HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I
TRẦN VĂN NAM
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO
CUỘC CẢI CÁCH GIÁO DỤC LẦN THỨ HAI
NĂM 1956 Ở MIỀN BẮC
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam
Mã số: 60220315
HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN THỊ THANH HUYỀN
Hà Nội, tháng 6 năm 2016
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
trích dẫn trong Luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. Những kết luận
khoa học của Luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào.
Hà Nội, tháng 6 năm 2016
Tác giả
Trần Văn Nam
ii
MỤC LỤC
iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BTVH
Bổ túc văn hóa
CBGD
Cán bộ giáo dục
CCGD
Cải cách giáo dục
CP
Chính phủ
CT/TW
Chỉ thị Trung ương
CNXH
Chủ nghĩa xã hội
ĐH - THCN
Đại học - Trung học chuyên nghiệp
DN
Dạy nghề
KHGD
Khoa học giáo dục
NQ/TW
Nghị quyết Trung ương
Nxb
Nhà xuất bản
SV
Sinh viên
TT
Thông tư
XHCN
Xã hội Chủ nghĩa
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giáo dục là một vấn đề lớn của xã hội, có tác động trực tiếp đến sự phát
triển của mỗi quốc gia, dân tộc, như nhà bác học Lê Quý Đôn đã khẳng định:
“Phi nông bất ổn, phi công bất phú, phi thương bất hoạt, phi trí bất hưng”. Đất
nước muốn hưng vượng phải nhờ vào nguồn nhân lực được trang bị tri thức
toàn diện phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Đặt giáo dục đúng với vị trí, vai
trò của nó để đầu tư, phát triển mới thực sự tạo ra động lực cho sự phát triển
đất nước. Nội dung và chất lượng của các quốc gia, dân tộc ở mỗi thời điểm
đều mang tính lịch sử. Do đó, chính sự phát triển, đổi thay của điều kiện và
yêu cầu lịch sử sẽ đặt ra yêu cầu đổi mới, cải cách giáo dục cho phù hợp.
Nghiên cứu về các cuộc cải cách giáo dục sẽ góp phần nhận diện rõ sự phát
triển của nền giáo dục cũng như lịch sử phát triển của một quốc gia, dân tộc
trong những chặng đường cụ thể.
Sau 15 năm ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thành công Cách
mạng Tháng Tám thành công, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa,
mở ra một kỷ nguyên mới cho lịch sử dân tộc. Một trong những nhiệm vụ cấp
bách hàng đầu của chính quyền non trẻ, đó là phải “diệt giặc dốt” bằng việc
mở các lớp bình dân học vụ, bởi Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định
“Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” [26, tr 36]. Trong cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954), cùng với việc thực hiện các
nhiệm vụ “kiến quốc”, các chương trình xây dựng và phát triển văn hoá, giáo
dục ở vùng tự do vẫn tiếp tục được duy trì. Đây là tiền đề cho việc định hình
nền giáo dục cách mạng của Việt Nam.
Sau khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng năm 1954, một yêu cầu
mới đặt ra ở miền Bắc khi đó là Đảng phải lãnh đạo cải cách giáo dục để nâng
cao dân trí, phát triển văn hóa xã hội đáp ứng yêu cầu của giai đoạn mới như
2
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định “Muốn xây dựng CNXH, trước hết cần
có những con người XHCN” [28, tr 310]. Cải cách giáo dục lần thứ hai
(1956) có liên quan mật thiết, tác động trực tiếp đối với công cuộc xây dựng
CNXH ở miền Bắc bởi lẽ sự phát triển kinh tế - xã hội đòi hỏi phải có những
con người có trình độ văn hóa. Do đó, không khó để nhận thấy rằng cải cách
giáo dục có quan hệ chặt chẽ với các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội
của miền Bắc, có sự tương ứng tác động lẫn nhau. Đặc biệt, đối với nước ta,
đi lên từ một nước thuộc địa nửa phong kiến với nền kinh tế nông nghiệp lạc
hậu, lại bị chính sách “ngu dân” của thực dân Pháp.
Cho đến nay, những thông tin liên quan đến cuộc cải cách giáo dục ở
miền Bắc năm 1956 được đăng tải dải dác ở một số công trình nghiên cứu.
Hiện chưa có nghiên cứu nào chuyên sâu dưới góc nhìn lịch sử về nội dung
lịch sử này. Nghiên cứu đề tài Cuộc cải cách giáo dục ở miền Bắc (1956) sẽ
tập trung lý giải các vấn đề như vì sao phải cải cách giáo dục? Cải cách như
thế nào? Kết quả và tác động của nó đối với sự hình thành, phát triển nền giáo
dục Việt Nam trong thời kỳ cách mạng dân tộc và thời kỳ hiện nay? Những
kinh nghiệm lịch sử cần rút ra và gợi ý việc vận dụng những kinh nghiệm đó
vào cuộc đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục ở nước ta hiện nay.
