Tải bản đầy đủ (.pdf) (127 trang)

LVTS 2014 vấn đề phân định biển theo công ước luật biển năm 1982

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (935.85 KB, 127 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ DUNG

VẤN ĐỀ PHÂN ĐỊNH BIỂN
THEO CÔNG ƯỚC LUẬT BIỂN NĂM 1982

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2014

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ DUNG

VẤN ĐỀ PHÂN ĐỊNH BIỂN
THEO CÔNG ƯỚC LUẬT BIỂN NĂM 1982
Chuyên ngành : Luật quốc tế
Mã số

: 60 38 60

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Bá Diến


HÀ NỘI - 2014

2


Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Dung

3


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục

1.1.

MỞ ĐẦU


1

Chương 1: TỔNG QUAN VỀ PHÂN ĐỊNH BIỂN

5

Vai trò và tầm quan trọng của biển

5

1.1.1. Vai trò của biển đối với kinh tế thế giới

5

1.1.2. Vai trò của biển đối với chính trị thế giới

7

1.2.

8

Khái niệm về phân định biển theo Công ước Luật biển 1982

1.2.1. Khái niệm về phân định biển trong luật quốc tế

8

1.2.2. Vai trò phân định biển


9

1.3.

11

Đặc điểm và phân loại phân định biển theo Công ước Luật
biển 1982

1.3.1. Đặc điểm của phân định biển quốc tế

11

1.3.2. Phân loại phân định biển

13

1.4.

15

Vai trò và lịch sử ra đời của Công ước Luật biển 1982

1.4.1. Vai trò của Công ước Luật biển 1982

15

1.4.2. Lịch sử ra đời của Công ước Luật biển 1982


16

1.5.

21

Công ước Luật biển 1982 quy định về các vùng biển

1.5.1. Nội thủy

21

1.5.2. Lãnh hải

22

1.5.3. Vùng tiếp giáp lãnh hải

24

1.5.4. Vùng đặc quyền kinh tế

24

1.5.5. Thềm lục địa

26

1.5.6. Biển cả


28

4


1.5.7. Vùng - di sản chung của loài người
Chương 2: CÁC NGUYÊN TẮC VÀ PHƯƠNG PHÁP QUY ĐỊNH VỀ

28
30

PHÂN ĐỊNH BIỂN THEO CÔNG ƯỚC LUẬT BIỂN 1982

2.1.

Các nguyên tắc cơ bản trong Luật biển quốc tế

30

2.1.1. Nguyên tắc công bằng

30

2.1.2. Nguyên tắc thỏa thuận trong phân định biển

36

2.1.3. Nguyên tắc đất thống trị biển

37


2.1.4. Nguyên tắc xác lập chủ quyền bằng chiếm hữu

38

2.1.5. Nguyên tắc Uti possidetis

42

2.2.

44

Các phương pháp phân định được áp dụng trong thực tiễn
quốc tế

2.2.1. Phương pháp đường trung tuyến cách đều

44

2.2.2. Phương pháp đường trung tuyến có điều chỉnh

45

2.2.3. Giải pháp tạm thời

46

2.2.4. Đường vuông góc với bờ biển


47

2.2.5. Đường kinh tuyến, vĩ tuyến

47

2.3.

47

Thực tiễn phân định biển

2.3.1. Giải quyết tranh chấp biển theo án lệ trên thế giới

47

2.3.2. Giải quyết tranh chấp biển của Tòa án quốc tế

50

2.3.3. Giải quyết tranh chấp biển của Tòa án Luật biển quốc tế

54

2.3.4. Những bài học rút ra cho Việt Nam

56

2.4.


61

Các quy định về phân định biển trong Công ước Luật biển 1982

2.4.1. Các quy định về đường cơ sở trong Công ước 1982

61

2.4.2. Phân định lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải

66

2.4.3. Phân định vùng đặc quyền kinh tế theo Công ước 1982

69

2.4.4. Phân định thềm lục địa chồng lấn giữa các quốc gia có bờ biển

72

nằm tiếp liền hoặc đối diện theo Công ước Luật biển 1982

5


2.4.5. Vai trò của đảo trong phân định biển
Chương 3: THỰC TIỄN PHÂN ĐỊNH BIỂN VIỆT NAM, GIẢI PHÁP

76
79


VÀ KIẾN NGHỊ

3.1.

Các văn bản pháp lý của việt nam về việc phân định biển

3.1.1. Tuyên bố của Chính phủ ngày 12/5/1977 về lãnh hải, vùng tiếp

79
79

giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam
3.1.2. Tuyên bố của Chính phủ ngày 12/11/1982 về đường cơ sở

82

dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam
3.1.3. Luật biên giới quốc gia 2003

84

3.1.4. Luật biển Việt Nam 2013

86

3.2.

88


Thực tiễn phân định các vùng biển của Việt Nam

3.2.1. Phân định ranh giới trên biển Việt Nam - Thái Lan

88

3.2.2. Phân định Vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc

92

3.2.3. Phân định ranh giới thềm lục địa Việt Nam - In-đô-nê-xia

99

3.2.4. Xây dựng và trình Liên hợp quốc Báo cáo quốc gia xác định

102

ranh giới ngoài thềm lục địa Việt Nam
3.3.

