Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

Câu hỏi và trả lời môn triết, tư tưởng HCM, XH khoa học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.2 KB, 37 trang )

CÂU HỎI ÔN THI
MÔN: CHỦ NGHĨA XH KHOA HỌC
Câu 1: Trình bày quan niệm chung về giai cấp công nhân, nội dung sứ mệnh lịch sử
giai cấp công nhân? Vì sao nói ĐCS là nhân tố chủ quan cơ bản nhất giải quyết việc
thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân?
1. Khái niệm giai cấp công nhân
C.Mác và Ăng-ghen đã dùng nhiều thuật ngữ khác nhau để nói về giai cấp công nhân
như: giai cấp vô sản, lao động làm thuê ở thế kỉ XIX, giai cấp vô sản hiện đại, giai cấp
công nhân hiện đại… để biểu thị một khái niệm: giai cấp công nhân - con đẻ của nền
đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến, cho
phương thức sản xuất hiện đại.
Như vậy, giai cấp công nhân là giai cấp của những người lao động trong các lĩnh vực
công nghiệp, trực tiếp hoặc gián tiếp sản xuất ra của cải vật chất, có trình độ công nghệ
và kĩ thuật hiện đại, có tính xã hội cao; là giai cấp của những người mà sức lao động
của họ kết hợp với tư liệu sản xuất sẽ sản xuất ra giá trị thặng dư - nguồn gốc chủ yếu
cho sự giàu có của xã hội.
Theo C.Mác và Ăng-ghen giai cấp công nhân mang hai thuộc tính cơ bản sau đây:
-Về phương thức lao động, phương thức sản xuất: đó là người lao động trực tiếp hay
gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp ngày càng hiện đại và
xã hội hoá cao.
-Về vị trí trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa: đó là người lao động không có tư
liệu sản xuất, phải bán sức lao động cho nhà tư bản và bị nhà tư bản bóc lột về giá trị
thặng dư.
Hiện nay, thế giới đã bước vào thời đại phát triển vượt bậc của khoa học kĩ thuật.
Trong điều kiện ấy, giai cấp công nhân có trình độ văn hóa, tay nghề cao hơn, một số
công nhân đã có cả tư liệu sản xuất, cổ phiếu, đời sống một bộ phận được cải thiện...
Song những biểu hiện đó không làm thay đổi địa vị cơ bản của công nhân trong chủ
nghĩa tư bản. Họ vẫn là lực lượng chủ yếu làm ra của cải vật chất cho xã hội và lợi
nhuận cho các nhà tư bản, là lực lượng đối lập trực tiếp với giai cấp tư sản, bị bóc lột
nhiều nhất và khoảng cách về thu giữa họ với giới chủ ngày càng lớn. Công nhân trong
các nước tư bản phát triển được trí tuệ hóa, giảm lao động chân tay, có chút ít cổ phần


trong doanh nghiệp... thì họ càng bị ràng buộc, càng bị bóc lột mạnh mẽ và tinh vi hơn.
Theo cuốn "Lịch sử phát triển giai cấp vô sản" của Mác và Ăng-ghen thì:"những người
vô sản đầu tiên xuất hiện trong công nghiệp và trực tiếp do công nghiệp sản sinh ra".
Như vậy, giai cấp công nhân là sản phẩm của nền công nghiệp mới. Cùng với sự phát
triển của nền đại công nghiệp, các giai cấp khác đều dần dần bị phân hóa, suy tàn và
tiêu vong. Chỉ có giai cấp công nhân là lớn lên cùng sự phát triển của công nghiệp.
Vào thời kì đầu, công nhân chủ yếu là nông dân và những người bị áp bức, họ bắt buộc
phải làm việc trong các nhà máy, công xưởng để kiếm sống. Tiếp theo, cùng với sự
1


công phá của công nghiệp, giai cấp công nhân được bổ sung những tầng lớp xã hội
mới: trí thức, sinh viên, tiểu chủ...
Cơ cấu của giai cấp công nhân cũng rất đa dạng. Công nhân trình độ cao đã qua đào
tạo,hoạt động trong các lĩnh vực công nghiệp tiên tiến, hiện đại. Công nhân tay nghề
thấp chưa qua đào tạo hoặc chỉ được đào tạo ngắn hạn, làm các công việc phổ thông.
Giai cấp công nhân hiện nay không những trong lĩnh vực công nghiệp mà trong mọi
ngành nghề khác nhau: những người trực tiếp đứng máy, những chuyên gia nghiên
cứu, sáng chế, những người hoạt động ở các ngành dịch vụ như bưu điện, viễn thông,
giao thông vận tải, du lịch, ngân hàng, thông tin, những nhân viên thừa hành làm công
ăn lương phục vụ cho hệ thống quản lý của các công ty. Trong nền đại công ngiệp, giai
cấp công nhân đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, nắm toàn bộ tiến bộ khoa
học kỹ thuật ứng dụng vào sản xuất để sáng tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Đây là
giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để,có ý thức tổ chức và kỷ luật cao, có tinh thần
quốc tế. Những địa vị và đặc điểm ấy không thể có được ở giai cấp nào ngoài giai cấp
công nhân. Bởi vì nó là sản phẩm của nền đại công nghiệp.
2. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Khái niệm sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân: Là toàn bộ những chức năng cơ
bản, khách quan mà giai cấp công nhân có thể và cần phải thực hiện, để lãnh đạo cuộc
đấu tranh của giai cấp công nhân và các tầng lớp lao động khác, nhằm thủ tiêu xã hội

cũ, xây dựng xã hội mới, phù hợp quy luật phát triển lịch sử với lợi ích cơ bản của
mình.
Nói một cách khái quát, nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là xóa bỏ chế
độ tư bản chủ nghĩa, xóa bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc
hậu, xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh.
Ở nước ta, giai cấp công nhân trước hết phải làm cuộc cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là phải lãnh đạo cuộc cách mạng đó
thông qua đội tiền phong của mình là Đảng cộng sản Việt Nam.
3. Vì sao nói ĐCS là nhân tố chủ quan cơ bản nhất giải quyết việc thực hiện
thắng lợi sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân?
Để thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, Đảng cộng sản là nhân tố quyết
định trước tiên. Đảng cộng sản là nhân tố chủ quan đóng vai trò quyết định, trực tiếp
với việc thắng lợi sứ mệnh lịch sử. Chỉ khi nào giai cấp công nhân đạt tới trình độ tự
giác bằng việc tiếp thu lí luận khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin thì
phong trào cách mạng của nó mới thực sự là một phong trào chính trị. Sự trưởng thành
của giai cấp công nhân được đánh dấu bằng sự ra đời của Đảng Cộng sản.
Phải có chủ nghĩa Mác soi sáng, giai cấp công nhân mới đạt tới trình độ nhận thức lí
luận về vai trò lịch sử của mình. Sự thâm nhập của chủ nghĩa Mác vào phong trào công
nhân dẫn đến sự hình thành chính đảng của giai cấp công nhân. Chỉ khi nào giai cấp
công nhân tự tổ chức ra chính Đảng của mình để lãnh đạo thì cuộc đấu tranh mới có
thể đảm bảo giành được thắng lợi trọn vẹn.
2


Đảng phải là tổ chức trung thành nhất, giác ngộ nhất sứ mệnh lịch sử của giai cấp. Chỉ
có Đảng cộng sản lãnh đạo, giai cấp công nhân mới chuyển từ đấu………………..
Câu 2: Phân tích nhận thức của ĐCS Việt Nam về những đặc trưng cơ bản của xã
hội Xã hội Chủ nghĩa VN?
Qua 30 năm đổi mới, nhận thức của Đảng về chủ nghĩa xã hội đã có những thay

đổi căn bản phù hợp với thực tiễn lịch sử và phù hợp với quy luật khách quan.
Chính sự thay đổi đó ngày càng làm rõ hơn câu trả lời cho câu hỏi lớn về chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam: Xã hội xã hội chủ nghĩa là gì? Xã hội xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam bao gồm những đặc trưng nào?
Nếu như trước đổi mới (trước Đại hội VI của Đảng), mô hình về chủ nghĩa xã hội mà
Việt Nam xây dựng thực chất là mô hình chủ nghĩa xã hội “kiểu Xô Viết”. Điều này
phản ánh những hạn chế trong tư duy lý luận của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam. Từ Đại hội VI, Đảng ta xác định đổi mới toàn diện đất nước bắt đầu từ đổi mới
tư duy, nhận thức về lý luận Mácxít, trong đó có tư duy nhận thức về xã hội xã hội chủ
nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Từ đó cho đến nay, lý luận về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam luôn được bổ sung
phát triển cho phù hợp với đặc điểm thực tiễn từng thời kỳ của đất nước.
Đầu tiên về hệ mục tiêu của đổi mới - đặc trưng tổng quát của chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam:
Tại Đại hội VI (năm 1986), Đảng ta xác định mục tiêu của đổi mới: đổi mới vì dân
giàu, nước mạnh, xã hội văn minh. Tuy chỉ có ba mục tiêu nhưng đều là những mục
tiêu rất quan trọng và có mối quan hệ mật thiết để đưa đất nước phát triển hơn. Dân
giàu để nước mạnh, khi dân giàu nước mạnh thì sẽ có xã hội văn minh. Tuy chưa đầy
đủ nhưng ba mục tiêu này đã thể hiện được tầm tư duy chiến lược về một xã hội Việt
Nam trong thời kỳ đổi mới. suốt các kỳ Đại hội sau này Đảng ta vẫn giữ vững ba mục
tiêu trên. Đặc biệt là mục tiêu dân giàu gắn liền với nước mạnh luôn ở vị trí hàng đầu.
Điểu đó thể hiện sự giàu mạnh cả về vật chất lẫn tinh thần mà người dân được hưởng
thụ. Đây cũng là khởi đầu cho một tư duy mới về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam - chủ
nghĩa xã hội dựa trên sự giàu có chứ không phải chia đều sự khó khăn. (điều này cũng
khác xa với tư duy giáo điều một thời dị ứng với “giàu có”, coi giàu có là chủ nghĩa tư
bản).
Những tư duy trên của Đại hội VI có sự đột phá và giá trị định hướng rất quan trọng
đối với sự phát triển của đất nước, mà sâu xa là phát triển tiềm lực sáng tạo của Nhân
dân, hướng mục đích của đổi mới vào phục vụ quyền lợi của Nhân dân.
Đến Đại hội VII, Đảng ta đã bổ sung vào hệ mục tiêu một mục tiêu quan trọng khác,