Với những lý do trên, tác giả chọn đề tài: “Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo cuộc cải cách giáo dục lần thứ hai năm 1956 ở miền Bắc” làm đề
tài luận văn Thạc sĩ khoa học lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản
Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Giáo dục và đào tạo nói chung, cải cách giáo dục nói riêng là vấn đề lớn,
hệ trọng của mỗi quốc gia, dân tộc. Nhận thức đúng đắn tầm quan trọng đặc
biệt của vấn đề này, ngay từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời (29-1945), Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có nhiều nghị
quyết, chỉ thị chỉ đạo công tác giáo dục, nâng cao dân trí cho nhân dân, qua đó
3
thể hiện quan điểm, đường lối của Đảng về lĩnh vực trọng yếu này. Các bài
viết, bài nói của các đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng, Nhà nước như Chủ
tịch Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Trường Chinh… cũng như các công trình
nghiên cứu của các nhà khoa học về giáo dục, cải cách giáo dục là hết sức
phong phú, đa dạng ở nhiều góc cạnh khác nhau. Nhìn một cách tổng thể, các
công trình nghiên cứu tiếp cận vấn đề trên các mảng như: giáo dục phổ thông,
giáo dục đại học, dạy nghề, trung học chuyên nghiệp, giáo dục cho đồng bào
các dân tộc tỉnh miền núi... Khái quát lại có thể chia thành những nhóm
nghiên cứu cơ bản sau:
Thứ nhất, nhóm các công trình nghiên cứu về giáo dục phổ thông ở Việt
Nam, tiêu biểu có các nghiên cứu của: Phòng Lịch sử giáo dục - Viện Khoa
học giáo dục, “Những sự kiện giáo dục phổ thông 40 năm (1945-1985)”; Hồ
Chí Minh (1990), “Hồ Chí Minh về vấn đề giáo dục”, Nhà xuất bản Giáo dục;
Võ Thuần Nho (chủ biên) (1980), “35 năm phát triển sự nghiệp giáo dục phổ
thông”, Nhà xuất bản Giáo dục, công trình này đã trình bày một cách khái
quát và hệ thống về sự phát triển của nền giáo dục phổ thông Việt Nam từ đầu
thế kỷ XX đến năm 1980; Nguyễn Văn Huyên (1990), “Những bài nói và viết
về giáo dục”, Nhà xuất bản Giáo dục; Phạm Minh Hạc (chủ biên) (1992),
“Sơ thảo giáo dục Việt Nam (1945-1990)”, Nhà xuất bản Giáo dục; Hoàng
Đức Nhuận - Viện Khoa học Giáo dục, “Việt Nam trưởng thành qua 30 năm
phục vụ sự nghiệp phát triển giáo dục”, Tạp chí Thông tin hoa học Giáo dục,
số 30-1992; Đỗ Mười (2-1993), “Chăm sóc, bồi dưỡng và phát huy nhân tố
con người vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội văn minh”. Văn kiện Hội
nghị lần thứ tư, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII; Phạm Tất Dong,
“Nền giáo dục Việt Nam - 50 năm trên chặng đường xây dựng và phát triển”,
Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, số 2-1995; Bộ Giáo dục và Đào tạo (1995), “50
năm phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo (1945-1995)”, đã cung cấp
những nội dung quan trọng về nền giáo dục Việt Nam mới từ khi hình thành
4
năm 1945 đến năm 1995, với nhiều hình ảnh, số liệu, bảng thống kê có giá trị,
trong đó có đề cập đến các cuộc cải cách giáo dục; Hồ Thị Hồng, “Lịch sử
phát triển hệ thống giáo dục Việt Nam từ 1945 đến nay”, Viện Khoa học Giáo
dục; Viện Khoa học Giáo dục (2011), “Nhà trường phổ thông qua các thời
kỳ”, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia - Hà Nội; Lê Văn Giạng (chủ biên)
(2003), “Lịch sử giản lược hơn 1000 năm nền giáo dục Việt Nam”, Nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia, đã mô tả khái quát hình ảnh nền giáo dục Việt Nam từ
nền giáo dục Nho học, nền giáo dục thuộc Pháp đến nền giáo dục đương đại.
Thứ hai, nhóm các công trình nghiên cứu về giáo dục Đại học, Trung
học chuyên nghiệp có các công trình sau: Bộ Đại học và THCN, (1975), “30
năm nền giáo dục Đại học và THCN (1945-1975)”, Nhà xuất bản Đại học và
THCN, Hà Nội; Bộ Đại học và THCN (1978), “Về công tác Đại học và
THCN (Những văn bản chung)”, Hà Nội; Bộ Đại học và THCN, (1985), “40
năm xây dựng và trưởng thành của ngành Đại học và THCN (1945-1985), Hà
Nội; Lê Văn Giạng (Chủ biên), (1985), “Lịch sử đại học và Trung học chuyên
nghiệp Việt Nam”, tập 1, Viện Nghiên cứu Đại học và THCN, Hà Nội; Bộ Đại
học, THCN - DN, (1989), “Đổi mới giáo dục đại học Việt Nam”, Hà Nội;
Tổng cục Thống kê - Việt Nam, (1990), “Con số và sự kiện 1945-1989”, Nhà
xuất bản Sự thật, Hà Nội; Lê Văn Giạng (chủ biên), (1993), “Sơ thảo lịch sử
giáo dục Đại học và THCN Việt Nam giai đoạn 1955-1975”, Viện Nghiên
cứu Đại học và THCN, Hà Nội; Bộ Đại học và THCN, “Niên giám thống kê
20 năm phát triển giáo dục Đại học và THCN (1955-1975)”; Tổng cục
Thống kê, “Số liệu 1930-1985”, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội; Bùi Sỹ,
(1995), “Đào tạo nghề (1945-1995)”, Viện Nghiên cứu phát triển giáo dục.
Những công trình nghiên cứu nêu trên đã trình bày khái quát quá trình
phát triển và cải cách giáo dục ở nước ta từ năm 1945 đến cuối thế kỷ XX.
Như vậy, hầu hết các công trình nghiên cứu trực tiếp về giáo dục, cải
cách giáo dục thuộc phạm vi của khoa học xã hội. Trên giác độ khoa học lịch
5
sử Đảng Cộng sản Việt Nam thì những công trình nghiên cứu chuyên sâu về
Đảng lãnh đạo cải cách giáo dục còn rất ít. Tuy nhiên, những công trình
nghiên cứu nêu trên đã cung cấp những tư liệu khoa học, có hệ thống và gợi
mở, chỉ dẫn hết sức quý báu cho tác giả trong quá trình thực hiện luận văn.
Thông qua luận văn, tác giả mong muốn sẽ tổng kết có hệ thống quá trình
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện cuộc cải cách giáo dục
lần thứ hai ở miền Bắc trong thời gian từ năm 1956 đến năm 1975. Chỉ ra
những sáng tạo, những kinh nghiệm tốt, cách làm hay của giáo dục, đào tạo
thời kỳ miền Bắc XHCN. Từ đó, trong một số dẫn chứng, phương pháp, tổ
chức giáo dục cụ thể sẽ có thể vận dụng vào việc thực hiện đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục và đào tạo trong giai đoạn hiện nay, nhằm đẩy mạnh việc
thực hiện Nghị quyết số 29 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI)
“Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN
và hội nhập quốc tế”.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Làm sáng rõ vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong lãnh đạo, chỉ
đạo cuộc cải cách giáo dục lần thứ hai; nêu bật những thành tựu, chỉ ra một số
hạn chế, từ đó rút ra một số nhận xét, đánh giá tác động của cuộc cải cách
giáo dục lần thứ hai ở miền Bắc đến việc định hình một nền giáo dục mang
tính chất XHCN. Rút ra một số kinh nghiệm có giá trị thực tiễn trong việc
thúc đẩy việc thực hiện chủ trương, đường lối nghị quyết của Đảng về đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục – đào tạo trong giai đoạn hiện nay.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần tăng cường tri thức về lịch sử
các cuộc cải cách giáo dục nói chung và cải cách giáo dục ở miền Bắc nói
riêng, từ đó, tăng thêm niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp
đổi mới giáo dục hiện nay.