Giải pháp và kiến nghị

103

3.3.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật

103

3.3.2. Tuyên truyền, nâng cao ý thức biển đảo


105

3.3.3. Đào tạo chuyên gia nghiên cứu biển

108

3.3.4. Học tập kinh nghiệm giải quyết tranh chấp biển các nước trên

110

thế giới
3.3.5. Đẩy mạnh các hoạt động đàm phán ký kết với các nước hữu

110

quan về phân định biển
KẾT LUẬN

113

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

115

6


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Hiện nay trên thế giới các quốc gia đang có xu hướng tiến ra biển. Bởi
vì, ở biển chứa đựng tất cả các nguồn tài nguyên thiên nhiên phục vụ đời sống
của con người trong khi trên đất liền những nguồn tài nguyên đó đang dần
dần cạn kiệt. Trong cơn khát về lương thực, về năng lượng của con người thì
biển là nơi cuối cùng để họ tìm kiếm.
Trước thực trạng này, các quốc gia đang có nhiều tranh chấp trên vùng
biển của mình, ngày càng gay gắt. Vì vậy, vấn đề đặt ra là các quốc gia phải
ngồi lại với nhau để đàm phán, thỏa thuận tìm phương pháp phân định các
vùng biển, phù hợp với lợi ích của mỗi quốc gia. Điều này có ý nghĩa quan
trọng trong luật biển để xác định biên giới lãnh thổ quốc gia mà còn có vai trò
đối với việc xác lập trật tự trên biển. Bên cạnh đó, phân định biển cũng là vấn
đề có tính nhạy cảm vì liên quan trực tiếp đến chủ quyền và lợi ích quốc gia.
Chính vì vậy, để tránh tình trạng xung đột, việc phân định biển phải được tiến
hành một cách hợp lý tôn trọng pháp luật quốc tế và thực tiễn ở các quốc gia.
Biển Đông là một biển lớn vào loại nhất nhì thế giới, tương tự như Địa
Trung Hải, được bao quanh bởi 9 nước: Việt Nam. Trung Quốc, Philippin,
Indonesia, Malaysia, Bruney, Singapo, Thái Lan, Campuchia với các yêu sách
về phạm vi vùng biển và thềm lục địa hầu hết đều chồng lấn lên nhau, gây ra
các tranh chấp phức tạp.
Ở biển Đông có nhiều tranh chấp về chủ quyền và quyền tài phán quốc
gia trên biển, trong đó có tranh chấp có liên quan tới nhiều nước và là loại
tranh chấp trên biển phức tạp trên thế giới. Tranh chấp trên biển đông có ảnh
hưởng đến quan hệ các nước có liên quan và của nhiều nước khác trong khu
vực, trên thế giới, ảnh hưởng tới hòa bình, ổn định và quan hệ hợp tác phát
triển quốc tế. Sự xuất hiện khái niệm "thềm lục địa vàng" và vùng đặc quyền
kinh tế đã làm cho nhiều nước trước kia không có chung đường biên giới trên

7



biển cần được giải quyết phân định. Trong bối cảnh đó Việt Nam có ranh giới
biển cần phân định với hàng loạt các nước trong khu vực như: Trung Quốc,
Philippin, Malaysia, Indonesia, Thái Lan, Campuchia. Với yêu sách của các
nước ven biển Đông theo luật quốc tế mới, biển Đông hầu như bị bao phủ hết
bởi các vùng biển và thềm lục địa thuộc chủ quyền và quyền tài phán quốc gia
của các quốc gia đó.
Cơ sở pháp lý vấn đề phân định biển quốc tế được quy định trong Công
ước Luật biển 1982. Từ đó các quốc gia tiến hành gia nhập Công ước, trong
đó có Việt Nam. Từ những bài học rút ra cho Việt Nam từ các vụ án điển hình
về tranh chấp biển trên thế giới có ý nghĩa quan trọng trong việc phân định
biển ở Việt Nam. Hiện nay Việt Nam đã phân định biển với một số nước
trong khu vực: phân định giữa Việt Nam và Trung Quốc; phân định vùng
nước biển lịch sử của Việt Nam và Campuchia; Phân định vùng biển của Việt
Nam và Malaixia; phân định vùng biển của Việt Nam và Thái Lan. Từ thực
tiễn cho thấy việc nghiên cứu một cách toàn diện những vấn đề pháp lý về
việc phân định biển của Việt Nam theo quy định của Công ước Luật biển
1982 nhằm tìm ra những giải pháp hữu dụng cho việc hoàn thiện pháp luật
Việt Nam trong lĩnh vực này trở nên có ý nghĩa quan trọng.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả luận văn đã lựa chọn nghiên cứu
đề tài: "Vấn đề phân định biển theo Công ước Luật biển năm 1982".
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến vấn đề biển, đã có rất nhiều đề tài nghiên cứu và bài viết
về các nội dung cơ bản của Công ước Luật biển năm 1982, vấn đề chống và
đấu tranh chống tội phạm trên biển, vấn đề khai thác chung trên biển… Tuy
nhiên, riêng đối với lĩnh vực "phân định biển" đến nay có rất ít đề tài nghiên
cứu chuyên sâu.
Trên các trang mạng cũng có một số bài đánh giá tình hình về phân
định theo Công ước 1982, tuy nhiên những bài viết đó mới mang tính nhỏ lẻ,

8



chưa thống nhất trong cách lập luận và thực tiễn. Trong bài viết này, tác giả
luận văn đã nghiên cứu các vấn đề lý luận về phân định trong luật quốc tế,
tình tranh chấp các vùng biển của các nước trên thế giới đã được cả nhân loại
ghi nhận, đó là các án lệ, các vụ án do Tòa án Quốc tế, Tòa án Luật biển hay
Tòa trọng tài giải quyết. Tác giả đi sâu nghiên cứu các quy định về phân định
trong Công ước Luật biển 1982 và từ đó liên hệ với thực tiễn quản lý vùng
biển của nước nhà qua hệ thống văn bản pháp lý. Và từ đó rút ra những bài
học để áp dụng vào thực tế nhằm hạn chế những tranh chấp trên biển đang
diễn ra hiện nay.
3. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Đây là một đề tài không mới nhưng rất hấp dẫn, đến nay có một đề tài
có cùng nội dung được công bố tuy nhiên cách thức tiếp cận và đối tượng
nghiên cứu không như những đề tài cũ. Tính mới của của đề tài là khai thác,
phân tích, làm rõ các quy định của Công ước Luật biển 1982 và các vụ án
điển hình về phân định biển từ trước đến nay từ đó áp dụng vào thực tiễn phân
định của Việt Nam. Thành công của đề tài này có thể làm phong phú thêm
kho tàng lý luận cho luật quốc tế ở Việt Nam, cũng như nguồn tài liệu tham
khảo cho công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học của các cơ sở đào tạo luật
học nói chung và luật quốc tế nói riêng.
4. Mục tiêu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu: Luận văn tập trung đi sâu phân tích các quy định
có liên quan trong Công ước Luật biển 1982 đồng thời cũng viện dẫn các vụ án
về tranh chấp điển hình trên biển góp phần đảm bảo an toàn an ninh trên biển.
Đối tượng nghiên cứu: Công ước Luật biển năm 1982 (chủ yếu), các
vụ án giải quyết tranh chấp trên biển trong lịch sử phát triển luật biển, pháp luật
quốc gia các hiệp định với các nước láng giềng và các văn bản có liên quan, các
thông tin, tài liệu trên truyền hình, báo, đài, các ấn phẩm, bài viết đã được đăng
tải trên các kênh thông tin chính thống và các tạp chí chuyên ngành.


