Tải bản đầy đủ (.pdf) (54 trang)

SA ngay nay 58 (1 2010)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.92 MB, 54 trang )

NHÂN LỰC TÌM
Gần đây trên nhiều diển
đàn, vấn đề đặt ra là
nguồn nhân lực đang
thiếu hụt ở gần như các
ngành sản xuất, kinh
doanh,dịch vụ. .. nhất là
ở khu vực hoạt động đòi
hỏi hàm lượng tri thức
cao trong công việc.
Nhiều người đă đặt vấn
đề chảy máu chất xám
khì sinh viên học sinh đi
học nước ngoài không về
nước phục vụ hoặc đi
làm cho các công ty nước
ngoài. Rồi như phong
trào, đă có khá nhiều
người giỏi, có tay nghề
xin nghỉ ở khu vực Nhà
nước để ra tổ chưc làm
tư hay làm thuê cho khu
vực tư nhân, nước ngoài.
Nguồn nhân lực có tay
nghề, trình độ cao ngày
càng thiếu, ít đi,nhất là ở
các đơn vị hành chính,
quản lý Nhà nước hoặc
có vốn nguồn gốc từ Nhà
nước.Trong khi đó cũng
cần nên bìẽt cho dù Nhà


nước kêu gọi và đẩy
mạnh việc giảm biên chế
thì biên chế ăn lương
ngân sách Nhà nước
ngày càng tăng, không
hề giảm đi. Cái mâu
thuẫn giữa số lượng và
Chất lượng nguời lao
động – nhất là trong khu
vưc Nhà nước - đang báo
động tình trạng thiếu cân
đối về nguồn nhân lực.Và
đó chính là sự cản trở
ngày càng rỏ trong một
xã hội đang tiẽn hành
công cuộc đổi mới,
nhưng việc sử dụng con
người vẫn cứđi theo lối
mòn bao cấp.
Chúng ta đã sử dụng
nguồn nhân lực như
thế nào?
Ngày nay trong bất kỳ
một báo cáo tổng kết
nào thì vấn đề nguồn
nhân lực và đào tạo cũng
được nhắc đến nhưng
thật sự mối quan tâm
này không hề theo một


DIỄN ĐÀN Y HỌC
ho5c DI SẢN
TRONG

quy định hay một chế tài
bắt buộc như các nuớc
phát triển truớc vẫn làm.
Nó tùy thuộc vào lòng
“hảo tâm” của ông bà
chủ, các thủ trưởng cơ
quan và tùy thuộc vào
ngành nghề, công việc có
lợi nhuận thừa thải hay
không! Cách sử dụng lao
động “mài mòn" người
lao động, vắt kiệt sức và
thiếu sự bổ sung,nâng
cao trình độ, tay nghề
cho người lao động. Khi
không có một cơ chế bắt
buộc thì việc học tập và
nâng co trình độ của
người lao động chỉ là
hình thức, và người càng
làm đuợc việc càng bị sử
dụng cho đến cùng kiệt,
không có thờì gian, điều
kiện học tập thêm.Và đến
khi cần cất nhắc, đề bạt
thì người lao động ấy lại

thiếu điều kiện. Do vậy
cứ mai một dần. Bên
cạnh đó những người
không được việc lại được
“đẩy”cho đi học hết Iớp
này đến lớp khảc và khi
quay trở lại thì có bằng
cấp đầy người để sẵn
sàng làm người kế thừa
quy hoạch làm lãnh
đạo... Và rõ ràng với lănh
đạo ấy thì làm sao có thể
trọng dụng người tài làm
việc trong đơn vị mình.
Môi trường làm việc
không khuyến khích
người lao động
Nhưng điều đáng đặt ra
là môi truờng làm việc
trong các cơ quan,đơn vị
chủ yẽu trong khu vực
Nhà nước không tạo sự
hứng thú trong công việc
và chấp nhận sự cống
hiến của người lao động.
Những người tài giỏi từ
nước ngoài hoặc các sinh
viên học nước ngoài về
có mấy người được sử
dụng đúng nghề nghiệp

và được trân trọng cống
hiến của họ. Do thói
quen bảo vệ an ninh từ

Siêu âm ngày nay Tập 58- Số 1/2010

thời chiến tranh – và cả
cơ chế quản lý cũ ấy cứ
tồn tại – đă tạo mọi nghi
kỵ thường trực khiến ta
luôn đặt vấn đề có động
cơ (xấu) trong cống hiến
của bất cứ ai. Sự nghi kỵ
đă đặt biế bao người có
tài,muốn cống hiến bìến
thành
"nguời
ngoài"
không thể tham gia sâu
vào công việc quan
trọng. Nhất là khi họ
chưa là, hoặc không là
Đảng Viên. Đã có nhiều
người có năng lực, có lý
tưởng cống hiến cũng
thấy mình không có cơ
hội để lao động làm việc
một cách trung thực nên
tìm cớ để rút ra khỏi khu
vực ày.Thông thường cái

cớ chính là vấn đề lương.
Lương thấp cũng là một
nguyên
nhân
nhưng
không bao giờ là động
lực chính trong lao động
của ngườì trí thức có
chuyên môn cao. Chúng
ta đã từng biết có rất
nhiều trí thức ở nuớc
ngoài có lương cao, đời
sống cao đã sẵn sàng bỏ
hết để trở về sống trong
gian khổ trong 2 cuộc
chiến tranh gìành độc lập
dân tộc và cả trong công
cuộc xây dựng đất nước
sau này. Nhiều nguời đã
về làm việc, đã maỉ một
hoặc lại bỏ ra đi.
Môi truờng làm việc còn
xấu ở chỗ có sự đố kỵ,
xúc xiểm, cố ý làm hại
người có năng lực. Tại
một số đơn vị Nhà nước
việc thưa kiện, bôi nhọ,
nói xấu người ngay thẳng
có lòng cống hiẽn gần
như không thiếu. Buồn

thay, tổ chức và một số
vị lãnh đạo (có quyền
quyết định) lại dễ dàng
nghe theo những lời xấu
để đánh giá người có
năng lực chứ không căn
cứ trên hiệu quả công
việc.
xem tiếp Trang 6

1


CHUYÊN ĐỀ SIÊU ÂM

NÓI CHUYỆN VỚI JACQUES SOUQUET,PhD VỀ
KHẢ NĂNG CHẨN ĐOÁN CỦA SHEARWAVE
ELASTOGRAPHY
(Từ A Conversation with Jacques Souquet, PhD : The Diagnostic Capabilities of Shear
Wave Elastography, IMAGE rt, 01.18.2010)
BS NGUYỄN THIỆN HÙNG dịch
Trung tâm Y KHOA MEDIC HÒA HẢO- Thành phố Hồ Chí Minh

Jacques Souquet, PhD
(SuperSonic Imagine)

Tên của Jacques Souquet, PhD, đồng nghĩa với đổi mới siêu âm, đang dẫn đầu phát triển
công nghệ hơn 30 năm qua, đến mức báo Le Monde từng gọi ông là Steve Jobs của hình
ảnh học y khoa. Chúng tôi phỏng vấn ông Souquet về ShearWave Elastography (tên
thương mại dùng cho SuperSonic Imagine) và khả năng chẩn đoán của kỹ thuật này.

1.ShearWave Elastography của siêu âm là gì và hoạt động ra sao?
- Trả lời: ShearWave Elastography được chuẩn y để đo độ đàn hồi mô định lượng trong
thời gian thực. Độ đàn hồi mô liên quan đến bệnh học và do vậy là một công cụ chẩn đoán
quan trọng.
ShearWave Elastography là phương tiện tương tác giữa sóng siêu âm và sóng biến dạng để
xác định độ đàn hồi mô cơ thể. Sóng biến dạng có trong cơ thể tự nhiên. Tim đập tạo ra
sóng biến dạng. Cho đến nay, chưa có máy siêu âm nào có thể khai thác sóng biến dạng
do hạn chế kỹ thuật.
Có thể giải thích ShearWave Elastography theo 3 bước sau:
Sóng biến dạng được tạo ra như thế nào: ShearWave Elastography dùng lực bức xạ âm do
chùm siêu âm gây ra để dời chỗ mô và tạo nên sóng biến dạng. Để làm được điều này, các
xung được nối tiếp tiêu điểm hóa ở các độ sâu khác nhau trong mô với tốc độ siêu thanh
rồi được tăng cường bằng cách tạo ra mach cone (hình nón tốc độ siêu thanh), hình nón
này làm tăng sự lan truyền sóng biến dạng. Điều này được thực hiện do công nghệ có bản
quyền mà không cần thay đổi trình tự khám (workflow) hoặc chu kỳ làm mát (cool down
period) cho đầu dò.
Sự bắt (capture) sóng biến dạng: ShearWave Elastography dựa trên bàn phần mềm siêu
nhanh (ultra-fast software platform) có thể thu được hình ảnh trên 20.000Hz. Khi sóng
biến dạng di chuyển nhanh trong cơ thể cần có tốc độ thu nhận ít nhất là 5.000Hz để phát
hiện chúng. Để chộp được toàn bộ sự lan truyền của sóng biến dạng phải dùng xung âm
phẳng (flat insonification) thay vì phương pháp thu nhận line-by-line như trong các máy
siêu âm quy ước.

Siêu âm ngày nay Tập 58- Số 1/2010

2


CHUYÊN ĐỀ SIÊU ÂM
Sự tính toán của sóng biến dạng: Young’s Modulus cho biết tốc độ lan truyền của sóng

biến dạng có liên quan trực tiếp với các giá trị đàn hồi mô. Tốc độ lan truyền sóng biến
dạng được tính toán và độ đàn hồi mô thực sự được biểu diễn thành kilopascals trên bản
đồ đàn hồi màu mã hóa của vùng khám ROI. Mỗi pixel trên hình ShearWave Elastography
có một giá trị kilopascal, tập họp lại thành độ đàn hồi mô tại chỗ, tất cả đều trong thời gian
thực.
3.ShearWave Elastography khác với đàn hồi quy ước như thế nào ?
- Trả lời: Đàn hồi quy ước được gọi là biến dạng hay đàn hồi tĩnh (strain hay static
elastography). Strain elastography dùng sự đè nén cơ học đồng nhất tại bề mặt cơ thể để
làm mô biến dạng. Người khám ấn mô và máy siêu âm tính toán rồi biểu diễn sự biến dạng
gây ra và hình ảnh hóa độ đàn hồi mô một cách không thật. Kỹ thuật này cũng không định
lượng; lệ thuộc người khám và có độ lập lại thấp.
4.. Ứng dụng hiện tại và tương lai ra sao ?
- Trả lời: Hiện tại áp dụng tốt cho tuyến vú, giáp và bụng, đặc biệt là gan và thận. Tương
lai sẽ là tuyến tiền liệt, cơ xương khớp và tim mạch.
5 ShearWave Elastography được ông nhấn mạnh là không lệ thuộc người khám,
xin giải thích là gì và hoạt động như thế nào?
- Trả lời: ShearWave Elastography không lệ thuộc người khám vì việc tạo ra sóng biến
dạng được thực hiện bằng phần mềm. Người khám không cần ấn mô do vậy ít có nguy cơ
tạo ra xảo ảnh do đè ấn. Strain elastography lại dựa vào kỹ năng người khám để hiệu
chỉnh áp lực cần thiết sao cho được kết quả có giá trị. ShearWave Elastography xóa bỏ sự
phỏng đoán
vì không thay đổi trình tự công việc từ B-mode sang ShearWave
Elastography. Đơn giản chỉ ấn nút và ShearWave Elastography được kích hoạt.
6. Không lệ thuộc người khám có ý nghĩa gì cho việc quản lý bệnh nhân và chất
lượng khám ?
- Quản lý bệnh nhân được củng cố thông qua ShearWave Elastography. Vì ShearWave
Elastography không lệ thuộc người khám, bác sĩ và người làm siêu âm có thể khám cùng
một bệnh nhân với cùng kết quả do vậy làm giảm thời gian quản lý. Nói chung vì không
phải ấn khám đầu dò khi khám nên xảo ảnh giảm và chất lương hình ảnh được tăng cường
.

Hơn nữa, quản lý bệnh nhân và chất lượng khám được tăng cường do kết quả khám có thể
lập lại. Các thông số định lượng độ đàn hồi cung cấp thêm phương tiện chẩn đoán để phân
loại mô trong khi theo dỏi tổn thương một cách chính xác và theo dỏi điều trị. Có thể theo
dỏi tổn thương theo thời gian để xác định điều trị trong tương lai hoặc để biết đáp ứng của
tổn thương với thuốc điều trị.

