Tải bản đầy đủ (.pdf) (49 trang)

SA ngay nay 49 (2 2008)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.91 MB, 49 trang )

DIỄN ĐÀN Y KHOA

BÁC SĨ ĐÃ ĐƯỢC ĐÀO TẠO
NHƯ THẾ NÀO?
Tất cả tân sinh viên vào
các trường đại học y đều
là những gương mặt ưu
tú ở cac trường phổ
thông, nhưng do qui trình
và hệ thống đào tạo quá
cũ kỹ, lạc hậu nên ở đầu
ra chung ta có không ít
bác sĩ non kém về chuyên
môn,ngoại ngữ và ý thức
tìm tòi nghiên cứu. Là
bác sĩ, tôi xin đưa ra vài ý
kiến và phân tích nhỏ về
công tác đào tạo bác sĩ
của chúng ta.
Trước hết xin nói về vai
trò của trường đại học,
mà nhân tố chính là các
giảng viên . Ngày nay,
người thầy trong trường
đại học y khoa quá bận
rộn với đủ loại hình đào
tạo,từ đào tạo sau đại học
(tiến sĩ, thạc sĩ, chuyên
khoa I, chuyên khoa II)
đến đào tạo từ xa, liên kết
giảng dạy, chủ nhiệm các


đề tài cấp này cấp nọ, rồi
hội nghi chuyên ngành
…. Chưa kể một số thầy
cô còn đang trong giai
đoạn học sau đại học và
nhiều thầy cô còn lo công
việc phòng mạch tại nhà.
Điều này dẫn đến người
thầy không có thời gian
đầu tư nhiều cho bài
giảng, không cập nhật
thông tin mới cho giáo
án, thậm chí một giáo án
có thể dùng để giảng dạy
luôn cho nhiều cấp học
với các trình độ khác
nhau mặc cho người học
hiểu đến đâu thì hiểu?
Việc giảng dạy lâm sàng
cũng không khả quan

hơn. Không ít thầy cô
còn đang trong quá trình
học sau đại học, tất bật
với đủ thứ chứng chỉ, đề
tài... nên đến giờ giảng
lâm sàng không còn tâm
trí và thời gian xem bệnh,
chỉ giảng được vài ý
chung chung, cốt cho

xong việc.
Việc thực tập lâm sàng
tại bệnh viện hầu như ít
đến tay sinh viên.Vì ở
mỗi khoa lâm sàng, một
bệnh nhân được "chăm
chút" bởi nhiều tầng lớp
học viên từ thạc sĩ, bác sĩ
chuyên khoa, bác sĩ học
việc nên các sinh viên y
khoa chỉ còn biết đứng
nhìn “người lớn” khám
và hỏi bệnh. Nếu sinh
viên nào vì ham học hỏi
mà cố hỏi thêm thì rất dễ
bị bệnh nhân nổi quạu!
Rồi việc phụ mổ, đỡ đẻ
hay phụ các thủ thuật
cũng diễn ra tương tự. Đã
có không ít cảnh sinh
viên đi thực tập tại bệnh
viện nhưng lại tìm một
góc vắng lôi bài lý thuyết
ra để “tụng”, hay tệ hơn
ngồi căng tin uống nước
tán gẫu! Ở các nước mà
tôi đã từng có dịp đến
học hỏi, mỗi cấp sinh
viên thực tập đều được
phân công các công việc

khác nhau trong quá trình
điều trị, từ việc lấy kết
quả xét nghiệm đến phụ
thủ thuật,viết hồ sơ điều
trị. . . Thực tập lâm sàng
như vậy, sinh viên sẽ chủ
động học hỏi qua từng
bệnh án, từng bệnh nhân.

Siêu âm ngày nay Tập 49 – Số 2/2008

Việc giảng dạy đã như
vậy, việc thi cử càng lạc
hậu hơn,thường là hình
thức học thuộc lòng rồi
chép lại hoặc trắc nghiệm
na ná nhau. Các đề thi
thiếu tính tự luận, không
khuyến khích tìm tòi mà
chỉ đóng khung trong nội
dung đã được đọc chép
nên hầu như sinh viên
không có động lực để đọc
tài liệu tham khảo...
Một vấn đề rất quan
trọng đối với ngành y là
kiến thức ngoại ngữ.
Kiến thức ngọai ngữ là
chìa khóa quan trọng dẫn
đến thành công trong

chuyên môn và nghiên
cứu .Thế nhưng, trừ một
số ít sinh viên có kiến
thức ngoại ngữ rất tốt,đại
đa số còn lại chi "i tờ ' đủ
xoay xở cho qua mỗi học
phần! Không có ngoại
ngữ, sinh viên chỉ có thể
quanh đi quẩn lại với các
giáo trình được soạn khá
lâu và việc lười cập nhật
chuyên môn,không làm
được các nghiên cứu
khoa học là điều tất yếu.
Theo tôi, nên thay đổi qui
trình và phương pháp đào
tạo bác sĩ,đưa chương
trình đào tạo bác sĩ của
chúng ta từng bước tiếp
cận với thế giới. Điều này
không thể làm được trong
ngày một ngày hai,
nhưng nếu không bắt tay
ngay từ bây giờ thì ngành
y của chúng ta sẽ mãi
chìm trong lạc hậu và yếu
kém.
BS TH.T.

1



CHUYÊN ĐỀ SIÊU ÂM

MẤT GIÃN TÂM VỊ (ACHALASIA of the CARDIA)
và SIÊU ÂM CHẨN ĐOÁN
NGUYỄN THIỆN HÙNG
Trung tâm Y khoa MEDIC Thành phồ Hồ Chí Minh
Là tình trạng rối loạn hoạt động thực quản đoạn cuối làm cản trở chất được nuốt đi
qua thường là chất lỏng hơn là chất đặc. Sự khó nuốt xảy ra bất cứ tuổi nào, tăng dần
chậm chạp qua nhiều năm. Đôi khi có trào ngược thức ăn không tiêu, đôi khi có đau
nhiều sau xương ức do co thắt thực quản. Định bệnh thường bằng chụp thực quản có
cản quang.
Điều trị bằng cách nong chỗ hẹp, tiêm botulinum trong cơ hoặc mổ tách cơ ở tâm vị.
Tuy nhiên siêu âm qua ngã bụng có thể phát hiện achalasia ở bệnh nhân khó nuốt dựa
vào: dày vách thực quản, ứ đọng dịch trong thực quản, giãn thực quản ở đoạn xa, và
dấu mỏ chim.
Dày vách thực quản không nhiều, còn thấy rõ các lớp vách thực quản, với đầu dò siêu
âm qua ngã bụng 3,5MHz. Điều này giúp phân biệt u vách thực quản hay sẹo gây co
rút. Bảng kê sau giúp minh hoạ bề dày vách thực quản bình thường , không quá 3mm,
và khi mất giãn (achalasia).
Vách thực quản TANOMKIAT
tâm vị
(1999)
ACHALASIA
Bình thường
4,9mm

W. SEZGIN
O. ECKARDT

V.F.
(2001)
(2004)
4,8+/- 0,9mm
3,2mm (2,5-3,4)
2,3+/-0,5mm
2,9mm

Ứ đọng dịch thực quản thường thấy sau khi cho bệnh nhân uống nước (34/35 ca,
94%).
Giãn thực quản ít thấy khi bệnh nhân nhịn ăn (6/7 ca theo Sezgin O.). Theo Eckardt
VF., trung bình thực quản giãn 20mm (14-25mm). Chúng tôi thấy thực quản đoạn cổ
cũng giãn lớn, nhất là khi uống nước, còn lúc không ăn uống, thực quản cổ có biến
dạng ở các mặt cắt dọc và ngang. Giãn thực quản đoạn xa, đoạn ngực, đoạn cổ do rối
loạn hoạt động cơ trơn thực quản đoạn cuối.
Có hiện tượng mất hoàn toàn nhu động nguyên phát và thứ phát cơ trơn thực quản
đoạn xa trong khi chức năng cơ vân đoạn trên thực quản vẫn bình thường. (Cơ thực
quản đoạn trên là cơ vân, chuyển tiếp dần thành cơ trơn từ đoạn giữa, và 1/3 dưới
hoàn toàn là cơ trơn, 2 lớp cơ vòng ở trong và cơ dọc phía ngoài). 3-4 cm đoạn xa
thực quản có 1 vùng tăng áp lực lúc nghỉ được gọi là cơ thắt dưới thực quản (lower
esophageal sphincter, LES).
Achalasia hầu như do bất thường của nơ-ron hơn là do bệnh cơ nguyên phát. Các tổn
thương thường ở nhân lang thang lưng (dorsal vagal nucleus) trong thân não, trong
dây thần kinh lang thang X và trong các hạch thần kinh cơ (myenteric ganglia) trong
vách thực quản. Thứ hai, cơ thắt dưới thực quản (LES) không giãn hoàn toàn khi
nuốt. Thứ ba, áp lực cơ thắt dưới thực quản (LES) vẫn cao. Hiện tượng mất nhu động
và tồn tại vùng áp lực cao ở khúc nối dạ dày thực quản gây ứ đọng chất nuốt vào và
chất tiết của miệng trong thực quản, cùng với hiện tượng mất trương lực và giãn dần
thân thực quản.


Siêu âm ngày nay Tập 49 – Số 2/2008

2


CHUYÊN ĐỀ SIÊU ÂM
Dấu mỏ chim (bird beak) rất dễ phát hiện trên siêu âm B–mode sau khi bệnh nhân
uống nước (xem hình). Ý nghĩa của dấu mỏ chim là nơi hẹp do mất giãn của thực
quản đoạn xa.

Dấu mỏ chim (bird beak) và ứ đọng dịch thực quản đoạn cuối .
Tóm lại siêu âm qua ngã bụng có thể tham gia phát hiện và chẩn đoán chứng mất giãn
tâm vị, cũng như theo dõi điều trị sau nong. Siêu âm còn giúp phân biệt nguyên nhân
u và hẹp do sẹo loét khúc nối thực quản dạ dày.
ABSTRACT: Transabdominal sonography clearly shows the regular thickening of the
esophageal wall, water retention, dilatation of the distal esophagus, and the bird's beak
appearance in patients with achalasia. Sonography may help in differentiating
achalasia from carcinoma and peptic stricture of the gastroesophageal junction and
follows up patients in treatment with balloon dilator (or others: surgical myotomy and
recently, long-acting nitrates and calcium channel blocking agents).
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH
1: Eckardt VF, Schmitt T, Kanzler G: Transabdominal ultrasonography in achalasia Scand J Gastroenterol. 2004
Jul;39(7):634-7.
2: Sezgin O, Ulker A, Temucin G: Sonographic findings in achalasia. J Clin Ultrasound. 2001 Jan;29(1):31-40.
3: Tanomkiat W, Chongchitnan P: Transabdominal sonography of gastroesophageal junctions. J Clin Ultrasound.
1999 Nov-Dec;27(9):505-12.

LỜI HAY Ý ĐẸP
*Nếu có 3 chữ cái: H,R và T, tôi có thể thêm vào đó chữ E và A để có được chữ
HEART (trái tim). Nhưng tôi cũng có thể thêm vào đó chữ U và được từ HURT (đau

đớn). Nhưng tôi thà có em (U = You ) và chấp nhận đau đớn (HURT) còn hơn là có
một trái tim (HEART) mà không có tình yêu của em.
*Khi bạn yêu ai đó: đừng viết tên họ vào hình trái tim mà viết vào một vòng tròn.
Bởi vì vòng tròn không có điểm đầu và không có điểm cuối. Bạn không hề biết tình
yêu bắt đầu từ khi nào và tốt nhất là không có điểm kết thúc.
*Hồi trẻ ta nhờ đến đàn bà để hiểu thế nào là tình yêu. Khi già ta nhớ đến tình yêu để
hiểu thế nào là đàn bà. ( Roland Dorgeles)
*Tình yêu thầm lặng là tình yêu thiêng liêng. Trong bóng mờ trái tim ẩn kín một tình
yêu sáng rực như trân châu. Trong ánh sáng ban ngày kỳ lạ, tình yêu lu mờ một cách
đau thương. ( Tagore )
*Không có gì cao thượng và đáng kính bằng lòng chung thủy ( Cicero )
*Yêu là tin vào những điều không thể có ( Elizabeth Barbett Browning )
*Tình yêu của các chàng trai không nằm ở phía tim mà ở đôi mắt. ( Shakespeare )
Siêu âm ngày nay Tập 49 – Số 2/2008

3


CHUYÊN ĐỀ SIÊU ÂM

U TỦY THƯỢNG THẬN NGOÀI
TUYẾN THƯỢNG THẬN
(Extra-Adrenal Pheochromocytoma)
BS Lê Thanh Liêm
Trung Tâm Y Khoa MEDIC–Thành phố Hồ Chí Minh
U tuyến thượng thận nằm ngoài tuyến thượng thận là bệnh lý không thường gặp, dễ
bỏ sót nếu không nghĩ tới. Đặc biệt là vị trí u rất đa dạng, dễ chẩn đoán lầm là u của
cơ quan khác.
BỆNH ÁN
Bệnh nhân nam 29 tuổi, không tiền sử tăng huyết áp. Khám siêu âm tuyến

trước chẩn đoán U Gan nên đến khám tại Trung Tâm MEDIC.

H1:Vị trí thượng thận phải không u

H2:Cấu trúc echo kém, giới hạn rõ, có hóa
nang trung tâm, không tăng sinh mạch
máu. U vị trí phía sau, bên phải túi mật.

H3:U sát phía sau dưới gan phải, di động ít H4:U cạnh trái cực trên thận (P), không
hơn gan khi hít thở.
xâm lấn vỏ bao thận.