9


Phạm vi nghiên cứu: Các vùng biển có liên quan đến đề tài nghiên
cứu, chủ yếu là vùng biển quốc gia và quốc tế, các tài liệu có liên quan điều
chỉnh việc phân định biển trong chuyên ngành luật biển quốc tế.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng bốn phương pháp nghiên
cứu chủ yếu gồm: Phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, phương
pháp tổng hợp và phương pháp so sánh
Luận văn đã kết hợp bốn phương pháp trên để thống kê, tổng hợp, phân
tích các quy định về phân định biển trong các điều ước quốc tế đưa ra những
đánh giá cụ thể về thực trạng phân định biển, có sự so sánh giữa các quy định
trong Luật Biển quốc tế với các điều ước quốc tế có liên quan. Việc phân tích
các quy định về phân định biển theo điều ước quốc tế đều lồng ghép viện dẫn
số liệu thống kê các vụ án cụ thể phân định biển quốc tế và phân tích, trích
dẫn các quy định tương ứng có liên quan của hệ thống pháp luật Việt Nam.
Đồng thời, luận văn cũng phân tích, đánh giá về tình hình gia nhập và
thực thi các điều ước quốc tế đặc biệt là công tác "nội luật hóa" các quy phạm
pháp luật quốc gia và những thành tích đã đạt được trong quá trình hợp tác
phân định biển trong thời gian qua, những khó khăn và đề xuất kiến nghị
nhằm nâng cao hiệu quả của công tác này trong thời gian tới.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về phân định biển.
Chương 2: Những nguyên tắc, phương pháp và quy định phân định
theo Công ước Luật biển 1982
Chương 3: Thực tiễn phân định Việt Nam, giải pháp và kiến nghị


10


Chương 1
TỔNG QUAN VỀ PHÂN ĐỊNH BIỂN

1.1. VAI TRÒ VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA BIỂN

1.1.1. Vai trò của biển đối với kinh tế thế giới
Từ xưa đến nay người ta vẫn quen gọi hành tinh của của chúng ra là trái
đất nhưng thực ra 71% bề mặt trái đất là biển cả chiếm khoảng 362 triệu km2
và 29% diện tích đất còn lại chỉ là những vùng đảo giữa biển cả mênh mông.
Các đại lục Á, Phi, Mỹ, Âu, Nam cực trên thế giới chỉ là những hòn đảo nổi
giữa biển và đại dương. Đó là các đại dương Thái Bình Dương, Đại Tây
Dương, Ấn Độ Dương, Bắc Băng Dương và Nam Băng Dương cùng với các
biển rìa của chúng. Thái Bình Dương nằm giữa các khối đại lục châu Á và
Châu Mỹ với diện tích là 180 triệu km2, bằng cả Ấn Độ Dương và Đại Tây
Dương cộng lại. Toàn bộ diện tích đất trên thế giới có thể chứa gọn trong lòng
Thái Bình Dương. Đại dương lớn thứ hai trên thế giới là Đại Tây Dương rộng
khoảng 106 triệu km2 nằm giữa châu Âu, Châu Phi và Châu Mỹ. Tiếp đó là
Ấn Độ Dương nằm ở phía Nam Ấn Độ với diện tích khoảng 75 triệu km2.
Điểm sâu nhất của đại dương thế giới là ở vòng cung đảo Marian trong Thái
Bình Dương với độ sâu 11.034 m. Độ sâu trung bình của biển cả là 4000 m.
Nói như vậy mới hình dung hết được vai trò quan trọng của biển đối với cuộc
sống và phát triển của loài người. Tuy con người không thể cư trú được ngoài
biển khơi nhưng biển và đại dương lại là nơi bắt nguồn của sự sống và cũng là
nơi tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc sống và sự phát triển của loài người.
Biển và đại dương là nguồn tài nguyên vô tận đã từng nuôi sống loài
người từ trước tới nay và nhất là trong thời gian hiện nay khi tài nguyên

trên đất đã gần cạn kiệt thì tương lai phát triển của loài người lại càng phụ
thuộc nhiều hơn vào việc khai thác các tài nguyên của biển phục vụ cho
cuộc sống của loài người. Ngày nay, với sự phát triển nhanh chóng của nền

11


khoa học hiện đại, công nghệ khai thác và sử dụng các tài nguyên của biển
có những bước nhảy vọt, ta lại càng thấy rõ tầm quan trọng của biển đối
với đời sống kinh tế, chính trị và xã hội của loài người. Các nhà khoa học
dự đoán rằng trong một thời gian không xa nữa con người có thể khai thác
được tất cả các loại tài nguyên của biển như đã từng khai thác được trên đất
liền. Khối lượng nước chiếm 97,3% toàn bộ lượng nước của hành tinh.
Trong nước chứa nhiều tài nguyên sinh vật quý giá cũng như các tài
nguyên không sinh vật hòa tan trong biển (trên 40 thành phần hóa chất
trong nước biển). Sản phẩm lượng đánh bắt cá biển của thế giới từ năm
1989 là 90 triệu tấn năm. Sản lượng sản xuất thực vật biển khoảng 300 tỷ
tấn năm trong đó các động vật "ăn cỏ" tiêu thụ 70 tỷ tấn, con người tiêu thụ
trực tiếp 250 -300 triệu tấn.
Thềm lục địa chứa 90% trữ lượng dầu khí ngoài khơi. Các nhà khoa
học đánh giá, đáy đại dương và thềm lục địa có tiềm năng dầu khí gấp hai lần
tiềm năng trên đất liền. Từ năm 1990, thềm lục địa cung cấp trên 30% sản
lượng dầu khí, và 50% sản lượng khí thế giới. Ngoài ra, còn có thể tìm thấy
tại đây các tài nguyên khác của đáy biển và lòng đất dưới đáy biển như cát,
sỏi, san hô, trai ngọc, than, các tài nguyên do các dòng sông và hiện tượng xói
lở của bờ biển đưa ra biển như các hạt khoáng sản hoặc các bụi kim loại có
nguồn gốc từ đất liền.
Đáy đại dương và các dải núi đại dương nơi chứa đựng các quặng đa
kim với trữ lượng 60 000 tấn/km2 trong một số vùng của Thái Bình Dương.
Các quặng này chứa đồng, coban, titan, nhưng phần lớn là sắt và mangan.

Tổng giá trị các tài nguyên biển ước tính khoảng 7 ngàn tỷ USD một
năm. Con số này chưa tính đến các giá trị khác của biển cả như Công
nghiệp giải trí, giao thông vận tải, thông tin, điều hòa khí hậu và hấp thụ
tiêu thụ chất thải. Khoảng 90% lượng hàng hóa buôn bán quốc tế được vận
chuyển bằng đường biển.