6
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích nêu trên trên, luận văn cần tập trung giải
quyết các nhiệm vụ cơ bản sau đây:
- Nghiên cứu bối cảnh lịch sử sau năm 1954, các chỉ thị, nghị quyết của
Đảng trong việc lãnh đạo, chỉ đạo cuộc cải cách giáo dục lần thứ hai; nghiên
cứu về quá trình triển khai thực hiện, kết quả, hạn chế và những tác động của
cuộc cải cách giáo dục lần hai đối với xã hội Việt Nam; những kinh nghiệm rút
ra trong tiến hành các cuộc cải cách giáo dục sau này nói riêng, với sự nghiệp
giáo dục đào tạo Việt Nam nói chung.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng
- Nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với cuộc cải
cách giáo dục ở miền Bắc năm 1956.
- Nghiên cứu về thành tựu, tác động của cải cách giáo dục năm 1956 ở
miền Bắc đối với quá trình xây dựng CNXH.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: luận văn nghiên cứu quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo cuộc cải cách giáo dục ở miền Bắc năm 1956.
- Về không gian: luận văn nghiên cứu trên địa bàn các tỉnh miền Bắc.
- Về thời gian: sự hình thành chủ trương, chương trình cải cách giáo dục
và việc áp dụng nội dung, biện pháp cải cách giáo dục ở miền Bắc từ năm
1956 đến năm 1975.
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn sử dụng chủ yếu phương pháp
lịch sử và phương pháp lôgic để làm sáng tỏ quá trình Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo cuộc cải cách giáo dục lần thứ hai ở miền Bắc. Ngoài ra, luận
văn còn kết hợp sử dụng các phương pháp khác như: phương pháp phân tích,
so sánh, thống kê, phân kỳ…
7
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Đóng góp về mặt nhận thức khoa học: luận văn góp phần làm sáng tỏ
quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo cuộc cải cách giáo dục ở miền
Bắc từ năm 1956 đến năm 1975. Trên cơ sở đó, luận văn nêu rõ những
thành tựu, hạn chế và kinh nghiệm lịch sử trong quá trình chỉ đạo thực hiện
cuộc cải cách.
- Đóng góp về mặt thực tiễn: từ những nghiên cứu cụ thể về cuộc cải
cách giáo dục ở miền Bắc, luận văn góp phần cung cấp những luận cứ đúng
đắn để Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục bổ sung, điều chỉnh, đề ra chủ
trương, chính sách đúng đắn trong thực hiện đổi mới, cải cách giáo dục trong
giai đoạn hiện nay.
- Đóng góp về mặt tư liệu: sản phẩm cuối cùng của luận văn có thể
sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các công trình nghiên cứu về cải cách giáo
dục giai đoạn hiện nay. Ngoài ra, ở chừng mực nào đó, luận văn cũng là tài
liệu tham khảo cho việc giảng dạy, nghiên cứu lịch sử Đảng Cộng sản Việt
Nam, đặc biệt trong thời kỳ 1954-1975.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm hai chương:
Chương 1: Quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo cuộc cải cách
giáo dục ở miền Bắc (1956).
Chương 2: Nhận xét và kinh nghiệm.
8
Chương 1
QUÁ TRÌNH ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO CUỘC
CẢI CÁCH GIÁO DỤC LẦN THỨ HAI NĂM 1956 Ở MIỀN BẮC
1.1. Sơ lược tình hình giáo dục Việt Nam trước năm 1956
1.1.1. Bối cảnh lịch sử và những yêu cầu đặt ra đối với giáo dục ở Việt
Nam sau năm 1945
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 giành thắng lợi đã mở ra 1 kỷ nguyên
mới trong lịch sử dân tộc - kỷ nguyên độc lập dân tộc và CNXH. Đồng thời,
thắng lợi này cũng đưa lại những thuận lợi cơ bản cho cách mạng Việt Nam:
Cách mạng Tháng Tám thành công đã mang lại nền độc lập cho dân tộc,
quyền làm chủ cho nhân dân. Đây là thắng lợi vĩ đại đầu tiên của nhân dân ta
từ khi có Đảng lãnh đạo. Nó đã mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc
Việt Nam. Từ thân phận nô lệ, nhân dân Việt Nam đã trở thành người dân một
nước độc lập, làm chủ vận mệnh của chính mình. Nhà nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa ra đời - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á đã chấm
dứt chế độ quân chủ phong kiến ở Việt Nam; kết thúc hơn 80 năm nhân dân ta
dưới ách đô hộ của thực dân, phát xít.
Nhân dân Việt Nam có Đảng Cộng sản và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh
đạo. Từ hoạt động bí mật, Đảng ra hoạt động công khai góp phần tăng cường
uy tín và ảnh hưởng của Đảng trong nhân dân. Chính quyền nhân dân được
xây dựng có hệ thống từ Trung ương đến địa phương. Cùng với Chính phủ
lâm thời được thành lập do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch, một hệ thống chính
quyền đã được thiết lập từ Trung ương đến địa phương, được nhân dân cả
nước ủng hộ.
Bênh cạnh những thuận lợi cơ bản, cách mạng Việt Nam sau năm 1945
vấp phải một số khó khăn điển hình sau: Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là
cuộc cách mạng “tự giải phóng” đầu tiên trong hệ thống thuộc địa của chủ
9
nghĩa đế quốc do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Tuy nhiên, Nhà nước
cách mạng ngay từ khi mới ra đời đã phải đối phó với hàng loạt nguy cơ,
thách thức, tưởng chừng khó vượt qua. Cách mạng nước ta ở vào tình thế
“ngàn cân treo sợi tóc”. Đó là nguy cơ của “giặc đói”, “giặc dốt” và đặc biệt
là giặc ngoại xâm. Chính sách ngu dân hơn 80 năm của thực dân Pháp để lại hậu
quả là hơn 90% dân số không biết chữ; nhiều tệ nạn xã hội, tập tục lạc hậu vẫn
tồn tại trong đời sống nhân dân, cản trở sự phát triển kinh tế và xây dựng đời sống
văn hoá mới.