U MẠCH MÁU HẮC MẠC(tiếp trang 1
BÀN LUẬN:
Đầu dò linear supersonic 15MHz thể hiện nhiều tín hiệu mạch máu trong u, trong khi
đầu dò linear 7,5MHz quy ước không bắt được tín hiệu mạch máu của u. Đây là ưu
điểm của công nghệ Aixplorer Supersonic Imagine.
Ngoài chụp mạch máu (angiography), siêu âm có thể phát hiện u nội nhãn như u mạch
máu hắc mạc (choroidal hemangioma) và u melanom hắc mạc (choroidal melanoma).
Choroidal hemangioma được thành lập bởi các mạch máu và các mạch máu trong u
này cho phản âm đặc biệt cao. Phản âm cao (echo dày) là đặc điểm của choroidal
hemangioma. Ngoài ra với choroidal melanoma, một chẩn đoán phân biệt của choroidal
hemangioma, có phản âm thấp hơn và có vùng trống âm, với dạng nút áo và dạng vòm
trên B-mode.
KẾT LUẬN:
Đây là những hình ảnh đầu tiên của shear wave elastography của u mạch máu hắc mạc
(choroidal hemagioma) trên máy Aixplorer Supersonic Imagine. Chẩn đoán sau cùng
còn phải chờ kết quả mổ và giải phẫu bệnh lý, nhưng hình ảnh có sức thuyết phục cao
của siêu âm đàn hồi sóng biến dạng (shear wave elastography) phải nói rằng đã gây
ấn tượng sâu sắc.
Danh Ngôn
* Trong những lúc khó khăn nhất của cuộc sống, đừng cố gắng trở thành người thành
công hay hạnh phúc, mà tốt hơn hãy trở thành một người có giá trị. ( Albert Einstein).
* Cứ mỗi phút sân hận làm bạn mất 60 giây hạnh phúc.( Ralph Waldo Emerson )
* Hạnh phúc cộng thêm và nhân lên khi ta đem chia nó cho người khác.( A. Nielson )
* Bạn có thể phàn nàn vì hoa hồng có gai, hoặc bạn có thể hoan hỷ vì trên một cành

gai lại có hoa hồng.( Ziggy )

Siêu âm ngày nay Tập 58- Số 1/2010

3


CHUYÊN ĐỀ SIÊU ÂM

SIÊU ÂM TÂP TRUNG CƯỜNG ĐỘ CAO
HIGH-INTENSITY FOCUSED ULTRASOUND (HIFU)
BS NGUYỄN THIỆN HÙNG dịch từ Wikipedia
TRUNG TÂM Y KHOA MEDIC HÒA HẢO Thành phố Hồ Chí Minh
HIFU (siêu âm tập trung cường độ cao) (đôi khi viết tắt là FUS hoặc HIFUS) là một thủ
thuật y khoa cao cấp bằng cách sử dụng thiết bị siêu âm tập trung cường độ cao để nhiệt
hóa và tiêu diệt mô bệnh nhanh chóng. Đây là một phương thức siêu âm điều trị, dù gây ra
tăng nhiệt (hyperthermia), kỹ thuật này làm tăng nhiệt không nhanh chỉ đến mức thấp
hơn nhiệt độ điều trị (nói chung <45°C).

Sonalieve MR-HIFU trưng bày tại RSNA 2009
Phương thức điều trị này có thể thực hiện bằng siêu âm hoặc cộng hưởng từ MRI. Với MRI
được gọi là Magnetic Resonance-có siêu âm tập trung dẫn đường, thường được gọi
tắt là MRgFUS. Với siêu âm được gọi là siêu âm-có siêu âm tập trung dẫn đường, gọi
tắt là USgFUS. Chụp cộng hưởng từ (MRI) được sử dụng để xác định các khối u hay nhân
xơ trước khi triệt tiêu bằng siêu âm. MRgFUS hiện tại đang được sử dụng tại Mỹ, Canada,
Israel, châu Âu, và châu Á để chữa trị nhân xơ tử cung. Siêu âm có HIFU dẫn đường hiện
đang được sử dụng ở Vương quốc Anh, Ý, Tây Ban Nha, Hàn Quốc, Nhật Bản, Hồng Kông,
Malaysia, Nga, Trung Quốc, Romania và Bulgaria. Các áp dụng lâm sàng hiện tại là trong
điều trị ung thư não, vú, gan, xương, và tuyến tiền liệt.
Siêu âm điều trị là phương pháp xâm hại tối thiểu hoặc không xâm hại để đưa năng lượng

âm vào mô. Ứng dụng của HIFU bao gồm cắt bỏ (ablation) mô (để điều trị khối u), kỹ
thuật hyperthermia (đốt nóng) mức độ thấp kết hợp với xạ trị hay hóa trị, hoặc kích hoạt
hay tăng cường giao thuốc tận đích.
Cơ chế
Chùm siêu âm có thể được tập trung theo các cách sau:




Về hình học, ví dụ với một thấu kính hoặc với một dầu dò cong mặt khối cầu.
Về điện tử, bằng cách điều chỉnh dãy biến tử liên quan (relative phases of
elements) trong một dãy biến tử đầu dò [một dãy định pha (phased array)].
Bằng cách điều chỉnh tín hiệu điện tử đến các biến tử của dãy định pha, chùm sóng
âm có thể hướng đến các vị trí khác nhau, và hiệu chỉnh được các chùm âm lệch do
cấu trúc mô.

HIFU hoạt động như thế nào
Khi sóng âm truyền qua mô có một phần được hấp thụ và chuyển đổi thành nhiệt. Với
chùm tập trung, một chùm rất nhỏ có thể vào sâu trong mô. Khi đủ nóng, mô bị nhiệt
đông. Bằng cách tập trung tại nhiều chỗ hoặc bằng cách quét, có một khối lượng mô bị
nhiệt cắt bỏ. Ở cường độ âm đủ cao, hiện tượng tạo hốc [cavitation] (do các vi bọt
[microbubbles] hình thành và tương tác với trường siêu âm) có thể xảy ra. Microbubbles

Siêu âm ngày nay Tập 58- Số 1/2010

4


CHUYÊN ĐỀ SIÊU ÂM
sản xuất trong trường siêu âm này dao động và to dần (do nhiều yếu tố bao gồm sự

khuếch tán hiệu chỉnh [rectified diffusion]), và cuối cùng nổ tung (do quán tính hoặc tạo
hốc tạm thời). Trong tạo hốc quán tính, có nhiệt độ rất cao xảy ra bên trong các vi bọt, và
vi bọt xẹp liên kết với một sốc âm và các luồng âm làm hư hại tế bào về mặt cơ học. Vì
việc tạo hốc và hậu quả thiệt hại mô không thể đoán trước, nên lâm sàng thường tránh áp
dụng. Tuy nhiên, hiện tượng tạo hốc (cavitation) vẫn đang được theo đuổi để tăng cường
cắt bỏ mô bằng HIFU cho các ứng dụng khác.
Phương pháp sử dụng
Trong trị liệu bằng HIFU, chùm siêu âm được tập trung vào mô bệnh, và do tích tụ năng
lượng đáng kể ở nơi tập trung, nhiệt độ bên trong mô tăng lên từ 65° đến 85°C sẽ phá
hủy các mô bệnh do hoại tử đông máu. Mỗi chùm âm hóa (sonication) xử lý chính xác một
phần của mô đích đã được xác định. Toàn bộ mô đích điều trị được xử lý bằng cách di
chuyển applicator trên cánh tay robot của nó để bắn kề nhau liên tiếp (juxtapose multiple
shots) theo protocol (giao thức) đã thiết kế của bác sĩ. Công nghệ này có thể cắt bỏ chính
xác mô bệnh, do đó nó được gọi là HIFU phẫu thuật. Vì phá hủy các mô bệnh không tấn
công, nó được gọi là " HIFU phẫu thuật không xâm hại ". Vô cảm không bắt buộc nhưng
nên làm. Điều trị có thể được kết hợp với xạ trị hay hóa trị.
Sử dụng
Nhân xơ tử cung (uterine fibroids)
Liệu pháp này được phát triển đáng kể làm mở rộng phạm vi lựa chọn điều trị cho bệnh
nhân bị nhân xơ tử cung. HIFU điều trị nhân xơ tử cung đã được sự chấp thuận của Food
and Drug Administration (FDA) vào tháng 10 năm 2004.
Ung thư
HIFU áp dụng thành công trong điều trị tiêu diệt các khối u đặc của xương, não, vú, gan,
tụy, trực tràng, thận, tinh hoàn, tuyến tiền liệt. Vào lúc này điều trị ung thư vẫn đang
trong giai đoạn theo dõi vì phải tìm hiểu thêm về hiệu quả.
HIFU tạo nhiệt độ cao không chỉ để điều trị các bệnh ung thư đơn độc, mà còn kết hợp với
phân phối thuốc ung thư tận đích. Ví dụ, HIFU có thể được dùng để kích hoạt nhiệt độ
nhạy cảm của liposomes, làm đầy thuốc ung thư "hàng hóa" để cấp thuốc chỉ ở vị trí khối u
với nồng độ cao bằng kỹ thuật hyperthermia. Nồng độ thuốc bằng cách này cao hơn 10 lần
hoặc hơn phương pháp hóa trị truyền thống với ít tác dụng phụ vì không còn cho toàn cơ

thể.
Việc sử dụng rộng rãi sớm nhất của HIFU ablation là điều trị ung thư tuyến tiền liệt. Điều
trị bằng đầu dò trực tràng và dựa vào nhiệt do sóng siêu âm tập trung vào tuyến tiền liệt
để diệt khối u. Có những kết quả đầy triển vọng của các báo cáo điều trị ung thư tuyến
tiền liệt với loạt lớn bệnh nhân. Kỹ thuật trị liệu được thực hiện theo hình ảnh siêu âm dẫn
đường, cho phép lập kế hoạch điều trị và vài chỉ định nhỏ của tích tụ năng lượng. HIFU
được dùng để cắt bỏ toàn bộ tuyến tiền liệt qua đầu dò transrectal. Đây là một thủ thuật
ngoại trú thường mất khoảng 1-3 giờ. Kết quả cho thấy làm giảm đáng kể một số tác
dụng phụ thường gặp khi dùng phương pháp khác. Ngoài ra, vài nghìn bệnh nhân với các
loại khối u khác nhau đã được điều trị tại Trung Quốc bằng HIFU có hình ảnh siêu âm dẫn
đường do một số công ty thiết kế.
Cung cấp thuốc cho não
Trong nghiên cứu hiện nay, HIFU đang được sử dụng để phá bỏ tạm thời hàng rào máunão, cho phép thuốc vào não. Có hiệu quả nhất khi được sử dụng kết hợp với một chất ức
chế như verapamil.
Điều trị rung nhĩ

Siêu âm ngày nay Tập 58- Số 1/2010

5


CHUYÊN ĐỀ SIÊU ÂM
HIFU đã được sử dụng để điều trị các rối loạn nhịp tim thường gặp nhất, rung nhĩ (AF).
Một catheter xâm hại tối thiểu được thiết kế để cắt bỏ mô tim chịu trách nhiệm về dẫn
truyền AF đã được chấp thuận cho sử dụng tại châu Âu và đang trải qua thử nghiệm giai
đoạn III điều trị có hiệu quả để được FDA chấp thuận tại Mỹ.
Những thuận lợi hơn các kỹ thuật khác
Siêu âm tập trung cường độ cao HIFU là công nghệ y khoa có triển vọng với đặc tính
không xâm hại hoặc phân đoạn điều trị xâm lấn tối thiểu. HIFU là thiết bị độc nhất có khả
năng gây hoại tử mô ở độ sâu chính xác bằng cách sử dụng một applicator bên ngoài, và

không có hiệu lực trên các cấu trúc xung quanh mô bệnh.
Một khác biệt quan trọng giữa HIFU và các kỹ thuật tập trung năng lượng khác, như xạ trị
hoặc phẫu thuật vô tuyến (radiosurgery), là năng lượng siêu âm truyền qua các mô bị can
thiệp mà không để lại hiệu quả tích lũy biểu hiện trên mô đó.
Các khám phá trong quá trình sử dụng
Hiện tại, phương pháp hình ảnh định lượng chính xác duy nhất sự đốt nóng trong lúc sử
dụng HIFU in vivo là cộng hưởng từ (Magnetic Resonance Imaging, MRI). MRI có độ
tương phản mô mềm cao và có thể hình ảnh hóa theo bất cứ định hướng nào, làm cho MRI
trở thành state of art cho hướng dẫn điều trị HIFU. Nhưng MRI không thể vận hành trong
thời gian thực với HIFU, với kỹ thuật hiện nay là nhận được một hình mất khoảng sáu giây
để quét đủ k-space. Các nhà nghiên cứu đang giảm thời gian tiếp nhận này thông qua một
số cải tiến tốc độ phổ biến các khu vực khác của MRI, bao gồm các chuỗi xung để quét một
k- space giảm thiểu, tái tạo, và lọc model-based bằng cách sử dụng dữ liệu từ các phương
trình nhiệt sinh học (bioheat equation). MRI- có HIFU dẫn đường đã được thử cho nhân xơ
tử cung, fibroadenomas vú, ung thư vú, di căn xương, và u gan. Số lượng lớn nhất của
bệnh nhân được điều trị bằng MRI- có HIFU dẫn đường là nhân xơ tử cung. Siêu âm điều
trị có HIFU dẫn đường đã được phê duyệt tại Châu Âu và Châu Á. MRI-có HIFU dẫn đường
điều trị nhân xơ tử cung đã được phê duyệt tại châu Âu và châu Á, và đã được FDA chấp
thuận tại Mỹ vào năm 2004.