Siêu âm ngày nay Tập 49 – Số 2/2008

4


CHUYÊN ĐỀ SIÊU ÂM

H5: MSCT 64=Tuyến H 6: U sau phúc mạc vùng H 7: U bắt thuốc cản quang
thượng thận hai bên bình dưới gan, sau tá tràng, đẩy tá không đồng nhất, không dấu
xâm lấn xung quanh
thường
tràng ra trước và vào trong.
TƯỜNG TRÌNH PHẪU THUẬT:
U ở cực trên thận phải, sát tĩnh mạch chủ dưới, đẩy tá tràng xuống dưới và ra trước,
gỡ dính tá tràng, bóc tách u, huyết áp tăng 21/14, nghĩ nhiều đến u tủy thượng thận.
KẾT QUẢ GPBL:
U SẮC BÀO THƯỢNG THẬN.
BÀN LUẬN:

Extra-Adrenal Pheochromocytoma tương đối hiếm gặp, chiếm khoảng 10% trường
hợp u tủy thượng thận. Tỉ lệ ác tính 40 %.
Vị trí Extra-Adrenal Pheochromocytoma rất đa dạng, nhưng thường dưới hoành, cạnh
động mạch chủ bụng.
Đặc trưng bởi cơn tăng huyết áp và tăng catecholamines trong máu và nước tiểu.
Siêu âm rất hữu hiệu giúp phát hiện, hướng tới chẩn đoán Extra-Adrenal Pheochromocytoma
CT, MRI là phương tiện chọn lọc quyết định chẩn đoán.
Extra-Adrenal Pheochromocytoma có khuynh hướng tái phát nên cần được theo dõi
định kỳ sau mổ.
KẾT LUẬN
Extra-Adrenal Pheochromocytoma tương đối hiếm gặp, dễ bỏ sót hay chẩn đoán
nhầm u cơ quan khác. Vì vậy bác sĩ siêu âm cần luôn cảnh giác và nghĩ tới ExtraAdrenal Pheochromocytoma đối với tất cả u sau phúc mạc dọc động mạch chủ bụng.
ABSTRACT: 29YO male patient with no history of arterial hypertension. Ultrasound detected a hypoechoic mass on the right side of the gallbladder and on the left
side of the upper pole of the right kidney. MSCT 64 shows that both adrenal glands
look normal. There is a retroperitoneal mass in the subhepatic region and behind of
duodenum. Contrast medium procedure reveals an inhomogenous mass and no sign of
expansion. In surgery, this mass was at the upper pole of the right kidney, close to the
inferior vena cava. The arterial tension of this patient went up to 210/140mmHg when
removing this mass. In this particular case, the chromaffin cell tumor is proven to be
an extra-adrenal pheochromocytoma.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/17239321
www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/1729490
Carol Rumack.

Siêu âm ngày nay Tập 49 – Số 2/2008

5



CHUYÊN ĐỀ SIÊU ÂM

THAI NGOÀI TỬ CUNG
Bs PHẠM TRANG THI
Trung tâm Y khoa MEDIC - Thành phố Hồ Chí Minh
TỔNG QUÁT
•Thai ngoài tử cung có ảnh hưởng lớn đến sức khỏe sinh sản của phụ nữ, có thể gây tử
vong nếu không được chẩn đoán và điều trị kịp thời, tuy nhiên có thể phòng ngừa nếu
tránh được các yếu tố nguy cơ và điều trị tốt nếu được siêu âm tham gia phát hiện
sớm.
•- Tần suất :2 – 2, 5 %
YẾU TỐ NGUY CƠ
•1. Viêm vòi trứng do nhiễm khuẩn Chlamydia tracomatis (một bệnh lây qua đường
tình dục), nhất là khi có thêm tiền căn nạo hút thai gây viêm vòi trứng ngược dòng,
sẹo hóa niêm mạc vòi Fallop và làm thay đổi sự di chuyển của trứng thụ tinh, gây thai
ngoài tử cung. Quan trọng là > 50% bệnh nhân có nhiễm Chlamydia tracomatis mà
không có triệu chứng, nên không được chăm sóc tốt.
•2. Tiền căn đã có thai ngoài tử cung thì nguy cơ có thai ngoài tử cung lần thứ hai sẽ
tăng từ 4 –13 lần hơn .
•3. Mổ vùng khung chậu : gây dính quanh phần phụ và làm vòi trứng thay đổi hướng
đi, bị kéo dài hoặc gập góc .
•4. Nghiện thuốc lá (chất nicotin làm hỏng lông mao và làm chậm sự vận động của
vòi trứng) làm tăng nguy cơ thai ngoài tử cung từ 1,6 đến 3,5 lần hơn người không hút
thuốc lá .
•5. Tuổi : từ 35 – 44 tuổi có nguy cơ bị thai ngoài tử cung từ 3 đến 4 lần hơn người nữ
từ 15 đến 24 tuối .
•6. Yếu tố khác : Lạc nội mạc tử cung, nhân xơ tử cung, hoặc do hổ trợ sinh sản :
kích thích rụng trứng, chuyển phôi, bơm tinh trùng vào buồng tử cung.
CHẨN ĐOÁN
1. Ba dấu chứng kinh điển của thai ngoài tử cung là:

- Xuất huyết âm đạo bất thường ( 75- 86%)
- Đau chậu hông ( 97%)
-Trể kinh ( +/ - ).
2. Trong thai kỳ bình thường nồng độ bHCG/ máu thường tăng gấp 2 sau 2 ngày, nếu
bHCG / máu không tăng hoặc tăng ít hơn nồng độ chuẩn sau 2 ngày và trên siêu âm
không thấy túi thai trong lòng tử cung (siêu âm qua đường bụng có thể thấy túi thai
khi bHCG / máu 6.500mIU/ ml , TVS thấy túi thai khi bHCG / máu khoảng
1.500mIU/ ml) có thể nghi ngờ một thai nằm ngoài tử cung
3. Siêu âm là phương tiện chẩn đóan hiệu quả cao, giúp xác định vị trí thai, tuổi thai,
và các yếu tố liên quan .
Sơ đồ vị trí thai ngoài tử cung :
A. Bóng vòi ( Ampullary) : 80%.
B. Eo vòi ( Isthmus)
: 12%
C. Tua vòi ( Fimbrial)
: 5%
D. Sừng tử cung ( Cornual): 2%

Siêu âm ngày nay Tập 49 – Số 2/2008

E . Bụng ( Abdominal ) : 1,4 %.
F . Buồng trứng ( Ovarian ) : 0,2%.
G . Cổ tử cung ( Cervical ) : 0,2 %.

6


CHUYÊN ĐỀ SIÊU ÂM
•Trong đó, vị trí thai ngoài tử cung ở ngay chỗ nối giữa vòi trứng và tử cung là nguy
hiểm nhất vì khó chẩn đoán sớm, khi vỡ sẽ gây mất máu nhiều và nhanh, ảnh hưởng

đến khả năng có thai sau này.

Khối thai nằm ở sừng trái tử cung
•Bn nữ 29 tuổi •PARA : 1001 ( sanh mổ )
•Trể kinh 10 ngày
•Khám thai định kỳ. Hiện không ra huyết âm
đạo
•Đau hạ vị nhẹ
•Siêu âm : thấy khối thai nằm sừng trái tử
cung đang phát triển.
-Tử cung : ngã sau, dAP = 45mm
-Vòi trứng trái phần tử cung có túi thai
- Đường kính GS = 30 mm. Có phôi CRL =
17mm. Tuổi thai 8 tuần
-Tim thai (+) 182 lần/phút
-betaHCG/ máu : 57.183H ( < 25mIU/l)
•2. Siêu âm có thể xác định túi thai với bờ viền echo dày của trophoblastic decidual,
hoặc mass bất thường cạnh tử cung, có hoặc không có tim thai .
GEU cạnh buồng trứng T chưa vỡ # 5 tuần
betaHCG = 498mIU/ ml.
Mổ sau 48h – GEU T vỡ

Siêu âm ngày nay Tập 49 – Số 2/2008

7


CHUYÊN ĐỀ SIÊU ÂM
GEU cạnh buồng trứng P
d = 16mm # 5 tuần


Mass dạng túi thai cạnh nang buồng trứng
phải, d = 14 mm # 6 tuần 3 ngày

3. Siêu âm không thấy túi thai thật trong lòng tử cung ( nằm bên dưới nội mạc tử
cung) mà đôi khi có túi thai giả nằm lấp đầy trong khoang nội mạc tử cung (do sự ứ
đọng dịch).

Tăng sinh nội mạc tử cung : 12 ---> 22mm
túi thai giả

Siêu âm ngày nay Tập 49 – Số 2/2008

8


Dịch quanh phần phụ và túi cùng,do phản ứng của màng bụng hoặc có nguy cơ vỡ thai
ngoài tử cung

ĐIỀU TRỊ THAI NGOÀI TỬ CUNG
Nguyên tắc là phải lấy đi khối thai hoặc làm khối thai không tiếp tục phát triển nữa.
•1. Phẫu thuật là cách điều trị chủ yếu. Trong thời gian gần đây mổ nội soi đã được áp
dụng khá rộng rãi do khả năng phát hiện thai ngoài tử cung sớm, chưa vỡ, ít gây dính
vùng bụng sau mổ hơn mổ bụng hở.
•Khi khối thai vỡ, phải mổ hở .
•2. Điều trị nội khoa cần có chỉ định nghiêm ngặt hơn, chất đang được sử dụng là Methotrexate, là một chất cạnh tranh với acid folic, thành phần quan trọng trong chu trình
tăng trưởng của tế bào .
CHỈ SỐ FERNANDEZ
Yếu tố/điểm


1

2

3

< 42

42 --- 49

> 49

BetaHCG/ máu
( UI/ l )

< 1000

1000 --- 5000

> 5000

Progesterol máu
( ng/ ml )

<5

5 --- 10

> 10


không

khi ấn

tự phát

<1

1 --- 3

>3

0

1 --- 100

> 100

Tuổi thai (ngày )

Đau bụng
Máu tụ tai vòi(cm)
Máu ở phúc mạc

CHỈ ĐỊNH
* Dùng Metrotrexate :
nếu chỉ số Fernandez < 13 điểm
* Không dùng Metrotrexate :
- phôi có hoạt động tim.
- betaHCG > 10.000 UI/ l

- đường kính túi thai > 3,5 – 4cm.

Siêu âm ngày nay Tập 49 – Số 2/2008

9


CHUYÊN ĐỀ SIÊU ÂM
- tình trạng huyết động của thai phụ không ổn định .
(Phải thấy khối thai GEU bằng siêu âm trước khi bắt đầu điều trị )
ĐÁNH GIÁ
•* Điều trị thành công khi beta-HCG giảm ro giữa ngày thứ 4 và ngày thứ 7 ( hơn
15%) •* Yếu tố quan trọng nhất dự báo thành công là nồng độ beta HCG :
•- beta HCG < 5.000 UI/l : tỷ lệ thành công > 90%
•- beta HCG > 15.000UI/l: tỷ lệ thành công < 70%
•* Kiểm tra beta HCG / máu trong vòng 12 tuần để đảm bảo = 0.
PHÒNG NGỪA THAI NGOÀI TỬ CUNG:
• - hạn chế nạo phá thai, sử dụng các biện pháp phòng tránh thai.
• - giữ gìn vệ sinh kinh nguyệt tốt, nhất là trong thời gian sau sanh và cho con bú.
• - khám phụ khoa định kỳ và ngay khi có dấu hiệu nghi ngờ viêm sinh dục để được
điều trị thích hợp, tránh di chứng viêm dính tắc vòi trứng, nguy hại cho khả năng sinh
sản về sau.
• - sản phụ nên đi khám thai sớm, đặc biệt là những sản phụ đã từng bị thai ngoài tử
cung hay có tình trạng viêm nhiễm sinh dục trước đó, nhất là khi bị đau bụng hay ra
máu bất thường.
ABSTRACT
•- In an ectopic pregnancy, a fertilized egg has implanted outside the uterine cavity,
including the fallopian tube ( 95%), cervix, ovary, cornual region of the uterus and in
the abdominal cavity.
•- the classic clinical trial of ectopic pregnancy are pain, amenorrhea and vaginal

bleeding.
•- Its levels normally in double every 2 days for the first several weeks of pregnancy,
so if bHCG levels are lower than expected, one possible an ectopic pregnancy.
•- Ultrasound probably is the most important tool in diagnosing an extrauterine pregnancy.
**The following risk factors have been linked with ectopic pregnancy :
-pelvic inflammatory disease caused by Chlamydia trachomatis.
-history of prior ectopic pregnancy (50 – 80%).
-history of tubal surgery.
**Treatment :
- An early ectopic pregnancy sometimes can be treated with methotrexate, which
ceases the growth of the embryo.
- The ectopic pregnancy mass may be removed by laparoscopy.
•Tài liệu tham khảo chính :
•1. Thai ngoài tử cung – Phòng ngừa và điều trị . Bệnh viện Hùng Vương.
•2.: Ectopic Pregnancy, E Medicine, Article Last Updated: Aug 17, 2007. Vicken P Sepilian MD, MMS, Medical
Director, Reproductive Endocrinology and Infertility, CHA Fertility Center.

