Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Hoàn thiện nội dung chính sách, quy trình áp dụng chính sách thuế tài nguyên đối với doanh nghiệp khai thác khoáng sản vàng, cát, đá, sỏi, đất làm gạch trên địa bàn tỉnh hòa bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (769.5 KB, 98 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
-----------------------------------

PHẠM THỊ THÙY LINH

HOÀN THIỆN NỘI DUNG CHÍNH SÁCH, QUY TRÌNH ÁP DỤNG
CHÍNH SÁCH THUẾ TÀI NGUYÊN ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
KHAI THÁC KHOÁNG SẢN VÀNG, CÁT, ĐÁ, SỎI, ĐẤT LÀM GẠCH
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HOÀ BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

HÀ NỘI - 2011


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
------------------------------

PHẠM THỊ THÙY LINH

HOÀN THIỆN NỘI DUNG CHÍNH SÁCH, QUY TRÌNH ÁP DỤNG
CHÍNH SÁCH THUẾ TÀI NGUYÊN ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
KHAI THÁC KHOÁNG SẢN VÀNG, CÁT, ĐÁ, SỎI, ĐẤT LÀM GẠCH


TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HOÀ BÌNH

Chuyên ngành: Kinh tế nông nghiệp
Mã số: 60.31.10

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Chu Tiến Quang

HÀ NỘI - 2011


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Tài nguyên thiên nhiên bao gồm tất cả các nguồn năng lượng, nguyên liệu,
vật liệu tự nhiên sẵn có trên trái đất, không gian mà con người có thể khai thác, sử
dụng phục vụ cuộc sống, sự phát triển của mình và xã hội.
Tài nguyên thiên nhiên là những điều kiện cần thiết cho sự tồn tại, phát
triển của xã hội loài người. Hầu hết các loại tài nguyên thiên nhiên là hữu hạn và
không có khả năng tái sinh. Khi tài nguyên bị cạn kiệt thì sản xuất và đời sống của
con người sẽ rất khó khăn. Vì vậy, việc quản lý bền vững các loại tài nguyên này
là yêu cầu bức thiết đối với con người trên hành tinh này.
Tài nguyên thiên nhiên được chia thành 2 loại: tài nguyên tái tạo được và
tài nguyên không tái tạo. Tài nguyên tái tạo gồm những tài nguyên có thể hình
thành lại sau quá trình khai thác, sử dụng, đó là: đất đai, rừng, nước ngọt, nước
mặn, cây trồng, vật nuôi trong nông nghiệp. Tài nguyên không tái tạo gồm các
loại kim loại: vàng, bạc, sắt, đồng, nhôm, chì, kẽm, ti tan... và khoáng sản phi kim
loại như: dầu mỏ, khí đốt, than đá, đá, cát, sỏi, cao lanh, phốt phát, nước khoáng.
Ở Việt Nam, luật pháp quy định các nguồn tài nguyên thiên nhiên thuộc sở

hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lý. Nhà nước sử dụng thuế để điều
tiết hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên vừa để tạo nguồn thu cho Ngân sách
nhà nước, vừa thực hiện định hướng cho việc khai thác, sử dụng hiệu quả và tiết
kiệm các nguồn tài nguyên, nhất là các tài nguyên không tái tạo để phục vụ cho
phát triển kinh tế - xã hội lâu dài, đảm bảo công bằng trong sử dụng tài nguyên
giữa các thế hệ.
Việt Nam đã phát hiện hơn 5.000 mỏ và điểm quặng có khoảng 60 loại
khoáng sản khác nhau. Một số khoáng sản đã được phát hiện và khai thác từ rất
lâu như vàng, thiếc, chì, kẽm, than đá và các loại vật liệu xây dựng; số khác mới
được phát hiện và khai thác như dầu khí, sắt, đồng… Một số nơi, có những mỏ