12


Ngoài các dạng tài nguyên kể trên, biển còn cung cấp cho con người
nguồn tài nguyên khổng lồ khác là nước biển và các năng lượng biển do các
quá trình hoạt động và tính chất lý hóa của nước biển sản sinh ra như thủy
triều sóng, chênh lệch nhiệt độ của nước biển…
Biển và các đảo còn cung cấp một loại tài nguyên vô hình phong phú là
tiềm năng du lịch biển. Thực tiến cho thấy nhiều nước trên thế giới đã phát
triển ngành du lịch biển của mình như một ngành kinh tế chủ chốt mang lại
nhiều lợi nhuận cho nền kinh tế kinh tế quốc dân.
1.1.2. Vai trò của biển đối với chính trị thế giới
Biển có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc phát triển chính trị và kinh
tế thế giới, biển và đại dương thuộc về tự nhiên trước khi thuộc về luật pháp.
Trước đây biển cả là một môi trường thông thương. Qua hàng thế kỷ, theo
sóng biển, các tư tưởng đã được truyền bá, con người và hàng hóa đã được
vận chuyển. Biển cả gắn liền với các phát hiện lớn, các cuộc truyền đạo và
các cuộc chinh phục viễn chinh. Biển cả còn mang lại cho con người nguồn
thức ăn quan trọng. Từ ngàn xưa cùng với trồng trọt, hái lượm, nghề đánh cá
cũng đã phát triển, đóng vai trò không thể thiếu trong hoạt động của con
người, thậm chí cho đến cả ngày nay.
Đặc trưng của một nền công nghiệp hiện đại là có sức sản xuất lớn trên
một địa bàn tập trung hẹp, nên cần có tuyến đường vận tải thuận tiện chuyên
chở nguyên vật liệu và các sản phẩm trong khu vực rộng lớn. Với sự phát

triển ngày càng cao của công nghiệp hiện đại, tập trung và với một thị trường
tiêu thụ sản phẩm rộng lớn, các khu vực trên thế giới cần phải gắn kết chặt
chẽ với nhau bằng đường giao thông vận tải thuận lợi và liên tục. Các khu vực
này bị ngăn cách bởi biển cả nên con đường giao thông thuận tiện và rẻ nhất
vẫn là tuyến đường giao thông bằng đường biển. Vận chuyển hàng hóa và
nguyên vật liệu bằng đường biển có tính ưu việt hơn hẳn so với các phương
thức khác: Có thể vận chuyển liên tục tới tất cả các nơi trên thế giới vì các

13


biển trên thế giới đều nối liền với nhau, giá chi phí vận tải thấp và thích hợp
cho việc vận tải các loại hàng hóa cồng kềnh. Như vậy, trong sự phát triển
kinh tế, chính trị của thế giới hiện đại, các mối quan hệ đều có tính chất toàn
cầu, và biển đã trở thành con đường thông thương không thể thiếu được trong
sự phát triển chính trị kinh tế thế giới.
Biển ngày càng có một vai trò quan trọng sống còn các quốc gia ven
biển, đồng thời nó cũng chứa đựng các mầm mống tranh chấp giữa các quốc
gia có bờ biển tiếp liền hoặc đối diện nhau. Các quốc gia có biển ngày càng
có ý thức được tầm quan trọng của các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền tài
phán quốc gia. Điều này tất yếu sẽ dẫn tới các tranh chấp nẩy sinh giữa các
quốc gia, nó đòi hỏi phải có một cơ chế pháp lý nhất định để giải quyết các
tranh chấp này. Song song với việc phát triển các nguyên tắc pháp lý quốc tế,
các quốc gia có liên quan cũng chủ động đàm phán giải quyết tạo thành tiền
lệ, thực tiễn quốc tế quan trọng vào việc phát triển luật biển quốc tế.
1.2. KHÁI NIỆM VỀ PHÂN ĐỊNH BIỂN THEO CÔNG ƯỚC LUẬT BIỂN 1982

1.2.1. Khái niệm về phân định biển trong luật quốc tế
Ngay từ khi các Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1958
và 1982 còn chưa hình thành, nhiều quốc gia trên thế giới đã đưa ra các yêu

sách đối với các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài
phán của quốc gia mình. Với sự phát triển của Luật biển quốc tế các quốc
gia ven biển lại càng lợi dụng một cách tối đa các điều khoản của Công ước
để mở rộng lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục
địa của mình. Với cách giải thích khác nhau nhằm đem lại lợi ích tối đa cho
mình, yêu sách của các quốc gia về các vùng biển chồng lấn lên nhau là
một điều tất yếu. Các vùng biển chồng lấn này cần được giải quyết phân
định. Tuy nhiên các điều khoản của Công ước chưa đủ làm cơ sở pháp lý
để các quốc gia có thể dễ dàng đi đến thỏa thuận phân định các vùng biển
tranh chấp của mình.

14


Theo quy định của Luật biển quốc tế, tất cả các quốc gia ven biển đều
được quyền hoạch định các vùng biển của mình như nội thủy, lãnh hải, vùng
đặc quyền kinh tế,… đây không những là quyền mà ở một khía cạnh nào đó
còn là nghĩa vụ của các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia thành viên của Công
ước 1982, nhằm tạo ra sự ổn định và trật tự trong việc sử dụng và quản lý
biển. Trong trường hợp vùng biển của quốc gia độc lập, không có liên quan
đến quyền lợi của quốc gia khác thì ranh giới của các vùng biển do các quốc
gia ven biển xác định phù hợp với luật pháp và thực tiễn quốc tế. Tuy nhiên
trong trường hợp vùng biển quốc gia ven biển lại nằm tiếp liền, đối diện hoặc
chồng lấn với vùng biển của quốc gia khác thì việc hoạch định ranh giới biển
cần phải có sự thỏa thuận của các quốc gia liên quan.
Một cách tổng quát, phân định biển được hiểu là cách xác định ranh
giới biên giới quốc gia trên biển và phân định giữa các vùng biển trong phạm
vi chủ quyển, quyền chủ quyền của quốc gia đồng thời là quá trình hoạch định
đường ranh giới phân chia các vùng biển giữa hai hay nhiều quốc gia hữu
quan. Vấn đế phân định biển được đặt ra cho các quốc gia có các vùng biển

tiếp liền hoặc đối diện nhau. Việc phân định chủ quyền quốc gia hoặc xác
định đường biển giới phân chia vùng biển thuộc quyền chủ quyền quốc gia.
1.2.2. Vai trò phân định biển
Phân định biển là một vấn đề quan trọng trong luật biển. Vấn đề này có ý
nghĩa đối với mỗi quốc gia có biển trong việc xác định biên giới lãnh thổ quốc
gia trên biển, xác định các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền quốc
gia đó là các phân định chính xác các vùng biển nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp
giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế; xác định ranh giới biển giữa các quốc
gia và vùng biển quốc tế, cũng như vùng đất dưới vùng nước biển quốc tế.
Phân định biển đóng góp vai trò trong việc ổn định hòa bình thế giới.
Đó là việc làm phân định lãnh thổ quốc gia xác định vùng biển thuộc chủ
quyền quốc gia, vùng biển thuộc quyền chủ quyền, vùng biển thuộc quyền tài

