được sinh ra gọi là kết quả.
3. Mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả
- Nguyên nhân sinh ra kết quả vì vậy nguyên nhân bao giờ cũng có trước kết quả, còn
kết quả bao giờ cũng xuất hiện sau nguyên nhân, khi nguyên nhân đã xuất hiện, đã bắt đầu tác
động.
Tuy nhiên không phải mọi sự nối tiếp nhau vê mặt thời gian của các sự vật hiện tượng
cũng là biểu hiện của mối liên hệ nhân quả. Cái để phân biệt quan hệ nhân quả với quan hệ nối
tiếp nhau vê mặt thời gian là ở chỗ quan hệ nhân quả bao giờ cũng là quan hệ sản sinh, trong
đó nguyên nhân phải sản sinh ra kết quả.
- Trong hiện thực, mối quan hệ nhân quả biểu hiện hết sức phức tạp. Một kết quả
thường không phải do một nguyên nhân mà do nhiêu nguyên nhân gây ra; đồng thời một
nguyên nhân cũng có thể sản sinh ra nhiêu kết quả. Vì sự phối hợp tác động của nhiêu nguyên
23



nhân đòi hỏi phải phân tích tính chất, vai trò của mỗi loại nguyên nhân đối với kết quả cũng
như sự liên hệ ảnh hưởng lẫn nhau giữa các nguyên nhân và phân loại các nguyên nhân.
+ Nếu các nguyên nhân tác động cùng chiêu thì có xu hướng dẫn đến kết quả nhanh
hơn. Nếu các nguyên nhân tác động ngược chiêu thì làm cho tiến trình hình thành kết quả
chậm lại. Thậm chí triệt tiêu tác dụng của nhau.
+ Phân loại nguyên nhân:
* Nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân thứ yếu:
Nguyên nhân chủ yếu là nguyên nhân mà không có nó thì kết quả không thể xuất hiện.
Nó quyết định những đặc trưng tất yếu của sự vật, hiện tượng. Nguyên nhân thứ yếu là nguyên
nhân chỉ quyết định những mặt, những đặc điểm nhất thời, tác động có giới hạn và có mức độ
vào việc sản sinh ra kết quả.
* Nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài: Nguyên nhân bên trong là nguyên
nhân tác dụng ngay bên trong sự vật, được chuẩn bị và xuất hiện trong tiến trình phát triển của
sự vật, phù hợp với đặc điểm vê chất của nó. Nguyên nhân bên ngoài là sự tác động giữa các
sự vật khác nhau đem lại sự biến đổi nhất định giữa các sự vật đó.
- Tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân và sự chuyển hóa của nguyên nhânkết quả:
Mối liên hệ nhân quả có tính chất tác động qua lại lẫn nhau trong đó không những
nguyên nhân sinh ra kết quả mà kết quả còn tác động trở lại đối với nguyên nhân đã sinh ra
nó, làm cho những nguyên nhân cũng biến đổi bởi vì nguyên nhân sinh ra kết quả bao giờ
cũng là một quá trình. Sự tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân chính là sự ảnh
hưởng thường xuyên lẫn nhau giữa nguyên nhân và kết quả, gây nên sự biến đổi giữa chúng.
Nguyên nhân và kết quả thường xuyên chuyển hóa lẫn nhau, nên “cái bây giờ ở đây là kết quả
thì ở chỗ khác, lúc khác lại trở thành nguyên nhân và ngược lại”.
Trong thế giới vô tận, nguyên nhân sinh ra kết quả, đến lượt nó kết quả chuyển hóa
thành nguyên nhân mới sinh ra kết quả mới,.. là vô tận. Chính vì thế, trong thế giới ta không
thể chỉ ra được đâu là nguyên nhân đầu tiên và đâu là kết quả cuối cùng.
4. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Mối quan hệ nhân quả đã vạch rõ nguồn gốc của các hiện tượng cụ thể, riêng biệt vì
vậy là cơ sở để đánh giá kết quả của sự nhận thức thế giới, hiểu rõ con đường phát triển của
khoa học, khắc phục tính hạn chế của các lý luận hiện có và là công cụ lý luận cho hoạt động

thực tiễn để cải tạo tự nhiên và xã hội.
- Hiện tượng nào cũng có nguyên nhân, nên muốn hiểu đúng một hiện tượng thì phải
tìm hiểu nguyên nhân xuất hiện của nó hoặc muốn xóa bỏ một hiện tượng thì phải xóa bỏ
nguyên nhân sản sinh ra nó.
- Nếu nguyên nhân chỉ sinh ra kết quả trong những điêu kiện nhất định thì phải nghiên
cứu điêu kiện để thúc đẩy hay kìm hãm sự ra đời của kết quả. Phải có quan điểm toàn diện và
cụ thể khi nghiên cứu hiện tượng chứ không được vội vàng kết luận vê nguyên nhân của hiện
tượng đó.
Câu 16: Phân tích nội dung cặp phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên, từ đó rút ra ý
nghĩa phương pháp luận.
1. Khái niệm tất nhiên và ngẫu nhiên:
- Tất nhiên (tất yếu) là cái do bản chất, do những nguyên nhân bên trong của sự vật,
hiện tượng quyết định và trong những điêu kiện nhất định, nó phải xảy ra như thế, chứ không
thể khác.
24