Sau khi Cách mạng Tháng Tám thắng lợi, bối cảnh quốc tế tuy chuyển
biến có lợi cho phong trào giải phóng dân tộc, song Việt Nam chưa nhận được
sự giúp đỡ trực tiếp của cách mạng thế giới. Nước ta bị chủ nghĩa đế quốc
phong toả bốn bề. Địa vị pháp lý của Việt Nam chưa được công nhận ở Liên
hợp quốc, mặc dù nhiều lần Chính phủ ta đã đề đạt nguyện vọng được tổ chức
này công nhận nền độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Khó khăn
lớn nhất trong năm đầu sau Cách mạng Tháng Tám là sự hiện diện của quân
đội nước ngoài trên đất nước ta, đe dọa nền độc lập dân tộc và sự tồn tại của
chính quyền non trẻ.
Trước tình hình đó, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những quyết
sách đúng đắn, sáng suốt trong việc phát huy các yếu tố thuận lợi, hạn chế và
vượt qua khó khăn, bảo vệ và phát triển thành quả Cách mạng Tháng Tám.
Trong đó, nhiệm vụ diệt “giặc dốt” được đặt ra cấp bách, nhằm góp phần đẩy
mạnh sự nghiệp giáo dục nước nhà, củng cố nền độc lập dân tộc trong những
ngày khó khăn nhất của cách mạng.
1.1.2. Khái lược về nền giáo dục Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954
1.1.2.1. Nền giáo dục của Việt Nam (1945-1950)
Một ngày sau khi đọc “Tuyên ngôn Độc lập” khai sinh ra nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa, ngày 3-9-1945, tại Bắc Bộ phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh
chủ tọa phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ. Trong phiên họp, Chủ
10
tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra sáu nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa, trong đó có nhiệm vụ giải quyết nạn dốt. Theo Người, một
dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy, cần đề nghị mở một chiến dịch để
chống nạn mù chữ.
Thực hiện nhiệm vụ trên, ngày 8-9-1945, Chính phủ lâm thời nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà ban hành Sắc lệnh thành lập Nha bình dân học vụ để
“trông nom việc học của nhân dân”. Rất nhanh chóng, phong trào “Bình dân
học vụ” đã thu hút được động đảo các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia.
Ngày 25-11-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Kháng
chiến, kiến quốc”. Chỉ thị xác định rõ nhiệm vụ cơ bản, trước mắt của cách
mạng nước ta là củng cố chính quyền dân chủ nhân dân, chống thực dân Pháp
xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống nhân dân. Trong đó, Đảng ta đã
xác định phương châm chỉ đạo trên lĩnh vực văn hóa là: “Chống nạn mù chữ,
cải cách giáo dục theo tinh thần mới, mở đại học và trung học, xây dựng nền
văn hóa mới theo ba nguyên tắc: dân tộc hóa, khoa học hóa và đại chúng hóa”
[33, tr.441]. Tính khoa học là sử dụng các phương pháp khoa học để xem xét,
phân tích, giải thích mọi sự việc; là giảng dạy các môn khoa học cơ bản, khoa
học ứng dụng, công nghệ tiên tiến. Tính dân tộc được thể hiện ở việc bồi
dưỡng lòng yêu nước, bảo vệ độc lập tự do của đất nước, giữ gìn và phát huy
những mặt tốt đẹp trong truyền thống dân tộc. Tính đại chúng là giáo dục phải
phục vụ đông đảo nhân dân Việt Nam. Với những nội dung quan trọng trên
các lĩnh vực, đặc biệt là công tác chống nạn mù chữ, cải cách giáo dục, Chỉ
thị “Kháng chiến, kiến quốc” thực sự soi sáng con đường đấu tranh giữ vững
chính quyền, từng bước xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, tạo nên sức mạnh
to lớn cho dân tộc ta đánh bại âm mưu và hành động xâm lược của bọn đế
quốc và tay sai.
Là người sớm nhận thức được vai trò của văn hóa, giáo dục đối với sự
nghiệp bảo vệ nền độc lập tự do của Tổ quốc, xây dựng đất nước giàu mạnh,
11
“sánh vai với các cường quốc năm châu”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết “Lời
kêu gọi”:
“Muốn giữ vững nền độc lập
Muốn cho dân mạnh, nước giàu
Mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của
mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước
nhà và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ. Những người đã biết
chữ hãy dạy cho những người chưa biết chữ… Những người chưa biết chữ
hãy gắng sức mà học cho biết. Vợ chưa biết thì chồng bảo, em chưa biết thì
anh bảo, cha mẹ không biết thì con bảo… Phụ nữ lại càng cần phải học.” [33,
tr 448, 449].
Tháng 9-1945, trong ngày khai trường năm học đầu tiên sau ngày Cách
mạng thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho học sinh, trong đó
Người viết: “Non sông Việt Nam có trở lên vẻ vang hay không, dân tộc Việt
Nam có được vẻ vang sánh vai với các cường quốc năm châu được hay
không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em” [26, tr 33].
Trong điều kiện lúc bấy giờ, với tầm nhìn xa, trông rộng, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã xác định nâng cao dân trí là một nhiệm vụ cấp bách, là nhân tố quyết
định đến sự tồn vong, hưng thịnh của đất nước.
Như vậy, ngay sau khi giành được độc lập, Đảng, Chính phủ và Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã đề ra những quan điểm, chủ trương đúng đắn về chống nạn
dốt, từng bước cải cách nền giáo dục của đất nước sau nhiều năm bị chế độ
thực dân phong kiến đô hộ. Đây chính là những căn cứ quan trọng để chúng ta
tiếp tục thực hiện cuộc cải cách giáo dục lần thứ hai (1956) và cũng là nền tảng
đầu tiên xây dựng nền giáo dục Việt Nam hiện đại trong giai đoạn hiện nay.
Thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và “Lời kêu gọi” của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, chỉ trong một thời gian ngắn, các lớp học bình dân được tổ
12
chức ở khắp nơi, lôi cuốn từ những em nhỏ đến các cụ già. Truyền thống hiếu
học của dân tộc ta được phát huy.