DIỄN ĐÀN Y HỌC: NHÂN LỰC TÌM TRONG DI SẢN
Và đặc biệt, những người có năng lực và ý huớng cống hiến lại không có khả năng tự bảo vệ mình truớc
nhửng thói xấu ấy trong môi trường cơ quan, đơn vị Nhà nước. Cần có một cơ chế đánh giá đúng hiệu
quả công việc và tâm huyết cống hiến. Đừng để nhân tài ra đi rồi mới báo động chảy máu chất xám.
Sử ký Tư Mã Thiên kể chuyện Tề Hoàn Công hỏi tể tướng của mình: “Ta là người đam mê tửu sắc.Việc
này có hại cho nghiệp bá của ta không?. Được trả lời: ”Làm vua ai không mê tửu sắc. Nhưng chỉ có 4
điều gây hại nghiệp bá và làm suy vong đất nưóc, đó là:Không biết người tài để dùng. Biết nguời tài mà
không dùng.Dùng người tài mà lòng còn nghi kỵ (không tin), và Tin người tài nhưng để bọn xu nịnh
gièm pha làm hại. Xỉn chúa công lấy đó làm điều trị nước.
Nguyễn Trung Dân

(trích từ tác phẩm ...”Đi ngang đường” NXB Hội Nhà văn 2010. Trang 168 - 170}

Siêu âm ngày nay Tập 58- Số 1/2010

6


CHUYÊN ĐỀ SIÊU ÂM

ĐỊNH LƯỢNG CẤU TRÚC ÂM
Acoustic Structure Quantification, ASQ của AplioXG Toshiba.
BS NGUYỄN THIỆN HÙNG
TRUNG TÂM Y KHOA MEDIC HÒA HẢO Thành phố Hồ Chí Minh
Định lượng cấu trúc âm (ASQ): Nhìn sâu hơn vào tín hiệu echo ở độ ly giải 100 lần cao
hơn.
Toshiba Medical Systems Châu Âu giới thiệu công nghệ mới: Định lượng cấu trúc âm
(ASQ). Một ứng dụng lâm sàng tiên tiến có thể phân tích dữ liệu tín hiệu echo ở độ ly giải
cao hơn 100 lần so với những hình ảnh thang xám bình thường hoặc lưu lượng màu bằng
cách sử dụng phần cứng đặc biệt mở rộng (Mặt phân giới Dữ liệu siêu âm thô của Toshiba,
Toshiba Ultrasound Raw Data Interface).
"ASQ phân tích các mẫu echo trong không gian (spatial echo patterns) trong một khu vực
quan tâm (ROI) lựa chọn bởi người sử dụng trên hình ảnh thang xám có được khi khám
siêu âm bình thường. ASQ hoạt động trong nền với các dữ liệu thô từ khu vực này và cho
ra một tham số và vẽ đường biểu diễn về 'tính đồng nhất' hoặc 'độ mềm' của cấu trúc
mô, phản ánh chùm siêu âm được máy AplioXG gửi vào cơ thể ", Tiến sĩ Noahisa
Kamiyama, người đã thiết kế các thuật toán ASQ giải thích.
Tham số này cho thấy những thay đổi bệnh lý của mô, ví dụ như chuyển đổi hoá xơ
(fibrotic) của nhu mô gan.
”Hầu hết các máy siêu âm không thể chấp nhận các dữ liệu tần số thuần âm radio (pure
acoustic radio frequency [RF] data). Thay vào đó chỉ chọn các phân đoạn tín hiệu trích

xuất để hiển thị hình ảnh B-mode trên màn hình".
ASQ hoạt động với bộ xử lý tín hiệu nhận tín hiệu RF thô và trích xuất dữ liệu của cấu trúc
cực nhỏ, hoặc các dải sợi. Gan là một cơ quan mềm, trơn mượt, không có bất kỳ cấu trúc
bất thường nào trong trạng thái lành mạnh.
ASQ tìm các tín hiệu thô để phân biệt các thay đổi nhỏ, những hồi âm của các cấu trúc rất
mảnh từ nền nhiểu ồn tạo ra bởi sóng radio rồi chế biến dữ liệu này thành một dạng hữu
ích cho các radiologists.
ASQ cung cấp hai phương thức trình bày, một là đồ thị thống kê, vẽ đường cong biểu diễn
phân phối các thông số đáp ứng với các cấu trúc sợi mà chùm siêu âm phản ánh hoặc tính
'đồng nhất' hay độ ‘mềm' của mô. Cách thứ hai là hiển thị hình ảnh giống như hình ảnh
Doppler quen thuộc với màu sắc của các giá trị khác nhau chồng trên hình B-mode.
Toyoda và Kumada trong American Journal of Roentgenology October 2009 báo cáo về
tương quan giữa phân tích dữ liệu bằng ASQ và kết quả mô học của tế bào gan ở 148 ca,
qua đó các giá trị trung bình của ASQ phù hợp với kết quả sinh thiết của bệnh nhân bị
viêm gan mạn tính chưa xơ gan.
Các loạt giá trị ASQ chỉ ra chính xác mức độ nghiêm trọng ngày càng tăng của viêm gan
mạn tính ở bệnh nhân thuộc tiêu chuẩn phân loại quốc tế từ F1 đến F4. Những biểu đồ dấu
hiệu của ASQ không xâm lấn phù hợp chặt chẽ theo biểu đồ khảo sát mô học và phân loại
của ASQ của bệnh nhân F2 đến
F4 nặng đã được xác nhận.
ASQ được bổ sung một bộ xử
lý mạnh mẽ để dòng máy Aplio
XG có thể phân tích các dữ liệu
thô trong thời gian thực, trong
khi các chức năng khác của
Aplio XG hoạt động bình
thường.
ASQ của gan của một bệnh
nhân hoá xơ nghiêm trọng (độ
3). Tại khu vực ROI tăng cao

giá trị trung bình của cm2 với
phân phối tần số lệch về bên
phải.

Siêu âm ngày nay Tập 58- Số 1/2010

7


CHUYÊN ĐỀ SIÊU ÂM

MỘT PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH TÍNH CHẤT
ĐÀN HỒI MÔ: KẾT HỢP ĐO ĐỘ ĐÀN HỒI VỚI
SIÊU ÂM CẮT LỚP
(từ A Method for Characterization of Tissue Elastic Properties Combining Ultrasonic
Computed Tomography with Elastography, Tanya Glozman- Haim Azhari, Israel Institut of
Technology, J Ultrasound Med 2010; 29:387-398).

BS NGUYỄN THIỆN HÙNG biên dịch
Trung tâm Y khoa MEDIC Hoà Hảo Thành phố Hồ Chí Minh
Tương quan giữa bệnh lý và thay đổi tính chất cơ học tại chỗ của mô mềm đã biết từ lâu.
Hơn 20 năm qua, đã có nhiều nghiên cứu xác định tính chất cơ học mô sinh học bằng siêu
âm đo độ đàn hồi. Nhưng phần lớn các nghiên cứu này chỉ xác định mỗi một loại sóng
(sóng
dọc
hoặc
sóng
biến
dạng).
Phương pháp kết hợp giữa UCT(Ultrasonic Computed Tomography) và đo độ đàn hồi này

dựa trên hình ảnh học siêu âm để đo kết hợp cả độ đàn hồi tán xạ (backscattered
elastography) và cắt lớp siêu âm truyền xuyên mô (through-transmitted ultrasonic
computed tomography). Phương pháp này đo cùng lúc tốc độ sóng dọc và sóng biến dạng,
giúp tính toán các thông số đàn hồi mô một cách không xâm lấn như độ đàn hồi Young và
độ đàn hồi sóng biến dạng, chỉ số Poisson, và quan trọng nhất là độ đàn hồi khối (bulk
modulus). Để xác định độ đàn hồi khối cần phải có cả số đo tốc độ sóng biến dạng và tốc
độ sóng dọc.

H.1: Một vật được đặt trong
một thùng nước giữa 2 đầu
dò siêu âm. Một tín hiệu
được phát từ một đầu dò và
được phát hiện bởi đầu dò
kia. Một card chuyển data
từ analog sang digital. Có
được một hình quét của vật
ở mode planar CT.

H.2: Hệ thống đo độ đàn
hồi: Nguồn piezoelectric
shear wave dính chặt vật
khảo sát. Các mũi tên chỉ
vector chuyển động. Sự
dời chỗ mô được phát
hiện bằng cách dùng một
đầu

siêu
âm.
A/D=analog/digital; v à

I/O=input/output

Xem tiếp trang 13

Siêu âm ngày nay Tập 58- Số 1/2010

8


CASE REPORT

U MẠCH MÁU HẮC MẠC
BS NGUYỄN THIỆN HÙNG - BS LÊ ĐÌNH VĨNH PHÚC
BS NGUYỄN THÀNH ĐĂNG - BS PHAN THANH HẢI
TRUNG TÂM Y KHOA MEDIC HÒA HẢO – Thành phố HỒ CHÍ MINH

. Bệnh nhân nữ 14 tuổi ở Cần thơ nhập viện ngoại trú bệnh viện Mắt thành phố HCM từ 18
tháng vì mất thị lực mắt phải. Bệnh nhân có triệu chứng mắt mèo mù (leukocoria) bên P.
Siêu âm mắt tại bệnh viện phát hiện u nội nhãn mắt P và bong võng mạc toàn bộ. Bệnh
nhân được gởi đến Trung tâm Y khoa Medic để làm cộng hưởng từ MRI và siêu âm màu.

MRI tại Medic cho thấy bong võng mạc có xuất huyết và u có kích thước 13x6mm từ thành
sau trong nhãn cầu, có tín hiệu thấp ở TW1, cao ở TW2 . U bắt thuốc Gado mạnh, đồng
nhất, không xâm lấn ngoài nhãn cầu. Kết luận của MRI : Khả năng là u mạch máu hắc mạc
(choroidal hemangioma) nhãn cầu P.

H.2a= MRI u mạch máu hắc mạc
trước tiêm Gado

H.2b= MRI u mạch máu hắc mạc sau

tiêm Gado
Siêu âm màu mắt P với đầu dò
linear 7,5MHz (máy Voluson 730,
Medison) thấy bong võng mạc
toàn bộ và u nội nhãn hậu phòng
gần vách sau trong, dạng tròn
gần bầu dục, echo dày , không tín
hiệu màu trong u.
Nghĩ là u
mạch máu nội nhãn kèm bong
võng mạc toàn bộ và xuất huyết
hậu phòng.
H. 4 a,b= U mạch máu hắc mạc
với đầu dò linear supersonic
15MHz, máy Aixplorer Supersonic
Imagine

Siêu âm ngày nay Tập 58- Số 1/2010

9


H.3 = U mạch máu hắc mạc với đầu dò linear 7,5MHz máy Voluson 730.
Siêu âm với đầu dò linear supersonic 15MHz (máy Aixplorer Supersonic Imagine): U nội
nhãn hình bầu dục, echo dày, nhiều mạch máu trên Color Doppler, phổ động mạch.

H. 4 a,b= U mạch máu hắc mạc với đầu dò linear supersonic 15MHz, máy
Aixplorer Supersonic Imagine
Với siêu âm đàn hồi sóng biến dạng (shear wave elastography) u thuộc loại mềm với mã
xanh da trời (blue code), độ cứng 10-14kPa và tốc độ sóng biến dạng (shear wave

velocity) = 1,4m/sec.

H.5a= U mạch máu hắc mạc loại
mềm có blue code và độ cứng 14kPa.

Siêu âm ngày nay Tập 58- Số 1/2010

H.5b= U mạch máu hắc mạc có tốc
độ sóng biến dạng 1,4m/sec
Xem tiếp Trang 3

10


CASE REPORT

NỐT DI CĂN RỐN
(SISTER MARY JOSEPH’S NODULE)
BS Lê Văn Tài, GS Nguyễn Sào Trung, BS Phan Thanh Sơn, BS Thanh Cường,
BS Võ Nguyễn Thành Nhân, BS Phan Thanh Việt Bình, BS Lý Thanh Lãm
Trung Tâm Y khoa MEDIC
TRƯỜNG HỢP LÂM SÀNG:
Bệnh nhân nam 36 tuổi. Đau TV, đau lưng nhiều không ngủ được, sụt ký (#3 kg), đi cầu
phân đen. Nốt ở rốn màu nâu đỏ, sờ chắc, không đau, thấy khoảng 7 tháng, đã khám
nhưng không nghĩ là nốt ác tính, được đề nghị mỗ nhưng bệnh nhân không đủ tiền.
Siêu âm nốt ở rốn echo kém, ít mạch máu. Siêu âm bụng thấy dầy vách dạ dầy nghi
bướu, có dịch & hạch ổ bụng, 2 thận ứ nước độ 2 nên nghĩ k dạ dày di căn ổ bụng và rốn.
Nội soi loét cứng thân dạ dầy nghi k sinh thiết 2 lần chỉ thấy tế bào viêm mạn. CT thâm
nhiễm dạ dầy có bắt thuốc tương phản nghĩ linitis plastica, nốt ở rốn mật độ mô có bắt
thuốc. Sau đó tiến hành chọc hút tế bào nốt ở rốn kết quả không thấy tế bào ác tính nên

cho làm sinh thiết, kết quả carcinoma tuyến dạng tế bào nhẫn xâm nhập mô mềm dưới da.
A. Nốt ở rốn chắc, không đau, không tiết dịch.

B. Hình siêu âm cho thấy cấu trúc echo kém, ít
mạch máu, D = 35 x 29 mm.

C. Nốt vùng rốn mật độ mô bắt thuốc tương
phản nhẹ.

Siêu âm ngày nay Tập 58- Số 1/2010

11


C. Tế bào học mẫu sinh thiết nốt ở rốn cho thấy
carcinoma tuyến dạng tế bào nhẫn xâm nhập
mô mềm dưới da.

BÀN LUẬN
Nốt rốn lành tính (57%), ác tính (43%) trong đó k nguyên phát (17%), do di căn
(83%).
Nốt lành tính:
Dermal nevi, fibroepithelial pallpilomas, epithelial inclusion cysts, seborrheic keratoses,
dermomatofibromas, polyps.
Ở trẻ em có thể do bất thường bẩm sinh như nốt omphalomesenteric và urachal duct, do
sẹo lồi, thoát vị.
Ở phụ nữ còn kinh có nốt lạc nội mạc.
Nốt K nguyên phát:
Melanomas, basal cell carcinomas, myosarcoma, adenocarcinoma.
Myosarcomas và adenosarcoma từ vết tích của omphalomesenteric duct hay urachal duct.