15


phán của mỗi quốc gia. Từ đó làm cho quan hệ các quốc gia có biển thêm ổn
định hòa bình không có tranh chấp đối với an ninh, kinh tế và chính trị của
mỗi quốc gia liên quan.
Vấn đề phân định biển của các quốc gia có biển được giải quyết thì sẽ tạo
ra những điều kiện thuận lợi cho việc khai thác tài nguyên thiên nhiên trên biển.
Phân định biển có vai trò trong việc thông thương hàng hải, hàng
không, kinh tế thương mại đầu tư. Bởi vì biển là khâu quan trọng trong cơ cấu
địa lý kinh tế thế giới, là con đường giao lưu thông suốt về kinh tế chính trị
trên trái đất. Tuyến đường giao thông bằng đường biển thuận tiện và rẻ nhất,
cho nên tỷ trọng hàng hóa vận chuyển bằng đường biển chiếm gần 80% so
với các phương thức vận chuyển khác. Phân định biển có vai trò lớn đối với
hàng không, đường bay trên không phụ thuộc vào tọa độ được xác định trên
biển, để không bay vào vùng không được bay. Phân định tốt cũng là nơi để
thu hút sự đầu tư về thương mại phát triển kinh tế trên biển. Sự đầu tư về khoa

học kỹ thuật, máy móc hiện đại để thăm dò, tìm hiểu đi đến khai thác những
tài nguyên thiên nhiên trên biển.
Bên cạnh đó phân định góp phần ổn định hòa bình trong khu vực và trên
thế giới, các nước có biển hay không có biển có thể cùng nhau hợp tác khác
thác tài nguyên, cùng nhau phát triển bền vững, cùng nhau hợp tác đầu tư và
khoa học, kỹ thuật để cuối cùng các quốc gia cùng được hưởng lợi ích từ biển.
Như vậy, phân định đóng góp vai trò đối với việc xác lập trật tự trên
biển. Tuy nhiên phân định biển cũng là một vấn đề có tính nhạy cảm vì liên
quan trực tiếp đến chủ quyền và lợi ích quốc gia. Chính vì vậy, để tránh tình
trạng xung đột, việc phân định biển phải được tiến hành một cách hợp lý, tôn
trọng pháp luật quốc tế và thực tiễn ở các quốc gia.
Phân định biển đây là vấn đề hết sức quan trọng trong việc ổn định trật
tự trên biển hiện nay, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế biển phát triển,
đồng thời góp phần giải quyết tốt các tranh chấp trên biển và phân định biên

16


giới biển một cách hợp lý giữa các nước láng giềng. Thực tế, riêng ở khu vực
biển Đông, nhất là đối với Việt Nam, cần phải giải quyết sòng phẳng vấn đề
này với Trung Quốc (ở vịnh Bắc Bộ), với Campuchia và Thái Lan (trong vịnh
Thái Lan), với Indonesia và Malaysia (vì thềm lục địa bị chồng lấn)...
Theo quan điểm luật quốc tế, việc phân định biển khi các vùng biển của
các nước láng giềng... "đụng nhau", chồng lấn lên nhau, cho dù đó là lãnh hải
hay vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa đều phải bảo đảm thực hiện nguyên
tắc hợp tác hòa bình, không dùng vũ lực, theo con đường đàm phán thỏa
thuận với nhau đúng luật quốc tế để đạt được giải pháp công bằng.
Như vậy theo Công ước Luật biển năm 1982, Phân định biển được hiểu
là việc hoạch định đường biên giới quốc gia trên biển, xác định các vùng biển
thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia, xác định vùng

biển của quốc gia với Vùng biển quốc tế và vùng đất nằm ngoài quyền tài
phán quốc gia được thiết lập bởi các quốc gia, trên cơ sở thỏa thuận hoặc
thông qua thực tiễn quốc tế có tính tập quán, điều chỉnh quy chế pháp lý các
vùng biển cũng như các quốc gia trong lĩnh vực này.
1.3. ĐẶC ĐIỂM VÀ PHÂN LOẠI PHÂN ĐỊNH BIỂN THEO CÔNG ƯỚC
LUẬT BIỂN 1982

1.3.1. Đặc điểm của phân định biển quốc tế
Phân định biển được hiểu việc hoạch định đường biên giới quốc gia trên
biển của quốc gia đó, giữa các quốc gia với nhau và giữa vùng biển quốc gia và
Vùng biển quốc tế. Về cấu trúc pháp lý thì phân định biển là một chế định nằm
trong Luật biển quốc tế thuộc hệ thống Luật quốc tế vì vậy nó mang tính chất
và đặc điểm của Luật biển quốc tế. Bao gồm tổng thể các nguyên tắc, quy
phạm điều chỉnh quan hệ quốc tế phát sinh trong lĩnh vực sử dụng và khai thác
biển vì mục đích hòa bình và lợi ích thiết thực của các chủ thể khác nhau.
Về chủ thể của phân định biển quốc tế, trước hết là các quốc gia do
việc sử dụng biển và khai thác biển tham gia quan hệ này. Đây là chủ thể phổ

17


biến nhất của Luật biển quốc tế, bởi vì biển vốn liên quan đến mọi mặt của
đời sống một quốc gia. Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và kinh tế toàn
cầu, biển không chỉ có giá trị về kinh tế mà còn đặc biệt quan trọng đối với an
ninh quốc phòng và môi trường. Tất cả những lĩnh vực này đều quan hệ mật
thiết đến lợi ích thiết thực và sống còn của mỗi quốc gia.
Trong luật biển quốc tế, mỗi quốc gia có đặc điểm vị trí địa lý khác
nhau được hưởng lợi ích trong khai thác và sử dụng biển khác nhau, mặc dù
Luật biển luôn có những nguyên tắc và quy định pháp luật để đảm bảo sự
bình đẳng giữa các quốc gia trên biển.