đó là công bằng: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh” Công bằng là
một giá trị xã hội hết sức tốt đẹp. Đó cũng chính là một thuộc tính bản chất của chủ
nghĩa xã hội mà chúng ta hướng tới. Nó cũng là động lực to lớn thúc đẩy xã hội phát
triển.
3


Tại Đại hội IX (năm 2001), Đảng ta bổ sung một mục tiêu đặc biệt quan trọng là dân
chủ: “Dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”. Vấn đề dân chủ đặt trong
hệ mục tiêu của đất nước là một bước phát triển quan trọng về nhận thức lý luận của
Đảng về chủ nghĩa xã hội. Dân chủ vừa là mục tiêu vừa là động lực của đổi mới, của
phát triển và chủ nghĩa xã hội.
Có thể nói, từ Đại hội IX, về cơ bản, Đảng ta đã nhận thức đầy đủ về hệ giá trị mục
tiêu của đổi mới và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Đến Đại hội X, khi tổng kết 20 năm đổi mới, Đảng ta xác định đặc trưng tổng quát của
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam: “xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước và Nhân
dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”
Đại hội XI năm 2011, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), hệ mục tiêu đổi mới vẫn được coi là đặc
trưng tổng quát, là đặc trưng đầu tiên trong các đặc trưng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Song có sự điều chỉnh về trật tự các mục tiêu: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà Nhân dân
ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Như
vậy, Đảng ta đặt đặc trưng “dân chủ” trước đặc trưng “công bằng, văn minh”.
Thứ hai về các đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam - những phát triển
nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội:
Tại Đại hội VII (1991), Đảng ta đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong đó, lần đầu tiên Đảng ta xác định 6 đặc trưng của
xã hội xã hội chủ nghĩa mà Nhân dân ta xây dựng, là một xã hội: do Nhân dân lao
động làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế
độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân

tộc; con người được giải phóng hỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực hưởng
theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện
cá nhân; các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ; có
quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Sau Đại hội VII, các kỳ Đại hội tiếp theo cho đến Đại hội XI, trên cơ sở thực tiễn đất
nước đổi mới và phát triển, Đảng ta đã từng bước có sự bổ sung, phát triển về các đặc
trưng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cho phù hợp. Đặc biệt tại Đại hội X và XI đã bổ
sung và phát triển thành 8 đặc trưng. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta xác định: “Xã hội xã
hội chủ nghĩa mà Nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh; do Nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực
lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc, có điều kiện
phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam bình đẳng, đoàn
kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu
nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”.
4


Đặc trưng thứ nhất: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đây là đặc
trưng hoàn toàn mới bổ sung so với Cương lĩnh 1991, tiếp thu tinh thần Đại hội X
trong đó có chú ý đến trật tự các mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Đặc trưng thứ hai: Do nhân dân làm chủ. Đặc trưng này kế thừa, điều chỉnh so với
Cương lĩnh 1991 để mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam: dân chủ không chỉ
cho nhân dân lao động mà toàn thể Nhân dân.
Đặc trưng thứ ba: có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp. Đây là đặc trưng có nhiều sự sửa đổi, bổ sung nhất
cho phù hợp với sự phát triển kinh tế của đất nước. Nó thể hiện cách nhìn nhận mới về
chế độ sở hữu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Đặc trưng thứ tư: Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đây là đặc trưng
duy nhất không có sự sửa đổ bổ sung suốt từ Đại hội VII đến nay. Nó thể hiện tầm khái
quát, chiến lược của đặc trưng này.
Đặc trưng thứ năm: Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện
phát triển toàn diện. Đặc trưng này có sự sửa đổi về cách diễn đạt cho ngắn gọn, rõ
ràng hơn.
Đặc trưng thứ sáu: Các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam bình đẳng, đoàn kết,
tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển. Đặc trưng này kế thừa nội dung trong
Cương lĩnh 1991, song có sự sửa đổi: không diễn đạt “các dân tộc trong nước” mà thay
bằng “các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam”, bổ sung cụm từ “tôn trọng” để xác định
phong phú, rộng hơn nội dung bao trùm của chính sách dân tộc, giải quyết đúng đắn
quan hệ tộc người ở Việt Nam.
Đặc trưng thứ bảy: Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của Nhân dân, do Nhân
dân, vì Nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Đây là đặc trưng mới so với Cương lĩnh
1991. Đặc trưng này thể hiện rõ bản chất của Nhà nước Việt Nam và mối quan hệ giữa
Đảng, Nhà nước và Nhân dân.
Đặc trưng thứ tám: Có mối quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên
thế giới. Đặc trưng này kế thừa và sửa đổi so với Cương lĩnh 1991: diễn đạt “có quan
hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới” thay cho “có quan hệ hữu nghị và
hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới” để làm rõ hơn việc hội nhập quốc tế
của Việt Nam hiện nay.
Đại hội XII, về cơ bản các đặc trưng chủ nghĩa xã hội ở nước ta không có sự sửa đổi,
bổ sung lớn.
Như vậy, những nhận thức, lý luận về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam của Đảng ta đã có
nhiều thay đổi, phát triển trong 30 năm đổi mới. Những nhận thức, lý luận đó của
Đảng ta ngày càng đầy đủ, phù hợp với quy luật khách quan và tình hình thực tiễn thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Từ những nhận thức đúng đắn, đầy đủ đó
góp phần làm cho con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam càng ngày càng rõ nét
5



và trả lời cho câu hỏi: Xã hội chủ nghĩa là gì? Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam có những
đặc trưng nào? Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam như thế nào, trong điều kiện
quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, trong bối cảnh toàn cầu
hóa và hội nhập quốc tế?

MÔN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Câu 1: Phân tích lượng giá trị hàng hóa và những nhân tố ảnh hưởng đến lượng
giá trị hàng hóa?
Giá trị hàng hóa được xét cả về mặt chất và mặt lượng:
Chất giá trị hàng hóa là lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong
hàng hóa. Vậy, lượng giá trị của hàng hóa là lượng lao động hao phí để sản xuất ra
hàng hóa đó quyểt định.
a) Thước đo lượng giá trị của hàng hóa.
Đo lượng lao động hao phí để tạo ra hàng hóa bằng thước đo thời gian như: một giờ
lao động, một ngày lao động, v.v.. Do đó, lượng giá trị của hàng hóa cũng do thời gian
lao động quyết định. Trong thực tế, một loại hàng hóa đưa ra thị trường là do rất nhiều
người sản xuất ra, nhưng mỗi người sản xuất do điều kiện sản xuất, trình độ tay nghề là
không giống nhau, nên thời gian lao động cá biệt để sản xuất ra hàng hóa của họ khác
nhau. Thời gian lao động cá biệt quyết định lượng giá trị cả biệt của hàng hóa mà từng
người sản xuất ra. Vậy phải chăng lao động cá biệt nào càng lười biếng, vụng về, phải
dùng nhiều thời gian hơn để làm ra hàng hóa, thì hàng hóa đó càng có nhiều giá trị?
C.Mác viết: "Chỉ có lượng lao động xã hội cần thiết, hay thời gian lao động xã hội cần
thiết để sản xuất ra một giá trị sử dụng, mới quyết định đại lượng giá trị của giá trị sử
dụng ấy".
Như vậy, thước đo lượng giá trị của hàng hóa được tính bằng thời gian lao động xã hội
cần thiết.
Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian cần thiết để sản xuất ra một hàng hóa
trong điều kiện bình thường của xã hội, tức là với một trình độ kỹ thuật trung bình,
trình độ khéo léo trung bình và cường độ lao động trung bình so với hoàn cảnh xã

hội nhất định.
Trong một xã hội có hàng triệu người sản xuất hàng hóa, với thời gian lao động cá biệt
hết sức khác biệt nhau, thì thông thường thời gian lao động xã hội cần thiết gần sát với
thời gian lao động cá biệt của những người sản xuất và cung cấp đại bộ phận một loại
hàng hóa nào đó trên thị trường.
b) Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa
Do thời gian lao động xã hội cần thiết luôn thay đổi, nên lượng giá trị của hàng hóa
cũng là một đại lượng không cố định. Sự thay đổi lượng giá trị của hàng hóa tùy thuộc
vào những nhân tố:
Thứ nhất, năng suất lao động.
6


Năng suất lao động là năng lực sản xuất của lao động, được tính bằng số lượng sản
phấm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc số lượng thời gian cần thiết đế sản
xuất ra một đơn vị sản phẩm.
Có hai loại năng suất lao động: năng suất lao động cá biệt và năng suất lao động xã
hội. Trên thị trường, hàng hóa được trao đổi không phải theo giá trị cá biệt mà là giá trị
xã hội. Vì vậy, năng suất lao động có ảnh hưởng đến giá trị xã hội của hàng hóa chính
là năng suất lao động xã hội.
Năng suất lao động xã hội càng tăng, thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra
hàng hóa càng giảm, lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm càng ít. Ngược lại, năng
suất lao dộng xã hội càng giảm, thì thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra
hàng hóa càng tăng và lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm càng nhiều. Lượng giá trị
của một đơn vị hàng hóa tỷ lệ thuận với số lượng lao động kết tinh và tỷ lệ nghịch với
năng suất lao động xã hội. Như vậy, muốn giảm giá trị của mỗi đơn vị hàng hóa xuống,
thì ta phải tăng năng suất lao động xã hội.
Như vậy, lượng giá trị của hàng hóa được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết,
giản đơn trung bình.
c) Cấu thành lượng giá trị hàng hóa