Nốt di căn:
Baluff (1854) & Nelaton (1860): đã mô tả di căn rốn.
Sister Mary Joseph (1856 – 1939) người Ái Nhĩ Lan, điều dưỡng trưởng của St Mary’s
Hospital, là đơn vị của Mayo Clinic, phụ tá Dr. William Mayo trong quá trình chuẩn bị bệnh
nhân phẩu thuật bà ghi nhận những bệnh nhân có nốt ở rốn thì có bệnh ung thư tiến triển
nặng trong ổ bụng và sau đó tên bà được Sir Hamilton Bailey đặt cho nốt di căn rốn.
Sister Mary Joseph’ s Nodule
Nốt nhỏ đến 5 cm, không đều, có thể có nhiều thùy, màu xanh tím, đỏ nâu, sờ không đau,
có thể ngứa (hiếm).
Có thể lỡ loét gây đau, tiết thanh dịch, máu, mũ.
Triệu chứng lâm sàng có thể gập như thượng vị, buồn nôn, sụt ký, chướng bụng, ascites.
Do gieo rắc tế bào ung thư trong mổ nội soi.
Do ung thư trong ổ bụng: dạ dày (25%), ruột già trực tràng (10%), buồng trứng (12%),
tụy (7%), gan, đường mật, thận, niệu quản, tiền liệt tuyến, dương vật, ruột non, ruột
thừa, nội mạc tử cung, tử cung, vòi trứng, âm đạo.
Ngoài ra: có thể do di căn từ thực quản, vú, phổi, phần mềm vùng cổ.
Không rõ nguồn gốc u (29%).
Đường di căn:
Xâm lấn trực tiếp từ phúc mạc.
Đường máu
Bạch huyết
Dây chằng như dây chằng tròn, ống niệu rốn.
Chẩn đoán:
Siêu âm, CT, FNA, sinh thiết.
Siêu âm: Nốt Echo kém, có mạch máu.
Mô học: Thường là adenocarcinoma, cũng có thể là sarcoma, mesothelioma hay
melanoma.
Điều trị: có thể phẩu thuật, hóa trị
Tiên lượng:
Nếu có di căn rốn thường tiên lượng xấu.

Phẩu thuật + hóa trị sống trung bình 17 tháng, không điều trị sống khoảng 3 tháng.
KẾT LUẬN
Nốt Sister Mary Joseph do căn rốn hiếm gặp.
Khi thấy nốt ở rốn đừng quên nốt di căn thường từ ung thư ổ bụng và hiếm hơn ở những
nơi khác để tránh sai sót.

Siêu âm ngày nay Tập 58- Số 1/2010

12


CASE REPORT
TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Albano, M.D. Sister Mary Joseph's Nodule. NEJM, Images in clinical medicine, Volume 352:1913
May 5, 2005 Number 18
Watanabe Takuya. Two Cases of Umbilical Metastasis of Gastric Cancer. Journal of Japan Surgical
Association 2006; Vol.67,No.11:2738-2741
J Thariat MD. Skin metastasis of head and neck carcinoma predictive for dismal outcome.
Dermatology Online Journal. Volume 14 Number 6
Raimondo Gabriele, Marco Conte, Federico Egidi and Mario Borghese. Umbilical metastases: current
viewpoint. World Journal of Surgical Oncology 2005.
www.turner-white.com. Frank L. Urbano, MD. Sister Joseph’ s Nodule.
Themis Getsos CollaI. Case for diagnosis* Umbilical metastasis of pancreatic carcinoma (Sister Mary
Joseph’s Nodule). An. Bras. Dermatol. vol.84 no.3 Rio de Janeiro July 2009
MV Mallya. Sister Mary Joseph’s Nodule – Diagnosis of Umbilical Metastases by Fine Needle Aspiration.
India J Pathol. Microbiol. 38:95-98, 1995
Raimondo Gabriele. Umbilical metastases: current viewpoint . World Journal of Surgical Oncology
2005, 3:13

V. TÀI LIỆU THAM KHẢO BÀI EXOMPHALOS

- Bài giảng bệnh học ngoại khoa tập II / Bộ môn ngoại tổng quát Trường Đại học Y Dược
thành phố Hồ Chí Minh.
- Illustrated signs in Clinical paediatrics / A. Minford – R. Arumegam.
- www.obgyn.net/ultrasound/ ultrasound/present/0701/gastroschisis
- www.centrus.com.br/DiplomaFMF/SeriesFMF/11-14Weeks/chapter-01-final.htm

MỘT PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH TÍNH CHẤT ĐÀN HỒI MÔ
Có 2 hệ thống được thiết kế: Hệ thống UCT để đo tốc độ sóng dọc CL và hệ thống transient
elastography để đo tốc độ sóng biến dạng CS.
Giá trị của CS thay đổi từ 1 đến 10m/s trong khi CL trong mô mềm khoảng 1500m/s.
Cả tốc độ sóng dọc và sóng biến dạng đều cần phải có để xác định tính chất đàn hồi mô cơ
thể.
Độ đàn hồi khối chỉ có thể được xác định bằng cách kết hợp số đo tốc độ sóng dọc và sóng
biến dạng nên độ đàn hồi khối thích ứng cho việc phân loại các mô khác nhau, là lợi ích của
việc kết hợp giữa UCT và đo độ đàn hồi.
Phương pháp này có tính chất hổ trợ giúp phát hiện ung thư vú cho nhũ ảnh cũng như dùng
với xung lực bức xạ âm (acoustic radiation force impulse) hay hình ảnh học chuyển động hoà
âm (harmonic motion imaging) để đo tốc độ sóng biến dạng.

CHÂN TRỜI SIÊU ÂM
4/ PHÁT HIỆN HẠCH DI CĂN VÀ DỰ ĐOÁN DIỄN TIẾN Ở BỆNH NHÂN UNG THƯ VÚ:
Detecting Metastasis of Lymph Nodes and Predicting Aggressiveness in Patients With Breast Carcinomas
Qiufang Ouyang, MD, Liwu Chen, MD, Hongjia Zhao, MD, Rong Xu, MD and Qingping Lin, MD
Department of Ultrasonography, Second Affiliated People's Hospital of Fujian Traditional Chinese Medicine,
Fuzhou, China.
Address correspondence to Hongjia Zhao, MD, Department of Ultrasonography, Second Affiliated People's
Hospital of Fujian Traditional Chinese Medicine, 350005 Fuzhou, China. E-mail:

-Mục tiêu: Đánh giá tính chất siêu âm tăng cường chất cản âm (CEUS) của hạch di căn và
quyết định mối tương quan của những thông số CEUS với u tiến triển ở bệnh nhân ung thư

vú.
-Phương pháp: Siêu âm B-mode tức thì có tăng cường chất cản âm của hạch nách đã được
thực hiện trước mổ trên 51 bệnh nhân ung thư vú- những người được sắp xếp nạo hạch
nách. Đặc tính CEUS được đánh giá bằng 1 phương pháp quan sát trực tiếp và phần mềm
định lượng đã được so sánh với dấu hiệu bệnh học. Biểu hiện HER 2 / neu trên u nguyên phát
đã được phát hiện bằng phân tích hóa mô miễn dịch. Phân tích mối liên quan của thông số
CEUS với HER 2/ neu và giai đoạn hạch vùng đã được thực hiện
-Kết quả: 27 hạch do di căn và 25 hạch được chẩn đoán là phản ứng tăng sản. Hạch di căn
đã được đặc trưng bởi diễn tiến hướng tâm (66,7%) và mẫu không đồng nhất(55,6%) hay
không hay ít tưới máu (25,9%). Tuy nhiên hạch vùng không di căn đã được bởi tăng cường ly
tâm (56%) và đồng nhất (80%). Sự khác nhau giữa vùng tăng cường và giảm tăng cường
thì cao ở nhóm di căn hơn. Không có sự khác nhau đáng kể về thời gian đến, thời gian cường
độ đỉnh và cường độ đỉnh giữa 2 nhóm. Chẩn đoán mô bệnh học có thể dự đoán với độ nhạy,
đặc hiệu và chính xác là 92,6%, 76% và 84,6% bởi tiêu chuẩn khác nhau giữa giá trị cường
độ tín hiệu mạnh nhất và nhỏ nhất (SI max- SI min) của 28 Her 2/neu. Với hạch di căn, sự
tương quan giữa độ nhạy chẩn đoán của CEUS và đường kính ngang của hạch có ý nghĩa
thống kê ( p< 0,05)
-Kết luận: CEUS không xâm lấn có thể đóng vai trò trong phân biệt hạch di căn với hạch
không di căn và dự đoán diễn tiến ung thư vú.

Siêu âm ngày nay Tập 58- Số 1/2010

13


CASE REPORT

EXOMPHALOS
BS LỮ MINH TÂN / TRUNG TÂM Y KHOA MEDIC HOÀ HẢO TPHCM


I.GIỚI THIỆU : Exomphalos ( = Omphalocele = Phình cuống rốn = Thoát vị trong
cuống rốn …) là một trong ba loại thóat vị xảy ra tại vùng rốn ( Exomphalos Gastroschisis - Umbilical hernia ). Và là một thoát vị hiếm gặp , chiếm tỷ lệ # 1/
4000 đến 1/ 5500 các trường hợp mang thai ( theo Williams & Wilkins 1998 ).
II.ĐỊNH NGHĨA :

Exomphalos =
Là một dị dạng bẩm sinh xuất
hiện trong thai kỳ sau tuần thứ
11, trong đó một số tạng bụng,
chủ yếu là ruột, trồi qua một lỗ
hổng giữa vùng rốn do thành
bụng ngừng phát triển không
khép lại, nằm ngay chân cuống
rốn, tạo nên khối phình được phủ
bằng một màng trong suốt gồm 2
lớp : bên trong là phúc mạc
nguyên thuỷ và bên ngoài là
màng ối, không có mạch máu
nuôi.
Đỉnh của khối thoát vị là dây rốn (
hoặc có khi là “ cái kẹp rốn “ ).

(từ
www.centrus.com.br
Diploma FMF … )

Gastroschisis =
Còn được gọi là Khe hở thành bụng
hay Phòi ruột bẩm sinh. Là một dị
dạng bẩm sinh xuất hiện trong thai

kỳ sau tuần thú 11, do thiếu sót
biệt hoá của trung mô phôi gây ra
thành bụng trước bị khuyết không
khép kín được khiến cho ruột hoặc
các tạng phòi ra ngoài.
Khe hở này thường nằm ngoài và
cạnh chân cuống rốn ( thường là
bên phải ).
Không có một màng bọc hoặc di
tích màng bọc nào che phủ tạng
phòi ra ngoài .

Umbilical hernia =
Còn được gọi là Rốn lồi hay
Thoát vị rốn. Là một bệnh lý xảy
ra khi rốn rụng. Do dây rốn tiếp
giáp với thành bụng tạo nên
vòng đai rốn, khi các cấu trúc
của dây rốn thoái hoá và tiêu
dần đi dẫn đến rốn rụng sẽ hình
thành một khuyết ở vòng đai
rốn, qua đó phúc mạc, mạc nối
và ruột non có thể trồi ra gây
thoát vị.
Khối thoát vị trong trường hợp
này được da che phủ.

/
(từ
www.obgyn.net

/
ultrasound/ultrasound/asp?page=/
…) .

III.TRƯỜNG HỢP LÂM SÀNG :

Siêu âm ngày nay Tập 58- Số 1/2010

14


Một bé gái 4 ngày tuổi được giới thiệu
đến MEDIC khám siêu âm với lý do rốn
to.

Trên lâm sàng dễ nhận ra đây là một
trường hợp Exomphalos bởi vì : có một
khối thoát vị xuất phát từ rốn, được bao
bởi một lớp màng bao, không có da che
phủ, đỉnh của khối thoát vị là “ cái kẹp
rốn “.

Hình siêu âm cắt dọc theo khối thoát vị cho
thấy thành phần bên trong là ruột non, có
phân bố mạch máu trên thành ruột.

Hình siêu âm cắt ngang qua khối thoát vị
cho hình ảnh tương tự, và quan sát kỹ thì
thấy không có cấu trúc của da bao phủ.
Hình siêu âm cắt ngang qua chân rốn

cho thấy ruột non thoát vị vào trong
cuống rốn, không thấy hình ảnh của da
bao phủ.
Qua đó các hình ảnh siêu âm đã
giúp củng cố thêm cho chẩn đoán
Exomphalos trên lâm sàng.

IV. KẾT LUẬN :
Exomphalos được nhận biết tương đối dễ trên lâm sàng, tuy nhiên siêu âm cũng góp phần
giúp xác định màng bao bên ngoài không phải là da, thành phần nào thoát vị bên trong
cùng các biến chứng nếu có. Ngoài ra Exomphalos cũng thường đi kèm với các bất thường
bẩm sinh khác như bất thường các nhiễm sắc thể 13 – 18 – 21, tứ chứng Fallot, ngũ chứng

Siêu âm ngày nay Tập 58- Số 1/2010

15


CASE REPORT
Cantrell, bất thường hệ niệu - tiêu hoá - thần kinh, gan to , tăng sản tuỵ … mà siêu âm có
thể giúp phát hiện ra. Hơn nữa siêu âm thai kỳ thường quy cũng có thể phát hiện ra
Exomphalos vào tuần thứ 12.

Hình ảnh siêu âm Exomphalos.

Hình ảnh siêu âm Umbilical hernia
( da là một lớp mỏng với echo dầy).