Mỗi quốc gia đều có phương pháp đề ra những biện pháp bảo vệ vùng
biển của mình cũng như phân vùng để quản lý. Với những tính chất trên,
trong việc phân định biển quốc gia là chủ thể đầu tiên thông qua việc các quốc
gia ngồi đàm phán để phân định vùng biển của mình khi có tranh chấp.
Những đàm phán không có kết quả thì các quốc gia phải nhờ bên thứ ba giúp
đỡ. Chủ thể có thể dàn xếp cho các quốc gia ở đây có thể là quốc gia thứ ba,
hoặc tòa án công lý quốc tế, tòa trọng tài đặc biệt.
So với phân định biên giới trên đất thì việc phân định biển có những
đặc thù như sau:
Việc hoạch định biên giới trên đất liền bằng hình thức là cắm mốc,
đóng cột bê tông để đánh dấu. Tuy nhiên trên biển không làm được như vậy,
việc xác định đường biên giới trên biển phức tạp hơn do môi trường biển đặc
thù, mặt nước biển mênh mông không xác định được ranh giới bằng hiện vật
như đất liền.
Phương pháp xác định đường ranh giới trên biển là những hình học, sử
dụng thiên văn, dải hoa tiêu hoặc bằng toán học, xác định điểm bằng kinh
tuyến vĩ tuyến, tọa độ.
Sau khi phân định biển việc kiểm tra, kiểm soát để thực thi cũng gặp
nhiều khó khăn hơn so với biên giới trên đất liền.

18


Bên cạnh đó việc xác định ranh giới trên biển phải phụ thuộc vào vị trí
các đảo, luồng lạch, cấu trúc bờ biển, chiều dài bờ biển, cấu trúc các đảo,
quần đảo, dựa vào truyền thống lịch sử đánh bắt cá, số lượng dân cư ven biển
của quốc gia đó.
Trên đây là một số đặc điểm đặc thù của phân định biển, dù quá trình
phân định gặp khó khăn và nhạy cảm nhưng nếu được các quốc gia hữu quan
tích cực nghiên cứu, ngồi đàm phán, thỏa thuận một cách tích cực, cùng với

áp dụng các phương thức hiện đại, công nghệ mới thì vấn đề phân định được
giải quyết. Đây cũng là nền tảng góp phần vào ổn định chính trị, an ninh hòa
bình của thế giới.
1.3.2. Phân loại phân định biển
Trước tiên định nghĩa biên giới quốc gia là ranh giới phân định lãnh thổ
quốc gia này với lãnh thổ quốc gia khác hoặc với các vùng quốc gia có quyền
chủ quyền trên biển. Hoặc nói là, biên giới quốc gia là hàng rào pháp lý được
vạch ra theo tâm của trái đất qua các cột mốc quốc gia để giới hạn vùng đất,
vùng nước, vùng trời và lòng đất thuộc chủ quyền hoàn toàn toàn và riêng biệt
của quốc gia.
Biên giới quốc gia trên biển là ranh giới phía ngoài của lãnh hải do
quốc gia ven biển thiết lập phù hợp với luật pháp và tập quán quốc tế. Đối với
các đảo của một quốc gia nằm ngoài phạm vi lãnh hải của quốc gia này, Biên
giới quốc gia trên biển là đường ranh giới phía ngoài của lãnh hải bao quanh
đảo. Biên giới trên biển giữa các quốc gia kế cận hoặc đối diện nhau có lãnh
hải chồng lấn nhau được thiết lập trên cơ sở thỏa thuận giữa các quốc gia liên
quan và được thể hiện bằng điều ước về hoạch định biên giới biển.
Cách xác định biên giới quốc gia trên bộ khác với cách xác định biên
giới quốc gia trên biển. Trên bộ, người ta hoạch định bằng cách xác định vị
trí, các điểm tọa độ đường biên giới đi qua, cách xác định biên giới qua sông
suối, đồi núi, sa mạc…, sau đó phân giới thực địa là quá trình hóa đường biên

19


giới, cuối cùng là cắm mốc, cắm các cột mốc cụ thể tại các điểm đã được các
bên đánh dấu trên thực địa.
Phân định biển được phân loại trong các trường hợp sau:
- Phân định biển khi hai quốc gia có bờ biển đối diện hoặc liền kề nhau.
Trường hợp này các quốc gia liên quan sẽ thỏa thuận xác định biên giới biển

thông qua việc ký kết hiệp định phân định biên giới trên biển. Thông thường
đường biên giới khi hai quốc gia đối diện hoặc liền kề nhau được xác định là
đường trung tuyến hoặc liền kề nhau được xác định là đường trung tuyến hoặc
đường cách đều để phân định ranh giới vùng nội thủy, lãnh hải giữa các quốc
gia nếu các quốc gia không có thỏa thuận nào khác.
- Phân định vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán
của quốc gia ven. Quốc gia ven biển tự mình xác định biên giới trên biển để
phân định nội thủy, lãnh hải, thuộc chủ quyền quốc gia với các vùng quốc gia có
chủ quyền trên biển (tiếp giáp lãnh hải, đặc quyền kinh tế và thềm lục địa).
Trong trường hợp này quốc gia ven biển sẽ đơn phương hoạch định
trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc chung của Luật biển quốc tế bằng cách
tuyên bố đường cơ sở và chiều rộng của lãnh hải, đường biền giới quốc gia
trên biển chính là ranh giới ngoài của lãnh hải.
- Phân định giữa vùng biển quốc gia và vùng, sau khi quốc gia ven biển
tự hoạch định đường biển giới quốc gia trên biển, phân định các vùng biển
thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán của mình, quốc gia đó tiếp
tục phân định giữa vùng biển của mình với vùng biển nằm ngoài quyền tài
phán của quốc gia. Vùng có chế độ pháp lý riêng, là di sản chung của loài
người, ở đây tất cả các nước có biển hay nước bất lợi về địa lý đều có quyền
được sử dụng trên cơ sở tuân thủ theo quy định của Luật biển quốc tế.
Như vậy, việc phân định biển có nhiều điểm khác biệt và phức tạp hơn
so với việc phân định ranh giới lãnh thổ trên đất liền. Vấn đề này phụ thuộc
vào năng lực của mỗi quốc gia, dựa vào kỹ thuật khoa học, toán học, thiên

20


văn, tinh thông về luật pháp để đàm phán với quốc gia khác để đưa ra phương
pháp phân định biển một cách công bằng, tạo ra sự ổn định chính trị an ninh
không có tranh chấp của mỗi quốc gia trong khu vực cũng như trên thế giới.