Để sản xuất ra hàng hóa cần phải chi phí lao động, bao gồm lao động quá khứ tồn tại
trong các yếu tố tư liệu sản xuất như máy móc, công cụ, nguyên vật liệu và lao động
sống hao phí trong quá trình chế biến tư liệu sản xuất thành sản phẩm mới. Trong quá
trình sản xuất, lao động cụ thể của người sản xuất có vai trò bảo tồn và di chuyển giá
trị của tư liệu sản xuất vào sản phẩm, đây là bộ phận giá trị cũ trong sản phẩm (ký hiệu
là c), còn lao động trừu tượng (biểu hiện ở sự hao phí lao động sống trong quá trình
sản xuất ra sản phẩm) có vai trò làm tăng thêm giá trị cho sản phẩm, đây là bộ phận giá
trị mới trong sản phẩm (ký hiệu là V + m).Vì vậy, cấu thành lượng giá trị hàng hóa bao
gồm hai bộ phận: giá trị cũ tái hiện và giá trị mới.
Câu 2: Phân tích quy luật giá trị thặng dư, vận dụng giá trị thặng dư vào quản lý
kinh tế ở nước ta?
Các Mác – nhà kinh tế chính trị học, nhà Triết học thiên tài của Đức đã để lại cho nhân
loại biết bao học thuyết mà đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Học thuyết giá trị và học
thuyết giá trị thặng dư là hai học thuyết vĩ đại của Mác vào thế kỷ thứ XIX. Việc
nghiên cứu nội dung hai học thuyết này có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc trong
qúa trình phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở VN.
Giá trị thặng dư là bộ phận giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động công
nhân tạo ra và bị nhà tư bản chiếm đoạt. Sản xuất giá trị thặng dư (hay lợi nhuận) là
mục tiêu và động lực hoạt động tuyệt đối của từng nhà tư bản và cả nền sản xuất tư bản
chủ nghĩa, điều này có nghĩa tuyệt đối phải thu được hoặc sẽ được lợi nhuận, ít nhất là
lợi nhuận bình quân thì nhà tư bản mới đầu tư, mới duy trì sản xuất, kinh doanh.
Bất cứ trong xã nào sức lao động cũng là điều kiện cơ bản của sản xuất, nhưng
chỉ đến chủ nghĩa tư bản sức lao động mới trở thành hàng hóa. Để sức lao động trở
thành hàng hóa thì có 2 điều kiện là người lao động phải tự do về thân thể và người lao
động không có khả năng bán những sản phẩm do sức lao động của họ kết tinh.
7


Cũng giống như hàng hóa thông thường, hàng hóa sức lao động cũng có 2 thuộc
tính đó là giá trị của hàng hóa sức lao động và giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao

động.
Giá trị của hàng hóa sức lao động do số lượng lao động xã hội cần thiết để sản
xuất và tái sản xuất ra nó quyết định. Sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động được thể
hiện thông qua tiêu dùng cá nhân của công nhân. Bỡi vậy giá trị sức lao động bàng giá
trị toàn bộ giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết để sản xuất ra và tái sản xuất sức lao động
để duy trì đời sống công nhân làm thuê. Là thời gian lao động xã hội cần thiết để sản
xuất ra sức lao động được quy thành thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất
những tư liệu sinh hoạt và dịch vụ để duy trì cuộc sống của người công nhân. Giá trị
hàng hóa sức lao động bao gồm những bộ phận hợp thành sau đây: giá trị tư liệu sinh
hoạt và dịch vụ cần thiết nuôi sống người công nhân; giá trị tư liệu sinh hoạt và dịch
cần thiết nuôi sống gia đình người công nhân; chi phí đào tạo. Khi xã hội phát triển, thì
nhu cầu về lao động chất lượng cao tăng lên, đồng thời nhu cầu tiêu dùng, dịch vụ của
công nhân cũng tăng lên theo sự phát triển của LLSX XH, do đó giá trị hàng hóa sức
lao động có xu hướng tăng lên. Mặt khác do năng suất lao động tăng lên, giá trị các tư
liệu sinh hoạt và dịch vụ giảm xuống, vì vậy giá trị của hành hóa sức lao động chịu sự
tác động của hai xu hướng đối lập này. Là hàng hóa đặc biệt, giá trị hàng hóa sức lao
động khác hàng hóa thông thường ở chỗ nó mang yếu tố tinh thần và lịch sử
Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động thể hiện ở việc đáp ứng nhu cầu
người mua, do đó công nhân phụ thuộc vào nhà tư bản. Trong quá trình lao động để
sản xuất hàng hóa nào đó, sức lao động đã tạo ra một lượng giá trị mới (v+m) lớn hơn
giá trị của bản thân nó, phần dôi ra ngoài giá trị sức lao động chính là giá trị thặng dư
Để thu được giá trị thặng dư có hai phương pháp chủ yếu: phương pháp sản xuất
giá trị thặng dư tuyệt đối và phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối.
Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài ngày lao động
vượt quá thời gian lao động tất yếu trong khi năng suất lao động, giá trị sức lao động
và thời gian lao động tất yếu không thay đổi. Ngày lao động kéo dài trong khi thời gian
lao động cần thiết không thay đổi, do đó thời gian lao động thặng dư tăng lên. Sản xuất
giá trị thặng dư tuyệt đối là cơ sở chung của chế độ tư bản chủ nghĩa. Phương pháp này
được áp dụng phổ biến ở giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, khi lao động còn ở trình
độ thủ công và năng suất lao động còn thấp.

Nhà tư bản tìm mọi thủ đoạn để kéo dài ngày công lao động. Nhưng mặt khác do
giới hạn tự nhiên sức lao động của con người; do đấu tranh của công nhân đòi rút ngắn
ngày lao động, cho nên ngày lao động không thể kéo dài vô hạn. Tuy nhiên cũng
không thể rút ngắn bằng thời gian lao động tất yếu. Một hình thức khác của sản xuất
giá trị thặng dư tuyệt đối là tăng cường độ lao động. Vì tăng cường độ lao động cũng
như kéo dài thời gian lao động trong ngày, trong khi thời gian lao động cần thiết không
thay đổi.
Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được do rút ngắn thời gian lao
động tất yếu để kéo dài thời gian lao động thặng dư trong khi độ dài ngày lao động
không thay đổi, trước hết ở các ngành sản xuất ra vật phẩm tiêu dùng, sẽ làm giá trị
sức lao động giảm xuống; khi độ dài ngày lao động không thay đổi, thời gian lao động
cần thiết sẽ giảm sẽ làm tăng thời gian lao động thặng dư-thời gian để sản xuất ra giá
trị thặng dư tương đối cho nhà tư bản.
8


Để cạnh tranh, thu được nhiều giá trị thặng dư, các nhà tư bản áp dụng tiến bộ
kỹ thuật, hoàn thiện phương pháp quản lý kinh tế, nâng cao năng suất lao động. Kết
quả là giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị xã hội. Như vậy hàng hoá bán sẽ thu
được một số giá trị thặng dư trội hơn so với nhà tư bản khác.
Phần giá trị thặng dư thu được trội hơn được gọi là giá trị thặng dư siêu ngạch.
Nhưng xét về toàn bộ xã hội tư bản, giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tồn tại
thường xuyên. Vì vậy, giá trị thặng dư siêu ngạch là một động lực mạnh nhất thúc đẩy
các nhà tư bản ra sức cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động. Giá trị thặng dư siêu
ngạch là giá trị thặng dư thu được do tăng năng suất lao động của tư bản cá biệt, làm
cho hao phí lao động cá biệt thấp hơn hao phí lao động xã hội
Giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối đều dựa trên cơ sở tăng
năng suất lao động. Cái khác nhau là ở chỗ giá trị thặng dư tương đối thì dựa trên cơ sở
tăng năng suất lao động xã hội; còn giá trị thặng dư siêu ngạch thì dựa trên cơ sở tăng
năng suất lao động cá biệt.