Sau khi các Sắc lệnh được ban hành, phong trào toàn dân tham gia các
lớp bình dân học vụ phát triển rộng khắp, lôi cuốn được mọi tầng lớp, mọi lứa
tuổi, mọi giới tham gia. Ở các địa phương, nơi nào cũng có thể trở thành lớp
học, từ đình chùa đến cổng làng, bờ ruộng, xưởng máy. Nhờ đó, chỉ sau một
năm thực hiện, ta đã mở được 15.000 lớp học, đào tạo 95.000 giáo viên, đã có
2.500.000 người thoát nạn mù chữ. Về cơ bản nạn mù chữ được thanh toán
một bước quan trọng. Cũng từ đây, hệ thống giáo dục phổ thông và đại học
được xây dựng và từng bước phát triển theo ba nguyên tắc: dân tộc, dân chủ
và khoa học. Đặc biệt, một bước ngoặt quan trọng đánh dấu tinh thần độc lập,
tự chủ trong đời sống văn hóa, giáo dục của nước ta đó là từ năm 1945, tiếng
Việt được dùng trong các văn bản chính thức của Nhà nước cũng như trong
việc học tập, giảng dạy ở các trường, lớp.
Trong khi đất nước ta đang tiến hành Bình dân học vụ, xóa nạn mù chữ
có kết quả thì tình hình mới lại xuất hiện gây bất lợi cho giáo dục nói riêng và
đất nước nói chung. Đó là sau những nhân nhượng, hòa hoãn để tìm một giải
pháp hòa bình không được thực dân Pháp chấp thuận, ngày 19-12-1946, cuộc
“kháng chiến toàn quốc” bùng nổ, giáo dục phải chuyển hướng hoạt động
sang thời chiến. Nhiệm vụ quan trọng nhất của ngành giáo dục lúc này là phải
tìm mọi biện pháp khôi phục lại hoạt động của nhà trường thuộc các bậc học
một cách phù hợp với hoàn cảnh mới, nhằm đáp ứng yêu cầu của công cuộc
kháng chiến, kiến quốc.
Tại Hội nghị cán bộ Trung ương lần thứ 4 (tháng 4-1947), Đảng ta chỉ ra
phương hướng chính cho giáo dục lúc này đó là “chương trình học phải thiết
thực nhằm đào tạo nhân tài cho kháng chiến ở tất cả các lĩnh vực; học sinh
phải vừa học vừa sản xuất tự túc một phần; tiếp tục phát triển bình dân học
vụ; chú ý mở trường ở vùng quốc dân thiểu số” [2, Tr 88].
13
Tiếp đó, từ ngày 15 đến ngày 17-1-1948, Ban Chấp hành Trung ương
triệu tập Hội nghị mở rộng tại Việt Bắc. Trong bối cảnh cuộc kháng chiến
toàn quốc đã diễn ra hơn một năm, lực lượng của ta trưởng thành mau chóng,
thu nhiều thắng lợi quan trọng, nhất là đập tan cuộc tiến công của địch lên
chiến khu Việt Bắc, Hội nghị vạch ra những phương hướng và biện pháp cơ
bản đẩy mạnh cuộc kháng chiến trong giai đoạn mới. Đối với công tác giáo
dục, có thể thực hiện tốt mục đích đã nêu trên, Hội nghị đã đề ra những biện
pháp cần thiết để ngành giáo dục như: “…chấn chỉnh và mở mang việc học
trong thời chiến; dịch chương trình học và soạn sách giáo khoa mới; định
cách dạy theo lối mới; mở thêm trường mới theo kế hoạch và gửi học sinh đi
học ở nước ngoài…”[40, Tr 24]. Những chủ trương đúng đắn trên có ý nghĩa
quan trọng trong việc chỉ dẫn, định hướng cho ngành giáo dục nước nhà phát
triển, đáp ứng yêu cầu của cuộc kháng chiến, kiến quốc.
1.1.2.2. Khái lược về cuộc cải cách giáo dục năm 1950 (Cải cách giáo
dục lần thứ nhất của nền giáo dục cách mạng ở Việt Nam)
Bước sang năm 1950, tình hình của cuộc kháng chiến chống Pháp thay
đổi có lợi cho ta. Chiến thắng trong chiến dịch Biên giới năm 1950 đã làm
cho nước ta thoát khỏi cảnh bị bao vây, bước đầu thiết lập được quan hệ ngoại
giao với các nước XHCN anh em. Vấn đề đặt ra là phải phát huy nội lực của
đất nước, kết hợp với sự viện trợ của nước ngoài để đẩy nhanh cuộc kháng
chiến đến thắng lợi. Muốn vậy, điều có ý nghĩa quan trọng là phải khẳng định
chế độ dân chủ nhân dân, người cày có ruộng, nâng cao trình độ dân trí hơn
nữa. Tình hình đó đặt ra cho ngành giáo dục nhiệm vụ phải phục vụ kháng
chiến mạnh hơn nữa bằng sự khẳng định chế độ dân chủ nhân dân và bằng sự
phát triển mạnh mẽ hơn nữa cả số lượng và chất lượng nguồn nhân lực cung
cấp cho tiền tuyến và hậu phương. Trong bối cảnh mới và những yêu cầu của
cuộc kháng chiến, kiến quốc như vậy, năm 1950, Trung ương Đảng và Chính
phủ đã quyết định tiến hành cuộc cải cách giáo dục lần thứ nhất.
14
Tháng 2-1950, tại Việt Bắc, Bộ Quốc gia giáo dục triệu tập Hội nghị trù
bị về cải cách giáo dục. Hội nghị quyết định tiến hành cuộc cải cách giáo dục
và mở cuộc vận động “Rèn luyện cán bộ, chỉnh đốn cơ sở” gọi tắt là “Rèn cán
chỉnh cơ” sâu rộng trong ngành giáo dục để xóa bỏ triệt để những quan điểm,
chương trình, nội dung giáo dục lạc hậu của nền giáo dục cũ, xây dựng nền
giáo dục mới cả về quan điểm, chương trình, giáo trình và đội ngũ giáo viên.
Tháng 7-1950, Đề án cải cách giáo dục đã được Hội đồng Chính phủ thông
qua. Tính chất của nền giáo dục mới nước ta là một nền giáo dục của dân, do
dân, vì dân được xây dựng trên ba nguyên tắc: dân tộc, khoa học, đại chúng,
phục vụ lợi ích của nhân dân Việt Nam, đấu tranh chống đế quốc và phong
kiến, giành độc lập cho dân tộc và ruộng đất cho người cày. Từ sau chiến
thắng Việt Bắc thu - đông năm 1947, việc dạy và học trong vùng tự do dần đi
vào ổn định và phát triển mạnh, điều đó đặt ra yêu cầu phải có sự thay đổi
toàn diện của nền giáo dục kháng chiến.