2

nằm tập trung như than ở Quảng Ninh, bôxit ở Tây Nguyên và apatit, đất hiếm ở
miền núi phía Bắc...Những năm gần đây, cùng với sự phát triển chung của cả
nước, các hoạt động khai thác khoáng sản đã và đang góp phần to lớn vào công
cuộc đổi mới đất nước. Ngành công nghiệp khai thác mỏ đã và đang ngày càng
chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế của Việt Nam.
Trên địa bàn tỉnh Hòa Bình hiện nay, bên cạnh các doanh nghiệp được cấp
phép khai thác khoáng sản, nạn khai thác trái phép, khai thác quá mức tài nguyên
khoáng sản vàng, cát, đá, sỏi, đất làm gạch của các tổ chức, cá nhân cũng đang có
chiều hướng gia tăng mặc dù số thu thuế tài nguyên từ hoạt động khai thác trên
tăng không tương xứng. Như vậy có thể thấy rằng, bên cạnh lợi ích kinh tế tạo ra,
các hoạt động khai thác khoáng sản vàng, cát, sỏi, đất làm gạch đã và đang gây tác
động tiêu cực tới môi trường như làm thay đổi cảnh quan và mất cân bằng sinh
thái, tích tụ hoặc phát tán các chất thải rắn làm ô nhiễm nước, ô nhiễm không
khí, ô nhiễm đất; ảnh hưởng đến đa dạng sinh học; gây tiếng ồn và chấn động; tác
động xấu đến ngành công nghiệp nói riêng và đến kinh tế - xã hội nói chung, gây
bất bình và bức xúc trong xã hội. Mặt khác, vấn đề về chính sách và quy trình thực

hiện chính sách thu thuế tài nguyên đang có nhiều bất cập, chưa đóng vai trò là công
cụ hữu hiệu điều chỉnh các hoạt động khai thác tài nguyên đảm bảo bền vững.
Là cán bộ của Cục thuế tỉnh Hòa Bình và là học viên cao học trường Đại
học Lâm nghiệp, Xuân Mai, Hà Nội, tôi mong muốn được đóng góp vào hoàn
thiện quản lý nhà nước đối với công tác thu thuế tài nguyên khai thác khoáng sản
trên địa bàn tỉnh Hòa Bình. Với lý do đó, Tôi lựa chọn đề tài: “Hoàn thiện nội
dung chính sách, quy trình áp dụng chính sách thuế tài nguyên đối với doanh
nghiệp khai thác khoáng sản vàng, cát, đá, sỏi, đất làm gạch trên địa bàn tỉnh
Hoà Bình” làm đề tài cho Luận văn tốt nghiệp trình độ Thạc sỹ kinh tế của bản
thân trong chương trình đào tạo tại trường Đại học Lâm nghiệp Xuân Mai Hà Nội.


3

Chương 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CƠ SỞ LÝ
LUẬN CỦA CHÍNH SÁCH THUẾ TÀI NGUYÊN ĐỐI VỚI
KHAI THÁC KHOÁNG SẢN
1.1. Tổng quan các nghiên cứu liên quan đến luận văn.
Đối với mỗi quốc gia, tài nguyên khoáng sản có vai trò rất quan trọng trong
sự phát triển kinh tế xã hội và được xem là nguồn nội lực cũng như lợi thế so sánh.
Trên thực tế, các quốc gia có nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú cũng đồng
nghĩa với những đất nước giàu có, tuy nhiên cũng có những quốc gia nghèo về tài
nguyên, nhưng lại rất thành công trong phát triển kinh tế do biết biến các nguồn tài
nguyên ở các nước khác thành thành nguồn tài nguyên của mình.
Tuy nhiên câu chuyện khai thác tài nguyên khoáng sản trên thế giới trong
một vài thập niên gần đây đã và đang trở nên nóng bỏng hơn khi mà những tác
động khôn lường về môi trường của quá trình khai thác khoáng sản ngày càng
tăng lên và dẫn đến những hậu quả to lớn cho xã hội. Không chỉ vậy, một vấn đề
lớn đã nổi lên là, nhiều quốc gia rất giàu tài nguyên khoáng sản song ngành công

nghiệp khai thác sau nhiều thập kỷ được đầu tư lớn, nhưng đã không mang lại sự
thịnh vượng cho đất nước của họ. Càng khai thác tài nguyên để xuất khẩu thì sự
phân hóa và bất công xã hội ngày càng tăng, bên cạnh đó là môi trường tự nhiên
ngày càng bị tàn phá và ô nhiễm nghiêm trọng. Khoa học trên thế giới đã gọi rằng
đây chính là “Lời nguyền tài nguyên”, sự trả giá cho việc đi theo con đường bóc
lột thiên nhiên để phục vụ mục tiêu thịnh vượng mà không đạt được.
1.1.1. Trên thế giới.
Thực tế đã chứng minh tại Hà Lan trong thập kỷ 70 của thế kỷ trước, khi
ngành chế tạo và sản xuất đột ngột sụt giảm trước việc bùng nổ khai thác tài
nguyên tại vùng Groningen, Biển Bắc. Kết quả là nhà nước thu được một lượng