Quy luật giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản bởi vì
nó quy định bản chất của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, chi phối mọi mặt đời sống
kinh tế của xã hội tư bản. Không có sản xuất giá trị thặng dư thì không có chủ nghĩa tư
bản. Theo C. Mác, chế tạo ra giá trị thặng dư, đó là quy luật tuyệt đối của phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa. Ở đâu có sản xuất giá trị thặng dư thì ở đó có chủ nghĩa tư
bản, ngược lại, ở đâu có chủ nghĩa tư bản thì ở đó có sản xuất giá trị thặng dư. Chính vì
vậy, Lênin gọi quy luật giá trị thặng dư là quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư
bản.
Nội dung của quy luật này là sản xuất nhiều và ngày càng nhiều hơn giá trị
thặng dư bằng cách tăng cường bóc lột công nhân làm thuê. Sản xuất nhiều và ngày
càng nhiều giá trị thặng dư là mục đích, là động lực thường xuyên của nền sản xuất tư
bản chủ nghĩa, là nhân tố đảm bảo sự tồn tại, thúc đẩy sự vận động, phát triển của chủ
nghĩa tư bản; đồng thời nó làm cho mọi mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản ngày càng sâu
sắc, đưa đến sự thay thế tất yếu chủ nghĩa tư bản bằng một xã hội cao hơn.
Quy luật giá trị thặng dư là nguồn gốc của mâu thuẫn cơ bản của xã hội tư bản:
mâu thuẫn giữa tư bản và lao động, mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp công
nhân. Quy luật giá trị thặng dư đứng đằng sau cạnh tranh tư bản chủ nghĩa. Với mục
đích là thu được ngày càng nhiều hơn giá trị thặng dư, các nhà tư bản cạnh tranh với
nhau, tiêu diệt lẫn nhau để có được quy mô giá trị thặng dư lớn hơn, tỉ suất giá trị
thặng dư cao hơn.
Để sản xuất ngày càng nhiều giá trị thặng dư, các nhà tư bản ra sức áp dụng tiến
bộ khoa học kỹ thuật, cải tiến sản xuất. Từ đó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển
mạnh mẽ, nền sản xuất có tính chất xã hội hoá ngày càng cao, mâu thuẫn giữa tính chất
xã hội của sản xuất với hình thức chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa ngày càng gay
gắt.
Các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư là lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận; lợi
nhuận của tư bản thương nghiệp; lợi tức của tư bản cho vay và địa tô tư bản chủ nghĩa
Lợi nhuận là hình thái chuyển hóa của giá trị thặng dư do sức lao động sống tạo
ra được quan niệm là do toàn bộ tư bản ứng trước sinh ra. Còn tỉ suất lợi nhuận là tỉ lệ
phần trăm giữa giá trị thặng dư với chi phí sản xuất TBCN. Lợi nhận và tỉ suất lợi

nhuận là động lực kinh tế của kinh tế tị trường
9


Lợi nhuận của tư bản thương nghiệp là một bộ phận giá trị thặng dư do công
nhân trong lĩnh vực công nghiệp tạo ra mà nhà tư bản công nghiệp nhường lại cho nhà
tư bản thương nghiệp vì đã thay nhà tư bản công nghiệp phụ trách khâu lưu thông hàng
hóa
Lợi tức là một phần của lợi nhuận mà nhà tư bản hoạt động thu được nhờ sử
dụng tư bản đi vay phải trả cho nhà tư bản cho vay
Địa tô là một bộ phận lợi nhuận siêu ngạch ngoài lợi nhuận bình quân do công
nhân nông nghiệp tạo ra mà nhà tư bản thuê đất phải nộp cho người sở hữu ruộng đất.
Địa tô biểu hiện dười hai hình thức là địa tô chênh lệch và địa tô tuyệt đối.
Vận dụng giá trị thặng dư vào quản lý kinh tế ở nước ta hiện nay.
Một là, trong thời kỳ quá độ nền kinh tế ở nước ta, trong một chừng mực nào
đó, quan hệ bóc lột chưa thể bị xóa bỏ ngay, sạch trơn theo cách tiếp cận giáo điều và
xơ cứng cũ. Càng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần chúng ta càng thấy rõ, chừng
nào quan hệ bóc lột còn có tác dụng giải phóng sức sản xuất và thúc đẩy lực lượng sản
xuất phát triển, thì chừng đó chúng ta còn phải chấp nhận sự hiện diện của nó.
Hai là, trong thực tế nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta hiện nay, mọi phương án tìm cách định lượng rành mạch, máy móc và xơ cứng về
mức độ bóc lột trong việc hoạch định các chủ trương chính sách, cũng như có thái độ
phân biệt đối xử với tầng lớp doanh nhân mới đều xa rời thực tế và không thể thực hiện
được. Điều có sức thuyết phục hơn cả hiện nay là quan hệ phân phối phải được thể chế
hóa bằng luật, chẳng những góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, lấy luật làm công cụ và cơ sở để điều chỉnh các hành vi xã hội nói chung, mà
còn cả hành vi bóc lột nói riêng. Trong nhận thức, quan điểm chung nên coi đó cũng
chính là mức độ bóc lột được xã hội chấp nhận, tức là làm giàu hợp pháp. Trong quản
lý xã hội thì phải kiểm soát chặt chẽ thu nhập cá nhân, thu nhập doanh nghiệp để
chống thất thu thuế, bảo đảm sự công bằng trong phân phối và điều tiết thu nhập xã

hội.
Ba là, phải bảo vệ những quyền chính đáng của cả người lao động lẫn giới chủ
sử dụng lao động bằng luật và bằng các chế tài thật cụ thể mới bảo đảm công khai,
minh bạch và bền vững. Những mâu thuẫn về lợi ích trong quá trình sử dụng lao động
là một thực tế, việc phân xử các mâu thuẫn ấy như thế nào để tránh những xung đột
không cần thiết cũng lại là một yêu cầu cấp thiết hiện nay, thể hiện trong bản chất của
chế độ mới. Bảo vệ được những quyền lợi chính đáng, của tất cả các bên trong quan hệ
lao động là một bảo đảm cho việc vận dụng một cách hợp lý quan hệ bóc lột trong điều
kiện hiện nay, đồng thời cũng là những đóng góp cơ bản nhất cho cả quá trình hoàn
thiện và xây dựng mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Tóm lại, Sự thống nhất giữa tính khoa học và tính cách mạng; là 1 cuộc cách
mạng trong kinh tế chính trị vì nó dựa trên phương pháp biện chứng duy vật, công khai
biểu hiện lập trường của giai cấp công nhân C.Máciến lên làm nên chiến thắng Điện Biên phủ chấn động địa
cầu, mở đầu quá trình sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm vi toàn thế giới.
Hòa bình được lập lại nhưng đất nước bị chia cắt hai miền với hai chế độ chính trị khác
nhau. Nắm vững bản chất của chủ nghĩa đế quốc, HCM cùng Trung ương Đảng đã sớm
xá định kẻ thù chính của cách mạng VN trong giai đoạn mới là chủ nghĩa đế quốc Mỹ;
25


đồng thời vạch ra đường lối cùng một lúc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược đó là:
Miền nam tiếp tục thực hiện cách mạng dân tộc, dân chủ- Miền Bắc đã được hoàn toàn
giải phóng, từng bước tiến dần lên chủ nghĩa xã hội. Lần đầu tiên trong lịch sử, một
nước thuộc địa, nửa phong kiến, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã thực hiện quá
độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản. Trong điều kiện ấy TTHCM tiếp tục phát
triển hoàn thiện.
Trước thất bại của chiến tranh đặc biệt năm 1965, đế quốc Mỹ chuyển sang chiến
lược chiến tranh cục bộ. Chúng ào ạt đưa quân Mỹ và chư hầu vào Miền Nam, tăng
cường chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân trên Miền Bắc hòng khuất
phục quân và dân ta. Trước hành động leo thang xâm lược hết sức tàn bạo của đế quốc

Mỹ, HCM khẳng định: “ Chúng có thể đưa 50 vạn quân, 1 triệu quân hoặc nhiều hơn
nữa để đẩy mạnh chiến tranh xâm lược ở Miền Nam VN. Chúng có thể dùng hàng
nghìn máy, tăng cường đánh phá Miền Bắc. Nhưng chúng quyết không thể lay chuyển
được chí khí sắt đá, quyết tâm chống Mỹ cứu nước của nhân dân VN anh hùng. Chiến
tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và
một số thành phố, xí nghiệp có thể bị phá hoại, song nhân dân VN quyết không sợ!
Không có gì quý hơn độc lập tự do. Đến ngày thắng lợi nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất
nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”. Hưởng ứng lời kêu gọi của Người, đồng bào và
chiến sĩ cả nước phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng giữ vững lòng tin
tưởng tuyệt đối với Người và Trung ương Đảng nêu cao quyết tâm đánh Mỹ và thắng
Mỹ.
Trước khi qua đời, Chủ Tịch HCMM đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân ta bản di chúc thiêng liêng. Trong di chúc, Người đã nói lên niềm tin tất thắng
vào sự nghiệp chống Mỹ cứu nước; tổng kết sâu sắc những bài học đấu tranh và thắng
lợi của cách mạng Việt Nam, đồng thời vạch ra những phương châm lớn để xây dựng
lại đất nước sau chiến tranh nhằm thực hiện mục tiêu: “ Xây dựng một nước VN hòa
bình, thống nhất, độc lập,dân chủ và giàu mạnh,và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp
cách mạng thế giới”.
Tóm lại: Di chúc của Bác là những lời căn dặn cuối cùng đầy nhiệt huyết, thắm
đượm tình người của Chủ tịch HCM. Tư tưởng HCM hình thành, phát triển cùng chiều
với quá trình phát triển xã hội VN và thời đại. Khi đã phát triển hoàn chinhrveef cơ
bản,TTHCM trỏ thành cơ sở lý luận và thực tiễn cho đường lối chính trị đúng đắn của
26


cách mạng VN. Chính vì vậy TTHCM là một di sanrtuw tưởng tinh thần vô cùng quý
báu của toàn thể dân tộc VN và toàn thể nhân loại./
Câu 3: Phân tích quan niệm HCM về Nhà nước pháp quyền và ý nghĩa của
quan niệm đó đối với xây dựng hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN
Nhà nước pháp quyền là một trong những giá trị xã hội quý báu được tích lũy và