V. TÀI LIỆU THAM KHẢO (xem trang 13)


HIBERNOMA TUYẾN VÚ
Thảo luận:
Hibernoma là u phần mềm không thường gặp xuất phát từ mô mỡ nâu. Mô mỡ nâu khác
với mô mỡ trắng thường gặp qua theo dõi dấu hiệu trên kính hiển vi và tăng sinh nhiều
mạch máu. Mô mỡ nâu được xem là đóng vai trò nội tiết và chức năng điều hòa nhiệt độ
và thường gặp ở thai nhi và trẻ sơ sinh. Lượng mô mỡ nâu giảm dần theo tuổi; tuy nhiên
hibernoma thường gặp ở người trưởng thành, ở bất kỳ nơi nào có tồn tại mô mỡ nâu. Hầu
hết những ca không có triệu chứng, phát triển chậm khối lớn dưới da. Vị trí thường gặp
nhất là chi, thân mình, vai, cổ; chỉ có 1 ca Hibernoma vú được báo cáo trên y văn.
Hibernoma thường biểu hiện qua khám hình ảnh. Trên siêu âm, hibernoma điển hình
được mô tả là khối có echo bờ rõ. Trên MRI, tổn thương này biểu hiện tăng tín hiệu giống
mô mỡ ( thường trung gian giữa cơ xương và mỡ dưới da) và biểu hiện qua tăng cường
chất tương phản có tăng sinh mạch máu. Tuy nhiên, không có triệu chứng hình ảnh đặc
hiệu của hibernoma để phân biệt với mô mềm lành tính hay ác tính khác như
haemangioma, lipoma, angiomyolipoma và liposarcoma.
Dấu hiệu ít biết về y học hạt nhân của Hibernoma: nhập F_ FDH vào mô mỡ nâu, khởi
đầu xem giống như là cơ, mô tả đầu tiên 1996 là thâm nhập đối xứng vào vai, cổ và thân
mình. Hibernoma là hoạt động chuyển hóa trên F-FDG, CT- PET, biểu hiện giá trị nhập
tương tự như liposarcoma. Dấu hiệu CT- PET của Hibernoma thì không phân biệt được với
ác tính, thường dẫn đến dương tính giả. Sinh thiết cần thiết để loại trừ nguyên nhân ác
tính. Theo hiểu biết chúng tôi, đây là ca đầu tiên vể Hibernoma vú có hình ảnh CT- PET.
Trong ca của chúng tôi, chẩn đoán phân biệt dựa trên những hình ảnh ( đặc biệt là echo
dày đồng nhất trên siêu âm vú và tăng tín hiệu tương tự mô mỡ trên MRI), bao gồm
lipoma, haemangioma hay liposarcoma biệt hóa kém. Bởi vì tiền sử của bệnh nhân, giá
trị thấm nhập cao trên CT- PET, tăng mạch máu của tổn thương và phần washout biểu
hiện trên MRI, một tổn thương ác tính không thể loại trừ.
Về vi thể, hibernoma chưá những tế bào mỡ nhiều không bào to với nhân trung tâm nhỏ
và không có thể không điển hình, như ca chúng tôi. Trên hóa mô miễn dịch, nhiều những
mạch máu và tăng thành phần của ti thể, cũng phân biệt hibernoma vói lipoma lành bao
gồm mô mỡ trắng được ghi nhận. Hibernoma thì thường điều trị cắt bỏ tại chỗ và không

tái phát. Như bệnh nhân chúng tôi là không triệu chứng và diễn tiền ác tính của tổn
thương được loại trừ, cô ta không phải chịu bất kỳ cuộc phẫu thuật nào. Tuy nhiên, qua
theo dõi hạch vùng chậu và hạch giữa ĐM chủ bụng- TM chủ dưới đã được ghi nhận trên
CT-PET, cô ta được nạo hạch và tiến hành hóa trị.
Kết luận : Hibernoma vú mặc dù hiếm có thể bao gồm trong chẩn đoán phân biệt của tổn
thương vú chứa mỡ. Trong những trường hợp này, sinh thiết chẩn đoán được khuyến cáo
bởi vì khó phân biệt với u mô mềm lành hay ác tính có tăng sinh mạch máu khi chỉ dựa
trên dấu hiệu hình ảnh.

Siêu âm ngày nay Tập 58- Số 1/2010

16


CASE REPORT
MỘT TỔN THƯƠNG VÚ KHÔNG THƯỜNG GẶP:
SIÊU ÂM, NHŨ ẢNH, CỘNG HƯỞNG TỪ
VÀ Y HỌC HẠT NHÂN CỦA HIBERNOMA TUYẾN VÚ
BS VÕ NGUYỄN THỤC QUYÊN dich
Trung tâm Y khoa MEDIC – Thành phố Hồ Chí Minh
(An unusual breast lesion: the ultrasonographic, mammographic, MRI and nuclear medicine
findings of mammary hibernoma)
N MARTINI, MD, V LONERO, MD, P MACHIN, MD, L L TRAVAINI, MD, C ZUIANI, MD, M
BAZZOCCHI, MD and G PAGANELLLI, MD), The British Journal of Radiology, Jan, 2010.

TÓM TẮT
Chúng tôi báo cáo ca bệnh nhân nữ 42 tuổi điều trị ung thư buồng trứng đã được chẩn
đoán ở tuổi 40. PET scan thực hiện khi theo dõi bệnh cho thấy có dấu bất thường ở vú
phải. Nhũ ảnh không thấy dấu ác tính , trong khi siêu âm thấy có focal echo dày ở vú cùng
bên. Vì vậy bệnh nhân đã đến viện chúng tôi để làm MRI vú, cho thấy một vùng khu trú

tăng cường tín hiệu với tính chất không điển hình. Sinh thiết qua da được thực hiện và đã
có chẩn đoán Hibernoma vú. Có mối liên quan giữa chẩn đoán hình ảnh và bệnh học. Theo
kinh nghiệm chúng tôi đây là một báo cáo mô tả tính chất của u hiếm qua 4 phương thức
hình ảnh khác nhau ( nhũ ảnh, siêu âm, MRI và CT- PET)
Một phụ nữ 42 tuổi không triệu chứng có Adenocarcinoma tế bào sáng buồng trứng đã
được điều trị bằng phẫu thuật và hóa trị ở tuổi 40, chụp CT- PET với F18- fluorodeoxy
glucose để xếp lại giai đoạn: CT- PET cho thấy có dấu bất thường ở chuỗi hạch ĐM chủ
đoạn thắt lưng và một vùng bắt xạ khu trú ở ¼ dưới trong vú phải. Ở vị trí này, giá trị
thấm nhập tiêu chuẩn lớn nhất tương ứng với trọng lượng cơ thể ( SUV bw-max) là 14,9.
Đây là dấu hiệu nghi ngờ ác tính, đòi hỏi một kỹ thuật chẩn đoán sâu hơn. Bệnh nhân
không có tiền sử gia đình ung thư vú.
CA BÁO CÁO:
Nhũ ảnh CC (đầu-chân) và ML (chéo trong/ ngoài) của vú phải không thấy bất kỳ khối nào,
rối loạn cấu trúc hay vôi hóa, không thay đổi trong nhũ ảnh thường qui hằng năm trong
suốt 2 năm qua

H.1: PET-CT với F18-fluorodeoxyglucose phát hiện
vùng bắt thuốc khu trú ¼ dưới trong vú P, và
chuỗi hạch ĐMC thắt lưng bất thường.

Siêu âm ngày nay Tập 58- Số 1/2010

17


CASE REPORT

Khám siêu âm tập trung ở ¼ dưới trong vú phải cho thấy một vùng echo dày theo chiều
dọc, với kích thước lớn nhất 19 mm. Bởi vì tiền sử bệnh học của bệnh nhân và dấu hiệu
trên CT- PET thì MRI vú là cần thiết để loại trừ một khối u vú.


H.2: Siêu âm phát hi ện vùng dọc echo
dày với đường kính lớn nhất 19mm ở ¼
dưới trong vú P.
Khám MRI 1,5 T với Gadolinium trước và sau T1 weighted 3 D fast low-angle shot (3 DFLASH).
Hình ảnh T1 trước contrast cho thấy một khối giới hạn không rõ với cường độ nhẹ như mô
mỡ dưới da ở ¼ dưới trong vú phải, đo được 18 x 18 x 31mm. Sau chích Gadolinium ( 0,1
mmol kg -1 Gd DTPA sau bơm 20ml saline, khối được tăng cường nhanh với tỉ lệ tăng
cường trung bình ( 32% ở 1 phút 40 giây) và mẫu tăng khi thải thuốc (washout). Khám
siêu âm sau đó xác định sự hiện diện một vùng có mạch máu echo dày giới hạn rõ có thùy
mỡ echo kém giới hạn rõ, đo 30 x 16mm và tương ứng với dấu hiệu MRI. Core biopsy
(14G) được thực hiện dưới hướng dẫn siêu âm; không thấy có xuất huyết. Chẩn đoán mô
học là Hibernoma.

H.3: (a) MRI cho thấy khối giới hạn rõ với cường độ tín hiệu như
mỡ dưới da ở hình precontrast T1 weighted cùng chỗ với PET và
siêu âm phát hiện (b-d). Sau tiêm Gadolinium, tổn thương là khối
tăng cường khi thải thuốc (curve Type III).

Siêu âm ngày nay Tập 58- Số 1/2010

18


Bs Võ Nguyễn Thục Quyên
Tuyển chọn và dịch

1/ SINH THIẾT NHÂN
GIÁP: SO SÁNH giữa 3
BỘ HƯỚNG DẪN

Biopsy
of
Thyroid
Nodules: Comparison of
Three Sets of Guidelines
Sung Soo Ahn1, Eun-Kyung
Kim1, Dae Ryong Kang2, SungKil Lim3, Jin Young Kwak1 and
Min Jung Kim1
1 Department of Radiology and
Research
Institute
of
Radiological Science, Yonsei
University, College of Medicine,
250 Seongsanno, Seodaemungu, Seoul 170-752, South
Korea.
2 Clinical Trials Center, Yonsei
University, College of Medicine,
Seoul, South Korea.
3 Division of Endocrinology and
Metabolism,
Department
of
Internal
Medicine,
Yonsei
University, College of Medicine,
Seoul, South Korea.

-Mục tiêu: So sánh kết

quả với 3 bộ hướng dẫn
cho sinh thiết chọc hút
bằng kim nhỏ ( FNAC)
những nhân giáp.
-Đối tượng và phương
pháp: Nghiên cứu bao
gồm tổng số 1.398 nhân
được xác định bằng
FNAC hay phẫu thuật.
Chúng tôi so sánh mức
độ chẩn đoán của 3 bộ
hướng dẫn với dấu hiệu
siêu âm gợi ý cho thực
hiện FNAC nhân giáp.
Dựa theo tiêu chuẩn của
Kim, 1 nhân tối thiểu có
1 trong những tiêu
chuẩn sau: có echo kém,
bờ đa cung nhỏ hay bờ
không đều, vi vôi hóa,
hay chiều dài lớn hơn
chiều rộng. Dựa theo
tiêu chuẩn của Hiệp hội
chẩn đoán hình ảnh siêu
âm, sinh thiết nên được
thực hiện trên 1 nhân

kích thước lớn hơn hay
bằng 1cm có vi vôi hóa,
nhân đặc lớn hơn hay

bằng 1,5cm hay có vôi
hóa thô và lớn hơn hay
bằng 2cm có thành phần
đặc trong nang và 1
nhân đặc to hay có hạch
vùng cổ bất thường.
Theo Hiệp hội của các
bác sĩ nội tiết học lâm
sàng Mỹ, nhân giáp echo
kém với tối thiểu 1 đặc
tính trên, như là bờ
không đều, chiều dài lớn
hơn chiều rộng, và vi vôi
hóa nên được sinh thiết.
-Kết quả: Với tất cả
nhân giáp, chẩn đoán
theo Kim (khu vực dưới
đường cong ROC) và tiêu
chuẩn Hiệp hội của các
bác sĩ nội tiết Mỹ có độ
chính xác lớn hơn của
Hiệp hội chẩn đoán hình
ảnh siêu âm. Số lượng
của những nhân giáp
được chọc hút sinh thiết
theo khuyến cáo với tiêu
chuẩn Hiệp hội của các
bác sĩ nội tiết học lâm
sàng Mỹ và sử dụng tiêu
chuẩn của Kim có số tổn

thương ác tính bị bỏ sót
ít nhất (25,6%). Kết quả
không thay đổi trong
những ph? nhóm với
nhân lớn hơn 1cm.
-Kết luận: Tiêu chuẩn
của Kim và Hiệp hội bác
sĩ nội tiết Mỹ thì chính
xác hơn tiêu chuẩn của
Hội chẩn đoán hình ảnh
siêu âm. Hướng dẫn của
Hiệp hội nội tiết học lâm
sàng Mỹ có độ đặc hiệu
cao và tiêu chuẩn Kim có
độ nhạy cao.
2/ TIẾP CẬN CHẨN
ĐOÁN TRONG ĐÁNH
GIÁ HẠCH DI CĂN TỪ
UNG THƯ TUYẾN GIÁP
SỬ DỤNG SIÊU ÂM VÀ
SINH
THIẾT
CHỌC
HÚT BẰNG KIM NHỎ:
Diagnostic Approach for
Evaluation
of
Lymph
Node Metastasis From
Thyroid Cancer

Using
Ultrasound
and
FineNeedle Aspiration Biopsy
Yu-Mee Sohn1,2, Jin Young
Kwak1, Eun-Kyung Kim1, Hee

Siêu âm ngày nay Tập 58- Số 1/2010

Jung Moon1, Soo Jin Kim1 and
Min Jung Kim1
1 Department of Radiology,
Research
Institute
of
Radiological Science, Yonsei
University College of Medicine,
250 Seongsanno, Seodaemungu, Seoul 120-752, South
Korea.
2 Department of Radiology,
Kyung Hee University Medical
Center, Seoul, South Korea.