DANH NGÔN TÌNH YÊU
*Ðịnh nghĩa tiếng yêu rất là giản dị. Nó là sự hòa hợp giữa hai tâm hồn trai và gái. (Jean
Jacques Rousseau.)
*Không có người đàn bà nào xấu, chỉ có những người đàn bà không biết làm cho mình
quyến rũ mà thôi. (Christian Dior )
*Không chỉ có tình yêu nào chân thật mà thiếu tình cảm và tâm hồn. Không có tình yêu
nào đầy đủ nếu không có xác thịt chen vào. ( Pierre Dufoyer )
*Chân lý cuối cùng trên cõi đời vẫn chỉ là tình yêu. Yêu là sống và còn sống là còn yêu.
(Voltaire)
*Tình yêu là sự kết hợp giữa tình bạn và tình dục. Nếu tình bạn nặng thì đó là mối tình
thanh cao. Nếu tình dục nặng thì đó là một thứ tình nhục dục thấp hèn. ( Cotton)
Siêu âm ngày nay Tập 49 – Số 2/2008


10


CHUYÊN ĐỀ SIÊU ÂM

Cách tính thể tích dịch
màng phổi trên siêu âm
Bs Lê Quang Thông
Khoa Thăm Dò Chẩn đóan Bệnh viện Đà nẵng
Có nhiều phương pháp đánh giá thể tích nước màng phổi bằng Siêu âm.
Đánh giá thể tích dịch trên siêu âm chính xác hơn Xray quy ước.
Goecke và Schwerk (1990) là phương pháp dễ nhất và ít tốn thời gian nhất.Sai số
>10%
Elbenberger(1994) tương đối dễ và sai số <10%
Sau đây là vài công thức tính thể tính dịch màng phổi
Thể tích
LSF(cm2) x U(cm) x 0,89 = E (ml)
QSF(cm2) x H(cm) x 0,66 = E (ml)
LH(cm) x 90 = E(ml)
LH(cm2) + SH(cm) x 70 = E(ml)
D(mm) x 47,6 - 873 = E(ml)

Năm công bố
Lorenz al.1988
Kelbel et al.1990
Goecke và Schwerk .1990(H.2)
Goecke và Schwerk .1990
Elbenberger et al. 1994(H.4)

Hình 3:

Đo các khỏang các echo trống và
lấy trung bình cọng để có trị số
D,dĩ nhiên theo kinh nghiệm đo
càng nhiều khỏang cách khác
nhau,lấy trung bình cộng thì sai
số càng ít.

Hình 2:
LSF: diện tích trung bình mặt
phẳng dọc của dịch đo 6 vị
trí(from parasternal to paravertebral)
LH:lateral height

Siêu âm ngày nay Tập 49 – Số 2/2008

11


CHUYÊN ĐỀ SIÊU ÂM

Hình 3:
SH : trị số trung bình của
khỏang cách dịch(echo
trống) dưới phổi và
khỏang cách lớn nhất của
dịch với tư thế ngồi

Hình 4:
Công thức Elbenberger
cải biên là dễ nhất: y =50x

– 800 chỉ sai số 10%,trong
đó x là khỏang cách
lượng dịch (hoặc lấy trung
bình 4 thông số như hình
vẽ hoặc một khỏang cách
lớn nhất…
D: khỏang cách trung bình lớp dịch khi bệnh nhân tư thế nằm ngửa.(H.1)
E ; thể tích dịch
H: chiều cao của dịch (effusion height) tư thế ngồi
LH: lateral height, chiều cao bên tư thế ngồi (H.2)
LSF: diện tích trung bình mặt phẳng dọc của dịch đo 6 vị trí từ trước xương ức đến
cạnh xuơng đốt sống
QSF: diên tích mặt phẳng ngang của dịch
SH : trị số trung bình của khỏang cách dịch(echo trống) dưới phổi và khỏang cách lớn
nhất của dịch với tư thế ngồi(H.3)
U: chu vi lồng ngực.
Tài liệu tham khảo chính:
Gebhard Mathis (2008) - Chest Sonography, NXB Springer

Siêu âm ngày nay Tập 49 – Số 2/2008

12


Bs Võ Nguyễn Thục Quyên
phụ trách
1: Đặc điểm hạch nách

bệnh lý do bệnh Kikuchi (Sonographic Features of Axillary Lymphadenopathy Caused by Kikuchi
Disease)

Ji Hyun Youk, MD, EunKyung Kim, MD, Kyung Hee
Ko, MD and Min Jung Kim,
MD
Department of Radiology,
Bundang CHA Hospital,
Pochon CHA University,
Sungnam, Korea (J.H.Y.,
K.H.K.); and Department of
Radiology, Research Institute
of Radiological Science, Yonsei University College of
Medicine, Seoul, Korea (E.K.K., M.J.K.).

Mục tiêu: của nghiên
cứu này là ghi nhận đặc
điểm siêu âm của hạch
nách trong bệnh Kikuchi. Phương pháp: Ghi
nhận dữ liệu lâm sàng
và siêu âm của 7 bệnh
nhân có sinh thiết lõi (6
ca) và sinh thiết khối (1
ca). Đặc điểm siêu âm
của hạch gồm phân bố,
kích thước, dạng, bờ,
độ sinh echo và cấu
trúc và đánh giá hạch
lành hoặc ác. Kết quả:
7 bệnh nhân (1 nam và
6 nữ, tuổi trung bình=
34,3 ± 7,7 năm) với 29
hạch (5-38mm, trung

bình 14,8 ± 7,2 mm).
Các đặc điểm siêu âm
gồm: chỉ số trục ngắn/
trục dài của hạch

TB=0,595 là 0,5 hay
hơn ở 22 hạch(76%);
bờ rõ ở 16 hạch (55%),
20 hạch có vỏ echo
kém (69%) và 9 hạch
có vỏ đồng echo
(31%); rốn hạch nhỏ 1
ca (4%) và 16 ca không
thấy rốn hạch (55%);
13 hạch có vỏ dày
(43%) trong đó 6 đồng
tâm và 7 không đồng
tâm. 19 hạch có biểu
hiện ác tính (66%) và
10 hạch lành tính
(34%). Kết luận: Nhiều
hạch trong bệnh Kikuchi có biểu hiện ác
tính về phương diện
siêu âm. Khi siêu âm
hạch nách nghi ác tính
ở bệnh nhân tương đối
trẻ, bệnh Kikuchi là
một chẩn đóan phân
biệt được kể đến và
nên sinh thiết với siêu

âm dẫn đường.
2: Tương quan đặc
điểm siêu âm qua ngã
bụng và nội soi bàng
quang trong chẩn
đóan các bất thường
khu trú vách bàng
quang (Correlation of
Transabdominal Sonographic
and Cystoscopic Findings in
the Diagnosis of Focal Abnormalities of the Urinary Bladder
Wall).
Giampiero Francica, MD,
Sergio Adamo Bellini, MD,
Ferdinando Scarano, MD,
Antonio Miragliuolo, MD,
Fedele Antonio De Marino,
MD and Mauro Maniscalco,
MD
Diagnostic and Interventional
Ultrasound Service (G.F., F.S.,
F.A.D.M.), Urologic Surgery
Unit (S.A.B., A.M.), and Department of Medicine (M.M.),
Presidio Ospedaliero Camilliani Santa Maria Della Pietà,
Casoria, Italy.

Siêu âm ngày nay Tập 49 – Số 2/2008

Mục tiêu: là
dùng

những máy siêu âm
mới để phát hiện tiền
cứu qua ngã bụng các
bất thường khu trú
vách bàng quang (focal
bladder wall abnormalities (FBWAs) ) để
sau đó chứng minh
bằng nội soi bàng
quang. Phương pháp:
112 bệnh nhân (97 nam
và 15 nữ, tuổi trung
bình 68) được nội soi
bàng quang. Lý do
khám là đái máu đại
thể (44 ca, 39%), theo
dõi sau cắt giảm qua
niệu đạo (56 ca,
49,5%) và siêu âm phát
hiện tình cờ (12 ca,
11,5%) . 1-2 ngày
trước nội soi bàng
quang, bệnh nhân được
siêu âm cùng 1 người
khám, không biết về
lâm sàng và kết quả
siêu âm gần đây. Sự
hiện diện, kích thước,
số lượng và vị trí của
FBWAs (thí dụ có
polyp hay dày vách bất

thường không đối
xứng) được ghi nhận
và đối chiếu với nội soi
và kết quả GPBL. Kết
quả: 110 bệnh nhân có
chẩn đóan mô học có ý
nghĩa. Các ca lành tính,
u không chuyển hóa tế
bào và u chuyển hóa tế
bào lần lượt có tỉ lệ =
26,3%, 3,7% and 70% .
Độ nhạy, độ chuyên
biệt, giá trị tiên lượng
dương tính và âm tính
và độ chính xác tòan
thể so với nội soi bàng
quang lần lượt là=
91,4%, 79,3%, 91,4%,

13


CHÂN TRỜI SIÊU ÂM
79,3%, and 88,2%.
Ung thư cỡ 15mm hoặc
nhỏ hơn và u phẳng
thường bị siêu âm sót,
trong khi viêm bàng
quang mạn thường có
kết quả siêu âm dương

tính giả; tuy vậy siêu
âm khó chẩn đóan đặc
điểm FBWAs, với độ
chuyên biệt là 62%.
Siêu âm màu có giúp
đỡ chẩn đóan một ít.
Kết luận: Trong các
bệnh nhân chọn lọc
bằng nội soi, những
máy siêu âm mới qua
ngã bụng có chẩn đóan
bệnh lý khu trú vách
bàng quang chính xác
mà những bệnh này đã
được phát hiện qua nội
soi bàng quang.
3: Đặc điểm siêu âm
Carcinôm vú dạng
tiết (Secretory Carcinoma of
the Breast)
Sung Hee Mun, MD, Eun
Young Ko, MD, Boo-Kyung
Han, MD, Jung Hee Shin, MD,
Suk Jung Kim, MD and Eun
Yoon Cho, MD
Department of Radiology and
Center for Imaging Science
(S.H.M., E.Y.K., B.-K.H.,
J.H.S., S.J.K.) and Department
of Pathology (E.Y.C.), Samsung Medical Center, Sungkyunkwan University School

of Medicine, Seoul, Korea;
Department of Radiology,
Catholic University of Daegu,
College of Medicine, Daegu,
Korea (S.H.M); and Department of Radiology, Inje University College of Medicine,
Busan Paik Hospital, Busan,
Korea (S.J.K.).

Mục tiêu: là đánh giá
dặc điểm carcinoma
vú dạng tiết. Phương
pháp: Từ 1994 đến
2006 có 9 bệnh nhân
có chẩn đoán mô bệnh
học là carcinôm vú
dạng tiết và có 6 ca có

siêu âm vú. Hồi cứu
đánh giá đặc diểm siêu
âm và liên hệ với triệu
chứng lâm sàng. Kết
quả:Các biểu hiện lâm
sàng gồm= Khối sờ
được (3 ca), tiết dịch
núm vú có máu (1 ca)
và bất thường siêu âm
ghi nhận được (2 ca).
Siêu âm vú cho thấy
khối dạng tròn hay bầu
dục (5 ca), hay dạng

ống (2 ca) với đường
viền tương đối rõ (2ca)
hay bờ có nhiều múi
nhỏ một phần (4 ca), và
có echo kém (4 ca)
hoặc đồng echo (2 ca).
Phần lớn là nốt đơn độc
(3 ca) hay thành nhóm
nốt (2 ca), cỡ 1cm hay
nhỏ hơn, trừ 1 khối
3,5cm có di căn hạch
nách. 2 ca có giãn ống
tuyến. Phân lọai theo
Breast Imaging Reporting và Data System
lọai 3 (2 ca), lọai 4A (3
ca) và 1 ca lọai 4B. Kết
luận: Carcinôm vú
dạng tiết thường có
dạng nốt lành tính hoặc
nhiều nốt hoặc đôi khi
có tổn thương trong
ống tuyến. Dù carcinoma vú dạng tiết hiếm
gặp nhưng các đặc
điểm siêu âm trên có
ích để chẩn đóan phân
biệt.
4: Phân biệt u bao
Schwann và u xơ thần
kinh ở chi và phần
nông cơ thể (Differentiation Between Schwannomas

and Neurofibromas in the
Extremities and Superficial
Body)
Wan-Chen Tsai, MD, HongJen Chiou, MD, Yi-Hong
Chou, MD, Hsin-Kai Wang,

Siêu âm ngày nay Tập 49 – Số 2/2008

MD, See-Ying Chiou, MD and
Cheng-Yen Chang, MD
Department of Radiology,
Taipei Veterans General Hospital, and National Yang Ming
University, School of Medicine, Taipei, Taiwan.

Mục tiêu: nhằm xác
định siêu âm với độ
phân giải cao và siêu
âm màu phân biệt u
bao Schwann và u xơ
thần kinh ra sao.
Phương pháp: Gồm 76
u ở 71 bệnh nhân trong
khảo sát này. Có 46
bệnh nhân (50 u) với u
bao Schwann và 25
bệnh nhân (26 u) với u
xơ thần kinh không lan
tỏa ở chi và phần nông
cơ thể. Tất cả đều được
làm siêu âm. Cỡ, dạng,

vị trí, độ sinh echo,
hiện tượng âm phía sau
u (bóng lưng hoặc tăng
cường âm), vỏ bao, liên
quan với thần kinh kế
cận và có tạo nang
không được ghi nhận.
Siêu âm màu Doppler
khảo sát (75 u) và khảo
sát phổ (44 u).Tất cả
dữ liệu được phân tích
bằng phần mềm thống
kê để xem có ý nghĩa
hay không. Kết quả:
Tất cả u là những nốt
echo kém. Chúng có
dạng bầu dục hay có
múi, có tăng âm sau và
nhiều mạch máu trên
siêu âm màu. Đặc điểm
hình thái siêu âm
không có khác biệt có ý
nghĩa. Tần suất đồng
tâm, không đồng tâm
và không kết hợp rõ
với thần kinh là 40%,
20%, và 40% ở u bao
Schwann và 46,2%,
0%, và 53,8% ở u xơ
14



CHÂN TRỜI SIÊU ÂM
thần kinh với khác biêt
có ý nghĩa (P = 0,032).
Không khác biệt có ý
nghĩa về sự tạo nang
giữa u bao Schwann
(30%) và u xơ thần
kinh (23%). Kết luận:
Không có dấu hiệu siêu
âm nào (thang xám,
Doppler màu, hay phân
tích phổ) giúp phân
biệt giữa u bao
Schwann (30%) và u
xơ thần kinh ở chi.
Hình ảnh 1 thần kinh
lệch tâm đi vào 1 khối,
chỉ thấy ở u bao
Schwann, có thể giúp
phân biệt u xơ thần
kinh

u
bao
Schwann.
5: Đặc điểm bệnh học
và siêu âm Cacinôm
giáp không sờ thấy

phát hiện bằng siêu
âm tại một trung tâm
y tế khám phát hiện
(Radiologic and Pathologic
Findings of Nonpalpable Thyroid Carcinomas Detected by
Ultrasonography in a Medical
Screening Center)
Ji Yang Kim, MD, Chang
Hyun Lee, MD, Soo Young
Kim, MD, Woo Ki Jeon, MD,
Jin Hwa Kang, MD, Su Kyung
An, MD and Woo Sun Jun,
MD
Seoul National University
Hospital, Healthcare Gangnam
Center, Seoul, Korea (J.Y.K.,
C.H.L., S.Y.K., W.K.J., J.H.K.,
S.K.A., W.S.J.); and Department of Radiology, Seoul
National University College of
Medicine and Institute of Radiation Medicine, Seoul National University Medical
Research Center, Seoul, Korea
(C.H.L.).