phát triển trong Lịch sử tư tưởng nhân loại. Tư tưởng về nhà nước pháp quyền đã xuất
hiện từ rất sớm, trong tư tưởng chính trị- Pháp lý thời cổ đại đã chứa đựng nhiều nhân
tố của nhà nước pháp quyền. Đến thời kỳ cách mạng Dân chủ tư sản, những tư tưởng
quý báu đó đã được kế thừa, phát triển để trở thành học thuyết về nhà nước pháp
quyền. Học thuyết đó đã được áp dụng ở các mức độ, phạm vi khác nhau ở nhiều nước
tư bản. Ngày nay, ở Việt Nam học thuyết đó đến lượt mình lại tiếp tục được bổ sung,
phát triển cho phù hợp với những thay đổi sâu sắc của xã hội hiện đại.
Lịch sử xã hội loài người từ trước đến nay có bốn kiểu nhà nước có liên hệ mật
thiết với pháp quyền là nô lệ, phong kiến, tư sản và vô sản. Nhà nước pháp quyền mà
chúng ta quan niệm không thải là một kiểu nhà nước gắn liền với một gia cấp mà nhà
nước chủ nô, phong kiến, tư sản, xã hội chủ nghĩa, mà là một hình thức tổ chức nhà
nước, một trình độ phát triển của nhà nước về phương diện tổ chức quyền lực để bảo
đảm Hiến pháp và pháp luật giữ địa vị tối cao. Nói một cách khái quát là, hệ thống các
tư tưởng, quan điểm đề cao phát luật, pháp chế trong tổ chức, hoạt động của bộ máy
nhà nước và trong đời sống xã hội. Nhà nước pháp quyền là nhà nước điều hành, quản
lý xã hội bằng pháp luật và phải đảm bảo mọi người dân đều được phát luật bảo vệ.
Ở Việt Nam, thuật ngữ nhà nước pháp quyền mới xuất hiện trong các văn kiện
chính thức của Đảng và Nhà nước và được nhắc đến nhiều ở Việt Nam từ sau công
cuộc đổi mới, song không phải đến lúc đó ý tưởng về nhà nước pháp quyền mới bắt
đầu xuất hiện ở trong nước ta. Thực tế, quan điểm về một nhà nước có những dấu hiệu
của nhà nước pháp quyền đã được thể hiện rõ trong tư tưởng của Hồ Chí Minh. Tư
tưởng HCM về xây dựng nhà nước dân chủ, trong đó pháp quyền được đề cao đã xuất
hiện sớm.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, tư tưởng xây dựng nhà nước pháp quyền
của HCM thể hiện ở một số nội dung cơ bản sau:
Xây dựng nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ
Tư tưởng về một nhà nước pháp quyền có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ là giá trị đặc
sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng đó thể hiện ở một số nội dung chính sau
đây:
Xây dựng một nhà nước hợp pháp, hợp hiến

- Ngay sau khi giành chính quyền, Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ lâm thời
đọc Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố với quốc dân đồng bào và với thế giới khai sinh nhà
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Nhờ đó, Chính phủ lâm thời có địa vị hợp pháp
và Tuyên ngôn độc lập trở thành một văn bản pháp lý nổi tiếng.
- Sau đó, Người bắt tay xây dựng hiến pháp dân chủ, tổ chức tổng tuyển cử với
chế độ phổ thông đầu phiếu, thành lập Uỷ ban dự thảo Hiến pháp của nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà. Cuối năm 1946, Hồ Chí Minh được Quốc hội nhất trí bầu làm Chủ
tịch Chính phủ liên hiệp kháng chiến. Đây là Chính phủ hợp hiến đầu tiên do nhân dân
bầu ra, có đầy đủ tư cách và hiệu lực trong việc giải quyết các vấn đề đối nội và đối
27


ngoại. (vì vậy, quân đội Tưởng và đại diện Đồng minh khi vào Việt Nam đã phải làm
việc với Chính phủ Hồ Chí Minh).
Hoạt động quản lý nhà nước bằng Hiến pháp, pháp luật và chú trọng đưa pháp
luật vào cuộc sống
- Theo Hồ Chí Minh, nhà nước dân chủ Việt Nam không thể thiếu pháp luật. Vì
pháp luật là bà đỡ cho dân chủ. Dân chủ đích thực bao giờ cũng đi liền với kỷ cương,
phép nước. Mọi quyền dân chủ của người dân phải được thể chế hoá bằng hiến pháp và
pháp luật; và ngược lại, hệ thống pháp luật phải đảm bảo cho quyền tự do, dân chủ của
người dân được tôn trọng trong thực tế.
- Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng một nền pháp chế xã hội chủ
nghĩa đảm bảo được việc thực thi quyền lực của nhân dân.
+ Năm 1919, Người đã khẳng định vai trò của pháp luật là: Trăm điều phải có
thần linh pháp quyền.
+ Người có công lớn trong sự nghiệp lập hiến, lập pháp của nước ta. Người luôn
chăm lo hoàn thiện hệ thống pháp luật. Ở cương vị Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh đã hai
lần đứng đầu Uỷ ban soạn thảo Hiến pháp (Hiến pháp 1946 và 1959), đã ký công bố 16
đạo luật, 613 sắc lệnh và nhiều văn bản dưới luật khác. (Theo tài liệu của Viện nghiên
cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp, tháng 3 - 1993).

- Phải đưa pháp luật vào đời sống một cách sâu rộng.
Theo Người, công bố luật mới chỉ là bước đầu, phải tuyên truyền giáo dục lâu dài
mới thực hiện luật được tốt. Những biện pháp cơ bản cần làm là:
+ Cán bộ nhà nước phải là gương về tuân thủ pháp luật (trước hết là cán bộ trong
ngành tư pháp và hành pháp).
+ Coi trọng nâng cao dân trí, bồi dưỡng ý thức làm chủ, phát triển văn hoá chính
trị và tính tích cực công dân; khuyến khích nhân dân tham gia vào công việc của nhà
nước, phê bình, giám sát công việc của nhà nước, khắc phục mọi thứ dân chủ hình
thức, “làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của
mình, dám nói, dám làm”.
+ Pháp luật phải xét xử công bằng, nghiêm minh, “phải thẳng tay trừng trị những
kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề gì”.
Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ đức và tài
- Hồ Chí Minh luôn luôn đề cao vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ, công chức.
Người coi cán bộ nói chung “là cái gốc của mọi công việc”, “muôn việc thành công
hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”.
- Người quan tâm đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức vừa có đức, vừa
có tài, trong đó đức là gốc; đội ngũ này phải được tổ chức hợp lý và hoạt động có hiệu
quả. Những tiêu chuẩn của đội ngũ này, theo Người là:
+ Tuyệt đối trung thành với cách mạng.
+ Hăng hái, thành thạo công việc, giỏi chuyên môn, nghiệp vụ.
+ Phải có mối liên hệ mật thiết với nhân dân.
Hồ Chí Minh hiểu rõ xu hướng quan liêu hoá khó tránh khỏi của bộ máy nhà
nước, nên Người luôn nhắc nhở công chức nhà nước phải gần dân, trọng dân, không
được “lên mặt quan cách mạng” với dân, phải lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát
của nhân dân. Chỉ có trí tuệ và lòng dân mới có thể làm cho chính quyền trở nên mạnh
mẽ, sáng suốt.
28



Cán bộ công chức là những người dám phụ trách, dám quyết đoán, dám chịu trách
nhiệm, nhất là trong những tình huống khó khăn, “thắng không kiêu, bại không nản”.
Phải thường xuyên tự phê bình và phê bình, luôn luôn có ý thức và hành động vì
sự lớn mạnh, trong sạch của nhà nước.
Các biện pháp cơ bản trong xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức;
+ Đẩy mạnh đào tạo;
+ Tìm kiếm nhân tài;
+ Biết sử dụng cán bộ vào đúng nội dung và tài năng của họ;
+ Xây dựng quy chế công chức và tổ chức thi tuyển công chức.
- Để đảm bảo công bằng và dân chủ trong tuyển dụng cán bộ nhà nước, Người
ký sắc lệnh ban hành Quy chế công chức. Công chức theo chế độ chức nghiệp, vì vậy
phải qua thi tuyển công chức để bổ nhiệm vào ngạch, bậc hành chính. Nội dung thi
tuyển khá toàn diện bao gồm 6 môn thi: chính trị, kinh tế, pháp luật, địa lý, lịch sử và
ngoại ngữ. Điều này thể hiện tầm nhìn xa, tính chính quy hiện đại, tinh thần công
bằng dân chủ ... của tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc xây dựng nền móng cho pháp
quyền Việt Nam.
Xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu quả
Đề phòng và khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của Nhà nước
Xây dựng một Nhà nước của dân, do dân, vì dân không bao giờ tách rời với việc
làm cho Nhà nước luôn luôn trong sạch, vững mạnh.
Trong quá trình lãnh đạo Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Hồ Chí Minh
thường chỉ rõ những tiêu cực sau đây và nhắc nhở mọi người đề phòng, khắc phục:
- Đặc quyền, đặc lợi
Phải chống thói cửa quyền, hách dịch với dân, lạm quyền, lợi dụng chức quyền để
vơ vét cho cá nhân.
- Tham ô, lãng phí, quan liêu
Hồ Chí Minh coi đây là những “giặc nội xâm”, “giặc trong lòng”, thứ giặc còn
nguy hiểm hơn cả giặc ngoại xâm. Quan điểm của Người là: “Tham ô, lãng phí và
bệnh quan liêu dù cố ý hay không cũng là bạn đồng minh của thực dân và phong
kiến… Tội lỗi ấy cũng nặng như tội lỗi Việt gian, mật thám”.