4

nguồn thu và ngoại tệ dồi dào thông qua thuế tài nguyên và xuất khẩu, tuy nhiên
bội thu này lại có hại cho các ngành sản xuất, chế tạo và nông nghiệp do chi phí
đầu vào của các ngành này tăng lên. Đồng nội tệ sẽ tăng giá so với ngoại tệ và làm
khó khăn cho các ngành sản xuất và chế tạo vì khả năng cạnh tranh quốc tế về giá
giảm xuống do ngành này lệ thuộc vào xuất khẩu. Căn bệnh “Hà Lan” đặc biệt trở
nên nghiêm trọng khi ngành khai thác tài nguyên đột ngột giảm do giá tài nguyên
giảm hay nguồn tài nguyên bị cạn kiệt.
Nhà nghiên cứu Michael Lewin Ross cho rằng khi mà các chính phủ chủ
yếu dựa vào nguồn thu từ việc khai thác tài nguyên thiên nhiên hơn là thuế thu
nhập, các chính phủ này sẽ khó giải trình với các công dân của mình về thuế thu
nhập dân cư với thuế tài nguyên. Ông cũng chỉ ra rằng sự giàu có về dầu mỏ và
khoáng sản đã thúc đẩy chính phủ đầu tư nhiều vào an ninh nội địa, chi tiêu nhiều
hơn vào bộ máy chính phủ và xây dựng cơ sở hạ tầng, làm gia tăng nguy cơ tham
nhũng khi năng lực quản trị của bộ máy yếu kém.
Không giống như Hà Lan, Indonesia là quốc gia đã tránh được “Lời
nguyền tài nguyên” bằng những quy định, chính sách rõ ràng. Indonesia đã quản

lý chặt chẽ các hoạt động khai thác và sử dụng tài nguyên phù hợp cho tăng
trưởng kinh tế từ những năm 1970. Chính phủ Indonesia đã thực hiện cân đối thu
chi giữa các ngành, đầu tư hợp lý vào kết cấu hạ tầng, dịch vụ xã hội, nông nghiệp
và công nghiệp. Trong đó, nguồn thu từ khoáng sản được ưu tiên đầu tư nhiều hơn
cho phát triển nông nghiệp.
Quỹ Tiền tệ thế giới (IMF) cũng phát hiện ra “hiệu ứng tham lam” của việc
khai thác tài nguyên tới chất lượng công quyền. Họ lập luận rằng lợi nhuận cao
thu được từ khai thác tài nguyên thiên nhiên sẽ cổ vũ cho thói quan liêu và tham
lam, dẫn tới tình trạng tham nhũng ngày càng rộng và lớn hơn trong Chính phủ và
xã hội.


5

1.1.2. Ở Việt Nam.
Theo báo chí, bộ trưởng bộ Tài nguyên và Môi trường Phạm Khôi Nguyên
cho rằng nước ta có 7 loại khoáng sản giầu vào loại nhất nhì thế giới. Trong khi đó
chủ tịch tổng hội Địa chất Việt Nam, phó giáo sư tiến sỹ Nguyễn Khắc Vinh lại
đưa ra một cách nhìn khác về tiềm năng khoáng sản nước ta: Cái thế giới cần, ta
có ít; cái ta có cần, ta có không nhiều (nguồn internet).
Theo số liệu thống kê năm 2008, toàn bộ thuế tài nguyên thu được từ khai
thác khoáng sản kim loại hàng năm tính toán sơ bộ khoảng 0,01% GDP, có
khoảng 186,7 nghìn người làm việc trong các ngành này, chiếm khoảng 0,42% lao
động cả nước. Nhưng các ngành khai thác khoáng sản đang chiếm dụng đất đai,
tác động phá hoại môi trường như thế nào, làm thiệt hại đến các ngành kinh tế
khác hay cản trở các ngành kinh tế khác ra sao, tổng đầu tư cả nước cho khai thác
khoáng sản là bao nhiêu? giá trị gia tăng làm ra? so sánh với các ngành kinh tế
khác... Nguồn thuế tài nguyên ít ỏi thu được phân bổ vào đâu, ai được hưởng lợi?
đang là những câu hỏi lớn chưa có lời giải đáp thỏa đáng.
Hàng năm quốc gia đang mất đi một khối lượng khoáng sản lớn do các