Mục tiêu: khảo sát đặc
điểm bệnh học và siêu
âm Cacinôm giáp
không sờ thấy và đưa
ra hướng dẫn đáng tin
cậy để chọc hút tế bào


với kim nhỏ, fineneedle
aspiration
(FNA). Phương pháp:
Nghiên cứu được ủng
hộ bởi Institutional
Review Board mà
không có văn bản ưng
thuận. Từ tháng Tư
2004 đến tháng Sáu
2006, siêu âm khám
phát hiện cho 16.352
bệnh nhân tự yêu cầu
tại trung tâm chăm sóc
sức khỏe. Trong số
1325 nhân giáp không
sờ thấy của 1009 bệnh
nhân, kết quả FNA
gồm 823 lành, 154
không xác định, 198
không chẩn đóan được
và 150 nhân ác tính. 58
nhân ác tính (39 vi vôi
hóa và 19 carcinôm lớn
hơn 1cm, xác định cả
bằng FNA và phẫu
thuật cắt giáp) ở 55
bệnh nhân và 82 nhân
lành (xác định bằng
FNA và 2 năm theo
dõi) ở 75 bệnh nhân

được phân tích. Có 3
người phân tích hồi
cứu đặc điểm siêu âm
của các nhân giáp
không sờ thấy này về
độ sinh echo, dạng,
đường viền, vôi hóa, độ
nang hóa và kích
thước. Chúng tôi so
sánh các đặc điểm bệnh
học và siêu âm giữa vi
vôi hóa và carcinôm
lớn hơn 1cm về xâm
lấn ngòai vỏ bao, hạch
di căn, 2 phía và đa
trung tâm khi phân tích
đơn giá ( bilaterality,
and
multicentricity
using univariate analysis). Kết quả: Echo

Siêu âm ngày nay Tập 49 – Số 2/2008

kém rõ, dạng không
đều, dạng cao-hơn rộng
(
taller-than-wide
shape), đường viền
không rõ (well-defined
spiculated margin), vi

vôi hóa và bản chất
hòan tòan đặc có ý
nghĩa tiên lượng ác
tính(P < .05), trong khi
giá trị ngưỡng 1cm cho
đường kính dài nhất lại
không có ý nghĩa (P =
.184). Tuy nhiên xâm
lấn ngòai vỏ bao (P =
.024) và di căn hạch (P
= .019) thường gặp ớ
carcinôm lớn hơn 1cm
(73,7% và 42,1% lần
lượt) hơn trong vi carcinôm
(38,5%

12,8%). Kết luận: Các
đặc điểm siêu âm gợi ý
ác tính được xem như
chỉ báo cho FNA,
không quan tâm đến
kích thước, ở các nhân
giáp không sờ thấy.
Tuy nhiên, xâm lấn
ngòai vỏ bao và di căn
hạch lại có liên quan
chặt chẽ với kích thước
của nhân giáp.
6: Kích thước đo siêu
âm dây thần kinh

Giữa (Reproducibility of
Sonographic Measurements of
the Median Nerve)
Luis Alemán, MD, Juan D.
Berná, MD, Manuel Reus, MD,
Francisco Martínez, MD, Ginés
Doménech-Ratto, MD and
Matilde Campos, MD
Department of Radiology,
Virgen de la Arrixaca University Hospital, El Palmar,
Murcia, Spain (L.A., J.D.B.,
M.R.); and Department of
Human Anatomy, Faculty of
Medicine,
University
of
Murcia, Murcia, Spain (F.M.,
G.D.-R., M.C.).

Mục tiêu: để đánh giá
tính có thể lập lại của

15


CHÂN TRỜI SIÊU ÂM
việc đo tiết diện dây
thần kinh giữa bằng
phương pháp gián tiếp
(công thức dạng bầu

dục, ellipsoid formula)
và phương pháp đo
trực tiếp hay phương
pháp
vẽ
(tracing
method). Phương pháp:
Đo tiết diện dây Giữa
ở 22 cổ tay bệnh nhân
có hội chứng ống cổ
tay bằng siêu âm độ
phân giải cao. Đo ở
ngang xương đậu cổ
tay theo protocol khám
siêu âm chuẩn hóa. 2
người khám với kinh
nghiệm khác nhau thực
hiện việc đo hòan tòan
độc lập và mù. Phân
tích thống kê về độ tin
cậy được tiến hành và
độ phù hợp giữa các
phương pháp được xác
định bằng các tests
tham số (parametric
statistical tests). Kết
quả: cho thấy tính lập
lại của việc đo tiết diện
dây Giữa bằng cả 2
phương pháp do ngừơi

khám có kinh nghiệm
và ngừơi khám ít kinh
nghiệm sau 1 thời gian
học ngắn. Kết luận: Kết
quả gợi ý rằng việc đo
siêu âm tiết diện dây
Giữa có tính lập lại cả
bằng phương pháp trực
tiếp hay phương pháp
gián tiếp khi có dùng
protocol khám siêu âm
chuẩn hóa.
Siêu âm chống u xơ tử
cung
Điều trị u xơ tử cung
không
cần
phẫu
thuật,và do đó không
phải mang sẹo do giải

phẫu cũng như không
cần phải gây mê, từ
nay là điều có thể thực
hiện được ở Pháp, nhờ
kỹ thuật siêu âm được
hướng dẫn bởi IRM
(imagerie par résonance
magnétique).
Nhờ nhiệt phóng xuất

ra từ các siêu âm, kỹ
thuật mới này, được
mệnh danh là Exablate
2000, làm hoại tử các
huyết quản của u xơ tử
cung vốn có rất nhiều
mạch máu. Mặc dầu
lành tính, tính đến ngày
nay, các u xơ tử cung
buộc phải thực hiện
phẫu thuật vì không
đáp ứng với điều trị nội
khoa trong 50% trường
hợp. 3000 phụ nữ ở
Hoa Kỳ và Anh đã
được điều trị bởi siêu
âm từ gần 6 năm nay
với tỷ lệ thành công
75%. Hiện tại ở Pháp,
bệnh viện Tours là
bệnh viện duy nhất có
thiết bị để điều trị theo
kỹ thuật mới này
Với kỹ thuật mới này,
bệnh nhân vẫn thức
tỉnh, nằm dài trong một
máy IRM được thích
ứng và cặp với một
máy đo siêu âm (une
sonde à ultrasons). Sau

khi đã định vị một cách
chính xác vùng cần
điều trị nhờ hình ảnh, «
người ta « bắn » vào u
xơ bằng các phóng xuất
siêu âm với một độ
chính xác 0,5 mm.
Trong các tuần lễ sau
đó, thể tích khối u thu
nhỏ lại.Và nhiên hậu
các cơn đau đớn và sự

Siêu âm ngày nay Tập 49 – Số 2/2008

băng huyết sẽ biến
mất.. Giáo Sư François
Tranquard, phụ trách
phòng siêu âm của
bệnh viện Tours đã xác
định như vậy. Cùng với
các đồng nghiệp, thầy
thuốc phụ khoa Henri
Marret và chuyên viên
quang tuyến thần kinh
Denis , ông đã điều trị
bệnh nhân đầu tiên vào
tháng 7.Thời gian thực
hiện kỹ thuật kéo dài (3
giờ) nhưng thời gian
bệnh nhân nằm bất

động ngắn hơn so với
phẫu thuật cắt bỏ tử
cung : 24 giờ thay vì 18
ngày !
Exablate 2000 vừa bổ
sung hai phép điều trị
khác đang được sử
dụng : cắt bỏ u cơ
(myomectomie : phẫu
thuật ngoại khoa nhằm
cắt bỏ các u xơ ít lớn )
và thủ thuật gây nghẽn
mạch (embolisation des
vaisseaux : chích vào
mạch máu các bi
acrylique
(billes
d’acrylique) để làm tắc
các mạch máu. « Ngoài
một vài u xơ tử cung,
chúng tôi cũng sẽ điều
trị các di căn xương
gây đau đớn », nhà
chuyên gia xác nhận
như vậy. Những can
thiệp trên các di căn
khác và ngay cả trên
vài ung thư đã được
được dự kiến.Trung
tâm bệnh viên đại học

Bordeaux chẳng bao
lâu cũng sẽ có được kỹ
thuật mới này.

16


NGHỊCH

ÐẠI
PHÁP(FRENCH
PARADOX)
Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức
Vào tối Chủ Nhật ngày 17
tháng 11 năm 1991, chương
trình “60 Minutes” của đài
truyền hình CBS đã nêu ra
một sự kiện làm xôn xao y
giới cũng như công chúng
khắp nơi. Ðó là sự liên hệ
giữa ẩm thực của con dân
nước Pháp với bệnh tim
mạch.
Họ ăn nhiều chất béo động
vật như pate, bơ, kem,
fromage, uống rượu vang
như uống nước lã, hút thuốc
Gaulois liên miên và ngọa
triều tĩnh tại cũng lắm. Toàn
những thứ mà mọi người

kết tội là thủ phạm có
thểgây rủi ro cho tắc nghẽn
mạch máu, đột quỵ, suy
tim.Vậy mà họ ít bị những
cơn heart attack nhất trên
thế giới.
Ðây là điều có vẻ như không
hợp logic nhưng lại đúng và
khó bác bỏ. Và công luận
đặt tên cho hiện tượng đó là
The French Paradox- Nghịch
Lý Ðại Pháp.
Chỉ mấy tuần lễ sau thảo
luận thì số rượu vang bên
Mỹ bán ra tăng tới 40%. Và
các nhà y khoa học trên
hoàn vũ đều ngạc nhiên về
sự kiện tưởng như tréo cẳng
ngỗng nhưng chứng cớ rành
rành cũng như họ đang
hăng say nghiên cứu, tìm
hiểu nguyên do và có thể
bắt chước.
Thực ra tác dụng của rượu
trên sức khỏe đã được công
chúng biết tới từ thuở xa
xưa, khi rượu được gọi là
“spirits”, một thứ làm linh
hồn lâng lâng, yêu đời.
Vào thế kỷ thứ 8, hóa học

gia Ả Rập Geberius gọi rượu
là Nước Sinh Lực- Aqua
Vitae. Và qua dòng lịch sử

của nhân loại, rượu có vai
trò đáng kể trong các nghi
thức tôn giáo, giao tế, vui
mừng, hoặc trong y học,
thay nhiên liệu, dùng làm
thuốc nổ.
Rượu là dược phẩm được
phát hiện sớm nhất trên trái
đất và đã được dùng trị
bệnh ở Tây phương cho tới
thế kỷ thứ 18, khi con người
đặt ra các luật lệ để giới hạn
sự lạm dụng rượu cho mục
đích lạc thú cá nhân.
Sử gia kiêm triết gia
Plutarch Hy Lạp (46-120 AD)
đã viết rằng Rượu Vang là
môn thuốc trị bệnh dễ chịu
nhất.
Lang y Nicander (200 BC)
khuyên dùng Rượu Vang
pha loãng với nước để chữa
phản ứng với cây Ðộc Cần
(Hemlock). Y Sĩ Hy Lạp
Dioscorides
(40-90

AD)
dùng Rượu Vang làm thuốc
tê để mổ xẻ bệnh nhân.
Phẫu thuật gia Hy Lạp Paul
of Aegina (629-690) dùng
Rượu Vang trị nhiều bệnh
nặng nhẹ khác nhau.Thầy
Cả Paul khuyên Timothy
uống Rượu Vang để giảm
cơn đau bụng và vài khó
khăn khác của cơ thể.
Ngay từ thế kỷ 13, Y Sĩ Ý
Ðại Lợi Arnold of Villanova
đã trình bầy vai trò của
Rượu Vang trong dinh
dưỡng và y thuật. Và thủy
tổ y học Tây phương
Hippocrates đã dùng rượu
để chữa nóng sốt, khử
trùng, băng rửa vết thương
hoặc làm thuốc lợi tiểu.
Bên Á Ðông, rượu được coi
như một dược phẩm đứng
đầu các thuốc (Tửu vi bách
dược chi trưởng).
Cụ
Hải
Thượng
Lãn
Ông từng khuyên “Bán dạ

tam bôi tửu, Lương y bất
đáo gia”.
Danh y Lý Thời Trân của
Trung Hoa khi xưa nhận
định rằng uống một ít rượu
làm khí huyết lưu thông,
uống nhiều làm hại tinh
thần, tổn thương tinh dịch
bao tử, kích thích hỏa tà.
Các tôn giáo lại có quan
điểm khác nhau đối với
rượu.
Trong Tân Ước, Chúa Jesus