Mác và Ăngghen đã từng cảnh tỉnh giai cấp vô sản rằng chủ nghĩa quan liêu có
thể dẫn các đảng cộng sản cầm quyền đến chỗ “đánh mất một lần nữa chính quyền vừa
giành được”. Lênin cũng viết “... chúng ta bị khốn khổ trước hết về tệ quan liêu.
Những người cộng sản đã trở thành tên quan liêu. Nếu có cái gì sẽ làm tiêu vong chúng
ta thì chính là cái đó”.
Vì vậy không thể nói đến một nhà nước trong sạch vững mạnh, hiệu quả nếu
không kiên quyết, thường xuyên đẩy mạnh cuộc đấu tranh để ngăn chặn tận gốc những
nguyên nhân gây ra nạn tham ô, lãng phí, quan liêu.
- Tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo
Hồ Chí Minh kịch liệt lên án tệ kéo bè kéo cánh, tệ nạn bà con bạn hữu mình
không tài cán gì cũng kéo vào chức này, chức nọ; còn những người có tài, có đức
nhưng không vừa lòng mình thì trù dập, đẩy ra ngoài. Đó là những hành động gây mất
đoàn kết, gây rối cho công tác.
Tăng cường tính ngiêm minh của pháp luật di đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo
đức cách mạng
29


- Đạo đức và pháp luật vốn có quan hệ khăng khít với nhau, luôn kết hợp, bổ sung
cho nhau trong điều chỉnh hoạt động của con người.
Do tập quán của dân ta là kinh tế tiểu nông nên muốn hình thành ngay một nhà
nước pháp quyền là chưa được. Vì vậy, một mặt phải nhấn mạnh vai trò của luật pháp,
đồng thời tăng cường tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong nhân dân nhất là giáo dục
đạo đức.
- Hồ Chí Minh đã kết hợp một cách nhuần nhuyễn giữa quản lý xã hội bằng pháp
luật với phát huy những truyền thống tốt đẹp trong đời sống cộng đồng người
Việt Nam được hình thành qua hàng ngàn năm lịch sử.
“Phép trị nước” của Hồ Chí Minh là kết hợp cả “pháp trị” và “đức trị - nhân trị”;
“pháp trị” rất nghiêm khắc, công minh và “đức trị - nhân trị” cũng rất tình người, bao
dung, thấu tình đạt lý.

Ví dụ: Trong Quốc lệnh do Người ban hành ngày 26/1/1946, đã đưa ra 10 điều
khen thưởng (đức trị) và 10 hình phạt (pháp trị). Trong 10 điều khen thưởng, Điều 3
“Ai vì nước hi sinh sẽ được thưởng”, Điều 5 “Ai làm việc công một cách trong sạch,
ngay thẳng sẽ được thưởng”, Điều 6 “Ai làm việc gì có lợi cho nước nhà, dân tộc và
được dân chúng mến phục sẽ được thưởng”. Trong 10 điều hình phạt, Điều 1 “Thông
với giặc, phản quốc sẽ bị xử tử”, Điều 6 “Để cho bộ đội hại dân sẽ bị xử tử”, Điều 8
“Trộm cắp của công sẽ bị xử tử”.
Thực tế đó cho thấy rằng, Hồ Chí Minh là một nhà lập pháp sắc sảo, đồng thời là
một nhà hành pháp nghiêm minh. Pháp quyền trong tư tưởng của Người là pháp quyền
nhân nghĩa rất đặc sắc.
Ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền đối với việc xây
dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
Nhà nước bảo đảm quyền làm chủ thật sự của nhân dân
Nhà nước phải đảm bảo quyền làm chủ thật sự của nhân dân trên tất cả các mặt
của đời sống xã hội. Trong vấn đề này, việc mở rộng dân chủ đi đôi với tăng cướng
pháp chế xã hội chủ nghĩa có ý nghĩa quan trọng. Chính vì vậy, quyền làm chủ của
nhân dân phải được thể chế hoá bằng Hiến pháp và pháp luật, đưa Hiến pháp và pháp
luật vào cuộc sống.
Kiện toàn bộ máy hành chính nhà nước
Kiện toàn bộ máy hành chính nhà nước, đẩy mạnh cải cách hành chính theo hướng
dân chủ, trong sạch, vững mạnh, phục vụ đắc lực cho nhân dân và công cuộc công nghiệp
hóa – hiện đại hóa. Kiên quyết khắc phục thói quan liêu, hách dịch, cửa quyền, sách nhiễu
nhân dân, tham nhũng, bộ máy cồng kềnh, kém hiệu lực. Chú trọng và tiến hành thường
xuyên công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn và đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ,
công chức.
Tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng thể hiện ở những nội dung như: Lãnh đạo Nhà
nước thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng; đảm bảo sự lãnh đạo cảu Đảng và phát
huy vai trò quản lý của Nhà nước.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước bằng cách Đảng lãnh đạo

bằng đường lối, bằng tổ chức, bộ máy của Đảng trong các cơ quan Nhà nước, bằng vai trò
tiên phong, gương mẫu của đội ngũ đảng viên trong bộ máy Nhà nước, bằng công tác thanh
tra, kiểm tra, Đảng không làm thay công việc quản lý của Nhà nước.
30


Câu 4: Phân tích những yêu cầu của HCM về năng lực của người cán bộ? Liên hệ
bản thân.
*Yêu cầu của Hồ Chí Minh về năng lực người cán bộ
Theo Hồ Chí Minh trước hết cán bộ phải
+ Nhận thức khoa học và cách mạng hai chữ ‘‘cán bộ’’ và ‘‘lãnh đạo’’ là gì?
‘‘Làm cán bộ tức là suốt đời làm đầy tớ trung thành của nhân dân. Mấy chữ a, b, c này
không phải ai cũng thuộc đâu, phải học mãi, học suốt đời mới thuộc được’’
‘‘Lãnh đạo là phải làm đầy tớ nhân dân và phải làm cho tốt’’
‘‘Không học hỏi dân thì không lãnh đạo được dân. Có biết làm học trò dân, mới
làm được thầy học dân’’
+ Năng lực lãnh đạo thể hiện ở lãnh đạo đúng
Phải quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng, muốn vậy phải so sánh kinh
nghiệm của dân chúng, vì họ chính là những người chịu kết quả từ sự lãnh đạo đó
Phải tổ chức thi hành cho đúng, không có dân chúng giúp sức thì không xong.
Phải tổ chức kiểm soát, mà muốn kiểm soát đúng thì phải có quần chúng giúp
mới được.
Đồng thời, Người cũng phê bình thói lãnh đạo quan liêu:
“Cái gì cũng dùng mệnh lệnh. Ép dân chúng làm. Đóng cửa lại mà đặt kế
hoạch, viết chương trình rồi đưa ra cột vào cổ dân chúng, bắt dân chúng theo”.
“Nghị quyết gì mà dân chúng cho là không hợp thì để họ đề nghị sữa chữa. Dựa
vào ý kiến dân chúng mà sữa chữa cán bộ và tổ chức của ta”.
Kết luận, yêu cầu về năng lực của người cán bộ theo Hồ Chí Minh không nằm ở
lý luận mà ở thực tiễn, phải từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng. Việc gì
cũng phải học hỏi và bàn bạc với dân chúng, giải thích cho dân chúng, tin tưởng vào

dân chúng. Đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải quyết.
*Liên hệ bản thân
- Trong công việc, phải xác định đúng vị trí, vai trò công việc mà mình đang phụ
trách, ra sức trao dồi phẩm chất đạo đức, tự học để nâng cao chuyên môn. Phải đề ra
các giải pháp, sáng kiến đem lại hiệu quả trong công việc. Khi giao việc phải thường
xuyên đôn đốc, kiểm tra kết quả công việc để kịp thời khen thưởng, động viên phát
huy ưu điểm cũng như khắc phục khuyết điểm.
31


- Trong quan hệ với đồng nghiệp, biết chia sẽ, góp ý chân tình, tranh thủ lắng
nghe ý kiến đồng nghiệp, để đồng nghiệp tham gia đóng góp ý kiến, từ đó tìm ra cách
giải quyết đạt hiệu quả cao nhất.
Câu 5: Để học tập và làm theo tư tưởng, tâm gương đạo đức Hồ Chí Minh
trong tình hình hiện nay, cán bộ, đảng viên cần phải làm gì?
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn
đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển
chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá của nhân loại.
Học tập và làm theo tấm gương đạo đức HCM trong giai đoạn hiện nay, mỗi cán bộ,
đảng viên cần làm tốt các mặt sau đây:
Một là, thực hiện “trung với nước, hiếu với dân”, mỗi cán bộ, đảng viên phải trung
thành vô hạn với mục tiêu lý tưởng của Đảng, của dân tộc, tham gia tích cực vào việc
đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.
Suốt đời hy sinh phấn đầu vì nước, vì dân tộc, Chủ tịch HCM chỉ có một mong muốn,
mong muốn tột bậc là đất nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hưởng tự do,
“đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Học tập và làm theo
tấm gương đạo đức HCM chúng ta cần:
Trung thành vô hạn với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ độc lập, chủ

quyền, toàn vẹn lãnh thổ, nền văn hóa, bảo vệ Đảng, chế đọ và sư nghiệp đổi mới, bảo
vệ lợi ích của đất nước, dân tộc.
Luôn luôn quan tâm đến lợi ích của nhân dân, tôn trọng dân, hết lòng, hết sức phục vụ
nhân dân, giải quyết kịp thời những yêu cầu, kiến nghị của dân, biết tập hợp nhân dân,
phát huy sức mạnh của dân, tổ chức, động viên cho nhân dân phấn đấu thoát khỏi đói
nghèo, “làm giàu cho mình, cho đất nước”.
Có ý chí vươn lên, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh” sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng nước kém phát triển, phấn đấu đên
năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Có ý thức giữ gìn đoàn kết dân tộc, đoàn kết trong Đảng, trong nhân dân; kiên quyết
đấu tranh không khoan nhượng trước mọi mưu đồ chia rẽ dân tộc, chia rẽ khối đại
đoàn kết toàn dân, chia rẽ Đảng với nhân dân của các thế lực thù địch, cơ hội.
Có tinh thần trách nhiệm cao đối với công việc, có lương tâm nghề nghiệp trong sáng;
ham học hỏi, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
Giải quyết đúng đắn mối quan hệ cá nhân – gia đình – tập thể - xã hội; mối quan hệ
giữa nghĩa vụ và quyền lợi theo lời dạy của Bác: “Việc gì có lợi cho nhân dân thì làm.
Việc gì có hại cho dân thì phải tránh”
Hai là, thực hiện đúng lời dạy: “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, nêu cao phẩm
giá con người Việt Nam trong thời kỳ mới.
Tích cực lao động, học tập, công tác với tinh thần lao động sáng tạo có năng suất, chất
lượng, hiệu quả cao; sử dụng lao động, vật tư, tiền vốn của Nhà nước, của tập thể, của
chính mình một cách có hiêu quả.
Quý trọng công sức lao động và tài sản của tập thể, của nhân dân; không xa hoa, lãng
phí, không phô trương, hình thức.
32


Kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng, không để cho lợi ích cá nhân
chi phối. Chống thói chạy theo danh vọng, địa vị, giành giật lợi ích của mình, lạm
dụng quyền hạn, chức vụ để chiếm đoạt của công; cục bộ địa phương, thu vén cho gia

đình, cá nhân.
Thẳng thắn, trung thực, bảo vệ chân lý, bảo vệ đường lối quan điểm của Đảng, bảo vệ
người tốt; chân thành, khiêm tốn; không chạy theo chủ nghĩa thành tích, bao che, giấu
giếm khuyết điểm…
Kiên quyết chống bệnh lười biếng, chạy theo lối sống hưởng thụ, vị kỷ, nói không đi
đôi với làm, nói nhiều, làm ít, làm dối, làm ẩu. Có thái độ rõ ràng, lên án và quyết đấu
tranh chống tham nhũng, tiêu cực, loại trừ mọi biểu hiện vô liêm, bất chính ra khỏi đời
sống xã hội.
Ba là nâng cao ý thức dân chủ và kỷ luật, gắn bó với nhân dân, vì nhân dân phục vụ.
Mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng phải đặt mình trong tổ chức, trong tập thể, phải tôn
trọng nguyên tắc, pháp luật, kỷ cương.
Gần dân, học dân, có trách nhiệm với dân, khắc phục cho được thói vô cảm, lãnh đạm,
thờ ơ trước khó khăn, thắc mắc, những đau khổ của nhân dân.
Coi trọng tự phê bình và phê bình “phải nghiêm khắc với chính mình”. Phê bình có
mục đích trong sáng, có lý, có tình. Khắc phục bệnh chuộng hình thức, thích nghe lời
khen (thậm chí xu nịnh), tâng bốc nhau, không dám nói thẳng, nói thật… để giúp đỡ
nhau cùng tiến bộ, đồng thời, cần phê phán những biểu hiện xuất phát từ những động
cơ cá nhân, vụ lợi mà “đấu đá”; nhân danh phê bình để đả kích, lôi kéo, chia rẽ, làm rối
nội bộ
Học tập và làm theo tấm gương đạo đức HCM cần phát huy chủ nghĩa yêu nước gắn
chặt với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, đoàn kết, hữu nghị giữa các dân tộc, chủ động,
tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
Thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa với tinh thần
Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích
cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát
triển.
Tôn trọng độc lập, chủ quyền của các nước khác, mở rộng hợp tác cùng có lợi, cùng
nhau phấn đấu vi hòa bình, phát triển, hợp tác, chống chiến tranh, đói nghèo, bất công,
cường quyền, áp đặt trong quan hệ quốc tế. Với những vấn đề của quá khứ, lịch sự cần
xóa bỏ mặc cảm, hận thù, nhìn về tương lai, xây dựng tình hữu nghị giữa các dân tộc.

Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, kết hợp sức mạh dân tộc với sức mạnh
thời đại, nguồn lực bên trong với nguồn lực bên ngoài để đẩy mạnh sự nghiệp công
nghiệp hoa, hiện đại hóa đất nước, phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành
nước công nghiệp hóa theo hướng hiện đại.
- Thường xuyên đăng ký với chi bộ, hằng tháng, hằng quý việc làm cụ thể để học tập
và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
- Làm cho bản thân nhận thức sâu sắc hơn những nội dung cơ bản và giá trị to lớn
của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Đưa việc học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đi vào nề nếp, trở thành công việc tự giác,
thường xuyên của bản thân.
33


- Ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những
biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; chỉnh đốn tác phong công tác,
khắc phục ngăn ngừa bệnh thành tích, hình thức, phô trương, xây dựng hình ảnh người
cán bộ, đảng viên, giáo viên gần dân, sát dân, sống giản dị, khiêm tốn, tận tụy, trung
thực và liêm khiết.
- Góp phần vào việc đẩy mạnh công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí, quan
liêu; xây dựng Đảng, chính quyền, đơn vị trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư
tưởng, tổ chức và đạo đức.
Ngay sau khi tiếp nhận Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị
về “đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Ban
Thường vụ Huyện ủy đã xác định việc quán triệt, triển khai, thực hiện Chỉ thị số 05CT/TW của Bộ Chính trị là nhiệm vụ quan trọng, bám sát văn bản chỉ đạo của Tỉnh ủy,
hướng dẫn của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Huyện ủy đã kịp thời ban
hành kế hoạch triển khai thực hiện trong hệ thống chính trị từ huyện đến cơ sở với
những nội dung cụ thể, phù hợp. Việc tổ chức quán triệt chỉ thị cũng được triển khai
nghiêm túc trong cán bộ, đảng viên từ huyện đến cơ sở. Đồng thời, chỉ đạo cấp ủy các
tổ chức đảng trực thuộc tổ chức quán triệt, học tập, tuyên truyền sâu rộng trong cán bộ,
đảng viên và quần chúng nhân dân. Qua đó, tiếp tục làm cho cán bộ, đảng viên và nhân

dân nhận thức ngày càng sâu sắc hơn những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Đưa việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh thành công việc tự giác, thường xuyên của mỗi cấp ủy,
trước hết là của người đứng đầu, của cán bộ, đảng viên, hội đoàn viên. Từng bước tạo
chuyển biến mạnh mẽ ý thức tự giác tu dưỡng, rèn luyện theo các phẩm chất đạo đức,
phong cách của Bác, xây dựng hình ảnh người cán bộ, đảng viên gương mẫu, tận tụy,
trách nhiệm với công việc.
Câu 6. Quan điểm Hồ Chí Minh về công tác cán bộ và vận dụng quan điểm
trên của Người trong công tác cán bộ nơi đồng chí đang công tác?
1. Quan điểm Hồ Chí Minh về công tác cán bộ
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặc biệt coi trọng công tác cán bộ và luôn
đặt nó lên vị trí hàng đầu trong xây dựng Đảng và chính quyền nhà nước. Tư tưởng về
công tác cán bộ của Người không chỉ phát huy vai trò trong cách mạng giải phóng dân
tộc mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước hiện nay. Trong phạm vi bài viết, chúng tôi không có tham vọng hệ thống hóa
đầy đủ những quan điểm của Hồ Chí Minh về công tác cán bộ mà chỉ trình bày khái
quát những quan điểm cơ bản của Người, từ đó làm rõ sự vận dụng của Đảng ta hiện
nay.
Là người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta, hơn ai hết Chủ tịch Hồ Chí Minh
thấy rất rõ vị trí, vai trò của cán bộ. Người chỉ rõ: “Cán bộ là cái gốc của mọi công
việc”. “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”. “Bất cứ
chính sách, công tác gì nếu có cán bộ tốt thì thành công, tức là có lãi. Không có cán bộ
tốt thì hỏng việc, tức là lỗ vốn.Vì vậy, ngay từ những ngày đầu cách mạng, Hồ Chí
Minh đã quan tâm đặc biệt đến việc đào tạo, đánh giá và sử dụng cán bộ, giao cho họ
những trọng trách và giúp đỡ họ hoàn thành nhiệm vụ cách mạng giao phó. Để có được
34


những cán bộ ưu tú một lòng vì Đảng, vì dân, theo Hồ Chí Minh trong sử dụng cán bộ
phải chú ý các quan điểm sau:

2. Hiểu và đánh giá đúng cán bộ
Đây là yêu cầu xuất phát để tiến hành các mặt khác của công tác cán bộ. Nếu không
đánh giá đúng cán bộ và tình hình công tác cán bộ thì không thể đề bạt, sử dụng cán bộ
một cách đúng đắn được. Hồ Chí Minh cho rằng, cứ mỗi lần xem xét lại cán bộ, một
mặt sẽ tìm thấy những nhân tài mới, mặt khác thì những người yếu kém sẽ bị lòi
ra. Đánh giá đúng cán bộ không chỉ nhằm phát hiện cái hay của họ để khuyến khích,
phát huy, mà còn nhằm thấy cái dở của họ để tìm cách giúp đỡ, khắc phục. Người nói:
“Ở đời, ai cũng có chỗ tốt và chỗ xấu. Ta phải khéo nâng cao chỗ tốt, khéo sửa chữa
chỗ xấu của họ”.
Để đánh giá đúng cán bộ, Hồ Chí Minh yêu cầu phải có quan điểm biện chứng.
Quan điểm biện chứng nhằm khẳng định mọi sự vật, hiện tượng đều không ngừng biến
đổi. Cán bộ cũng như vậy, “có người khi trước theo cách mạng mà nay phản cách
mạng. Có người khi trước không cách mạng mà nay lại tham gia cách mạng. Thậm chí
có người nay đang theo cách mạng, nhưng sau này có thể phản cách mạng”; “Quá khứ,
hiện tại và tương lai của mọi người không phải luôn giống nhau”. Vì thế, khi xem xét,
đánh giá cán bộ, “quyết không nên chấp nhất” mà phải có cái nhìn toàn diện. Việc
đánh giá cán bộ không thể chỉ căn cứ vào những biểu hiện bên ngoài của họ, mà phải
đi sâu tìm hiểu bản chất của họ; không thể chỉ dựa vào một việc làm của họ, mà phải
tìm hiểu tất cả các công việc mà họ thực hiện; không thể chỉ xem xét cán bộ trong một
thời điểm, mà phải thấy rõ lịch sử của họ. Có cái nhìn toàn diện như vậy, ta mới có thể
đánh giá cán bộ một cách đúng đắn, khách quan. Hồ Chí Minh nêu lên quan điểm: “Ai
mà hay khoe công việc, hay a dua, tìm việc nhỏ mà làm, trước mặt thì theo mệnh lệnh,
sau lưng thì trái mệnh lệnh, hay công kích người khác, hay tự tâng bốc mình, những
người như thế, tuy họ làm được việc, cũng không phải cán bộ tốt. Ai cứ cắm đầu làm
việc, không ham khoe khoang, ăn nói ngay thẳng, không che giấu khuyết điểm của
mình, không ham việc dễ, tránh việc khó, bao giờ cũng kiên quyết làm theo mệnh lệnh
của Đảng, vô luận hoàn cảnh thế nào, lòng họ cũng không thay đổi, những người như
thế, dù công tác kém một chút cũng là cán bộ tốt”
Như vậy, quan điểm đánh giá cán bộ của Hồ Chí Minh rất tổng hợp, lịch sử và biện
chứng, phải đặt cán bộ trong điều kiện và hoàn cảnh cụ thể. Chỉ trên những quan điểm