hoạt động xuất khẩu lậu, cái lợi thu được là gì? cũng là những vấn đề cần phải
được phân tích và nhìn nhận cho đúng. Nên chăng Nhà nước phải thực hiện duy
trì các chính sách tài khóa chặt chẽ trong các thời kỳ bùng nổ tài nguyên, đặc biệt
khi các tài nguyên thiên nhiên này chiếm một phần chủ yếu của kinh tế địa
phương. Mặt khác phải sử dụng có hiệu quả và minh bạch các nguồn thu từ khai
thác tài nguyên để kiểm soát chi tiêu, thực hiện tái đầu tư vào các lĩnh vực quan
trọng để tăng cường năng lực cho các ngành kinh tế.
Cần cải thiện tính minh bạch và trách nhiệm giải trình của các tổ chức quản
lý khai thác tài nguyên khoáng sản vì đó là cơ chế cần thiết để hạn chế tham
nhũng và những hành vi tàn phá tài nguyên. Cơ chế bày cũng cần được triển khai
ở tất cả các cấp các ngành, các doanh nghiệp khai thác và chế biến khoáng sản.


6

Kinh nghiệm quốc tế có thể giúp chính phủ và các ngành công nghiệp khai
khoáng ứng dụng và mở rộng cơ chế này.
1.2. Một số vấn đề lý luận về thuế tài nguyên và chính sách thuế tài nguyên
đối với doanh nghiệp khai thác khoáng sản.
1.2.1. Khái niệm.
Thuế tài nguyên là một trong những công cụ quản lý của Nhà nước đối với
hoạt động khai thác tài nguyên dưới hình thức là một khoản thu tài chính (bằng
tiền) trên giá trị của tài nguyên đã khai thác. Ở Việt Nam thuế tài nguyên được áp
dụng đối với tổ chức, cá nhân tiến hành hoạt động khai thác tài nguyên.
Thuế tài nguyên là khoản thu của Ngân sách nhà nước đối với giá trị tài
nguyên đã được khai thác và sử dụng, thông qua điều tiết một phần giá trị khai
thác tài nguyên thiên nhiên của tổ chức, cá nhân thực hiện các hoạt động khai thác
tài nguyên hợp pháp trên lãnh thổ, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam,
tạo nguồn thu Ngân sách nhà nước, thực hiện quyền quản lý nhà nước đối với sử
dụng các nguồn tài nguyên quốc gia.

1.2.2. Đặc điểm
- Thuế tài nguyên là một khoản thu của Ngân sách Nhà nước đối với người
khai thác tài nguyên thiên nhiên do Nhà nước xác định.
- Thuế tài nguyên được đánh trên sản lượng và giá trị thương phẩm của tài
nguyên đã khai thác mà không phụ thuộc vào sự sinh lời của tài nguyên đó.
- Thuế tài nguyên được cấu thành trong giá bán tài nguyên mà người tiêu
dùng tài nguyên hoặc sản phẩm được tạo ra từ tài nguyên thiên nhiên đó phải trả
tiền dưới hình thức thuế tài nguyên.
- Đối tượng nộp thuế tài nguyên là tổ chức, cá nhân tiến hành khai thác tài
nguyên thiên nhiên, không phụ thuộc mục đích sử dụng.