Về mục tiêu của giáo dục phổ thông, Đề án cải cách giáo dục lần thứ
nhất năm 1950 chỉ rõ: mục tiêu đào tạo là giáo dục thế hệ trẻ thành những
người công dân trung thành với chế độ dân chủ nhân dân, có phẩm chất, năng
lực phục vụ kháng chiến, phục vụ nhân dân.
Phương châm giáo dục là học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn.
Về nội dung giáo dục, Đề án cải cách giáo dục chỉ rõ cần bồi dưỡng cho
người học tinh thần yêu nước, chí căm thù giặc, tình yêu lao động, ý thức học
tập, tôn trọng của công, phương pháp suy luận và thói quen làm việc khoa
học. Một số môn học mới được đưa vào nhà trường như thời sự, chính sách,
giáo dục công dân, tăng gia sản xuất. Đảng ta cũng chỉ đạo do điều kiện
kháng chiến, do thiếu thầy hoặc do chưa thật cần thiết nên tạm giảm một số
môn: ngoại ngữ, nhạc, vẽ, nữ công gia chánh. Cũng theo tinh thần của cuộc
cải cách giáo dục lần thứ nhất này, chúng ta thực hiện dạy tiếng Việt ở bậc đại
15
học, hoàn tất việc đưa tiếng Việt vào dạy ở nhà trường vốn đã được triển khai
sau Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Về cơ cấu nhà trường, cải cách xác định gồm có hệ phổ thông 9 năm và hệ
thống giáo dục bình dân, giáo dục chuyên nghiệp, giáo dục cao đẳng và đại học.
Về tổ chức nhà trường, Đảng chủ trương nâng cao vai trò của các đoàn
thể giáo viên và học sinh nhằm phát huy khả năng tích cực của giáo viên và
học sinh trong việc xây dựng nhà trường về mọi mặt. Điểm đáng chú ý và
cũng là một nội dung cải cách lớn cho phù hợp với hoàn cảnh lúc bấy giờ, đó
là hệ thống nhà trường Trung học, Tiểu học cũ từ hệ 12 năm được thay thế
bằng hệ thống nhà trường phổ thông duy nhất 9 năm, chia làm 3 cấp và vẫn
đảm bảo tính liên tục.
Ngày 31-7-1950, Bộ Giáo dục ra Thông tư số 56-TT về “Tổ chức trường phổ
thông 9 năm”. Thông tư chỉ rõ cơ cấu trường phổ thông 9 năm gồm 3 cấp học:
+ Cấp I: 4 năm (lớp 1, 2, 3, 4) thay thế cho cấp Tiểu học cũ (không kể 1
năm học lớp Ấu trĩ hay vỡ lòng).
+ Cấp II: 3 năm (lớp 5, 6, 7) thay thế cho bậc Trung học phổ thông cũ (4 năm).
+ Cấp III: 2 năm (lớp 8 và lớp 9) thay thế cho bậc Trung học chuyên
khoa cũ (3 năm). Cũng theo đó, các kỳ thi cuối cấp bị xóa bỏ, cuối năm lớp 9,
học sinh chỉ phải qua một kỳ thi tốt nghiệp nhằm mục đích kiểm tra tổng quát
những kết quả học tập và rèn luyện của học sinh.
Về công tác quản lý giáo dục, Đề án cải cách của Chính phủ nhấn mạnh
nguyên tắc tập trung, dân chủ. Bên cạnh Hội đồng chuyên môn và hội đồng
kỷ luật đã có từ trước, thành lập thêm Hội đồng quản trị, thành phần gồm có
đại biểu giáo viên, đại biểu phụ huynh đều do hiệu trưởng làm chủ tịch. Có
thể nói đây là một biện pháp nhằm dân chủ hóa việc quản lý về tư tưởng và
chuyên môn của các trường học.
Biên chế năm học theo hệ thống giáo dục mới quy định năm học mới bắt
đầu từ tháng 1 dương lịch đến tháng 12 năm đó. Thời gian học chia làm 2 kỳ,
16
mỗi kỳ 4 tháng xen giữa 2 đợt nghỉ để học sinh có thời gian tham gia sản
xuất. Quy định này bắt đầu thực hiện và áp dụng từ Thông tư số 54-TT của
Bộ Giáo dục ngày 22-12-1951.
Thực hiện Đề án cải cách giáo dục năm 1950, Bộ Giáo dục nhanh chóng
tiến hành một số công việc sau:
Một là, về biên soạn sách giáo khoa, đã tập hợp các giáo viên của các
cấp học nhằm tổ chức một trung tâm viết sách giáo khoa (gọi là trại Tu thư)
để biên soạn cấp tốc sách giáo khoa theo chương trình phổ thông mới 9 năm.
Theo đó, mùa hè năm 1951, 30 giáo viên giỏi tập trung tại xã Đào Dã (Phú
Thọ) đã được đồng chí Trường Chinh - Tổng Bí thư của Đảng tới thăm (ngày
21-8-1951). Tại đây, đồng chí phân tích rõ về đặc trưng của hoạt động giáo
dục, về tính chất giai cấp, nhiệm vụ của giáo dục trong giai đoạn cách mạng
đương thời. Về việc biên soạn sách giáo khoa, đồng chí đề nghị tập trung
trước hết vào các môn quốc văn, lịch sử, toán, lý, hóa và chính trị thường
thức. Nhận thức điều đó, với tinh thần khẩn trương, đến năm 1952, trại đã
hoàn thành toàn bộ sách giáo khoa cấp I theo chương trình mới, đối với cấp II
và III, bước đầu đã biên soạn được một số tài liệu và sách về các môn lịch sử,
chính trị, công dân giáo dục, toán, vật lý. Tuy nhiên, do điều kiện đang có
chiến tranh ác liệt, việc liên lạc bị ngăn trở, hoạt động in ấn thiếu thốn, việc
phân phối sách giáo khoa cho các địa phương gặp không ít khó khăn. Cuộc
cải cách giáo dục lần thứ nhất năm 1950 mới chỉ được triển khai ở các vùng
giải phóng, còn các vùng do thực dân Pháp tạm chiếm, các trường vẫn dạy
học theo hệ thống phổ thông 12 năm, nội dung và chương trình học gần giống
như trước năm 1945.