và phương pháp đánh giá cán bộ như vậy mới khắc phục được những căn bệnh, những
khuyết điểm chủ quan thường mắc trong công tác cán bộ.
Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ có không ít tật bệnh đã xuất hiện khi tiến hành đánh
giá cán bộ, chẳng hạn “Bệnh tự cao tự đại, bệnh ưa người ta nịnh mình, bệnh đem một
cái khuôn khổ chật hẹp, nhất định mà lắp vào tất cả mọi người khác nhau v.v..”. Đây
đều là những căn bệnh mà để cho người làm công tác cán bộ cũng như mắt đã mang
kính có màu, không bao giờ thấu rõ cái mặt thật của những cái mình trông. Vì thế, để
công tác đánh giá cán bộ được đúng đắn và khách quan, trước hết những người làm
công tác cán bộ khi đánh giá, xem xét cán bộ còn phải “tự biết mình”, tức là biết được
35


“sự phải trái của mình”. Vì theo Hồ Chí Minh “muốn biết đúng sự phải trái ở người ta,
thì trước phải biết đúng sự phải trái của mình. Nếu không biết sự phải trái ở mình, thì
chắc không thể nhận rõ người cán bộ tốt hay xấu”. Phải biết, hiểu rõ cán bộ để nhìn
thấy và khơi dậy những điểm tốt, điểm mạnh cũng như nhận ra những điểm yếu của
cán bộ, qua đó đưa ra cách sử dụng cán bộ cho phù hợp với trình độ và khả năng của
họ.
3. Khéo dùng cán bộ
Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “dùng người như dùng gỗ, người thợ khéo thì gỗ to, nhỏ,
thẳng, cong đều tùy chỗ mà dùng được”. Trong công tác cán bộ phải “khéo dùng” (hay
còn gọi là nghệ thuật dùng người), là phải dùng đúng người, đúng việc, đúng năng lực,
sở trường, làm cho cán bộ vui vẻ, thoải mái, yên tâm công tác và hăng hái thi đua cống
hiến sức mình cho sự nghiệp cách mạng. Biết tùy tài mà dùng người không những
tránh lãng phí người tài, mà còn có tác dụng tích cực, làm cho người tài ngày càng
nhiều thêm. Hồ Chí Minh viết: “Lãnh đạo khéo, tài nhỏ có thể hóa tài to. Lãnh đạo
không khéo, tài to cũng hóa ra tài nhỏ”. “Tài to ta dùng làm việc to, tài nhỏ ta cắt làm
việc nhỏ, ai có năng lực về việc gì, ta đặt ngay vào việc ấy. Biết dùng người như vậy, ta
sẽ không lo gì thiếu cán bộ”.
Hồ Chí Minh nhắc nhở: “Dùng cán bộ không đúng tài năng của họ, cũng là một cơ thất

bại”, Người thí dụ: “Người viết giỏi nhưng nói kém lại dùng vào những việc cần phải
nói. Người nói khéo nhưng viết xoàng lại dùng vào công việc viết lách. Thành thử hai
người đều không có thành tích”.
Đi đôi với việc sử dụng đúng tài năng của cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu
người lãnh đạo, quản lý phải biết trọng dụng nhân tài, nếu không sẽ làm “thui chột”
nhân tài. Người cho rằng phải biết chăm lo phát hiện nhân tài, phải biết đào tạo, bồi
dưỡng nhân tài và phải biết sử dụng nhân tài một cách hợp lý. Việc trọng dụng nhân tài
theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là phải làm thường xuyên, liên tục như
“người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu. Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ,
trọng mỗi một người có ích cho công việc chung của chúng ta”.
Hồ Chí Minh phê phán những bệnh sau đây: “1. Ham dùng người bà con, anh em quen
biết, bầu bạn, vì cho họ tốt hơn người bên ngoài; 2. Ham dùng những kẻ khéo nịnh hót
mình mà chán ghét những người chính trực; 3. Ham dùng những người tính tình hợp
với mình mà tránh những người tính tình không hợp với mình”.
Hồ Chí Minh đưa ra quan điểm dùng cán bộ đúng với 5 nội dung: “Phải có độ lượng vĩ
đại thì mới có thể có thái độ và tinh thần chí công vô tư đối với cán bộ, không có thành
kiến, khiến cán bộ không bị bỏ rơi. Phải có tinh thần rộng rãi mới có thể gần gũi với
những người mà mình không ưa. Phải có tính chịu khó dạy bảo mới có thể nâng đỡ
những cán bộ còn kém, giúp cho họ tiến bộ. Phải sáng suốt mới khỏi bị bọn vu vơ bao
vây mà cách xa cán bộ tốt. Phải có thái độ vui vẻ, thân mật, cán bộ mới vui lòng gần
gũi mình”.
4 Huấn luyện cán bộ
36


Hồ Chí Minh là người thầy, là lãnh tụ tối cao của Đảng, của cách mạng Việt
Nam, đồng thời là tấm gương sáng nhất về người cán bộ - “công bộc” của nhân dân,
“tận trung với nước, tận hiếu với dân”, suốt đời phấn đấu hi sinh cho độc lập dân tộc,
hạnh phúc của nhân dân. Những giá trị đó đòi hỏi những người cán bộ hôm nay không
chỉ có nhận thức đúng về lý luận mà còn phải áp dụng những lý luận đó vào thực tiễn.

Xây dựng đội ngũ cán bộ vững mạnh ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ hôm nay là
chiến lược có ý nghĩa quyết định đối với sự nghiệp cách mạng.
Xác định rõ huấn luyện và đào tạo cán bộ là công việc gốc của Đảng nên ngay
từ đầu Người chú trọng từ khâu lựa chọn cán bộ, số lượng và thành phần xuất thân của
người được lựa chọn. Trong bài phát biểu tại lớp huấn luyện cán bộ của Đảng ngày 65-1950, Hồ Chí Minh đã trình bày nhiều luận điểm khoa học, nêu ra các kinh nghiệm
về công tác này. Người chỉ rõ huấn luyện phải thiết thực và chu đáo. Bằng những con
số và thực trạng từ trước đến nay, Người đã chỉ rõ khuyết điểm của công tác đào tạo,
huấn luyện cán bộ. Từ đó Người đã chỉ rõ phương châm của công tác đào tạo, huấn
luyện cán bộ đó là: Huấn luyện ai, ai huấn luyện, huấn luyện như thế nào, phải kiểm
tra ra sao và bài học cần áp dụng là gì… Những luận điểm ấy đến nay vẫn còn nguyên
giá trị.
Từ lịch sử xây dựng và rèn luyện đội ngũ cán bộ mà Người đặt nền móng đã để
lại cho chúng ta những bài học giá trị trong công tác cán bộ hiện nay, đó là đặc biệt
quan tâm đến công tác cán bộ, coi đây là một vấn đề mang tầm chiến lược. Nghị quyết
Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII về công tác cán bộ có
nêu “phát huy truyền thống yêu nước, đoàn kết, tập hợp rộng rãi các loại cán bộ, trọng
dụng nhân tài, không phân biệt đảng viên hay người ngoài đảng, dân tộc, tôn giáo,
người ở trong nước hay người Việt Nam định cư ở nước ngoài; không định kiến với
những người có sai lầm trong quá khứ, nay đã hối cải và sửa chữa”.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng nhấn mạnh: “mục
tiêu chung là xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, lối
sống lành mạnh, không quan liêu, tham nhũng, lãng phí…”, “nhiệm vụ quan trọng nhất
là xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, trước hết là cán bộ lãnh đạo cấp chiến lược và
người đứng đầu tổ chức các cấp, các ngành của hệ thống chính trị”.
Đại hội XI, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ
công tác cán bộ. Thực hiện tốt Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa; đổi mới tư duy, cách làm, khắc phục những yếu kém trong từng khâu của
công tác cán bộ
Tóm lại, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh vào công tác đánh giá, sử dụng
cán bộ sẽ tạo thêm sức mạnh nhận thức và quyết tâm trong việc đổi mới công tác sử

dụng cán bộ nói riêng cũng như trong việc đổi mới toàn bộ công tác cán bộ nói chung.
Để từ đó, góp phần xây dựng thành công đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, các
ngành đủ về số lượng, đảm bảo chất lượng, đủ đức, đủ tài, đồng bộ về cơ cấu, có tầm
nhìn chiến lược cho cả trước mắt và lâu dài, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ lãnh đạo đất
nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước./.
Đã soạn tương đối, các anh, chị nghiên cứu thêm, bớt phù hợp với suy nghĩ của
mình để làm bài tốt. Kính chúc anh, chị thành công. (Lớp trưởng)
37



×