Siêu âm ngày nay Tập 49 – Số 2/2008

nói với các môn đồ hãy
uống rượu vang để nhớ tới
máu của Người đã đổ ra để
cứu rỗi nhân loại. Do đó
rượu vang là một nghi thức
không thể thiếu trong thánh
lễ.
Phật giáo thì nghiêm khắc
hơn, coi “Rượu là thứ làm
cho người uống phạm vô
lượng tội ác, tâm tánh mê
loạn”.
Kinh Coran ghi rượu là sản
phẩm của Satan nên nhà

Tiên Tri Muhammad nói với
các tín đồ rằng nếu đang
say thì đừng cầu nguyện.
Thế nhân nhìn rượu dưới
nhãn quan hơi trần tục
nhưng dễ thương.
Theo Plato “ Không có gì
tuyệt vời hoặc giá trị hơn là
rượu vang mà Thượng Ðế
đã ban cho loài người”.
Bác học Louis Pasteur của
Pháp cho rằng “Rượu vang
là món giải khát lành mạnh
và vệ sinh nhất”.
Khi bị vợ trách nhẹ là ông có
vẻ thích rượu rồi đó, thì Thủ
Tướng Anh Churchill bèn trả
lời: “ Bà nó ơi, tôi đã lấy từ
rượu ra nhiều cái hay hơn là
rượu rút ra từ tôi”
Còn thi sĩ Tú Xương ta than
phiền:

“Một chè một rượu một đàn
bà,
Ba cái lăng nhăng nó quấy
ta”
Bợm nhậu thì tự an ủi:

“Chúa Chổm uống rượu tì tì

Thác xuống âm phủ khác gì
vua Ngô”.
Và Trần Huyền Trân tâm
tình với tóc bạc Tản Ðà:

“Nguồn đau cứ rót cho
nhau,
Lời say sưa, mới là câu chân
tình”.
Coi vậy thì rượu
cũng có nhiều điểm dường
như tốt đối với cơ thể đấy,
phải không thưa quý thân
hữu. Và cũng vì tốt nên mới
nẩy ra “Nghịch Lý Ðại Pháp”
để y khoa học nghiên cứu,
tìm hiểu. Cũng như mới có
Hội Nghị Quốc Tế về Wine &
Health lần 3 ở Silverado
Resort, California vào tháng
5, 2005 vừa qua.
Trong New England Journal
of Medicine ngày 9 tháng

17


CHÂN TRỜI Y HỌC
Giêng năm 2003, bác sĩ
Kenneth J. Mukamal và Ira

Goldber
của
Ðại
Học
Harvard công bố kết quả
nghiên cứu của họ về liên
hệ giữa rượu và bệnh tim.
Họ theo dõi 38.000 người
đàn ông trong 12 năm và
thấy những ai uống la de,
wine hoặc rượu mạnh đều
đặn và vừa phải mỗi ngày
có thể giảm nguy cơ heart
attack tới 37%. Nghiên cứu
được National Institute of
Health tài trợ.”
Vào năm 2001, trên Tạp
San của Hội Y Khoa Hoa Kỳ,
các bác sĩ Jerome L
Abramson và Harlan M
Krumholz của Ðại Học
Atlanta cho hay “ Uống
nhiều rượu sẽ đưa tới Suy
Tim nhưng nếu uống vừa
phải thì người cao tuổi sẽ
giảm được nguy cơ của
bệnh này”.
Bác sĩ Arthur Klasky, chuyên
gia về Tim ở Oakland,
California, là một trong

những người đầu tiên để ý
tới tác dụng tốt của rượu với
tim. Cách đây gần 30 năm,
khi so sánh hồ sơ bệnh lý
của trên 100.000 bệnh
nhân, ông ta thấy những
người không uống rượu đều
bị nhồi máu cơ tim nhiều
hơn những người uống vừa
phải.
Khi theo dõi 85.000 nữ điều
dưỡng tuổi từ 34 đến 59
trong thời gian 12 năm, các
nhà khoa học của Ðại Học
Harvard cũng đi đến kết
luận tương tự. Tiến sĩ Eric
Rimm của đại học này đã
quan sát 44.000 nam nhân
viên y tế trong vòng 2 năm
và thấy là những ai uống hai
drinks mỗi ngày thì có tới
30% ít bị nguy cơ đau tim
hơn người uống nửa drink.
Các dữ kiện do viện Ung
Thư Hoa Kỳ quan sát trên
một triệu người Mỹ tại 25
tiểu bang cho thấy uống
một drink mỗi ngày thì nguy
cơ bị cơn suy tim ít hơn
người không uống tới 25%.

British Medical Journal số
ngày 22-2-22005 có đăng
kết quả nghiên cứu bên
Thụy Ðiển theo đó phụ nữ
uống rượu vang vừa phải thì

nhịp tim đập sẽ tốt hơn.
Giáo sư Emanuel Rubin và
các nhà nghiên cứu của đại
Học
Y
khoa
Thomas
Jefferson, Philadelphia, cho
hay uống vang đỏ giúp giảm
thiểu các chất gây viêm ở
động mạch, nhờ đó tránh
được bệnh tim và tai biến
não.
Ðể giải thích tại sao có ích
lợi này thì các khoa học gia
tại bệnh viện Queen Mary,
Luân Ðôn cho hay vang đỏ
chứa mấy chất có thể ngăn
ngừa chứng thoái hóa động
mạch vì mỡ béo đọng lại.
Trong tạp san của Hôi Y Học
Hoa Kỳ số tháng 10 năm
1995, Tiến sĩ Robert M.
Hackman, Ðại học Davis ở

California cho rằng rượu
vang đỏ có chất flavonoids.
Ðây là một loại chống oxy
hóa rất mạnh có thể ngăn
ngừa tác dụng xấu của các
gốc tự do vào các bệnh
thoái hóa, vài loại ung thư,
sự lão hóa. Chất Chống Oxy
hóa là những chất có thể
bảo vệ tế bào trước phản
ứng oxy hóa của các phần
tử
gốc
tự
do
free
radicals. Flavonoids giảm sự
dính với nhau của tiểu cầu,
máu lưu thông dễ dàng do
đó giảm thiểu nguy cơ cơn
Suy Tim và Tai Biến Mạch
Máu Não.
Bác sĩ Bagrachi của Ðại học
Creighton Omaha Nevada
cho hay flavonoids mạnh
hơn các chất chống oxy hóa
khác như sinh tố C, E và
beta caroten tới bẩy lần.
Kết quả nghiên cứu tại hai
Ðại Học Y Khoa London và

Queen Mary bên Anh cho
hay là trong vỏ nho, trà có
các
chất
Flavonoid,
Polyphenol,
Reservatrol,
Quercetin. Tạp San Sinh
Hoạt Hoa Kỳ số cuối năm
2004 cho hay reservatrol
giúp các cơ thịt của tim hoạt
động hữu hiệu hơn, nhất là
khi cơ thể có căng thẳng.
Theo một số nghiên cứu,
rượu vang đỏ mới có các
chất này vì vỏ nho được giữ
lại khi làm rượu, còn khi làm
vang trắng thì người ta bỏ
vỏ nho đi.Vì thế các nghiên
cứu gia của viện thí nghiệm

Siêu âm ngày nay Tập 49 – Số 2/2008

Aviram bên Do Thái đã công
bố phương thức để tăng
cường tính chống oxy hóa
của vang trắng tương
đương với vang đỏ.
Nhưng cũng có ý kiến lại
cho là, người uống rượu

vang thường ở giai cấp khá
giả, ít hút thuốc và ăn uống
chừng mực, đầy đủ dinh
dưỡng hơn, nên ít bệnh tim
mạch..
Trước những kết quả nghiên
cứu được công bố khắp nơi,
Bộ Y tế Hoa Kỳ và Tim Mạch
Hoa Kỳ cũng phải thừa nhận
là uống một chút rượu vang
có thể có tác dụng tốt cho
trái tim.
Còn quan điểm của Hội Y Sĩ
Hoa Kỳ là các chất mà
nghiên cứu nói có trong
rượu thì cũng có trong thực
phẩm như nho và nước nho.
Vì thế hội này không khuyến
khích người chưa uống vang
bao giờ lại bắt đầu uống để
hy vọng có ích lợi cho sức
khỏe. Theo hội, nếu đã
uống rồi thì nên điều độ với
350cc la de, 50 cc rượu
vang, 5 cc rượu 80° mỗi
ngày hai lần cho người nam,
một lần cho người nữ.
Dè dặt về số lượng này thì
trong Tân Ước đã nhắc nhở:
“Nếu con uống rượu điều độ

thì rượu sẽ làm con sống vui
tươi hơn; trái lại nếu uống
quá độ thì tâm hồn trở nên
cay đắng, thân xác hung
hãn”.
Cũng như trên mỗi chai
rượu
đều

ghi
“Consumption of alcoholic
beverages
impairs
your
ability to drive a car or
operate machinery, and may
cause health problems”.
Uống Rượu gây làm suy yếu
khả năng lái xe và đưa tới
nhiều vấn đề xấu cho sức
khỏe”.
Và Cụ Lãn Ông thường ân
cần khuyên nhủ “nhất dạ
tam bôi tửu” thôi, bà con
nhé. Bôi của các cụ nhỏ xíu
à.
Ngoài ra khi dùng vừa
phải, Rượu cũng có một số
tác dụng tốt khác cho sức
khỏe như:

a-Kích thích ăn ngon
miệng.

18


CHÂN TRỜI Y HỌC
Ta thường nói uống chút
rượu khai vị với mục đích là
nhâm nhi tý rượu trước bữa
ăn để kích thích khẩu vị.
Thường thường rượu mạnh
được dùng trong tiến trình
này, nhưng rượu bia , rượu
vang cũng tốt. Mà bia chỉ
một lon, rượu mạnh một ly
thật nhỏ thôi.
Thiên hạ nhấm nháp ướt
miệng như là để khơi động
những nụ vị giác trên lưỡi,
để tăng hoạt động của hạch
nước miếng cũng như để
bao tử tiết thêm dịch vị cho
sự tiêu hóa bữa ăn thịnh
soạn sắp có. Ðồng thời rượu
cũng làm tăng cảm giác đói
nên trong các bữa tiệc có
rượu, ta thường ăn nhiều
hơn.
Trong nghành y, các vị thầy

thuốc thường khuyên người
cao tuổi, người mới bình
phục sau cơn bệnh nặng,
những người không bị bệnh
bao tử uống một chút rượu
trước bữa cơm để vừa dễ
tiêu hóa vừa ngon miệng
hơn.
Nhưng một chút thôi đấy,
chứ không phải dăm lon la
de, vài cốc wisky, một chai
vang, nhiều lần trong ngày.
b- Giảm cholesterol.
Tháng Chín năm 2003, tiến
sĩ Andrew Waterhouse tại
Ðại học Davis-California đã
tường trình tại hội nghị các
hóa học gia Hoa Kỳ rằng
trong vang đỏ có chất
Saponins có khả năng giảm
cholesterol trong máu.
Bác sĩ Peter Cremer của Đại
học Gottingen bên Đức có
cùng kết luận nhưng thêm
rằng rượu chỉ tốt với người
có mức độ cholesterol trung
bình, chứ cao trên 230
mg/dl thì ít phúc lợi. Các
chất này tăng HDL và giảm
LDL trong máu, ngăn ngừa

sự oxy hóa LDL nhờ đó các
mảnh bựa chất béo ít thành
hình.
c-Giảm nguy cơ tai biến
động mạch não.
Tháng Giêng năm 1999,
nghiên cứu tại Bệnh viện
New York Presbyterian công
bố kết quả về việc quan sát
677 người uống lượng rượu
trung bình mỗi ngày: họ đều

có ít nguy cơ tai biến não
gây ra do đóng máu cục
trong thành động mạch não.
Bằng cách nào mà rượu có
ảnh hưởng tốt này, thì chưa
được giải đáp, nhưng điều
chắc chắn là những người
uống nhiều rượu sẽ dễ bị tai
biến não hơn.
Và nếu ai đang uống nhiều,
bây giờ giảm xuống thì cũng
có cùng phúc lợi.
d-Rượu và trí tuệ.
Kết quả nghiên cứu của
Institution
Nationale
de
Sante’ bên Pháp cho thấy

nữ giới cao tuổi mà uống
một suất vừa phải rượu mỗi
ngày thì các chức năng của
não coi bộ khá hơn: họ ít
nguy cơ bị sa sút trí tuệ.
Trong đại hội Quốc tế năm
2000 về bệnh Alzheimer tại
thủ đô Washington D.C.,
bác sĩ Lindsay A. Farrer có
trình bày là những ai uống
một hoặc hai ly vang mỗi
ngày thì có thể giảm nguy
cơ mắc bệnh này tới 30%.
Theo ông ta thì rượu làm
tăng máu lưu hành lên não
và rượu cũng có những
antioxidant giúp tế bào não
tốt lành hơn.
Mới đây, tập san y học uy
tín Lancet đăng kết quả một
nghiên cứu bên Hòa Lan về
rượu với Sa Sút Trí Tuệ.
Theo báo này thì một hai
drink rượu mỗi ngày có thể
ngăn ngừa bệnh Alzheimer.
Kết quả nghiên cứu của
Giáo

Jean-Francois
Dartigues bên Pháp: theo

dõi hơn 4000 người trên 65
tuổi trong mấy năm liền,
thấy người uống từ ¼ tới ½
lít vang một ngày dường
như tinh tường tỉnh táo hơn
người không uống.
Lý do được giải thích là một
chút rượu làm máu loãng
hơn, làm giảm cholesterol,
máu lưu thông không trở
ngại.
Một giải thích khác là rượu
vừa phải kích thích não tiết
thêm hóa chất acetylcholine,
một chất giúp học hiểu và
ghi nhớ tốt hơn.
e-Ảnh hưởng tâm thần.
Một ly rượu có thể làm êm
dịu người đang bồn chồn, lo
lắng hoặc tạo một cảm giác

Siêu âm ngày nay Tập 49 – Số 2/2008

thân thiện giữa con người
với con người. Cho nên
trong những bữa ăn giao tế,
đưa đà một chút rượu là vật
xúc tác tốt cho thảo luận
công kia việc nọ. Như ca
dao ta có câu: “Xưa kia ai

biết ai đâu; Vì chung chén
rượu mở đầu làm quen”.
Khác chi “Miếng trầu là đầu
câu chuyện” của các bà mẹ
Việt Nam mình xưa nay.
Nhưng cũng nên nhớ “ Rượu

lạt uống lắm cũng say;
Người khôn nói lắm, dẫu
hay cũng nhàm”

Kết luận
Ðề tài “The French Paradox”
vẫn chưa được giải quyết
thỏa đáng và cần nhiều
nghiên cứu nữa để xác định
vai trò của “một bôi rượu”
với trái tim. Có phải tác
dụng tốt là do thành phần
hóa chất của rượu, số lượng
tiêu thụ hoặc cách tiêu thụ.
Trong khi chờ đợi thì ta cứ
từ từ cẩn tắc vô ưu, cân
nhắc phúc họa của rượu. Vì
rượu được biết tới từ nhiều
chục ngàn năm. Người uống
cũng nhiều mà người không
cũng chẳng ít. Hậu quả tốt
cũng có, mà xấu đếm cũng
chẳng xuể.