Hai là, về xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, một trong
những điều quan trọng nhất trong cuộc cải cách giáo dục lần thứ nhất năm
1950 đó là đã bồi dưỡng, củng cố lại đội ngũ giáo viên bởi phần đông số giáo
viên ở thời điểm này đều do trường học thời Pháp thuộc đào tạo. Nhìn chung,
17
chất lượng đội ngũ giáo viên này rất tốt, tuy nhiên, quan điểm, lập trường,
nhất là quan điểm giáo dục của một số còn mơ hồ, thậm chí còn có tư tưởng
giáo dục trung lập và văn hóa thuần túy. Trước thực tiễn này, công việc đầu
tiên, cấp bách là bồi dưỡng cho họ về lập trường tư tưởng, chính trị, để họ có
quan điểm mới về giáo dục theo chủ trương của Đảng, đồng thời, để đội ngũ
giáo viên phải tự đề ra cho mình những nhiệm vụ to lớn về mặt giáo dục. Bên
cạnh việc bồi dưỡng giáo viên cũ về mặt tư tưởng, Đảng còn chú trọng đào
tạo một lớp giáo viên mới từ những thanh niên lớn lên trong kháng chiến.
Chính bởi vậy, ở giai đoạn này, nhiều trường và lớp sư phạm được mở ra ở
Trung ương và ở các khu.
Để đảm bảo cho cuộc cải cách giáo dục đạt kết quả tốt, nhiều đợt học tập
chính trị và nghiệp vụ được tổ chức cho giáo viên, giúp họ phân định được
ranh giới giữa nhân dân, dân tộc với đế quốc và phong kiến. Thông qua đó,
những cán bộ làm công tác giáo dục thêm phấn khởi tin tưởng, ra sức chỉnh
đốn tổ chức, cải cách giảng dạy, biến nhà trường thành công cụ sắc bén của
kháng chiến. Nhờ có chủ trương cải cách giáo dục, chỉnh huấn cán bộ cũ, đào
tạo cán bộ mới, tổ chức thi đua học tập, thi đua giảng dạy mà bộ mặt các nhà
trường trong kháng chiến có nhiều thay đổi. Trong điều kiện khó khăn, gian
khổ, các nhà trường đã cố gắng vượt lên tình trạng vừa kháng chiến, vừa
giảng dạy, vừa học tập, vừa tham gia sản xuất tuyên truyền đánh giặc, đi dân
công phục vụ chiến dịch...
Ba là, công tác xoá nạn mù chữ tiếp tục được tiến hành và có những
bước phát triển mới: tính đến tháng 6-1950, số người thoát nạn mù chữ trong
cả nước là trên 12 triệu người. Một số người được tiếp tục qua các lớp dự bị
để biết đọc, biết viết một cách chắc chắn hơn. Tổng số các đơn vị được công
nhận thoát nạn mù chữ là 10 tỉnh (Thái Bình, Hưng Yên, Hà Nam, Ninh Bình,
Phúc Yên, Hà Tĩnh, Quảng Ngãi, Quảng Nam, Bình Định, Phú Yên) và 84
huyện, 1.500 xã, 7.350 thôn, trong đó có những huyện nằm trong vùng địch
18
kiểm soát chặt chẽ như: Yên Mỹ (Hưng Yên), Mỹ Lộc (Nam Định), Kỳ Sơn
(Hòa Bình), Lạc Thủy (Hà Nam). Những vùng ngoại thành Hà Nội, Hải
Phòng, Nam Định, Huế... cũng được thanh toán nạn mù chữ ở từng thôn.
Những thành tích nói trên góp phần mở mang kiến thức cho nhân dân và thúc
đẩy nhanh sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc.
Bốn là, về đào tạo học sinh ở nước ngoài, song song với việc thực hiện
cải cách giáo dục ở trong nước, để chuẩn bị nguồn nhân lực phục vụ công
cuộc kiến thiết đất nước sau khi giải phóng, với tầm nhìn chiến lược, Đảng và
Chính phủ đã cử các đoàn cán bộ và học sinh tốt nghiệp phổ thông và đại học
đi học dài hạn ở nước ngoài, nhằm chuẩn bị cho việc xây dựng đất nước sau
khi chiến tranh kết thúc. Trong đó, mùa hè năm 1951, nhóm học sinh đầu tiên
gồm 21 người được cử sang Liên Xô học tập, mở đầu quan hệ hợp tác trong
lĩnh vực đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ quản lý giữa Việt Nam và
các nước anh em. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp càng gần đến ngày
thắng lợi thì nhu cầu đào tạo cán bộ để khôi phục và xây dựng đất nước sau
chiến tranh càng trở lên bức bách hơn. Đầu năm 1953-1954, ta đã gửi nhiều
đoàn học sinh đi nhiều nước khác nhau: đoàn đi Liên Xô 50 người, đi Cộng
hòa dân chủ Đức 04 người, đi Bungari 01 người, đi Trung Quốc 190 người.
Các khoản chi phí đào tạo đều do nước bạn đài thọ.
Như vậy, cuộc cải cách giáo dục lần thứ nhất năm 1950 đã tạo được
bước phát triển vượt bậc cho nền giáo dục nước ta, định hình một nền giáo
dục dân chủ, tiến bộ. Nhiệm vụ chống mù chữ đem lại những kết quả bước
đầu, công tác bổ túc văn hóa được đẩy mạnh. Giáo dục phổ thông theo
chương trình 9 năm đã phát triển mạnh mẽ theo phương châm và nội dung
chương trình đào tạo của cuộc cải cách giáo dục. Công tác bồi dưỡng, đào tạo
giáo viên cũng được coi trọng, điều đó được thể hiện ở việc chúng ta đã xây
dựng được một đội ngũ giáo viên giàu lòng yêu nước, trung thành với Đảng,
19
gắn bó với nhân dân, có lòng yêu nghề, yêu trẻ và thiết tha phục vụ Tổ quốc,
phục vụ nhân dân.
Cuộc cải cách giáo dục lần thứ nhất năm 1950, dưới sự lãnh đạo của
Đảng đã thật sự mang lại bước tiến mới cho ngành giáo dục, góp phần thúc
đẩy cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp mau đi tới thắng lợi, mở ra một
giai đoạn phát triển mới cho nền giáo dục nước nhà. Nó đặt nền tảng cho việc
xây dựng một nền giáo dục dân chủ nhân dân mới của nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa với ba bộ phận cơ bản: giáo dục thế hệ trẻ, nâng cao trình độ
văn hóa của nhân dân lao động và đào tạo cán bộ. Cuộc cải cách đó còn mang
lại tính chất dân chủ trong các nhà trường, thống nhất các cấp lại thành một hệ
thống phổ thông duy nhất 9 năm, sau khi tốt nghiệp, học sinh có thể học tiếp
lên hoặc ra phục vụ ngay cho cuộc kháng chiến.