-Mục tiêu: Khảo sát tiêu
chuẩn siêu âm để quyết
định tiêu chuẩn chính
xác nhất phân biệt hạch
lành hay ác tính trên
siêu âm và để đánh giá
tần suất di căn dựa trên

kết quả tế bào học.
-Đối tượng và phương
pháp: 118 bệnh nhân có
hạch nghi ngờ ác tính
qua sinh thiết chọc hút
bằng kim nhỏ. Chúng tôi
đã khảo sát với một
trong những tính chất
siêu âm sau : mất rốn
hạch, có nang hoá hay
vôi hóa, echo dày và
hình dạng tròn và đã xếp
tiêu chuẩn siêu âm 1 và
2. Chúng tôi xem tiêu
chuẩn 1 là một trong
những dấu hiệu siêu âm
ác tính đã đề cập ở trên
và tiêu chuẩn 2 là một
trong những dấu hiệu đề
cập ở trên ngoại trừ dấu
hiệu mất rốn hạch. Kết
quả tế bào đã được phân
chia thành: tế bào di
căn, đại thực bào không
có tế bào ác tính, số
lượng nhỏ tế bào, và
không có tế bào ác tính,
và đánh giá tần suất của
di căn.
-Kết quả: 91 di căn và

27 nốt lành tính. Những
vùng dưới đường cong
ROC của tiêu chuẩn 2 thì
cao hơn đáng kể tiêu
chuẩn 1. Tần số di căn
cao nhất với kết quả tế
bào di căn cao nhất (
95,8%) kế đến là đại
thực bào không có tế
bào ác tính ( 87,5%) và
số lượng ít tế bào
(71,4%) và không có tế
bào ác tính (34,4%).
-Kết luận: Tiêu chuẩn
siêu âm chính xác nhất
để phân biệt hạch di căn

19


CHÂN TRỜI SIÊU ÂM
với lành tính là tiêu
chuẩn siêu âm 2 (bất kỳ
tiêu chuẩn nghi ngờ nào
ngoại trừ mất rốn hạch)
và không nên bỏ qua
trường hợp siêu âm nghi
ngờ mặc dù không có tế
bào ác tính về tế bào
học.

3/ UNG THƯ TUYẾN
GIÁP DẠNG NANG:
TÍNH CHẤT SIÊU ÂM
của 50 TRƯỜNG HỢP
Thyroid
Follicular
Carcinoma: Sonographic
Features of 50 Cases
John C. Sillery1, Carl C.
Reading1,
J.
William
Charboneau1,
Tara
L.
Henrichsen1, Ian D. Hay2 and
Jayawant N. Mandrekar3
1 Department of Radiology,
Mayo Clinic, 200 First St. SW,
Rochester, MN 55905.
2 Department of Endocrinology,
Mayo Clinic, Rochester, MN.
3
Department
of
Health
Sciences Research, Division of
Biostatistics,
Mayo
Clinic,

Rochester, MN.

-Mục tiêu: Hồi cứu siêu
âm của những u tuyến
giáp dạng nang với
những tính chất sẽ giúp
phân biệt ung thư dạng
nang với u tuyến nang
và với bất kỳ những tính
chất phân biệt những
ung thư dạng nang kiểu
biến thể tế bào Hurthle
với ung thư dạng nang
cổ điển.
-Đối tượng và phương
pháp: Nghiên cứu bao
gồm những bệnh nhân
có chẩn đoán ung thư
dạng nang và những
bệnh nhân u tuyến
nang. 50 bệnh nhân ( 25
nam và 25 nữ; tuổi
trung bình 59,5) có chẩn
đoán ung thư tuyến giáp
dạng nang (27 với ung
thư dạng nang cổ điển,
22 với ung thư dạng
nang biến thể tế bào
Hurthle và 1 biến thể cô
lập) trong thời gian 6

năm. 52 bệnh nhân
nhóm chứng (10 nam và
42 nữ; tuổi trung bình
46,5) đã được chọn lựa
từ những mẫu ngẫu
nhiên của tất cả những
ca u tuyến nang trong
cùng thời gian. Biểu đồ

siêu âm đã được xem
xét với sự đồng thuận từ
4 bác sĩ chẩn đoán hình
ảnh cho những tính chất
khác nhau. Tất cả bệnh
nhân trong lô nghiên cứu
và nhóm chứng đã được
phẫu thuật và phân tích
bệnh học của những u
dạng nang. Thử nghiệm
chính xác Chi-square
hay Fisher 's đã được sử
dụng với những tiêu
chuẩn biến đổi; tổng
kiểm tra xếp hạng của
Wiloxon đã được sử dụng
cho các biến liên tục
-Kết quả: Hình dạng
echo kém ( 82% trong
số bệnh nhân ung thư
giáp dạng nang so v?i

50% của bệnh nhân u
tuyến nang; p< 0,005; tỉ
lệ chênh lệch OR 0,5; độ
tin cậy CI
95%, 0,30,7); không có halo
(64% trong số ung thư
giáp so với 42% của u
tuyến nang; p< 0,05;
OR 0,4, CI 95%, 020,9), không nang hóa
(90%) trong số ung thư
giáp dạng nang so với
69% trong số bệnh nhân
u tuyến nang; p< 0,05;
OR 0,2; CI 95%, 0,10,7), tuổi bệnh nhân lớn
hơn (tuổi trung bình
59,5 của ung thư giáp
dạng nang so với 46,5
cũa u tuyến nang), kích
thước u (kích thước
trung bình 11,75 ml cho
ung thư giáp so với
5,95ml cho u tuyến
nang; p , 0,05) và phái
nam ( 50% trong số ung
thư so với 19,2% của u
tuyến nang; p< 0,005;
OR 3,7; CI 95%, 1,68,9). Tất cả những tính
chất
nêu trên thường
kết hợp với ung thư giáp

dạng nang hơn là u
tuyến nang lành tính.
Không có sự khác biệt
đáng kể về tỉ lệ về bóng
lưng khúc xạ, cấu trúc
echo, độ xâm lấn, hạch
phì đại, tổn thương nghi
ngờ không phải dạng
nang lân cận , loại mạch
máu và vôi hóa được

Siêu âm ngày nay Tập 58- Số 1/2010

thấy ở 2 nhóm. Trong
nhóm ung thư, cấu trúc
echo đồng nhất hay đa
số đồng nhất (67%
trong nhóm bệnh nhân
ung thư giáp dạng nang
cổ điển so với 36% của
ung thư dạng nang biến
thể tế bào Hurthle ; p<
0,05; OR 3,5; CI 95%
1,1- 11,4) và có vôi hóa
( 22% cho ung thư giáp
dạng nang so với 4%
của ung thư dạng nang
biến thể tế bào Hurthle,
p< 0,05; OR 22,9 ; độ
tin cậy CI

95% , 2261,9) thì thường kết
hợp với ung thư dạng
nang. Tuổi bệnh nhân
lớn hơn ( trung bình 53
cho ung giáp dạng nang
cổ điển so với tuổi 64,5
cho ung thư dạng nang
biến thể tế bào Hurthle;
p< 0,05) thì thường kết
hợp với ung thư dạng
nang biến thể tế bào
Hurthle. Không có sự kết
hợp giữa thể tích u, giới
tính, dấu halo, bóng lưng
khúc xạ, độ hồi âm, độ
xâm lấn, hạch phì đại,
tổn thương nghi ngờ
không phải dạng nang
lân cận, nhóm mạch
máu và nang hóa giữa
những nhóm của ung
thư dạng nang.
-Kết luận: Tính chất siêu
âm của u tuyến nang và
ung thư dạng nang thì
rất giống nhau, nhưng
kích thước thì lớn hơn,
không có halo, hình
dạng echo kém và không
nang hóa, thường gặp ở

ung thư giáp dạng nang
hơn. Tuổi lớn và phái
nam thì thường kết hợp
với ác tính hơn. Trong
nhóm ung thư dạng
nang biến thể tế bào
Hurthle thì thường thấy
trong nhóm bệnh nhân
già hơn với những nhân
có hình dạng không
đồng nhất và không có
vôi bên trong.
Xem tiếp trang 13

20


cần phải có một chế độ
kiểm soát nghiêm ngặt nơi
một số rất lớn những người
tình nguyện, được chia
thành những người chứng
và những người được điều
trị,
RƯỢU VANG CÓ ĐƯỢC
CHỨNG MINH LÀ TỐT
CHO SỨC KHỎE HAY
KHÔNG ?
Ngày nay chúng ta thường
chấp nhận rằng một sự tiêu

thụ có mức độ nhưng đều
đặn rượu vang đỏ (vin
rouge) (một hay hai ly mỗi
ngày) bảo vệ chống lại các
bệnh tim mạch. Đó là
“nghịch lý Pháp” (paradoxe
français) nổi tiếng từ 40
năm nay. Các cổ nhân đã
nói rằng “ruợu ngon làm vui
trái tim của con người” (Le
bon vin réjouit le cœur de
l’homme).
Gần chúng ta hơn, Louis
Pasteur đã không do dự khi
xác nhận rằng “rượu vang là
nước uống lành mạnh nhất
và vệ sinh nhất mà ta có
được. Tuy vậy những tác
dụng có hại của rượu đúng
là được xác lập. Rượu vang
phải chăng là ngoại lệ trong
số các nước uống được pha
chế
cồn
(boissons
alcoolisées) hay phải chăng
chính cách uống “theo kiểu
Pháp”, có chừng mực nhưng
đều đặn mà ta phải quy
kết?

Nhiều công cuộc điều tra
dịch tễ học với những kết
quả nói chung giống nhau
ủng hộ cho giả thuyết về
một tác dụng bảo vệ của
rượu vang đỏ, (mà những
nước uống có chất cồn khác
không có được), được thể
hiện chủ yếu bởi một sự
giảm huyết áp và các nguy
cơ bị tai biến mạch máu não
và tim. Nhưng những thử
nghiệm lâm sàng dài hạn,
cho phép rút ra những kết
luận về các hiệu quả của
một sự tiêu thụ có mức độ
rượu vang, trên thực tế
không thể thực hiện được.
Thật vậy, xét vì tiến triển rất
chậm của các bệnh tim
mạch, để cho những kết
quả về mặt thống kê có giá
trị, trong nhiều năm buộc

NHỮNG
THÍ
NGHIỆM
KHÔNG HOÀN TOÀN.
Ngoài cồn (alcool), rượu
vang

chứa
các
chất
polyphénols, trong số đó có
những hợp chất tạo nên sắc
màu rượu vang đỏ, dường
như có khả năng bảo vệ cơ
thể chống lại những tác
dụng có hại của “stress oxy
hóa”, một hiện tượng oxy
hóa (oxydation) các hợp
chất trong tế bào, gia tăng
với tuổi tác và can thiệp
trong các bệnh mãn tính có
liên quan với sự lão hóa.
Polyphénols của rượu vang,
hay sự liên kết của chúng
với những nồng độ nhỏ cồn,
có thể tham dự vào những
tác dụng bảo vệ của rượu
vang lên hệ tim mạch. Tuy
nhiên những kết luận này
được rút ra từ những thí
nghiệm trên các tế bào hay
động vật, hay những thử
nghiệm lâm sàng ngắn hạn.
Nhiều nghi vấn khoa học tồn
tại về sự hấp thụ bằng
đường tiêu hóa và số phận
của các chất polyphénols

này trong cơ thể. Mặt khác,
các polyphénols này được
tìm thấy trong các loại thức
ăn khác: chúng hiện diện
với những lượng quan trọng
trong vài nước vắt nho đỏ
(raisin rouge) nhưng cũng
có mặt trong các trái cây
đỏ, trong vài loại rau xanh,
trong trà và cacao, với cùng
những tác dụng bảo vệ.
Nhưng người ta cũng chứng
thực rằng tỷ lệ tử vong tim
mạch thấp nhất được quan
sát chủ yếu trong miền nam
nước Pháp và trong những
nước khác của vùng Địa
trung hải ; thế mà, ở đó
rượu vang cạnh tranh với
những thành phần khác của
món ăn cổ truyền của
những vùng này, các trái
cây và các rau xanh, không
quên dầu olive.

Siêu âm ngày nay Tập 58- Số 1/2010

Xét vì nhiều điều không
chắc chắn về những tác
dụng có thể có lợi của rượu

vang (vin), ngược với những
tác dụng có hại được xác
lập của cồn (alcool), do đó
khuyến nghị tiêu thụ đều
đặn rượu vang, ngay cả với
lượng vừa phải, vì một lý do
không phải là sự lạc thú
thưởng thức một cách khôn
ngoan, là điều không thận
trọng.
(LE
FIGARO
8/3/2010)
UNG
THƯ
ĐẠI-TRỰC
TRÀNG: VẪN CÒN QUÁ
NHIỀU NHỮNG TRƯỜNG
HỢP TỬ VONG CÓ THỂ
TRÁNH ĐƯỢC.
Những điều trị nhắm đích
(traitements ciblés) mới xuất
hiện, nhưng chẩn đoán sớm
vẫn là cơ bản.
ONCOLOGIE. Ở Pháp ung
thư đại-trực tràng (cancer
colorectal) chịu trách nhiệm
mỗi năm 17.000 trường hợp
tử vong trên 37.000 trường
hợp mới được phát hiện. Đó

là ung thư đứng thứ ba về
tần số mắc bệnh, đứng thứ
hai đối với tỷ lệ tử vong.
Hơn những loại ung thư
khác, ung thư này, gây
bệnh cho 3 người đàn ông
đối với hai phụ nữ, được liên
kết với sự lão hóa. “Cứ
100.000 người đàn ông,
người ta đếm được 10
trường hợp ung thư đại-trực
tràng mới mỗi năm nơi
những người trên 50 tuổi,
so với gần 400 trường hợp
nơi những người 70 đến 80
tuổi”, GS Philippe Rougier,
trưởng khoa dạ dày-ruột và
ung thư tiêu hóa của bệnh
viện
Ambroise
Paré,
Boulogne, đã chỉ rõ như
vậy.
Mặc dầu các điều trị đã tiến
bộ nhiều, nhưng hiệu quả
của chúng tùy thuộc phần
lớn vào chẩn đoán sớm
những khối u này. Thế mà,
vẫn còn 40% các chẩn đoán
ung thư đại-trực tràng được

thực hiện trong khi đã có
các di căn. Do đó có chiến
dịch hiện nay của Inca và
của bộ y tế nhằm khuyến
nghị những người từ 50 đến