7

1.2.3. Vai trò của thuế tài nguyên
- Thứ nhất: Thể hiện quyền sở hữu của Nhà nước đối với các nguồn tài
nguyên quốc gia.
Tài nguyên được phân bố rộng khắp trên trái đất, vùng lãnh thổ. Mỗi một
quốc gia độc lập có quyền sở hữu, khai thác, sử dụng các loại tài nguyên thuộc
phạm vi chủ quyền về lãnh thổ và Nhà nước của quốc gia đó.
- Thứ hai: Là công cụ hạn chế hành vi khai thác làm cạn kiệt tài nguyên.
Nền kinh tế càng phát triển thì nhu cầu về tài nguyên ngày càng tăng, dẫn
đến nguy cơ cạn kiệt các nguồn tài nguyên, nhất là đối với các loại nguyên không
có khả năng tái tạo được. Do vậy, yêu cầu đặt ra là phải khai thác, sử dụng hiệu
quả các nguồn tài nguyên và có biện pháp nuôi dưỡng, bảo vệ, phát triển các nguồn
tài nguyên tái sinh và sử dụng tiết kiệm các nguồn tài nguyên không tái sinh.
Nhà nước với vai trò quản lý các nguồn tài nguyên quốc gia phải đưa ra
nhiều biện pháp quản lý khác nhau, trong đó có biện pháp kinh tế là thu thuế tài
nguyên để điều chỉnh các hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên, đảm bảo duy
trì, bảo vệ, tái tạo và phát triển các nguồn tài nguyên mới.

- Thứ ba: Tạo nguồn thu tài chính cho ngân sách.
Thông qua công cụ thuế, nhà nước thu lại một phần giá trị tài nguyên đã
được khai thác để đưa vào ngân sách, đầu tư trở lại vào nền kinh tế.
- Thứ tư: Là công cụ của quản lý nhà nước đối với duy trì, bảo vệ và phát
triển các nguồn tài nguyên quốc gia.
Thông qua thuế, Nhà nước thực hiện vai trò quản lý việc duy trì, bảo vệ và
phát triển các nguồn tài nguyên quốc gia: cho phép hay không cho phép khai thác
bằng công cụ hành chính (cấm, hạn chế) và công cụ kinh tế là đánh thuế với mức
cao hay thấp để điều chỉnh hoạt động khai thác theo hướng khuyến khích tăng lên
hay hạn chế giảm xuống.


8

1.3. Chính sách thuế tài nguyên, quy trình áp dụng chính sách thuế tài
nguyên đối với DN khai thác khoáng sản: vàng, cát, đá, sỏi, đất làm gạch.
1.3.1. Vai trò của DN khai thác khoáng sản vàng, cát, đá, sỏi, đất làm gạch.
Doanh nghiệp khai thác khoáng sản vàng, cát, đá, sỏi, đất làm gạch là
doanh nghiệp đăng ký kinh doanh khai thác khoáng sản theo quy định của các
luật: Luật doanh nghiệp, Luật khoáng sản và các luật khác có liên quan.
Cũng như doanh nghiệp trong các lĩnh vực khác, doanh nghiệp khai
thác khoáng sản là “tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch
ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục
đích thực hiện các hoạt động kinh doanh” trong lĩnh vực khai thác khoáng
sản. Doanh nghiệp khai thác khoáng sản bao gồm: doanh nghiệp nhà nước,
doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và các
hợp tác xã. Có thể khái quát vai trò của doanh nghiệp trên một số mặt sau:
- Một là: Tạo ra sự phát triển của nền kinh tế, do các doanh nghiệp là những
chủ thể tạo ra sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ, mang lại thu nhập cho nền kinh tế;
- Hai là: Huy động tiền vốn nhàn rỗi trong xã hội vào sản xuất kinh doanh,

không để các nguồn vốn bị “chết”, không tạo ra giá trị gia tăng mới cho xã hội;
- Ba là: Tạo ra việc làm, thu nhập cho lao động trong xã hội;
- Bốn là: Biến các tín hiệu thị trường thành hiện thực và phát triển công
nghệ sản xuất và phương pháp quản lý.
1.3.2. Nghĩa vụ của doanh nghiệp khai thác khoáng sản vàng, cát, đá, sỏi, đất
làm gạch đối với thuế tài nguyên.
Theo quy định tại Điều 7, Luật Quản lý thuế thì Doanh nghiệp khai thác
khoáng sản phải thực hiện những nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội, đó là:
- Một là: Đăng ký thuế, sử dụng mã số thuế theo quy định của pháp luật
- Hai là: Khai thuế chính xác, trung thực, đầy đủ và nộp hồ sơ thuế đúng
hạn; chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác, đầy đủ của hồ sơ thuế.
- Ba là: Nộp tiền thuế đầy đủ, đúng thời hạn, đúng địa điểm.
- Bốn là: Chấp hành chế độ kế toán, thống kê và quản lý, sử dụng hoá đơn
chứng từ theo quy định của pháp luật.