- Ngẫu nhiên là cái không do mối liên hệ bản chất, bên trong quyết định mà nó là ngẫu
hợp của hoàn cảnh bên ngoài quyết định. Do đó, nó có thể xuất hiện hoặc không xuất hiện, có
thể xuất hiện như thế này hoặc như thế khác.
2. Điểm giống nhau và khác nhau giữa tất nhiên và ngẫu nhiên.
a. Khác nhau:
Tất nhiên là cái do chính bản chất của quá trình quyết định. Ngẫu nhiên là cái không do
bản chất của quá trình quy định một cách trực tiếp, không bắt buộc phải có với quá trình đó.
b. Giống nhau:
Tất nhiên và ngẫu nhiên đêu phản ánh những mối liên hệ đặc biệt vê chất của thế giới
khách quan mà những mối liên hệ này không nằm trong phạm trù khác. Tất nhiên và ngẫu
nhiên đêu do những nguyên nhân xác định quy định.
3. Phê phán quan điểm sai lầm về tất nhiên và ngẫu nhiên:
- Tuyệt đối hóa tất nhiên, phủ định ngẫu nhiên: Đây là quan điểm sai lầm vì rơi vào

“thuyết định mệnh”, xem con người chỉ là trò chơi của số phận và đã hạ thấp trình độ của tất
nhiên xuống trình độ của ngẫu nhiên.
- Tuyệt đối hóa ngẫu nhiên, phủ nhận tất nhiên: Quan điểm này đã xuyên tạc nhiệm vụ
của khoa học, hướng khoa học đi vào con đường thần bí, khoa học chỉ là kết quả của ngẫu
nhiên, phục tùng ngẫu nhiên, là chỗ dựa cho tôn giáo. Đây cũng là điểm tựa của chủ nghĩa bi
quan bất lực trước cuộc sống, xa lánh việc làm cách mạng cải tạo tự nhiên và xã hội.
4. Mối quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng thừa nhận tất nhiên và ngẫu nhiên đêu tồn tại bên ngoài,
độc lập với ý thức của loài người và có quan hệ biện chứng với nhau.
- Tất nhiên và ngẫu nhiên là biểu hiện sự thống nhất của hai mặt đối lập.
- Tất nhiên và ngẫu nhiên không phải tồn tại cô lập mà tồn tại trong sự thống nhất hữu
cơ với nhau. Không có ngẫu nhiên thuần túy, hay tất nhiên thuần túy. Bất cứ hiện tượng quá
trình nào cũng đêu là sự thống nhất giữa tất nhiên và ngẫu nhiên. Tất nhiên bao giờ cũng vạch
đường cho mình đi xuyên qua vô số ngẫu nhiên, còn ngẫu nhiên bao giờ cũng là hình thức
biểu hiện nội dung của cái tất nhiên, làm cho cái tất nhiên đa dạng nhiêu vẻ hơn.
- Sự phân biệt giữa tất nhiên và ngẫu nhiên chỉ là tương đối. Trong những điêu kiện cụ
thể, tất nhiên có thể trở thành ngẫu nhiên và ngược lại.
5. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Nếu tất nhiên là cái nhất định phải xuất hiện theo quy luật nội tại của nó, còn ngẫu
nhiên có thể xuất hiện hay không xuất hiện thì trong hoạt động thực tiễn phải dựa trên cơ sở
những mối liên hệ tất nhiên, phải căn cứ vào tất nhiên để đê ra phương hướng hoạt động chứ
không phải dựa vào ngẫu nhiên và dừng lại ở ngẫu nhiên.
- Con người có thể tạo ra những điêu kiện để biến ngẫu nhiên thành tất nhiên cần thiết
cho hoạt động thực tiễn. Và trong hoạt động thực tiễn phải xem xét sự chuyển hóa giữa tất
nhiên và ngẫu nhiên để không rơi vào tình trạng chủ quan nóng vội, duy ý chí.
- Nhiệm vụ của khoa học là phải vạch ra cái tất nhiên ẩn dấu đằng sau cái ngẫu nhiên,
đồng thời giúp con người ngăn ngừa sự tác động của ngẫu nhiên không có lợi và sử dụng ngẫu
nhiên có lợi.
Câu 17: Phân tích nội dung cặp phạm trù nội dung và hình thức, từ đó rút ra ý
nghĩa phương pháp luận.

1. Khái niệm nội dung và hinh thức.
- Nội dung là phạm trù triết học chỉ toàn bộ những yếu tố, những mặt, những mối liên
hệ và những quá trình tạo nên sự vật.
25


×