21


CHÂN TRỜI Y HỌC
74 tuổi cần đi thăm khám
phát hiện bệnh.
Nguồn gốc của ung đại-trực
tràng là một polype được
biến hóa một cách âm thầm
thành ung thư ác tính. 1/3
những người trên 65 tuổi có
những polype hiền tính, hay
các u tuyến (adénome), trên
niêm mạc của đại tràng hay
trực tràng. Cứ 10 u tuyến
thì có một sẽ đạt đường
kính 1cm, và trong số các u
tuyến này thì một trên bốn
sẽ thoái hóa thành ung thư.
Thật là may mắn, ung thư
đại-trực tràng tiến triển một
cách chậm chạp, trung bình
trong khoảng thời gian 10
năm. Nhưng không có một

triệu chứng nào cho phép
nhận diện nó trong suốt thời
kỳ này. Chỉ có xét nghiệm
phát
hiện
(test
de
dépistage) mới có thể phát
hiện một ít hémoglobine
trong phân, dấu hiệu khả dĩ
của một polype đang chảy
máu. Chính vì vậy, việc
thăm khám phát hiện được
lập lại mỗi hai năm nơi
những người từ 50 đến 74
tuổi là rất quan trọng.
VỆ SINH ĐỜI SỐNG
Thuốc lá, rượu, tăng thể
trọng, nhàn rỗi không hoạt
động và chế độ ăn uống
tăng calo nhiều thịt làm dễ
sự xuất hiện của ung thư
này, có tần số sụt giảm
trong những nước có chế độ
ăn uống đặt ưu tiên vào các
sợi. Chỉ 3% các trường hợp
là do một bệnh di truyền,
bệnh
polip
gia

đình
(polypose familiale) hay hội
chứng Lynch, mà việc chẩn
đoán là quan trọng để theo
dõi các người thân thích.
Trong 17% các trường hợp,
một ung thư đại-trực tràng
nơi một người bà con cấp
độ 1 (parent au premier
degré) biểu hiện một tố bẩm
gia
đình
(prédisposition
familiale) nhân nguy cơ lên
hai lần. Nhưng 80% các
trường hợp là những ung
thư riêng rẻ. Quá 50 tuổi,
những biến đổi của sự
chuyển vận ruột, các cơn
đau bụng, sự hiện diện máu
trong phân khiến bệnh nhân
phải đi thăm khám. Khi sự

phát hiện dương tính (3%
các trường hợp) và nơi
những bệnh nhân có nguy
cơ, một thủ thuật soi đại
tràng cho phép xác định
một polype khả nghi, khi đó
được lấy đi và phân tích cơ

thể bệnh lý.
Ngoại khoa vẫn là điều trị
ưu tiên của ung thư đại-trực
tràng. Một mình phẫu thuật
cũng đủ để điều trị 70%
đến 80% các ung thư nông
(cancers superficiels) hay
các ung thư được giới hạn
nơi ruột. Nhưng những ung
thư này chỉ chiếm 1/3 các
trường hợp. Khi các hạch kế
cận bị xâm nhập hay khi
ung thư đã tạo nên các di
căn trong những cơ quan
khác, điều trị khi đó cũng
phải cần đến hóa học liệu
pháp (chimiothérapie). “ Khi
ung thư vẫn được giới hạn ở
ruột già và các hạch lân cận,
hóa học liệu pháp làm giảm
50% nguy cơ tái phát sau
mổ, và 30% đến 40% nguy
cơ tử vong, GS Rougier đã
giải thích như vậy. Khi có
các di căn, hóa học liệu
pháp trở nên điều trị chính.
Liệu pháp này làm thoái
biến các khối u trong 50%
các trường hợp. Nơi 1% các
bệnh nhân, sự thoái biến

này đủ để cho phép phẫu
thuật viên lấy đi các di căn ở
gan và ở phổi, biến đổi một
căn bệnh nan y (maladie
incurable) thành bệnh có
khả năng có thể chữa lành
(maladie
potentiellement
curable).”
Bên cạnh liệu pháp hóa học
cổ điển (chimiothérapie
clasique), phối hợp 5fluorouracile,
irinotécan
(Campto) và oxaliplatine
(Eloxatin), mới đây đã xuất
hiện những liệu pháp nhắm
đích (thérapies ciblées), ức
chế một cách đặc hiệu một
giai đoạn của quá trình ung
thư. “Bevacizumab (Avastin)
được hướng chống lại VEGF,
một yếu tố tăng trưởng cần
thiết cho sự tạo mạch
(vascularisation), do đó cho
sự phát triển của khối u.
Cetuximab
(Erbitux)

panitunumab (Vectibix) ức
chế thụ thể đối với EGF, giai


Siêu âm ngày nay Tập 58- Số 1/2010

đoạn đầu tiên của một
đường hướng về sự tăng
sinh không kiểm soát được
của các tế bào, GS Pierre
Laurent-Puig, phụ trách đơn
vị ung thư sinh học của
bệnh
viện
GeorgesPompidou (Paris) đã giải
thích như vậy. Nhưng hai
loại thuốc sau không có hiệu
quả nếu khối u có một biến
dị của gène Kras, hoặc 1/3
các trường hợp. Vậy sự biến
dị này được tìm kiếm một
cách hệ thống. Y khoa cá
thể
hóa
(médecine
personnalisée) này sẽ được
phát triển, được căn cứ
đồng thời trên sự nghiên
cứu các biến đổi di truyền
của khối u, cho phép tiên
đoán sự đáp ứng của nó, và
về di truyền dược liệu
(pharmacogénétique), cho

phép thích ứng điều trị và
độc tính của nó với các
tham số của bệnh nhân.” Sự
ức chế những đường tín
hiệu tế bào (voies de
signalisation cellulaire) khác
(đặc biệt là MAP kinases,
PI3kinases và IGF1) dường
như cũng đáng quan tâm.
Ngày nay, khi bệnh được
chẩn đoán vào giai đoạn
đầu tiên hết, tỷ lệ sinh tồn
sau 5 năm đạt 94% : những
con số tự chúng nói lên sự
tán trợ cho công tác điều tra
phát hiện. (LE FIGARO
15/3/2010)
NHÚC NHÍCH CỬ ĐỘNG
LÀ TỐT CHO TIM, NHÚC
NHÍCH CỬ ĐỘNG HƠN
NỮA LẠI CÒN TỐT HƠN.
Tim và các mạch máu là
những cơ quan đầu tiên
được hưởng sự gia tăng của
hoạt động vật lý. Lợi ích đã
xuất hiện sau 2,5 giờ tập
thể dục mỗi tuần. Những
điều đạt được lại còn rõ rệt
hơn nếu hoạt động vật lý
tích cực hơn.

Đó là điều được tiết lộ bởi
công trình nghiên cứu của
Andrea Chromitek và các
cộng sự viên (Havard
Medical School, Boston,
MA), được công bố trong
Heartwire, và trình bày nhân
hội nghị Dịch tễ học Bệnh
Tim mạch và Phòng ngừa và

22


CHÂN TRỜI Y HỌC
Dinh dưỡng, Hoạt động vật
lý, và Chuyển hóa 2210, ở
San Francisco. Phân tích
được căn cứ trên các dữ
kiện liên quan đến 43.647
người đã tham gia vào
Health Professionals FollowUp Study. Các nhà nghiên
cứu hướng sự chú ý vào
hoạt động vật lý của những
người tham dự, ngay lúc
khởi đầu công trình nghiên
cứu vào năm 1986, và sau
đó mỗi 2 năm, cho đến năm
2004. Các dữ kiện đã xét
đến số giờ hoạt động vật lý
được thực hiện mỗi tuần và

tương đương chuyển hóa
(équivalent métabolique), là
một thước đo sự tiêu thụ
năng lượng (tiêu thụ năng
lượng lúc gắng sức/tiêu thụ
năng lượng lúc nghỉ ngơi).
Đối với cùng một tương
đương năng lượng, các nhà
nghiên cứu đã có thể chứng
thực một nguy cơ tim mạch
thấp hơn nơi những người
đã thực hiện những hoạt
động vật lý mạnh hơn
(chạy, đi xe đạp) so với
nhóm chỉ thực hiện những
hoạt động nhẹ (đi dạo).
Ngoài ra, nguy cơ dường
như giảm lúc số giờ tập
luyện mỗi tuần gia tăng.
Nguy cơ thấp nhất được
quan sát nơi những người
đàn ông đã thực hiện mỗi
tuần 6 đến 7,9 giờ cố gắng
vật lý cường độ mạnh.
Nguy cơ hơi cao hơn (nhưng
không phải một cách đáng
kể) nơi những người thực
hiện những hoạt động mạnh
trong hơn 8 giờ mỗi
tuần.Vậy sự lo ngại những

cố gắng mạnh mẽ có hại
cho tim là không có căn cứ.
(LE JOURNAL DU MEDECIN
12/3/2010)
MỘT PHƯƠNG THUỐC
TRUNG HOA CHỐNG LẠI
NHỮNG TAI BIẾN MẠCH
MÁU NÃO ĐANG ĐƯỢC
THỬ NGHIỆM.
Được trắc nghiệm cách nay
khoảng một chục năm ở
Châu Á trên các nạn nhân bị
tai biến mạch máu não, một
hợp chất của dược điển
Trung Hoa làm quan tâm
giới nghiên cứu y học

Phương Tây để điều trị
những bệnh nhân đã bị
bệnh này. Cocktail, có tên
gọi Danqi Piantan Jiaonang,
được bào chế từ 9 hợp chất
có nguồn gốc thực vật và 5
có nguồn gốc động vật. Mặc
dầu những kết quả đầy hứa
hẹn ở Trung Hoa và ở Đông
Nam Á, cocktail này phải
được đánh giá trên một số
lượng bệnh nhân lớn hơn ở
tầm cỡ quốc tế. Nhất là cơ

chế phân tử của thuốc này
vẫn cần phải được làm sáng
tỏ. Đó là điều vừa được trắc
nghiệm trong phòng thí
nghiệm dược lý của đại học
Nice. Các chú chuột đã nhận
dược phẩm này ba giờ sau
một tai biến mạch máu não.
30 giờ sau, nhồi máu não đã
thu giảm, và các con chuột
đã phục hồi tốt hơn các
chức năng não bộ của
chúng. Trong não bộ của
các con chuột này, các
đường vòng tế bào thần
kinh (circuits neuronaux)
mới đã phát triển, hợp chất
Trung Hoa hoạt hóa sự tổng
hợp của một yếu tố tăng
trưởng được biết là kích
thích tính dẻo của não bộ
(plasticité cérébrale). “ Đó là
lần đầu tiên mà một hợp
chất chống tai biến mạch
máu não tác động lên sự
phục hồi chức năng ”,
Catherine Heurteaux, thuộc
đại học Nice đã tuyên bố
như vậy. Các công trình
nghiên cứu dược lý được

tiếp tục, và các thử nghiệm
lâm sàng đang được tiến
hành. (SCIENCE ET VIE
4/2010)
ĐIỀU TRỊ TAI BIẾN
MẠCH
MÁU
NÃO
BẰNG....CA HÁT.
Cứ mỗi 4 phút, một tai biến
mạch máu não xảy ra ở
Pháp. Khi cơn đột qụy gây
thương tổn bán cầu đại não
trái, nơi định vị của trung
tâm nói (centre de la
parole), thì các nạn nhân bị
mất đi khả năng diễn đạt
(capacité d’élocution). Tuy
vậy, vài bệnh nhân trong số
những người bị á khẩu
(aphasique : mất ngôn ngữ)
này lại có thể ca hát. Vì vậy,

Siêu âm ngày nay Tập 58- Số 1/2010

một đường lối điều trị, liệu
pháp
âm
điệu
(MTP:

thérapie
d’intonation
mélodique), đã được thực
hiện bởi Gottfried Schlaug,
thầy thuốc thần kinh thuộc
đại học Havard, Boston.
Trong hội nghị ở San Diego
vào tháng hai vừa rồi, ông
đã trình bày những trường
hợp phục hồi lời... hát
(parole chantée)! Các bệnh
nhân, không có khả năng
thốt ra những lời có thể hiểu
được, đã thành công, sau
những buổi luyện tập, hát
“happy birthday” hay thể
hiện một nhu cầu, như “ tôi
khát ”. Theo nhà nghiên
cứu, những tác dụng của
liệu pháp này được tăng
cường khi các bệnh nhân
nhấn các nhịp bằng đôi bàn
tay, một động tác được cho
là kích thích phần bên phải
của não bộ.
Thật vậy, các hiệu quả của
liệu pháp âm điệu đã được
nghiên cứu một cách song
hành nhờ chụp hình ảnh
não bộ (IRM chức năng).