9

- Năm là: Ghi chép chính xác, trung thực, đầy đủ những hoạt động phát
sinh từ: nghĩa vụ thuế, khấu trừ thuế và kê khai thông tin về thuế.
- Sáu là: Lập và giao hoá đơn, chứng từ cho người mua theo đúng số lượng,
chủng loại, giá trị thực thanh toán khi bán hàng, cung cấp dịch vụ theo quy định
của pháp luật.
- Bảy là: Cung cấp chính xác, đầy đủ, kịp thời thông tin, tài liệu liên quan
đến xác định nghĩa vụ thuế, số hiệu, nội dung giao dịch của tài khoản mở tại ngân
hàng thương mại, tổ chức tín dụng khác; giải thích việc tính thuế, khai thuế, nộp
thuế theo yêu cầu của cơ quan quản lý thuế.
- Tám là: Chấp hành quyết định, thông báo, yêu cầu của cơ quan quản lý
thuế, công chức quản lý thuế theo quy định của pháp luật.
- Chín là: Chịu trách nhiệm về nghĩa vụ nộp thuế theo quy định của pháp

luật trong trường hợp người đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo uỷ quyền
thay mặt người nộp thuế thực hiện thủ tục về thuế sai quy định.
1.3.3. Chính sách thuế tài nguyên đối với doanh nghiệp khai thác khoáng sản
vàng, cát, đá, sỏi, đất làm gạch.
Theo quy định của pháp luật về thuế hiện hành thì nội dung của chính sách
thuế tài nguyên đối với doanh nghiệp khai thác khoáng sản gồm các quy định về:
Một là: Danh mục tài nguyên chịu thuế, quy định tên tài nguyên khoáng
sản chịu thuế tài nguyên.
Hai là: Người nộp thuế, quy định trách nhiệm nộp thuế tài nguyên thuộc về ai.
Ba là: Sản lượng tài nguyên tính thuế, quy định sản lượng tài nguyên phải
sử dụng để tính thuế tài nguyên phải nộp trong kỳ.
Bốn là: Giá tính thuế, quy định giá tính thuế sử dụng tính thuế tài nguyên
phải nộp trong kỳ.
Năm là: Thuế suất, quy định tỷ lệ phần trăm (%) giá trị đối với từng loại tài
nguyên cụ thể, được sử dụng để tính thuế tài nguyên phải nộp trong kỳ.


10

1.3.4. Quy trình áp dụng thuế tài nguyên đối với DN khai thác khoáng sản
vàng, cát, đá, sỏi, đất làm gạch.
Quy trình áp dụng quản lý thuế tài nguyên đối với doanh nghiệp khai thác
khoáng sản được quy định trong Luật Quản lý thuế được Quốc hội khoá XI thông
qua tại kỳ họp thứ 10 ngày 22 tháng 11 năm 2006, có hiệu lực thi hành từ ngày 01
tháng 7 năm 2007 và các văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành. Quy trình áp dụng
thuế tài nguyên mô tả trình tự các bước công việc của quá trình quản lý thuế tài
nguyên, bao gồm: Tuyên truyền và hỗ trợ NNT; đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế;
miễn thuế, giảm thuế; kiểm tra thuế, thanh tra thuế; quản lý thu nợ thuế, cưỡng
chế nộp thuế nợ đọng; các quy chế phối hợp.
1.3.4.1. Tuyên truyền và hỗ trợ NNT.

Quy trình Tuyên truyền - Hỗ trợ NNT thực hiện cơ chế tự khai - tự nộp
thuế được ban hành kèm theo Quyết định số 1188/QĐ-TCT ngày 03/11/2005 của
Tổng cục thuế, trong đó có quy định và hướng dẫn thực hiện các hình thức tuyên
truyền phù hợp đối với từng đối tượng như việc hướng dẫn xây dựng chuyên mục
“thuế và cuộc sống”; phát tin, bài trên truyền hình, báo; lắp đặt panô tuyên truyền;
tuyên truyền qua hình thức loa lưu động ở các tổ dân phố, thôn, xóm; tổ chức hội
nghị tập huấn chính sách thuế mới, hội nghị đối thoại để giải quyết các vướng mắc
trong quá trình thực hiện chính sách thuế của NNT. