Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Phân tích các trường hợp Tòa án trả lại đơn khởi kiện vụ án hành chính theo quy định của Luật tố tụng hành chính năm 2015 và đánh giá về tính hợp lý của các quy định này

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.58 KB, 14 trang )

MỞ ĐẦU
Trước bối cảnh của nền kinh tế và xã hội phát triển nhanh chóng, nhất là khi
Việt Nam gia nhập WTO đã tạo nên một bức tranh đổi mới nhanh chóng, trình độ
pháp luật của người dân được nâng cao một cách rõ ràng. Để thu hút thêm nữa
nguồn đầu tư của nước ngoài, chính phủ Việt Nam đã không ngừng cải cách bộ
máy hành chính, xây dựng một nhà nước pháp quyền với tinh thần thượng tôn pháp
luật. Vì vậy việc các cơ quan nhà nước, các đơn vị cá nhân có thẩm quyền ngày
càng phải nâng cao kiến thức pháp luật, không thể tùy tiện ban hành các văn bản
hay các quyết định xử phạt trái pháp luật. Hiện nay trình độ nhận thức của người
dân về pháp luật đã được nâng cao, họ không dễ dàng chấp nhận các quyết định xử
phạt không đúng thẩm quyền và trái luật định, họ sẵn sàng khiếu nại khiếu kiện
đến các cơ quan có thẩm quyền nếu như cảm thấy quyền và lợi ích mình bị xâm
phạm để yêu cầu tòa án thụ lý giải quyết các yêu cầu của họ. Song, không phải tất
cả các yêu cầu, các đơn khởi kiện của cá nhân, tổ chức đều được tòa án thụ lý giải
quyết mà đã có rất nhiều trường hợp tòa án trả lại đơn khởi kiện vụ án hành chính.
Vậy tại sao tòa án lại trả lại đơn khởi kiện vụ án hành chính, và việc trả lại đơn
khởi kiện đó có hợp lý không, có đúng với pháp luật không? Và để trả lời câu hỏi
đó, e xin chọn đề tài: “Phân tích các trường hợp Tòa án trả lại đơn khởi kiện vụ
án hành chính theo quy định của Luật tố tụng hành chính năm 2015 và đánh
giá về tính hợp lý của các quy định này.”

NỘI DUNG
I.KHÁI NIỆM KHỞI KIỆN VỤ ÁN HÀNH CHÍNH, THỤ LÝ VỤ ÁN HÀNH
CHÍNH.
1.Khái niêm khởi kiện vụ án hành chính.


1.1.Định nghĩa khởi kiện vụ án hành chính.
Khởi kiện vụ án hành chính là việc cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp
luật tố tụng hành chính chính thức yêu cầu tòa án thụ lý vụ án hành chính để bảo
vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của họ hoặc của hoặc của người mà họ đại diện bị


xâm phạm bởi quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỉ luật buộc
thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh,
danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử hội đồng nhân
dân.
1.2.Đặc điểm của khởi kiện vụ án hành chính.
Thứ nhất, mục đích của khởi kiện vụ án hành chính là yêu cầu tòa án có
thẩm quyền thụ lý giải quyết vụ án hành chính. Khởi kiện vụ án hành chính thực
chất là việc thực hiện quyền tự định đoạt của cá nhân, tổ chức có quyền, lợi ích
hợp pháp bị xâm phạm bởi việc thực thi quyền hành pháp trong việc yêu cầu tòa án
có thẩm quyền thụ lý giải quyết vụ án hành chính để bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của họ.
Thứ hai, đối tượng khởi kiện của vụ án hành chính là các quyết định hành
chính, hành vi hành chính, quyết định kỉ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết
khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, danh sách cử tri bầu cử đại biểu
Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân theo quy định của
pháp luật.
Thứ ba, việc khởi kiện vụ án hành chính chỉ được thực hiện khi có đủ các
điều kiện do pháp luật quy định. Tuy việc khởi kiện vụ án hành chính không mang
tính cưỡng chế nhã nước nhưng lại là cơ sở trực tiếp để tòa án thụ lý giải quyết vụ
án hành chính và cũng là điều kiện để tòa án xem xét, phán quyết về tính hợp pháp
của việc thực thi quyền hành pháp.


Thứ tư, việc khởi kiện vụ án hành chính phải được thực hiện theo những
hình thức và nội dung do pháp luật quy định. Việc pháp luật quy định nội dung và
hình thức thể hiện của khởi kiện vụ án hành chính, không chỉ nhằm đảm bảo sự
thống nhất về hình thức của khởi kiện vụ án hành chính mà còn là điều kiện cần
thiết để các cá nhân, tổ chức có thể biểu đạt một cách chính xác, đầy đủ, logic và
có hiệu quả ý chí của họ trong việc yêu cầu tòa án giải quyết vụ án hành chính để
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ và cũng là điều kiện thực tiễn – pháp lí cần

thiết để tòa án có thể thụ lý giải quyết một cách nhanh chóng, đúng pháp luật các
vụ án hành chính.
1.3.Điều kiện khởi kiện vụ án hành chính.
Thứ nhất, người khởi kiện hoặc người mà họ đại diện có quyền, lợi ích hợp
pháp bị xâm phạm bởi quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỉ
luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc
cạnh tranh hoặc việc lập danh sách cử tri.
Thứ hai, việc khởi kiện vụ án hành chính được thực hiện trong trường hợp
và thời hiện do pháp luật quy định.
Thứ ba, người khởi kiện không đồng thời khiếu nại đến người có thẩm
quyền giải quyết khiếu nại.
Thứ tư, vụ việc được khởi kiện thuộc thẩm quyền xét xử vụ án hành chính
của tòa án.
2.Khái niệm thụ lý vụ án hành chính.
2.1.Định nghĩa.


Thụ lý vụ án hành chính là hành vi tố tụng do tòa án có thẩm quyền thực
hiện theo những căn cứ, hình thức được pháp luật tố tụng hành chính quy định
nhằm chính thức chấp nhận giải quyết vụ án hành chính theo yêu cầu khởi kiện vụ
án hành chính của cá nhân, tổ chức.
2.2.Đặc điểm của thụ lý vụ án hành chính.
Thứ nhất, nội dung cơ bản của thụ lý vụ án hành chính là chấp nhận giải
quyết vụ án hành chính theo yêu cầu khởi kiện của cá nhân, tổ chức. Khởi kiện vụ
án hành chính làm phát sinh trách nhiệm của tòa án trong việc tiếp nhận và trả lời
công khai chính thức về vụ án đó có được giải quyết tại tòa án hay không. Việc thụ
lý vụ án hành chính là điều kiện bắt buộc có tính chất quyết định cho việc phát sinh
vụ án hành chính, mở đầu cho toàn bộ quá trình giải quyết vụ án hành chính tại tòa
án.
Thứ hai, thụ lý vụ án hành chính là hành vi tố tụng hành chính cho tòa án có

thẩm quyền thực hiện. Tùy thuộc vào phạm vi các vụ án hành chính thuộc thẩm
quyền xét xử của hệ thống tòa án nói chung và việc phân cấp thẩm quyền này cho
từng tòa án cụ thể theo quy định của pháp luật mà mỗi tòa án không có thẩm quyền
giải quyết tất cả các vụ án hành chính.
Thứ ba, các căn cứ và hình thức thụ lý vụ án hành chính được pháp luật tố
tụng hành chính quy định. Quyền thụ lý vụ án hành chính thuộc về tòa án nhưng đó
không phải là đặc quyền tùy tiện của tòa án. Tòa án có quyền từ chối thụ lý vụ án
nếu không đủ các căn cứ thụ lý.
II.CÁC TRƯỜNG HỢP TÒA ÁN TRẢ LẠI ĐƠN KHỞI KIỆN VỤ ÁN
HÀNH CHÍNH THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH
2015.


1.Người khởi kiện không có quyền khởi kiện.
Tại khoản 8 Điều 3 Luật tố tụng hành chính năm 2015 quy định: “Người
khởi kiện là cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện vụ án hành chính đối với quyết
định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỉ luật buộc thôi việc, quyết định
giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh; danh sách cử tri bầu cử
đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, danh sách
cử tri trưng cầu ý dân (sau đây gọi chung là danh sách cử tri).”
Tại Điều 5 Luật tố tụng hành chính năm 2015 quy định về quyền yêu cầu tòa
án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp như sau: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền
khởi kiện vụ án hành chính để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình theo quy định của Luật này.”
Vậy, quyền khởi kiện vụ án hành chính là quyền của cá nhân, cơ quan, tổ
chức yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình theo thủ tục do
pháp luật quy định. Trong đó, chủ thể khởi kiện hành chính phải thỏa mãn các điều
kiện quy định tại Điều 54 Luật Tố tụng hành chính, là phải có đầy đủ năng lực
pháp luật và năng lực hành vi tố tụng hành chính. Cần khẳng định rằng: Quyền
khởi kiện và chủ thể khởi kiện là hai yếu tố gắn bó mật thiết với nhau. Quyền khởi

kiện chỉ được thực hiện bởi một chủ thể nhất định và chủ thể được thực hiện quyền
khởi kiện khi lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Như vây, nếu thiếu một
trong hai yếu tố trên sẽ là căn cứ để Tòa án không thụ lý vụ án và trả đơn khởi kiện
theo điểm a khoản 1 Điều 123 Luật Tố tụng hành chính năm 2015.
2.Người khởi kiện không có đủ năng lực hành vi tố tụng hành chính.
Tại khoản 2 Điều 117 Luật tố tụng hành chính năm 2015 quy định: “Cá nhân
có năng lực hành vi tố tụng hành chính đầy đủ thì có thể tự mình hoặc nhờ người
khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án. Tại mục tên, địa chỉ của người khởi kiện trong


đơn phải ghi họ, tên, địa chỉ của cá nhân; ở phần cuối đơn cá nhân phải kí hoặc
điểm chỉ.” Do đó, trong trường hợp cá nhân là người chưa thành niên hoặc là
người mất năng lực hành vi dân sự mà trực thực hiện việc khởi kiện vụ án hành
chính, thì Tòa án cần xác định việc khởi kiện vụ án hành chính của cá nhân này đã
vi phạm về hình thức khởi kiện vụ án hành chính và căn cứ vào điểm b khoản 1
Điều 123 Luật tố tụng hành chính năm 2015 để trả lại đơn kiện.
3.Thời hiệu khởi kiện đã hết mà không có lý do chính đáng.
Tại điều 116 Luật tố tụng hành chính năm 2015 quy định:
“Thời hiệu khởi kiện đối với từng trường hợp được quy định như sau:
a)01 năm kể từ ngày nhân được hoặc biết được quyết định hành chính, hành
vi hành chính, quyết định kỉ luật buộc thôi việc;
b)30 ngày kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại về quyết
định xử lý vụ việc cạnh tranh;
c)Từ ngày nhận được thông báo kết quả giải quyết khiếu nại của cơ quan lập
danh sách cử tri hoặc kết thúc thời hạn giải quyết khiếu nại mà không nhận được
thông báo kết quả giải quyết khiếu nại của cơ quan lập danh sách cử tri đến trước
ngày bầu cử 05 ngày.”
Tuy nhiên, đối với trường hợp vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách
quan khác làm cho người khởi kiện không khởi kiện được trong thời hạn quy định
trên thì thời gian có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác không

tính vào thời hiệu khởi kiện. Và Tòa án cũng có thể thụ lý vụ án hành chính nếu
việc chậm trễ khởi kiện vụ án hành chính đối với các trường hợp nêu trên trừ
trường hợp khởi kiện vụ án hành chính về danh sách cử tri.


4.Chưa có đủ điều kiện khởi kiện vụ án hành chính.
Cá nhân, cơ quan, tổ chức muốn khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án phải
đảm bảo đầy đủ các điều kiện mà pháp luật tố tụng hành chính quy định. Nếu họ
không thỏa mãn các điều kiện khởi kiện thì vụ việc sẽ không được Tòa án thụ lý
giải quyết. Điều kiện khởi kiện vụ án hành chính bao gồm: Chủ thể khởi kiện và
quyền khởi kiện; thẩm quyền của Tòa án; thời hiệu khởi kiện. Ví dụ như: cá nhân,
tổ chức khởi kiện vụ án hành chính đối với quyết định hành chính, hành vi hành
chính, quyết định kỉ luật trong trường hợp đã khiếu nại với người có thẩm quyền
giải quyết khiếu nại nhưng chưa hết thời hạn giải quyết khiếu nại theo quy định của
pháp luật về khiếu nại và chưa có kết quả giải quyết khiếu nại của người có thẩm
quyền giải quyết khiếu nại; hoặc cá nhân khởi kiện vụ án hành chính về danh sách
cử tri trong trường hợp chưa khiếu nại với cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu
nại…
5.Sự việc đã được giải quyết bằng bản án hoặc quyết định của tòa án đã có
hiệu lực pháp luật.
Phù hợp với nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, các “bản án, quyết định
của tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức
chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, tổ chức kinh tế,
đơn vị vũ trang nhân dân và mọi người tôn trọng. Cá nhân, cơ quan, tổ chức có
nghĩa vụ chấp hành bản án, quyết định của tòa án phải nghiêm chỉnh chấp hành”.
Do vậy, đối với những sự việc đã được giải quyết bằng bản án hoặc quyết định đã
có hiệu lực pháp luật của tòa án thì các cá nhân, tổ chức có liên quan không được
quyền khởi kiện yêu cầu tòa án thụ lý giải quyết lại vụ việc đó (trừ trường hợp tòa
án đã ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hành chính được quy định tại khoản 1



Điều 143 Luật tố tụng hành chính năm 2015). Trong trường hợp không đồng ý với
bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp lực pháp luật thì cá nhân, tổ chức
có liên quan có quyền khiếu nại với người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại theo
quy định của pháp luật hoặc đề nghị người có thẩm quyền kháng nghị bản án,
quyết định này theo thủ tục giám đốc thẩm hay tái thẩm.
Như vậy, không phái là trong mọi người hợp tòa án đề trả lại đơn khởi kiện
nếu sự việc được khởi kiện đã được giải quyết bằng bản án, quyết định có hiệu lực
pháp luật của tòa án.
6.Sự việc không thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án.
Do việc xác định thẩm quyền của mỗi tòa án phụ thuộc vào nhiều căn cứ
pháp lý khác nhau nên việc xem xét đơn khởi kiện đối với sự việc không thuộc
thẩm quyền của tòa án cần phải phân biệt các trường hợp cụ thể sau:
Trường hợp sự việc được khởi kiện không thuộc thẩm quyền giải quyết của
hệ thống tòa án nói chung thì tòa án đã nhận đơn khởi kiện căn cứ vào điểm e
khoản 1 Điều 123 Luật tố tụng hành chính năm 2015 để trả lại đơn khởi kiện.
Trường hợp sự việc được khởi kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của hệ
thống tòa án nói chung nhưng đây không phải là vụ án hành chính thì tòa án đã
nhận đơn khởi kiện có trách nhiệm hướng dẫn người khởi kiện thực hiện lại việc
khởi kiện và tiến hành thụ lý hoặc chuyển đơn khởi kiện theo quy định của pháp
luật phù hợp với loại vụ án đã được khởi kiện lại.
Trường hợp sự việc được khởi kiện thuộc thẩm quyền xét xử vụ án hành
chính của hệ thống tòa án nói chung được quy định tại Điều 30 Luật tố tụng hành
chính năm 2015 nhưng lại thuộc thẩm quyền của tòa án khác thì tòa án đã tiếp


nhận đơn khởi kiện phải chuyển đơn khởi kiện đến tòa án có thẩm quyền theo quy
định tại điểm c khoản 3 Điều 121 Luật tố tụng hành chính năm 2015.
7.Người khởi kiện lựa chọn giải quyết vụ việc theo thủ tục giải quyết khiếu nại
trong trường hợp quy định tại điều 33 Luật tố tụng hành chính.

Đây là trường hợp người khởi kiện có đơn khởi kiện vụ án hành chính tại tòa
án có thẩm quyền đồng thời có đơn khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết
khiếu nại. Như vậy,xét về phương diện lý luận thì tòa án có quyền trả lại đơn khởi
kiện vơi lý do và việc khởi kiện vụ án hành chính trong trường hợp này đã vi phạm
điều kiện khởi kiện vụ án hành chính. Tuy nhiên, trong trường hợp hết thời hạn giải
quyết khiếu nại theo quy định của pháp luật về khiếu nại mà khiếu nại không được
giải quyết hoặc đã được giải quyết nhưng không đồng ý với việc giải quyết khiếu
nại thì họ vẫn có quyền khởi kiện vụ án hành chính ra tòa án có thẩm quyền theo
quy định của pháp luật.
Trong trường hợp có nhiều cá nhân, tổ chức có đơn khởi kiện vụ án hành
chính tại tòa án có thẩm quyền đồng thời có đơn khiếu nại đến người có thẩm
quyền giải quyết khiếu nại về cùng một vụ việc thì tòa án chỉ căn cứ vào điểm g
khoản 1 Điều 123 Luật tố tụng hành chính năm 2015 để trả lại đơn khởi kiện nếu
các cá nhân, tổ chức này đều đã dứt khoát lựa chọn giải quyết vụ việc theo thủ tục
giải khiếu nại. Nếu các cá nhân, tổ chức này không thống nhất được với nhau về
việc lựa chọn giải quyết vụ việc theo thủ tục giải quyết khiếu nại hay thủ tục tố
tụng hành chính thì tòa án cần căn cứ vào hướng dẫn của Hội đồng thẩm phán tòa
án nhân dân tối cao để xác định vụ việc này thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án
hay thuộc thẩm quyền của người giải quyết khiếu nại để thụ lý vụ án hành chính
hay trả lại đơn khởi kiện theo căn cứ quy định tại đểm e khoản 1 Điều 123 Luật tố
tụng hành chính năm 2015.