Hơn nữa, rượu không phải
là thần dược cho mọi bệnh
và không phải thích hợp với
mọi người.
Vậy thì cũng chẳng nên
uống khi đang có rối loạn
tâm can tỳ phế, hoang
tưởng tâm thần; chẳng
uống khi có thai, nuôi con
sữa mẹ; chẳng tập tành tiêu
thụ khi chưa hề uống bao
giờ.
Ðành rằng một suất vang
mỗi ngày giúp giảm thiểu
nguy cơ bệnh tim và tai biến
não nhưng quá nhiều thì tim
lại dễ suy, huyết áp lên cao,
ung thư xuất hiện, nội tiết
bất thường.
Cho nên nếu biết lấy lẽ vừa
phải, lấy điều độ làm kim chỉ
nam, thì chắc rượu sẽ mang
lại phúc nhiều hơn họa và
cuộc sống chắc sẽ nhiều vui
ít buồn.
Ðể rồi cùng nhau theo chân
Tam
Nguyên
Nguyễn
Khuyến mà:


“Lúc hứng đánh thêm ba

19


CHÂN TRỜI Y HỌC
chén rượu,
Khi buồn ngâm láo một câu
thơ” .
Cho đời thêm thi vị.
Bác sĩ Nguyễn Ý-Ðức
Texas- Hoa Kỳ
GHÉP VÀO TRONG DẠ
DÀY, MỘT MÁY TẠO
NHỊP LÀM MẤT CẢM
GIÁC ĐÓI
Làm mất cảm giác ngon
miệng của những người
thèm ăn bằng cách gởi một
luồng điện vào trong não bộ
của họ. Giáo sư CharlesHenri Malbert đã tin như
vậy! Với nhóm nghiên cứu
gồm nhiều nghành khác
nhau của Inra (Rennes),
ông vừa đưa đơn văn bằng
sáng chế của một máy tạo
nhịp (pacemaker) có thể
cắm vào trong dạ dày. Máy
bắt chước các tín hiệu chạy

theo dây thần kinh phế vị
(nerf vague) lên đến não bộ
và làm nảy sinh cảm giác no
nê. Máy tạo nhịp này được
điều khiển qua da (trancutanée) này hiện nay đang
được nghiên cứu trên heo
mắc chứng béo phì : con
heo mang máy tạo nhịp
giảm lượng thức ăn ăn vào
và thay đổi thức ăn được ưa
thích (chọn đồ ăn nhiều sợi
hơn là glucides) Hiện nay
còn cần phải biết xem khám
phá không có tác dụng phụ
này ở đông vật sẽ có thể áp
dụng được trên người hay
không (Science et Vie
11/2007)
HỌC CAO THÌ SẼ SỐNG
LÂU
(last updated: 5/2008. M.T.
Theo Xinhua)
Bạn có trình độ giáo dục
càng cao, thì tuổi thọ của
bạn càng kéo dài. Nguyên
nhân là do những người có
học sẽ có nguồn lực tài
chính tốt hơn, khả năng tiếp
cận với dịch vụ chăm sóc
sức khỏe cao và công việc

ổn định hơn.
Nghiên cứu mới cho thấy
khoảng cách giữa tỷ lệ tỷ
vong của người Mỹ chưa
học hết trung học với những
ai đã tốt nghiệp đại học
đang ngày càng lớn từ năm
1993 đến 2001.

Sự mở rộng này là kết quả
của việc suy giảm đáng kể
những trường hợp chết vì
mọi nguyên nhân ở những
người học cao nhất (36% ở
đàn ông da đen và 25% ở
đàn ông da trắng).
Ngược lại, tỷ lệ qua đời vì
mọi nguyên do ở những
người học chưa hết trung
học lại tăng mạnh. Con số
gia tăng cao nhất ở phụ nữ
da trắng chưa học hết phổ
thông (3,2%/năm).
"Những người học ít thì
cũng có ít nguồn lực tài
chính hơn, ít có cơ hội tiếp
cận tới việc chăm sóc sức
khỏe hay có một công việc
ổn định, và cũng ít hiểu biết
về sức khỏe. Kết quả là, tỷ

lệ tử vong ở người có giáo
dục giảm hẳn, trong khi xu
hướng lại tồi tệ hơn ở
những người ít học", tiến sĩ
Otis W. Brawley tại Hiệp hội
ung thư Mỹ nhận định.
VỚI NGƯỜI ÂU MỸ, PHẢI
CHĂNG HẠNH PHÚC CHỈ
LÀ SỰ KHOÁI LẠC?
Thắc mắc của bạn, thực ra
là một tiểu luận mà xưa nay
đã được triền miên bàn cãi
và chưa có một “chân lý”
dứt khoát nào. Do đó,
những dòng ghi nhận dưới
đây gởi đến bạn, hy vọng
được coi như ý kiến tổng
hợp của nhiều nhà tâm lý,
xã hội học Đông Tây đã dày
công nghiên cứu và phân
tích.
Hạnh phúc là một trong
những cảm giác tuyệt vời
nhất của con người thể
nghiệm trong cuộc đời.
Người mẹ cảm thấy nhẹ
nhõm khi căn bệnh của đứa
con thuyên giảm. Người
nghiện khoan khoái sau khi
hút một điếu thuốc. Bà nội

trợ cảm thấy hãnh diện sau
khi làm món ăn được nhiều
người khen. Cậu sinh viên
thở phào sau đợt thi cử dài
ngày. Cậu thanh niên thấy
tim mình như “nở” ra sau
buổi tối đi chơi với người
tình... Thậm chí, động vật
cũng có cảm giác thoải mái
khi đạt được một điều gì đó.
Thử quan sát con chuột sau
khi thoát ra khỏi bẫy, người
ta thấy ngay sự hứng khởi

Siêu âm ngày nay Tập 49 – Số 2/2008

của nó. “Nét mặt” của con
lợn dường như giãn ra sau
khi được cho ăn đầy đủ...
Trong nhiều trường hợp,
hạnh phúc này sinh sau khi
khoái cảm đã xuất hiện. Bởi
thế, hạnh phúc đôi khi
không khó tìm lắm nhưng
thật mong manh và chóng
tàn.
Có lẽ chính bởi thế, Phật
giáo quan niệm rằng việc
kiếm tìm hạnh phúc hệt như
chuyện đuổi theo cái bóng.

Ngược lại, những người theo
chủ nghĩa khoái lạc ở Hy
Lạp thời cổ đại cho rằng,
hạnh phúc cũng như khoái
cảm có giá trị gần như vĩnh
viễn. Do đó, theo họ, tình ái
không đem lại hạnh phúc vì
tình yêu sẽ tạo ra đau đớn
một khi tan vỡ. Môn đồ của
chủ nghĩa khoái lạc cho rằng
họ có thể làm chủ hạnh
phúc chứ không thể là nô lệ
cho hạnh phúc. Họ tự tạo ra
nhiều phương cách để
hưởng lạc. Tuy nhiên, chính
quan niệm này đã làm hoen
ố khái niệm hạnh phúc. Chủ
nghĩa khoái lạc khai sinh các
đấu trường đẫm máu và
nước mắt cũng như tạo ra
nhiều nỗi thống khổ của
những nô lệ. Khi Thiên chúa
giáo xuất hiện, hạnh phúc bị
xem thường vì tôn giáo này
(vào buổi sơ khai) không
chấp nhận hạnh phúc trần
tục.
Hạnh phúc lại có cơ hội
thăng hoa khi Dante bước
vào thi đàn thế giới. Những

vần thơ ngợi ca cái đẹp và
sự hoan lạc của thi sĩ Ý này
trở thành một học thuyết về
hạnh phúc. Từ đó, người ta
nhận thấy hạnh phúc ẩn
hiện khắp nơi, từ một cuộc
đi dạo trên bãi biển, một
ngụm rượu ngon, đến mùi
hương hoa nhài... Sau
Dante, nhiều thi sĩ và văn
hào khác lần lượt xuất hiện
với hàng loạt tác phẩm ngợi
ca cái đẹp và niềm hạnh
phúc lãng mạn đôi khi phi
thực tế. Tuy thế, hạnh phúc
cũng có hai mặt. Hạnh phúc
của người này có thể là nỗi
thống khổ của kẻ khác.
Thành Cát Tư Hãn từng nói:
“Hạnh phúc là chinh phục

20


CHÂN TRỜI Y HỌC
được kẻ thù, xua đuổi họ,
chiếm đoạt tài sản của họ,
nhấm nháp nỗi thống khổ
của họ, cưới thê thiếp và
con gái của họ.”

Đến thế kỷ XX và hiện nay,
nhân loại càng tỏ ra ưu tư
hơn về cái gọi là hạnh phúc.
Lần này, trên diễn đàn có sự
góp mặt của giới khoa học.
Hạnh phúc theo chân nhà
khoa học vào phòng thí
nghiệm. Vài kết quả nghiên
cứu cho thấy hạnh phúc này
sinh khi nhiều hóa chất
trong cơ thể tương tác với
nhau. Nhà tâm lý học William James cho rằng, não có
thể diễn dịch những cảm
xúc nằm dưới... cổ! Những
người khác lại cho rằng cảm
xúc xuất hiện ở não bộ, dẫn
đến các phản ứng tương
ứng của cơ thể, như run rẩy
khi sợ hãi hay vui sướng, và
thậm chí la hét để bộc lộ sự
hưng phấn tột độ. Năm
1872, bác sĩ Camillo Golgi
bắt đầu khám phá thành
phần cơ bản của não bộ là
neuron và chính neuron chứ
không phải tác nhân nào
khác đã tạo ra cảm xúc.
Trong thập niên 1920, nhà
dược học Đức Otto Loewi đã
phát giác lần đầu tiên chất

dẫn truyền thông tin giữa
các neuron (neurotransmitter). Cũng trong khoảng thời
gian này, nhà phẫu thuật
thần kinh Canada, Wilder
Penfield, đã thực hiện thí
nghiệm đưa xung điện vào
não để kích thích cảm xúc
và phục hồi trí nhớ cho một
số bệnh nhân tâm thần. Đến
năm 1954, hai nhà phân
tâm học James Olds và
Peter Milner đã gây chấn
động khi phát hiện được “cơ
chế” sinh ra hạnh phúc nhờ
một thí nghiệm ngẫu nhiên.
Thí nghiệm đó như sau: khi
nghiên cứu cơ chế hoạt
động của não chuột, hai nhà
khoa học này đặt một điện
cực vào một nơi mà sau này
họ phát hiện rằng đó chính
là trung tâm tạo ra khoái
cảm trong não; sau khi kích
điện vào trung tâm ấy,
chuột có những hành động
tương tự như khi động dục.
Ngoài các neuron, vài hóa

chất trong cơ thể cũng góp
phần đem lại cảm giác thỏa

mãn, chẳng hạn serotonin,
dopamine và nhất là endorphin - một loại morphin tự
nhiên trong cơ thể. Các
nghiên cứu cho thấy nếu
endorphin rơi đúng vào các
tế bào cảm nhận của hệ
thần kinh - như chìa khóa
lọt vào đúng ổ - cảm giác
hưng phấn lên đến đỉnh
điểm. Chính xác hơn, cảm
giác hạnh phúc không đơn
thuần sinh ra từ não mà
luôn luôn có sự kết hợp các
hóa chất khác nằm khắp nơi
trong cơ thể qua máu. Do
đó, cảm giác thỏa mãn
không những khiến tâm trí
thoải mái mà còn làm cho
cả cơ thể nhẹ nhõm như
muốn bay bổng.
Tuy nhiên, ngay cả giới
khoa học cũng phải thừa
nhận rằng hạnh phúc là một
khái niệm rất trừu tượng,
thuộc về tư duy nhiều hơn
là vật chất cụ thể. Có lẽ trên
bình diện suy lý, các nhà tư
tưởng có chỗ đứng vững
hơn với nhiều lý thuyết
phong phú. Khái niệm hạnh