1.4. VAI TRÒ VÀ LỊCH SỬ RA ĐỜI CỦA CÔNG ƯỚC LUẬT BIỂN 1982

1.4.1. Vai trò của Công ước Luật biển 1982
Công ước Luật biển 1982 là một cống hiến quan trọng vào việc giữ gìn
hòa bình, công lý và tiến bộ cho tất cả các dân tộc trên thế giới.
Công ước Luật biển 1982 ra đời với sự quan tâm đúng mức đến chủ
quyền của tất cả các quốc gia, thiết lập được một trật tự pháp lý cho các biển
và đại dương làm dễ dàng cho việc sử dụng công bằng và hiệu quả những tài
nguyên, việc bảo tồn những nguồn lợi sinh vật của các biển và các đại dương,
việc nghiên cứu, bảo vệ và gìn giữ môi trường biển. Việc thực hiện các điều
khoản trong Công ước sẽ góp phần thiết lập nên một trật tự kinh tế quốc tế
đúng đắn và công bằng, trong đó có tính đến các lợi ích và nhu cầu của toàn
thể loài người và đặc biệt là các lợi ích và nhu cầu riêng của các nước đang
phát triển, dù có biển hay không có biển.
Trong Công ước luật biển 1982 đã tuyên bố khu vực đáy biển và đại
dương, cũng như lòng đất dưới đáy các khu vực nằm ngoài giới hạn chung
của loài người và việc thăm dò, khai thác khu vực này sẽ được tiến hành vì lợi
ích của toàn thể loài người, không phụ thuộc vào vị trí địa lý của các quốc gia.
Quá trình pháp điển hóa và sự phát triển theo chiều hướng tiến hóa của
Luật biển được thực hiện trong Công ước sẽ góp phần tăng cường hòa bình, an
ninh, hợp tác và quan hệ hữu nghị giữa tất cả các dân tộc phù hợp với các nguyên
tắc công bằng và bình đẳng về quyền, và sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho tiến bộ về
kinh tế và xã hội của tất cả các dân tộc trên thế giới, phù hợp với các mục tiêu và
các nguyên tắc của Liên hợp quốc như đã được nêu trong Hiến chương;
Công ước Luật biển 1982 có vai trò chỉ đạo đối với vấn đề phân định
biển. Công ước là cơ sở pháp lý vững vàng và chắc chắn nhất khi các quốc gia

21



hữu quan thực hiện việc phân định biển của mình; Công ước tạo ra môi
trường ổn định, trật tự pháp lý trên biển giúp quá trình phân định biển tiến
hành thuận lợi; Công ước thiết lập một trật tự kinh tế quốc tế đúng đẵn và
công bằng vì lợi ích và nhu cầu của toàn thể loài người đặc biệt nhu cầu riêng
của các quốc gia có biển hay không có biển.
Như vậy, Công ước Luật biển 1982 có vai trò quan trọng việc phân
định biển, khi có tranh chấp thì cơ sở pháp lý đầu tiên mỗi quốc gia áp dụng
là Công ước.
1.4.2. Lịch sử ra đời của Công ước Luật biển 1982
Công ước Liên hợp quốc về Luật biển (tiếng Anh: United Nations
Convention on Law of the Sea - UNCLOS), cũng gọi là Công ước Luật biển
hay cũng được những người chống đối nó gọi là Hiệp ước Luật biển, là một
hiệp ước quốc tế được tạo ra trong Hội nghị về luật biển Liên hợp quốc lần
thứ 3 diễn ra từ năm 1973 cho đến 1982 với các chỉnh sửa đã được thực hiện
trong Hiệp ước thi hành năm 1994. Công ước Luật biển là một bộ các quy định
về sử dụng các đại dương của thế giới, chiếm 70% diện tích bề mặt trái đất.
Công ước đã được ký kết năm 1982 để thay thế cho 4 hiệp ước năm 1958 đã
hết hạn. UNCLOS có hiệu lực từ năm 1994, cho đến ngày 20 tháng 9 năm
2013, có 166 quốc gia và Cộng đồng châu Âu đã tham gia Công ước này [86].
Hoa Kỳ không tham gia vì nước này tuyên bố rằng hiệp ước này không có lợi
cho kinh tế và an ninh của Mỹ. Công ước quy định quyền và trách nhiệm của
các quốc gia trong việc sử dụng biển, thiết lập các hướng dẫn rõ ràng cho các
hoạt động kinh doanh, bảo vệ môi trường và cải thiện quản lý các tài nguyên
thiên nhiên đại dương. Các sự kiện mà thuật ngữ đề cập trong Công ước là:
Công ước về Luật biển Liên hợp quốc lần 1, Công ước về Luật biển Liên hợp
quốc lần 2, Công ước về Luật biển Liên hợp quốc lần 3. Công ước này là kết
quả của Công ước về Luật biển Liên hợp quốc lần 3 và cũng mang tên gọi
Công ước về Luật biển Liên hợp quốc.

22



Trong khi Đại hội đồng Liên hợp quốc nhận được các công cụ phê
chuẩn và gia nhập và Liên hợp quốc quy định ủng hộ các cuộc họp của các
quốc gia là thành viên của Công ước thì Liên hợp quốc không có vai trò hoạt
động trong việc thi hành Công ước này. Tuy nhiên các tổ chức liên chính phủ
tự trị như: Tổ chức Hàng hải Quốc tế, Ủy ban Cá voi Quốc tế và Cơ quan
Quản lý đáy biển quốc tế được Công ước này thành lập lại có một vai trò
trong việc thực thi Công ước.
LOS đã tỏ ra cần thiết do tính pháp lý yếu của ý niệm "quyền tự do về
biển" có từ thế kỷ 17: quyền của các quốc gia đã bị giới hạn trong một vành
đai lãnh hải mở rộng ra từ các bờ biển của quốc gia đó, thường là 3 hải lý,
theo quy định phát đạn pháo được thẩm phán người Hà Lan Cornelius
Bynkershoek phát triển. Tất cả các lãnh hải nằm ngoài biên giới quốc gia
được xem như lãnh hải quốc tế - tự do cho tất cả các quốc gia, nhưng không
thuộc quốc gia nào cả (nguyên tắc mare liberum được Grotius công bố).
Đầu thế kỷ 20, nhiều quốc gia biểu lộ ý muốn mở rộng quyền tuyên bố
chủ quyền quốc gia nằm đưa các nguồn tài nguyên khoáng sản, bảo vệ nguồn
cá và có các phương tiện để thực thi kiểm soát ô nhiễm. Hội Quốc Liên đã tổ
chức một hội nghị năm 1930 tại Hague để bàn về điều này, nhưng hội nghị
không đạt được thỏa thuận nào.
Một quốc gia phản ánh nguyên tắc luật bất thành văn quốc tế về quyền
một quốc gia để bảo vệ tài nguyên thiên nhiên của mình là Hoa Kỳ, khi năm
1945, Tổng thống Harry S. Truman đã mở rộng sự kiểm soát quốc gia trên các
tài nguyên thiên nhiên ở trong thềm lục địa của mình. Các quốc gia khác cũng
nhanh chóng ganh đua theo Mỹ. Giữa năm 1946 và 1950, Argentina, Chile,
Peru và Ecuador đều nới rộng chủ quyền của mình ra khoảng cách 200 hải lý
nhằm bao quát cả ngư trường trong hải lưu Humboldt của họ. Các quốc gia
khác đã nới rộng vùng lãnh hải đến 12 hải lý.