Gottfried Schlang và nhóm
nghiên cứu của ông như thế
đã cho thấy rằng âm nhạc
kích thích các vùng của não
bộ khác với những vùng phụ
trách lời nói. Sự tuyền đạt
bằng miệng (communication
orale) dường như dùng hai
đường thần kinh khác nhau:
nếu để phát biểu một bài
nói, chính bán cầu đại não
bên trái bị kích thích ; nếu
để diễn đạt bằng lời hát,
chính bán cầu đại não bên
phải, và đôi khi cả hai. Liệu
pháp âm điệu (MTP) do đó
dựa vào tính dẻo (plasticité)
của não bộ và sự tạo thành
những nối kết tế bào thần
kinh
(connexions
neuronales) mới trong bán
cầu não lành mạnh. Một thử
nghiệm lâm sàng với 30
bệnh
nhân
á
khẩu
(aphasiques) đang được tiến
hành. (SCIENCE ET AVENIR

4/2010)
UNG THƯ : HOẠT ĐỘNG
VẬT LÝ LÀM GIẢM CÁC
NGUY CƠ.
BS Thierry Bouillet, thầy
thuốc chuyên khoa ung thư

23


CHÂN TRỜI Y HỌC
(CHU Avicenne de Bobigny),
bình luận những công trình
nghiên cứu chứng minh tác
dụng có lợi của hoạt động
vật lý đối với vài loại ung
thư.
Hỏi : Đối với những ung thư
nào, hoạt động vật lý được
liên kết với một sự giảm
nguy cơ ?
BS Thierry Bouillet : Theo
những kết quả đồng quy
của nhiều công trình nghiên
cứu quốc tế, có một sự giảm
thật sự tỷ lệ của các ung
thư của vú, đại tràng, nội
mạc tử cung (cancer de
l’endomètre) và tuyến tiền
liệt với một hoạt động vật lý

đều đặn và có cường độ
trung bình.
Hỏi : Những hoạt động vật
lý nào được khuyên thực
hiện và theo nhịp độ nào ?
BS Thierry Bouillet : Những
hoạt động gây nên một sự
tiêu hao năng lượng đủ và
được thực hiện ít nhất 3 giờ
mỗi tuần. Những môn thể
thao như tennis, bơi lội,
karaté, golf…những bài tập
gymnastique và ngay cả
bước nhanh.
Hỏi : Làm sao giải thích cơ
chế của sự bảo vệ này?
BS Thierry Bouillet : Bắt đầu
từ một mức tiêu hao năng
lượng đủ, ta biến đổi các sự
tiết của oestrogène, insuline
và những hormone khác
phát xuất từ các mô mỡ. Tất
cả các hormone này tạo nên
các yếu tố tăng trưởng,
nghĩa là những chất kích
thích của các tế bào ung thư
đã hiện diện trong cơ thể.
Thế mà, ngay cả lúc lành
mạnh, tất cả chúng ta sản
xuất các tế bào ung thư,

nhưng chúng bị phá hủy
một cách hệ thống bởi hệ
miễn dịch (ngoại trừ trong
vài trường hợp chúng có thể
tăng sinh, đặc biệt dưới tác
dụng của một sự tăng hoạt
tính hormone có hại).
Hỏi : Những công trình
nghiên cứu nào chứng minh
những tác dụng phòng ngừa
của hoạt động vật lý ?
BS Thierry Bouillet : Để
đánh giá ảnh hưởng của
hoạt động vật lý lên tỷ lệ
mắc bệnh ung thư vú, một

công trình nghiên cứu rộng
lớn của Pháp (E3N), đã thực
hiện trong 12 năm, trên
90.509 phụ nữ (tuổi từ 30
đến 65), tất cả đều khỏe
mạnh lúc ban đầu. Nơi
những phụ nữ thực hiện tối
thiểu 5 giờ hoạt động vật lý
mỗi tuần, người ta ghi nhận
một sự thu giảm 25% nguy
cơ ! 5 công trình nghiên cứu
quốc tế khác đã xác nhận
những dữ kiện này. Về ung
thư đại tràng, tôi có thể kể

cho ông các kết quả của 2
công trình phân tích méta
(tập hợp các quan sát trên
nhiều trăm ngàn người). Nơi
những người đã thực hiện
đều đặn một hoạt động vật
lý, người ta đã ghi nhận một
sự thu giảm 25% ung thư
đại tràng (các kết luận được
công bố trongBritish Journal
of Cancer và Colorectal
Disease)
Hỏi : Mức độ đáng tin cậy
của những kết quả này là
gì?
BS Thierry Bouillet : Mức độ
đáng tin cậy là không chối
cải được bởi vì tất cả các
công trình nghiên cứu này
được tiến hành với một
phương pháp học rất
nghiêm túc trên một số
lượng người rất lớn...và
trong những thời kỳ dài. Các
kết luận luôn luôn giống
nhau : 26 đến 30% ung thư
ít hơn với một hoạt động vật
lý đều đặn !
Hỏi : Những người có nguy
cơ nào được khuyên phải tự

tiêu hao năng lượng ?
BS Thierry Bouillet: Những
người bị bệnh đái đường,
những người tăng cao thế
trọng, những người mà một
thành phần trong gia đình
(hay nhiều) đã bị một ung
thư. Đối với những người
sau cùng này, theo một
cuộc điều tra Hoa Lan được
thực hiện trên 725 bệnh
nhân (được công bố vào
nam 2010 trong “Breast
Cancer
Research
Treatment”), sự giảm nguy
cơ là ...40% !
Hỏi : Hoạt động vật lý cũng
góp phần làm giảm các
nguy cơ tái phát hay không?

Siêu âm ngày nay Tập 58- Số 1/2010

BS Thierry Bouillet : Sự
giảm này đã được chứng
minh đối với những truồng
hợp ung thư vú và đại
tràng. Nhiều công trình
nghiên cứu quốc tế tìm thấy
lại những kết quả y hệt, kết

luận một sự thu giảm 50%
nguy cơ tái phát nơi những
người đã duy trì sự thực
hiện một hoạt động vật lý
đều đặn và đủ mạnh sau khi
điều trị những ung thư này.
Hỏi : Những điều chứng
thực này có khiến thiết lập
một điều trị đặc hiệu hay
không ?
BS Thierry Bouillet : Ở Pháp,
9 cơ sở hoạt động vật lý
được thích nghi trong ung
thư học mới đây đã được
thiết lập trong nhiều bệnh
viện khác nhau (trong đó có
Viện
Gustave-Roussy

Villejuif và
bệnh viện
Avicenne ở Bobigny). Từ ít
lâu nay, một văn bằng đại
học (thể thao và ung thư)
đã được thành lập ở đại học
Paris-XIII ở Bobigny (dưới
sự chỉ đạo của GS Laurent
Zelek) để đào tạo các huấn
luyện viên y khoa thể thao
(éducateurs

médicaux
sportifs). (PARIS MATCH
18/3-24/3/2010)
PHẢI CHĂNG ĐIỀU TRỊ
CÁC THOÁT VỊ ĐĨA PHẢI
LUÔN LUÔN LÀ NGOẠI
KHOA ?
Người ta ước tính rằng 60%
đến 80% dân chúng đau
lưng ít nhất một lần trong
cuộc đời của họ ? Trong
phần lớn các trường hợp,
cơn đau được định vị ở phần
thấp của lưng, tương ứng
với các đốt sống thắt lưng.
Những rối loạn này đặc biệt
thường xảy ra trong thăm
khám khoa khớp nhưng
cũng trong các phòng mạch
của các thầy thuốc đa khoa.
Phí tổn xã hội-kinh tế của
chúng là quan trọng bởi vì
những chứng đau lưng này
chịu trách nhiệm 20% các
trường hợp nghỉ việc và 7%
các tai nạn lao động, với
những hậu quả thường khó
khăn.
Việc điều trị chứng đau lưng
đòi hỏi thời gian để nghe


24


CHÂN TRỜI Y HỌC
những lời than vãn của bệnh
nhân, đòi hỏi kinh nghiệm
và một sự thăm khám chăm
chú. Nguồn gốc của một
đau đốt sống càng khó xác
lập khi không có sự tương
quan giữa cường độ của
đau đón và hình ảnh X
quang.
Đĩa liên đốt sống (disque
intervertébral) là một loại
sụn đặc biệt có vai trò giảm
chấn (amortisseur) với một
phần ngoại biên cứng hơn,
annulus, và một phần trung
ương ngấm nước (hydraté),
nucleus. Các ứng lực
(contraintes) và sự lặp đi lặp
lại những gắng sức sẽ gây
nên những vết rạn nứt với
sự di chuyển của nucleus :
đó là thoát vị đĩa (hernie
discale).
Bắt đầu từ 40 tuổi, chứng
thoát vị đĩa được liên kết với

những thương tổn hư khớp
(lésions d’arthrose) ít nhiều
lan rộng và được đặc trưng
bởi một sự phá hủy của sụn
với các cấu tạo xương, các
chòi
xương
(ostéophytes).Thoát vị đĩa
không thấy được trên phim
chụp X quang đơn giản.
Những phim chụp này đặc
biệt hữu ích để không bỏ sót
một khối u, một ung thư,
một viêm khớp đốt sống gây
cứng
liền
khớp
(spondylarthrite
ankylosante) hay một nhiễm
trùng đĩa-đốt sống (infection
disco-vertébrale). Chụp hình
ảnh hiện đại, scanner hay
IRM, cho phép chứng tỏ sự
hiện hữu cơ thể học của
thoát vị đĩa, nhưng không
cho phép một kết luận mặc
nhiên nào về những hậu
quả lâm sàng của nó.
CÁC CẦU TRÚC THẦN KINH.
Tùy theo định vị của thoát

vị, đau lưng có thể lan tỏa
ra sau đùi và cẳng chân, đó
là chứng thần kinh tọa
(sciatique), hay ra phía
trước đùi, đó là chứng đau
dây thần kinh đùi (névralgie
du nerf crural). Phải biết
rằng trong hơn 80% các
trường hợp, đau đớn biến
mất một cách ngẫu nhiên

trong một thời hạn có thể
lên đến 6 tháng.
Những trường hợp buộc
phải can thiệp ngoại khoa
tức thời là hiếm. Có thể đó
là một cơn đau cực kỳ dữ
dội, đề kháng với các thuốc
giảm đau quan trọng, với
liệt cơ năng hay nhất là với
các biến chứng thần kinh
tiến triển. Các biến chứng
này liên kết ở những mức
độ khác nhau với những rối
loạn cơ vòng và những bại
liệt của chi dưới, tùy thuộc
vào vị trí của thoát vị đĩa.
Các rối loạn tiến triển làm
phải dự kiến ngay một can
thiệp ngoại khoa. Những bại

liệt ban đầu có thể được
điều trị nội khoa trừ khi ta
chứng thực một sự trầm
trọng dần dần.
Dầu cho kỹ thuật được sử
dụng là gì, can thiệp ngoại
khoa có mục đích làm mất
sự đè ép (décompression)
của các cấu trúc thần kinh
trong ống sống (canal
rachidien). Nơi người trẻ, vài
phẫu thuật viên đề nghị bổ
sung sự nạo đĩa (curetage
discal) bằng sự thiết đặt
một đĩa liên đốt sống giả
(prothèse
discale
intervertébrale). Lợi ích của
kỹ thuật này vẫn còn là đối
tượng của các cuộc tranh
luận.
Ngoại khoa của thoát vị đĩa
không phải là thuốc chữa bá
bệnh. Giải phẫu có thể đưa
đến biến chứng viêm đĩa đốt
sống (spondyldiscite) do
nhiễm trùng bệnh viện
(infection nosocomiale). Sau
phẫu thuật, chứng bại liệt
không thoái lui nhanh hơn

so với hồi phục chức năng
(rééducation) đơn độc. Các
cơn đau vẫn có thể tồn tại
không thay đổi, thậm chí
nặng thêm. Để giải thích,
trước đây người ta nêu ra
các hiện tượng sẹo hóa sợi
(fibrose cicatricielle). Ngày
nay người ta nghĩ đó là do
các thương tổn của các rễ
thần kinh, thường là vĩnh
viễn, do huyết khối mạch
máu (thrombose vasculaire).
Đối với các thầy thuốc ngoại
khoa, chính sách chờ đợi
quá mức và thái độ ngẫm

Siêu âm ngày nay Tập 58- Số 1/2010

nghĩ của vài thầy thuốc
khoa thấp khớp làm dễ
những thương tổn của các
rễ thần kinh này. (LE
FIGARO 8/2/2010)
NGĂN NGỪA CÁC HUYẾT
KHỐI TRÊN STENT :
ĐIỀU TRỊ MỚI.
GS Michel Desnos, trưởng
khoa tim bệnh viện châu Âu
Georges-Pompidou,

giải
thích tiến bộ quan trọng với
sự thương mãi hóa mới đây
ở Pháp thuốc prasugrel.
Hỏi : Trong những trường
hợp nào khiến ta phải thực
hiện một angioplastie đồng
thời đặt stent và protocol là

GS
Michel
Desnos
:
Angioplastie là thủ thuật
nhằm đưa một quả bóng
nhỏ (baloonet) vào trong
các động mạch của tim (các
động mạch vành), để mở lỗ
bị hẹp. Trong đại đa số các
trường hợp, để tránh sự hẹp
tái phát, người ta thiết đặt
một loại lưới sắt nhỏ, được
gọi là stent. Có hai chỉ định
chính đối với thủ thuật này.
1. Nhồi máu cơ tim khi động
mạch vành bị bít bởi một
cục máu đông. 2. Những
cơn đau ngực không kiểm
soát được bằng điều trị nội
khoa, bởi vì cơn đau xảy ra

do động mạch bị hẹp. Ở
Pháp, người ta thực hiện
khoảng 120.000 angioplastie
với đặt stent mỗi năm. Và
con số này không ngừng gia
tăng.
Hỏi : Những kết quả thu
được là gì ? Những biến
chứng là những biến chứng
nào ?
GS Michel Desnos : Về nhồi
máu cơ tim, từ 10 năm qua,
kỹ thuật này đã cho phép
một sự thu giảm một nửa tỷ
lệ tử vong. Nhưng cũng như
mọi sự can thiệp, có những
nguy cơ có thể xảy ra trong
khi làm thủ thuật hay xuất
hiện thứ phát. Người ta
quan sát thấy 2 biến chứng
muộn. 1. Một sự hẹp trở lại
(resténose) : sau 3 đến 6
tháng động mạch lại bị hẹp
lại ở cùng vị trí trước đây. 2.
Một sự tắc (occlusion) :
động mạch bị trít lại hoàn

25



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×