phúc của Phật giáo mang
nặng yếu tố tinh thần và
đạo đức. Con người không
thể đạt được hạnh phúc khi
gây điều ác cho kẻ khác.
Hạnh phúc theo quan niệm
của Thành Cát Tư Hãn hoàn
toàn chỉ là cảm giác tự mãn.
Muốn kiếm tìm hạnh phúc,
theo nhà Phật, trước hết
con người phải di dưỡng
tinh thần, làm việc thiện và
từ bỏ những ý đồ xấu.
Tùy từng lĩnh vực và phạm
vi, hạnh phúc có thể mang
nhiều ý nghĩa thậm chí trái
ngược nhau. Hạnh phúc của
vài nhà quân sự là khai mở
binh đao, trong khi hạnh
phúc của nạn nhân chiến
tranh là chấm dứt những
cuộc giao tranh. Hạnh phúc
của bố mẹ là thấy con
ngoan nhưng hạnh phúc của
một số con cái là thoát khỏi
cặp mắt quan sát của cha
mẹ. Hạnh phúc của kẻ mới
yêu nhau là hôn nhân để rồi
họ lại cảm thấy “thật sự
hạnh phúc” khi ly dị nhau

vài năm sau đó. Hạnh phúc

Siêu âm ngày nay Tập 49 – Số 2/2008

của trẻ nhỏ nảy sinh khi cha
mẹ vắng nhà nhưng hạnh
phúc của chúng khi trưởng
thành là được tự tay chăm
sóc cha mẹ. Hạnh phúc của
nhà buôn là bán đắt trong
khi niềm sung sướng của
người mua là bỏ ra ít tiền.
Cảm giác đắc thắng của một
tay chuyên săn lùng mỹ
nhân luôn xuất hiện đồng
thời với nỗi thống khổ của
người con gái bị bỏ rơi...
Cảm giác hạnh phúc thay
đổi theo năm tháng. Trẻ con
cảm thấy hạnh phúc khi
được xem tivi suốt ngày
nhưng khi lớn hơn chúng lại
thích lang thang ngoài phố.
Hạnh phúc cũng khác nhau
tùy theo giới tính. Con gái
thích làm dáng trong khi con
trai khoái “làm bộ làm tịch”
để có được cảm giác thỏa
mãn ngầm. Hiện tượng này
có khi không mờ phai theo

thời gian mà biến dạng
thành một kiểu làm dáng
“nâng cao”, thậm chí có cả
sự khéo léo và tính toán.
Tuy nhiên, hạnh phúc có
nhiều điểm chung cho bất
cứ ai. Mọi người đều cảm
thấy hạnh phúc khi không
khí gia đình êm ấm và con
cái ngoan hiền. Ai cũng có
cảm giác khoái trá khi được
ngợi khen và tâng bốc. Rốt
cục, hình như hạnh phúc chỉ
là một “cảm giác” sinh ra từ
trí tưởng tượng, có khi
không thật nhưng đôi lúc lại
tồn tại quanh quất đâu đó
mà không được biết đến.
LÂM HUỀ VỐN
TRUY TẦM H. PYLORI
BẰNG PHƯƠNG PHÁP
ĐỒNG VỊ PHÓNG XẠ
Phương pháp thử nghiệm đo
14C u-rê trong hơi thở của
bệnh nhân. Phân hóa tố
urease không có trong tế
bào động vật có vú, như loài
người chẳng hạn. Bởi vậy
nếu bao tử có u-rê là có thể
có vi trùng H. Pylori. Lý do

thứ nhất là bởi chỉ có H.
Pylori trong bao tử mà ít
khó những vi trùng khác
trong bao tử.
Bệnh nhân được cho uống
một viên thuốc con nhộng
chứa u-rê móc vơí một đồng

21


CHÂN TRỜI Y HỌC
vị phóng xạ 14C. Công thức
hóa học là CO (NH 2) 2
nguyên tử carbon. Thuốc
uống 3 phút thì được hòa
tan trong bao tử. Nếu có sự
hiện diện của H. Pylori thì
phân hóa tố urease của vi
trùng H. Pylori sẽ phân giải
u-rê thành NH và khí carbonic 14CO2. Khí 14CO2
được hấp thụ vào máu và
toát ra hơi thở. Mười phút
sau khi uống thuốc, bệnh
nhân sẽ thổi hơi thở vào
trong một bong bóng thể
tích khoảng 2 lít. Mẫu hơi
thở có chứa carbon đồng vị
sẽ được phân tích bởi một
máy đếm 14C để khảo sát

kết quả. Trường hợp không
có vi khuẩn H. Pylori, u-rê
có mang carbon đồng vị
phóng xạ sẽ bị loại ra ngoài
cơ thể bệnh nhân trong
nước tiểu.
Theo Ds Dương Quanh
Nhàn thì mức độ chính xác
của thử nghiệm:
1) độ nhạy là 82-96%,
2) tính đặc thù là 88-96%,
3) kết quả dương tính chính
xác là 86-100%, và
4) kết quả âm tính chính xác
là 98-99%.
Giải thích kết quả: dpm: độ
phân giải urê nhỏ hơn 50 thì
không có H. Pylori, từ 50199 dpm coi là lưng chừng
và lớn hơn 200 dpm là có H.
Pylori.
Nếu chỉ đạt được kết quả:
lưng chừng, thì dùng một
phương pháp khác thử
nghiệm lại.
Những phương pháp khác
truy tầm H. Pylori, bao gồm:
1) Truy tầm kháng thể H.
Pylori trong huyết thanh,
2) Phương pháp sinh thiết
bao tử sau khi nội soi bao

tử.
Những yếu tố có thể làm sai
lạc kết quả thử nghiệm đo
u-rê bằng phương pháp
đồng vị phóng xạ như sau:
1) Nếu trước đó bệnh nhân
đã dùng kháng sinh hay
uống thuốc trị bao tử,
2) Nếu bệnh nhân bị nhiễm
vi trùng, không phải là H.
Pylori, trong bao thử, và
3) thức ăn trong bao tử
ngăn cản u-rê không tiếp
xúc được chỗ bao tử bị lở

loét có vi trùng H. Pylori.
Theo Ds Dương Quang
Nhàn thì mức phóng xạ cho
bệnh nhân uống chứa lượng
phóng xạ khoảng 1 microcurie tương đương vơí thời
gian tiếp xúc với các tia
phóng xạ trong 24 giờ trong
không trung.
Cũng theo Ds Dương Quang
Nhàn thì nên: hướng dẫn
bệnh nhân không ăn uống
gì trước khi thử nghiệm.
1) Nếu bệnh nhân đã từng
dùng kháng sinh trong
tháng trước, xin cho biết.

Thử nghiệm hoãn lại tháng
sau.
2) Nếu bệnh nhân đã được
bác sĩ cho uống Omerazol,
Lansopralol, Sulcrafate phải
ngưng 2 tuần trước khi thử
nghiệm.
3) Nếu bệnh nhân dùng
Peptobismol trị tiêu chảy
phải hoãn lại 2 tuần mơí thử
nghiệm.
4) Mặc dầu lượng phóng xạ
rất nhỏ, nhưng không nên
cho trẻ em hay phụ nữ có
thai dùng phương pháp
đồng vị phóng xạ u-rê chứa
14C. Bác sĩ chỉ cho thử sau
khi biết kết quả thử nghiệm
thụ thai âm tính.
Ds Dương Quang Nhàn,
DABNP (Diplomate, American Board of Nuclear Pharmacy)
Copyright,2008.
www.yduocngaynay.com
THUỐC MỚI TRỊ BỆNH
ĐAU ĐẦU ĐÔNG (MIGRAINE)
DSLê-văn-Nhân
Có khoảng 28 triệu người
Mỹ bị bệnh đau đầu đông
hay đau nửa đầu. Bác sĩ có
thể điều trị phần lớn với các

thuốc giảm đau, một số
dùng hồi ứng sinh học (biofeedback), một số khác
dùng nhóm thuốc Triptan
mới có trong vòng 20 năm
nay để làm giảm viêm trong
não. Nhưng một số bệnh
nhân dầu đã thử hết các
thuốc trên vẫn không hết
đau. Một số người không
thể dùng Triptan vì thuốc
này co mạch, nên không
được dùng cho người có

Siêu âm ngày nay Tập 49 – Số 2/2008

bệnh tim mạch.
Viện bào chế dược phẩm
Merck đang nghiên cứu
thuốc với bí số MK-0974.
Thuốc này có một cơ chế
tác dụng hoàn toàn mới gọi
là đối kháng thụ thể peptid
liên hệ đến gene calcitonin
(CGRP: calcitonin generelated
peptide).
Nhóm
thuốc này chẹn một hóa
chất trong não chuyển tín
hiệu đau.
Thuốc này mới hoàn tất pha

II tức là xem liều nào tốt
nhất, và đang tiến hành pha
III để xem thuốc công hiệu
như thế nào trên người.
Trong một nghiên cứu mới
do Merck tài trợ, 68% người
dùng liều 300 mg báo cáo
hết đau sau 2 giờ. Công
hiệu này tương đương với
70% những người dùng
triptan gọi là rizatriptan.
Những người dùng dùng giả
dược chỉ có 46% cho biết
hết đau. Sau 24 giờ, hầu hết
40% người dùng thuốc mới
này báo cáo không còn đau
nữa, so với 18% người dùng
triptan và 11% người dùng
giả dược.
Báo cáo này cho biết rất ít
về hiệu quả phụ, nhưng có
vẻ nhẹ. Trong khi nhóm
triptan có thể tăng huyết áp,
đau ở ngực, thắt ở họng,
ngứa ran nhiều nơi.
Chúng ta chưa biết chừng
nào thuốc này mới được
FDA chấp thuận để ra thị
trường. Nhưng qua kinh
nghiệm một số thuốc như

Rofecoxin (Vioxx), Rosiglitazone (Avandia) có khi một
thời gian năm ba năm sau
mới thấy tác dụng độc hại,
nên phải chờ xem.
Ds Lê Văn Nhân
THỜI ĐIỂM TỐT NHẤT
CHO “MAKE LOVE”
Không phải lúc nào bạn
“Yêu” cũng đạt được Khoái
cảm.
“Make Love” cũng cần có
một Thời Khóa Biểu rõ ràng.

- 6:00 Sáng

Xem tiếp Trang 35

22


NHỮNG NGƯỜI SỐNG
KHÔNG CẦN NÃO
(Theo Sức Khỏe & Đời Sống,
Pravda - Last updated:
03/2008)
Lịch sử y học từng xác nhận
hàng trăm người sống với
cái đầu rỗng tuếch theo
đúng nghĩa đen. Họ không
có não bộ hoặc não đã bị

hủy hoại hoàn toàn, nhưng
vẫn sống và làm việc như
người thường.
Tạp chí Lancet của Pháp
mới đây đăng tải một
trường hợp kỳ lạ: Bác sĩ
Lionel Feullet ở Bệnh viện
Timone (Marseille) vô cùng
kinh ngạc khi phát hiện một
người đàn ông 44 tuổi đang
sống bình thường như bao
người khác với một bộ não
nhỏ đến độ như là không
có. Người đàn ông đã có gia
đình và hai con này nhập
viện vì cảm thấy chân trái bị
yếu. Sau khi chụp CT và
MRI, bác sĩ thấy não thất
của ông nở rộng, trong khi
não, tức chất xám và chất
trắng, thì lại chẳng thấy
đâu.
Bệnh nhân có tiền sử tràn
dịch não từ khi được 6
tháng tuổi. Như vậy, có thể
trong một thời gian rất dài,
người này đã sống với cái
đầu rỗng tuếch. Bác sĩ
Feuillet nói: "Sự thiếu hụt
bộ não đã không hề cản trở

sự phát triển của ông ta!".
Điều khiến người ta chú ý là
những trường hợp kỳ lạ
tương tự như trên không
phải quá hiếm. Năm 1935,
trong quá trình trị liệu cho
một sinh viên khoa toán Đại
học Sheffield hay bị ốm vặt,
giáo sư Lorber phát hiện
thấy cậu hoàn toàn không
có não khi chụp CAT - scan.
Lẽ ra hai bán cầu não phải
lấp đầy hộp sọ với độ sâu
4,5 cm nhưng sinh viên này
chỉ có chưa đầy 1 mm mô

não phủ trên đỉnh cột sống.
Không hiểu bằng cách nào
mà cậu vẫn sống bình
thường, chỉ số IQ là 126,
học lực còn rất xuất sắc,
từng đạt học vị danh dự
ngành toán học. Năm 1970,
người thanh niên này chết ở
tuổi 35. Khi mổ tử thi, một
lần nữa các bác sĩ đã chứng
thực việc cậu không hề có
não.
Giáo sư Lorber cho biết, ông
đã gặp không ít trường hợp

người không có bán cầu não
mà vẫn thông thái như
thường. Ở một số người, tuy
não bộ thuộc dạng "không
tìm thấy" nhưng chỉ số IQ
của họ vẫn đạt 120.
Một số người khác vẫn sống
ngay cả khi não bị tổn
thương nghiêm trọng, điều
tưởng như "chỉ có trong
phim". Theo các tài liệu còn
lưu trữ, vào năm 1636, vua
Ludwig của Bavaria ra lệnh
xử
trảm
Dietze
von
Schaumburg cùng 4 đồng
phạm vì âm mưu nổi loạn.
Theo phong cách hiệp sĩ,
vua cho Dietze một ước
nguyện cuối cùng. Thật
ngạc nhiên, Dietze yêu cầu
toàn bộ tử tù xếp thành
hàng, mỗi người cách nhau
8 bước và xin được chết đầu
tiên. Dietze khẳng định dù
không còn đầu, ông vẫn có
thể chạy qua mặt những tử
tù kia, và nếu làm được như

thế thì xin nhà vua hãy tha
mạng cho các chiến hữu còn
lại.
Nhà vua đồng ý. Dietze quỳ
xuống và đưa đầu lên thớt.
Sau khi đầu rơi, Dietze vùng
đứng dậy và chạy trước sự
sững sờ, khiếp sợ của các tử
tù. Dietze chỉ gục ngã khi
chạy qua người cuối cùng
trong hàng. Nhà vua thực
hiện lời hứa, tha chết cho
những người còn lại.
Tạp chí y học New York
(Mỹ) xuất bản năm 1888
cũng đã mô tả câu chuyện
kỳ lạ xảy ra với một thủy
thủ lái tàu trên sông. Người
này trèo lên cột buồm để
buộc lại dây chằng, không
để ý rằng tàu sắp lướt qua
gầm cầu. Thanh gầm cầu
sắc như dao đã xén đứt 5-6