8.Đơn khởi kiện không có đủ nội dung quy định tại khoản 1 Điều 118 của Luật
tố tụng hành chính mà không được người khởi kiện sửa đổi, bổ sung theo quy
định tại Điều 122 của Luật tố tụng hành chính.
Việc khởi kiện vụ án hành chính vi phạm các yêu cầu nêu trên không chỉ
đơn thuần là hành vi trái pháp luật mà còn là việc làm thiếu trách nhiệm của cá
nhân, tổ chức khởi kiện vụ án hành chính trong việc biểu đạt chính thức và đầy đủ
yêu cầu của mình trước tòa án. Do đó, tòa án không có đủ những thông tin thực

tiễn và căn cứ pháp lý để thụ lý giải quyết vụ án hành chính, bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của cá nhân, tổ chức này. Vì vậy, tòa án có quyền từ chối thụ lý vụ án
hành chính, nếu đơn khởi kiện không có đủ nội dung mà pháp luật quy định cần
phải có.
9.Hết thời hạn được thông báo quy định tại khoản 1 Điều 125 của Luật tố
tụng hành chính mà người khởi kiện không trình biên lai nộp tiền tạm ứng
phí cho Tòa án, trừ trường hợp người khởi kiện được miễn nộp tiền tạm ứng
án phí, không phải nộp tiền tạm ứng án phí hoặc có lý do chính đáng.
Tuy không phải là căn cứ thụ lý chi phối những vấn đề thuộc nội dung vụ
việc nhưng việc xác định trách nhiệm nộp tiền tạm ứng án phí sơ thẩm của người
khởi kiện phải được thực hiện trước khi tòa án thụ lý vụ án hành chính là cần thiết.
Tuy nhiên không phải trong mọi trường hợp người khởi kiện vụ án hành
chính đều phải nộp tiền tạm ứng án phí sơ thẩm. Những trường hợp được miễn nộp
toàn bộ án phí là :
Người khởi kiện vụ án hành chính là thương binh; bố, mẹ liệt sĩ; người có
công với cách mạng.


Người khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp
dụng hoặc thi hành biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn;
đưa vào trường giáo dưỡng; dưa vào cơ sở giáo dục và đưa vào cơ sở chữa bệnh.
Cá nhân, hộ gia đình thuộc diện nghèo theo quy định của Chính phủ.
Người yêu cầu bồi thường về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm.
Ngoài các trường hợp nêu trên, người khởi kiện vụ án hành chính đều phải
nộp tiền tạm ứng án phí sơ thẩm. Nếu vụ việc được khởi kiện có đủ các căn cứ
khác để thụ lý và người khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng án phí sơ thẩm thì tòa án
có trách nhiệm thông báo cho người khởi kiện biết để họ nộp tiền tạm ứng án phí
sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Sau khi đã nộp tiền tạm ứng án phí sơ thẩm,
người khởi kiện có trách nhiệm xuất trình biên lai nộp tiền tạm ứng án phí sơ thẩm
để bổ sung đủ căn cứ cho tòa án quyết định thụ lý vụ án hành chính.

III.ĐÁNH GIÁ VỀ TÍNH HỢP LÝ VỀ CÁC TRƯỜNG HỢP TÒA ÁN TRẢ
LẠI ĐƠN KHỞI KIỆN VỤ ÁN HÀNH CHÍNH THEO QUY ĐỊNH CỦA
LUẬT TỐ TỤNG NĂM 2015.
Việc Tòa án trả lại đơn khởi kiện vụ án hành chính là một chế định quan
trọng trong Luật tố tụng hành chính năm 2015 và cần được bảo đảm và nghiêm túc
thực hiện. Việc Tòa án trả lại đơn khởi kiện vụ án hành chính là là một việc làm hết
sức quan trọng, thể hiện rõ thẩm quyền của tòa án trong việc thụ lý các vụ án hành
chính, đồng thời nó còn rất phù hợp với điều kiện xã hội của nước ta trong thời kì
hội nhập và rất phù hợp với ý chí và nguyện vọng của đa số hầu hết những người
dân. Việc tòa án trả lại đơn khởi kiện trong trường hợp người khởi kiện không có
năng lực hành vi tố tụng hành chính đầy đủ, người khởi kiện không có quyền khởi
kiện đã thể hiện rõ và chính xác được quyền quyết định và tự định đoạt của người
khởi kiện được quy định tại Điều 8 Luật tố tụng hành chính năm 2015. Do người


chưa thành niên và người mất năng lực hành vi dân sự không thể tự mình quyết
định việc lựa chọn việc khởi kiện vụ án hành chính để yêu cầu tòa án bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình được, nếu như tòa án thụ lý vụ án thì chính tòa án đã
vi phạm nghiêm trọng đến quyền quyết định và tự định đoạt của người khởi kiện
do đó việc tòa án trả lại đơn khởi kiện trong trường hợp người khởi kiện không có
năng lực hành vi tố tụng hành chính đầy đủ, người khởi kiện không có quyền khởi
kiện là hoàn toàn hợp lý. Việc tòa án trả lại đơn khởi kiện trong trường hợp thời
hiệu khởi kiện đã hết mà không có lý do chính đáng theo quy định của Luật tố tụng
hành chính năm 2015 là hoàn toàn hợp lý. Vì nếu như khởi kiện trong trường hợp
đã hết thòi hiệu khởi kiện thì sẽ gây khóa khăn cho tòa án trong việc xác minh, thu
thập chứng cứ để giải quyết vụ án hành chính và cũng khó khăn trong việc bảo vệ
các quyền, lợi ích hợp pháp đã bị xâm hại. Việc tòa án trả lại đơn khởi kiện trong
trường hợp chưa có đủ điều kiện khởi kiện vụ án hành chính theo quy định tại Luật
tố tụng hành chính năm 2015 là hoàn toàn hợp lý. Vì nếu như chưa có đủ điều kiện
khởi kiện vụ án hành chính mà tòa án vẫn thụ ý vụ việc đó sẽ rất dễ dẫn đến việc

tòa án phán quyết sai, và điều đó sẽ ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của
một hoặc các bên đương sự. Việc tòa án trả lại đơn khởi kiện trong trường hợp sự
việc không thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án đã thực hiện đúng pháp luật và
được quy định tại điều 30 Luật tố tụng hành chính năm 2015. Vì thẩm quyền gắn
liền với quyền và nhiệm vụ mà pháp luật quy định cho Tòa án để thực hiện nhiệm
vụ và chức năng của mình đó là xét xử, và thẩm quyền xét xử của Tòa án là thẩm
quyền riêng của từng tòa án cụ thể được phân định theo cấp, theo khu vực hay theo
vụ việc và dựa theo cấu trúc của hệ thống của Tòa án. Và việc Luật tố tụng hành
chính năm 2015 quy định tòa án trả lại đơn hởi kiện trong trường hợp không thuộc
thẩm quyền của tòa án là hoàn toàn hợp lý.


KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu đề tài người viết đút kết được rằng: việc trả lại đơn khởi
kiện vụ án hành chính là một chế định quan trọng của pháp luật. Nó không chỉ giúp
cho cơ quan tiến hành có thể sửa chữa được những sai sót của mình mà còn mở ra
cơ hội mang lại công lý cho người dân được đối xử công bằng trước pháp luật, bảo
vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự giúp người dân tin tưởng, yên
tâm hơn vào pháp luật, vào công bằng xã hội. Đồng thời cũng giúp cho việc thực
thi quyền hành pháp được công khai, minh bạch đem lại hiệu quả và nó cũng là
một bước đà vững chắc để từ đó thúc đẩy người dân biết thực hiện đúng theo các
quy định của pháp luật. Để làm được điều đó người dân cần phải tìm hiểu về các
quy định của pháp luật về các thủ tục khởi kiện, điều kiện khởi kiện để tránh việc
bị trả lại đơn khởi kiện khiến mất thời gian và việc phát hiện những sai phạm của
các cơ quan hành chính nhà nước được kịp thời hơn.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật tố tụng hành chính năm 2015, Nxb. Lao động.
2. Giáo trình Luật tố tụng hành chính Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân Hà Nội

năm 2014
3. Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2015, Nxb. Lao động.
4. />option=com_content&view=article&id=1418:vn--tr-li-n-kin-trong-t-tng-hanhchinh&catid=118:k-nng-tranh-tng-trong-v-an-hanh-chinh&Itemid=121
5. />


×