23


Đến năm 1967, chỉ có 25 quốc gia vẫn sử dụng giới hạn 3 hải lý, 66
quốc gia đã quy định giới hạn lãnh hải 12 hải lý và 8 quốc gia đưa ra giới hạn
200 hải lý. Để xem bảng các tuyên bố hàng hải được Liên hợp quốc biên tập
(xem [34]). Theo bảng này, đến ngày 27 tháng 7 năm 2007, chỉ có vài nước sử
dụng giới hạn 3 hải lý là (Jordan, Palau và Singapore). Giới hạn 3 hải lý này
cũng được sử dụng ở một số đảo của Úc, một khu vực của Belize, một vài eo
biển của Nhật Bản, một vài khu vực của Papua New Guinea, và một vài lãnh
thổ phục thuộc của Anh Quốc như Anguilla.
Hội nghị Liên hợp quốc về Luật Biển Lần I, năm 1956, Liên hợp quốc
tổ chức Hội nghị về Luật Biển đầu tiên (UNCLOS I) ở Geneva, Thụy Sĩ. Hội
nghị này đạt được bốn hiệp định ký kết năm 1958: Công ước về Lãnh Hải và
vùng tiếp giáp, có hiệu lực vào ngày 10/09/1964; Công ước về Thềm Lục Địa,
có hiệu lực vào ngày 10/06/1964; Công ước về Hải Phận Quốc Tế, có hiệu lực
vào ngày 30/09/1962; Công ước về Nghề Cá và Bảo tồn Tài nguyên sống ở
Hải phận quốc tế, có hiệu lực vào ngày 20/03/1966. Mặc dầu Hội nghị lần này
được cho là thành công, nhưng nó vẫn để ngỏ vấn đề quan trọng là bề rộng
của vùng lãnh hải.
Hội nghị Liên hợp quốc về Luật Biển Lần II, năm 1960, Liên hợp quốc
tổ chức Hội nghị về Luật Biển lần hai ("UNCLOS II"); tuy nhiên, hội nghị
sáu tuần ở Geneva không đạt được tiến triển nào mới. Nhìn chung, các nước
đang phát triển chỉ tham dự như là như là khách, liên minh, hoặc nước độc lập
của Mỹ hay Liên Xô mà không nói lên được tiếng nói của mình.
Hội nghị Liên hợp quốc về Luật Biển Lần III, năm 1967, vấn đề về các
tuyên bố khác nhau về lãnh hải đã được nêu ra tại Liên hợp quốc. Năm 1973,
Hội nghị Liên hợp quốc lần thứ ba về Luật biển (Third United Nations
Conference on the Law of the Sea) được tổ chức tại New York. Để cố gắng
giảm khả năng các nhóm quốc gia thống trị đàm phán, hội nghị dùng một quy

trình đồng thuận thay cho bỏ phiếu lấy đa số. Với hơn 160 nước tham gia, hội

24


nghị kéo dài đến năm 1982. Kết quả là một Công ước có hiệu lực từ ngày 16
tháng 11 năm 1994, một năm sau khi Guyana - nước thứ 60 ký Công ước.
Nội dung Công ước có một loạt điều khoản. Những điều khoản quan
trọng nhất quy định về việc thiết lập các giới hạn, giao thông đường biển,
trạng thái biển đảo, và các chế độ quá cảnh, các vùng đặc quyền kinh tế,
quyền tài phán thềm lục địa, khai khoáng lòng biển sâu, chính sách khai thác,
bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học, và dàn xếp các tranh chấp.
Công ước đặt ra giới hạn cho nhiều khu vực, tính từ một đường cơ sở
(baseline) được định nghĩa kỹ càng. (Thông thường, một đường biển cơ sở
chạy theo đường bờ biển khi thủy triều xuống, nhưng khi đường bờ biển bị
thụt sâu, có đảo ven bờ, hoặc đường bờ biển rất không ổn định, có thể sử
dụng các đường thẳng làm đường cơ sở). Có các khu vực dưới đây:
- Nội thủy bao phủ tất cả vùng biển và đường thủy ở bên trong đường
cơ sở (phía đất liền). Tại đây, quốc gia ven biển được tự do áp đặt luật, kiểm
soát việc sử dụng, và sử dụng mọi tài nguyên. Các tàu thuyền nước ngoài
không có quyền đi lại tự do trong các vùng nội thủy.
- Lãnh hải vùng nằm ngoài đường cơ sở có chiều ngang 12 hải lý. Tại
đây, quốc gia ven biển được quyền tự do đặt luật, kiểm soát việc sử dụng, và
sử dụng mọi tài nguyên. Các tàu thuyền nước ngoài được quyền "qua lại
không gây hại" mà không cần xin phép nước chủ. Đánh cá, làm ô nhiễm,
dùng vũ khí, và do thám không được xếp vào dạng "không gây hại". Nước
chủ cũng có thể tạm thời cấm việc "qua lại không gây hại" này tại một số
vùng trong lãnh hải của mình khi cần bảo vệ an ninh.
Vùng nước quần đảo: Công ước đưa ra định nghĩa về các quốc gia quần
đảo trong phần IV, cũng như định nghĩa về việc các quốc gia này có thể vẽ

đường biên giới lãnh thổ của mình như thế nào. Đường cơ sở được vẽ giữa
các điểm ngoài cùng nhất của các đảo ở ngoài cùng nhất, đảm bảo rằng các
điểm này phải đủ gần nhau một cách thích đáng. Mọi vùng nước bên trong

25


×