Siêu âm ngày nay Tập 49 – Số 2/2008

cm phần đầu phía trên của
người thủy thủ. Anh ta được
đưa vào bệnh viện cấp cứu.
Điều kỳ diệu là, trong khi

các bác sĩ đã hết hy vọng thì
bỗng nhiên anh ta mở mắt,
hỏi chuyện gì đã xảy ra. Sau
đó, anh rời bàn mổ và đòi
quay về tàu để làm việc.
Quá kinh ngạc, các bác sĩ đã
quyết định ghép lại phần
đầu bị cắt đứt cho anh ta
mặc cho bộ não đã bị tổn
thương nghiêm trọng.
Sau 2 tháng điều trị, chàng
thủy thủ cảm thấy bình
phục hoàn toàn và trở lại
tàu làm việc. Dường như cái
đầu đã mất gần hết não
không hề ảnh hưởng đến
công việc của anh. Thỉnh
thoảng, anh chỉ cảm thấy
choáng váng nhẹ, còn bình
thường thì hoàn toàn khỏe
mạnh. Mãi đến 26 năm sau
ngày bị tai nạn, anh mới bị
liệt tay và chân trái.
Vì sao một số người không
có não hay bất ngờ mất não
vẫn sống như người bình
thường trong một thời gian
dài? Phải chăng cơ thể họ
đã được điều khiển bằng
một hệ thống khác? Có

không ít cách lý giải về
những trường hợp kỳ lạ này.
Một giả thuyết cho rằng
trong não bộ bình thường có
một lượng chức năng "dự
phòng" lớn tới mức, chỉ cần
một vài tế bào còn sót lại
cũng có thể giúp con người
thực hiện toàn bộ chức
năng thay cho cả hai bán
cầu não bị thiếu hụt. Một
giả thuyết khác tương tự
cho rằng, con người chỉ sử
dụng một phần rất nhỏ não
bộ - có lẽ vào khoảng 10%.
Theo một số nhà khoa học,
cơ thể con người có hai hệ
thống điều khiển. Một hệ
thống gồm bộ não, hệ thần
kinh (sử dụng tế bào thần
kinh để truyền dữ liệu). Hệ
thống kia dựa vào tuyến nội
tiết, sử dụng hoóc môn hay
chất sinh học đặc biệt để
truyền thông tin khắp cơ
thể.
Những người theo chủ nghĩa
duy tâm thì tin rằng bên
cạnh ý thức, con người còn
có linh hồn. Đó chính là một


23


Y KHOA KỲ LẠ
kiểu "kho lưu trữ" chứa
chương trình đảm trách các
chức năng của cơ thể, từ
hoạt động hệ thần kinh tới
những quá trình khác nhau
trong tế bào. Phân tử AND
nắm giữ thông tin tạo ra
chương trình này. Ý thức chỉ
là kết quả hoạt động của
chương trình đó, hay nói
cách khác, là sự làm việc
phức tạp của linh hồn. Rất
nhiều biểu hiện liên quan
đến khái niệm linh hồn đã
được phản ánh và hiện
tượng người không có não
hay mất não mà vẫn sống là
một thí dụ.

MỘT NGƯỜI ĐÀN ÔNG
MANG BẦU LÀM KINH
NGẠC GIỚI Y HỌC
Bức ảnh Thomas Beatie
mang bầu trên tạp chí Advocate.
(Dân trí) - Một người đàn

ông tới từ bang Oregon của
Mỹ đang mang bầu thai nhi
giới tính nữ 22 tuần tuổi.
Câu chuyện của anh đã làm
sừng sốt giới y học và trở
thành chủ đề bàn luận sôi
nổi trên báo chí.
Câu chuyện kỳ lạ của Thomas Beatie lần đầu tiên
được tiết lộ trên số ra mới
đây của Advocate, tạp chí
tại Los Angeles dành riêng
cho những người đồng tính,
lưỡng tính và chuyển đổi
giới tính.
Bài báo còn đăng kèm một

bức ảnh của Beatie đang

mang thai ở tuần thứ 22 một người đàn ông có râu
với bộ ngực phẳng lì và cái
bụng to bất thường.
Theo câu chuyện này thì
Beatie sinh ra là một phụ nữ
nhưng đã quyết định phẫu
thuật chuyển đổi giới tính và
anh hiện là nam giới xét về
mặt luật pháp. Beatie đã
phẫu thuật ngực và điều trị
kích thích tố sinh dục nam
nhưng vẫn giữ nguyên cơ

quan sinh sản của phụ nữ.
Beatie đã chính thức kết
hôn với Nancy và cặp vợ
chồng hiện đang sinh sống
tại Bend, bang Oregon. Sau
10 năm chung sống, cặp vợ
chồng muốn có con nhưng
người vợ Nancy không thể
mang thai do bị sưng màng
tử cung và phải tiến hành
phẫu thuật cắt bỏ dạ con.
Vì vậy, cặp vợ chồng đã
quyết định Thomas sẽ là
người mang thai thay vợ
anh. Beatie đã ngừng điều
trị hoóc-môn sinh dục nam
và anh thấy kinh nguyệt trở
lại sau 4 tháng.
Sau 1 năm - với sự giúp đỡ
của 9 bác sĩ, Beatie đã
mang thai, sử dụng tinh
trùng đông lạnh hiến tặng.
Tuy nhiên, thai nhi gặp trục
trặc và anh phải tiến hành
phẫu thuật. Nhưng lần
mang thai thứ hai đã thành
công.
Beatie cho biết, anh từng
mang 3 thai nhưng lần
mang thai đầu này nguy

hiểm tới tính mạng và buộc
phải phá bỏ. Còn hiện tại,
Beatie và người vợ Nancy
đang chờ đợi để đón đứa
con gái đầu lòng của họ, dự
kiến sẽ ra đời vào tháng 7
tới.
Thomas Beatie trên tạp chí
Advocate. eatie đã miêu tả
quá trình mang thai là một
thách thức với hàng loạt
những khó khăn mà hai vợ
chồng phải đối mặt, như sự
phản đối của các bác sĩ
trước một tình huống có thể
gây ra những tranh cãi về
mặt xã hội, chính trị và
pháp lý.
“Bác sĩ đầu tiên nói với tôi
hãy cạo râu đi. Những người

Siêu âm ngày nay Tập 49 – Số 2/2008

khác thì quay lưng lại với
chúng tôi. Các nhân viên
của bệnh viện cười vào mặt
chúng tôi. Bạn và gia đình
không ủng hộ, gần như cả
gia đình Nancy thậm chí
không biết tôi là người

chuyển đổi giới tính”.“Một
người đàn ông mang thai sẽ
cảm thấy thế nào?”, Beatie
đặt câu hỏi và đưa ra câu
trả lời.
Thật không thể tin được. Dù
cái bụng của tôi cứ lớn dần
lên với một sinh linh bé
bỏng bên trong nhưng tôi
vẫn tự tin mình là một người
đàn ông. Xét về phương
diện kỹ thuật, tôi là một bà
mẹ mang thai hộ. Đối với
Nancy, tôi là chồng của cô
ấy đang mang thai đứa con
của chúng tôi”.
“Tôi sẽ là cha của con gái
tôi và Nancy sẽ là mẹ.
Chúng tôi sẽ là một gia
đình”.
Cũng trong bài báo, Beatie
cho hay đối với những người
hàng xóm trong “cộng đồng
Oregon yên tĩnh của chúng
tôi”, anh và vợ được xem là
“một cặp vợ chồng hạnh
phúc và luôn đắm say trong
tình yêu”. Mong ước của họ
là được làm việc, mua nhà
và có một cuộc sống bình

thường như bao gia đình
khác.
Lưu Ly - Theo Discover

ẤN ĐỘ: NHỮNG HÌNH
ẢNH MỚI NHẤT CỦA EM
BÉ 2 MẶT
Đối với nhiều người thì một
đứa trẻ sơ sinh với hai
gương mặt hoàn chỉnh là
“người ngoài hành tinh”
nhưng đối với một cặp vợ
chồng Ấn Độ thì con gái của
họ là sự hiện thân của nữ
thần.
Bé gái chưa được đặt tên
chào đời hôm 10/3 với 2
khuôn mặt, 2 miệng, 4 mắt
tại bệnh viện quận Nagar
của bang Uttar Pradesh,
cách thủ đô New Delhi
khoảng 50km về phía đông
bắc.

24


Y KHOA KỲ LẠ

Cha mẹ em - vợ chồng anh

Vinod và cô Susham Singh
tới từ ngôi làng Sani, cho
biết cô con gái bé bỏng của
họ là “một món quà từ Chúa
trời”.
Người dân làng Sani lũ lượt
kéo đến tận mắt chiêm
ngưỡng em bé "ngoài hành
tinh".
Các phụ nữ cầu nguyện cho
“Thần nữ” sơ sinh.
Cô Susham Singh và đứa
con gái 7 ngày tuổi.
Em bé hiện đang được cho
ăn bằng bình. Các bác sĩ
chưa thể xác định liệu em
các chức năng ăn uống của
em có bình thường hay
không.
Người dân làng Sani khẳng
định em là hiện thân của nữ
thần, vì thế họ đã tới ăn
mừng sự ra đời của em với
những tiếng vỗ tay, tiếng
reo hò, những món quà
tặng và tiền.i thêm rằng cần
tiến hành các cuộc kiểm tra
trong tương lai gần để biết
chính xác tình hình sức khoẻ
của em. Lưu Ly

Theo Reuters, Dailymail

CẬU BÉ CÓ THỂ TỬ VONG
VÌ... CƯỜI
(Dân trí) - Với người mẹ,
tiếng cười trẻ thơ là một
niềm vui lớn lao, thế nhưng
với Lucy Hoggan thì nụ cười
của cậu con trai Cadell lại là
một nỗi sợ hãi chết người.
Bé Cadell 3 tuổi mắc một
chứng bệnh động kinh hiếm
gặp khiến cậu bé có thể
cười ngặt nghẽo trong
những cơn co giật không

báo trước. Những tràng cười
này có thể giết chết cậu bất
cứ lúc nào.
“Thật đáng sợ khi phải
chứng kiến cảnh con trai
mình cười nhưng đôi mắt lại
giàn giụa một nỗi sợ hãi
kinh hoàng. Việc này xảy ra
khoảng 10 lần mỗi ngày,
vào những thời điểm không
cố định. Một phút trước
cháu có thể lên cơn co giật
hãi hùng, một phút sau lại
bình thường hoặc cười như

điên dại. Sau cùng, cháu
luôn khóc và muốn được vỗ
về”, mẹ của Cadell sụt sùi.
Bà Lucy Hoggan đang kêu
gọi các tổ chức nghiên cứu
chứng động kinh hiếm gặp
mà con trai của cô không
may mắc phải
Chứng động kinh của bé
Cadell là do trong não có
một khối u lành tính, mà các
bác sĩ đã khẳng định rằng
sớm muộn gì cậu bé cũng
cần được mổ để lấy khối u
đó ra. Nếu như những cơn
co giật vẫn tiếp tục kéo dài
thì một ngày nào đó cậu bé
có thể tử vong vì những
trận cười ngặt nghẽo không
kiểm soát được.
Cadell chưa bao giờ có một
nụ cười trọn vẹn
.“Bất cứ khi nào bé cười là
ruột gan tôi thót lại vì sợ.
Tôi quá rõ mối nguy hiểm
mà những cơn cười không
dứt này mang lại đối với
tính mạng của con trai
mình”, bà mẹ độc thân có 4
đứa con, nói.

Khối u trong não của Cadell
là một dạng u mô thừa dưới
đồi (Hypothalamic Hamar-

Siêu âm ngày nay Tập 49 – Số 2/2008

toma - HH), nằm ngay chính
giữa não của bé. Nó là
nguyên nhân gây nên
những tiếng cười khúc khích
không thể kiểm soát được.
Lucy kể lại: “Một lần, lúc đó
Cadell 18 tháng tuổi, bé giơ
tay lên bầu trời lấp lánh và
cười to không vì một lý do
nào hết, cứ như thể là thằng
bé nhìn thấy cái gì đó thú vị
mà tôi thì không. Còn trước
đó, khi bà ngoại của cháu
mất, ngay tại đám tang, bé
cũng bật lên tiếng cười khúc
khích. Nhưng hồi đó, tôi
nghĩ rằng nó là trẻ con và
điều đó không có gì khó
hiểu. Giờ nghĩ lại, tôi đã
hiểu lý do vì sao”.
Đến nay là đã 3 năm bé
Cadell chung sống với căn
bệnh quái ác này. Hồi tháng
1 vừa qua, bé được xét

nghiệm để các bác sĩ tiến
hành phẫu thuật. Được biết,
bệnh của bé Cadell là một
trong những trường hợp
hiếm gặp nhưng tình trạng
của cháu vẫn còn khá hơn
nhiều bệnh nhân khác. Có
một số trẻ lên cơn co giật
200 lần mỗi ngày, khiến
chúng suy nhược, nghẹt thở
và tử vong.
Anh Nguyễn Theo Dailymail

3 CHỊ EM GÁI CÙNG...
MỌC RÂU

(Dân trí) - 3 cô con gái của
bà Anita Raut hiếm khi bước
chân ra khỏi nhà vì chúng
rất tự ti trước khuôn mặt
đầy lông lá của mình. Trớ
trêu thay là lông lại tập
trung chủ yếu ở cằm và

25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×