Cải cách giáo dục lần thứ nhất còn thể hiện tính độc lập, tự chủ của Đảng
ta trong việc đề ra chủ trương và lãnh đạo thực hiện phù hợp với hoàn cảnh
thực tế của đất nước và xu thế chung của thời đại, kết hợp lý thuyết với thực
tiễn. Đó là nền tảng tạo ra những con người “vừa hồng, vừa chuyên” mang
bản chất XHCN. Đây còn là một bước tiến mới, thể hiện tính chất ưu việt của
giáo dục cách mạng qua mục tiêu, đào tạo, chương trình, nội dung, phương
pháp và hệ thống nhà trường mới 9 năm. Bằng những biện pháp và hình thức
sáng tạo, thích hợp, ngành giáo dục đã giành thắng lợi trong việc khắc phục
những tàn dư của tư tưởng giáo dục cũ như giáo dục trung lập, chuyên môn
thuần túy, bước đầu gắn nhà trường với đời sống xã hội.
Bên cạnh các nội dung của cuộc cải cách giáo dục năm 1950, quan điểm
cải cách giáo dục còn được thể hiện trong nhiều văn kiện khác của Đảng,
chính phủ. Tại Đại hội Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (diễn ra
từ ngày 11 đến ngày 19-2-1951 tại xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hoá,
tỉnh Tuyên Quang), trong “Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam”,
Đảng ta đã xác định phương hướng và nhiệm vụ mới về giáo dục là: bài trừ
20
những di tích giáo dục thực dân và phong kiến, phát triển nền giáo dục có tính
chất dân tộc, khoa học và đại chúng, thủ tiêu nạn mù chữ, cải cách chế độ
giáo dục, mở mang các trường chuyên nghiệp. Mục tiêu nhằm đào tạo con
người mới và cán bộ mới cho công cuộc kháng chiến, kiến quốc.
Tiếp đó, tại Hội nghị lần thứ hai, Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khóa II) họp từ ngày 27-9 đến ngày 5-10-1951 đã thông qua Nghị
quyết “Về tình hình và nhiệm vụ chung”, trong đó, nêu rõ nhiệm vụ, phương
châm đối với công tác giáo dục trong giai đoạn mới là: 1- Cần sửa đổi chương
trình và soạn sách giáo khoa của ngành giáo dục phổ thông nhằm phương
châm kết hợp với thực tế kháng chiến, phục vụ nhân dân, phục vụ sản xuất.
Việc học ở trường phải mật thiết liên hệ với đời sống nhân dân. 2- Đề cao
ngành giáo dục bình dân, chú trọng bổ túc văn hóa, chấn chỉnh và phát triển
những trường phổ thông lao động. 3- Ngành giáo dục chuyên nghiệp cần chú
ý đào tạo cán bộ giúp cho sản xuất trước mắt là cán bộ canh nông... 4- Thiết
thực cải tạo tư tưởng và giáo dục chính trị cho cán bộ giáo dục, phổ biến quan
niệm giáo dục dân chủ nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã có nhiều chủ trương quan trọng đối với
công cuộc cải cách giáo dục. Trong “Thư gửi Đại hội giáo dục toàn quốc”
(tháng 7-1951), Người nói “… Đại hội nên kiểm thảo kỹ công tác “cải cách”
về chương trình, chủ trương và cách thi hành để tìm thấy những khuyết điểm
mà sửa đổi, những ưu điểm mà phát triển thêm.
Đại hội nên chú ý làm thế nào cho việc giáo dục liên kết với đời sống
của nhân dân, với công cuộc kháng chiến và kiến quốc của dân tộc. Làm thế
nào để phối hợp việc giáo dục của trường học với việc tuyên truyền và giáo
dục chính trị chung của nhân dân” [27, tr 266].
Nhìn chung, mặc dù còn có những thiếu sót, hạn chế nhất định, song với
sự nỗ lực của toàn ngành giáo dục, chúng ta đã xây dựng được cơ sở vững
chắc cho một nền giáo dục mới, một nền giáo dục thực sự là bộ phận của sự
21
nghiệp cách mạng chung, đóng góp xứng đáng vào công cuộc kháng chiến,
kiến quốc vĩ đại của dân tộc. Có thể nói, ngành giáo dục nước ta đã đạt được
một bước phát triển về chất, tạo đà cho những bước phát triển tiếp theo, đồng
thời còn để lại những kinh nghiệm, bài học quý báu cho các cuộc cải cách
giáo dục tiếp theo như về vai trò lãnh đạo của Đảng; lực lượng tham gia cải
cách giáo dục; nội dung chương trình phải phù hợp với nhiệm vụ cách mạng.
1.2. Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về cải cách giáo dục
lần thứ hai (năm 1956) ở miền Bắc
1.2.1. Bối cảnh lịch sử và những yêu cầu mới đặt ra đối với nền giáo
dục ở miền Bắc sau năm 1954
Với chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ và việc ký kết Hiệp định Giơnevơ
(21-7-1954), cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta giành
thắng lợi. Đất nước ta bước vào thời kỳ mới trong bối cảnh quốc tế và tình
hình trong nước có những đặc điểm cơ bản sau:
Về tình hình quốc tế: sự lớn mạnh của Liên Xô và hệ thống XHCN
những năm 50 của thế kỷ XX cùng với sự giúp đỡ, hợp tác của hệ thống ấy là
một sức mạnh mới của nước ta. Đặc biệt, là những thành tựu của Liên Xô về
kinh tế, về khoa học kỹ thuật có ảnh hưởng lớn, cổ vũ mạnh mẽ các nước xã
hội chủ nghĩa, thể hiện tính ưu việt và trở thành mục tiêu, lý tưởng của xã hội
loài người. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc đang tiến những bước
mới. Cuộc đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ, hòa bình trên thế giới, nhất là ở
các nước tư bản phát triển mạnh. Bên cạnh những điều kiện thuận lợi, tình
hình quốc tế ẩn chứa nhiều khó khăn, tác động đến Việt Nam. Phong trào
Cộng sản và công nhân Quốc tế thời kỳ này xuất hiện những rạn nứt, mâu
thuẫn, bất đồng, ảnh hưởng đến sự phát triển của cách mạng thế giới nói
chung, Việt Nam nói riêng, đặc biệt là mâu thuẫn, bất đồng giữa Liên Xô và
Trung Quốc.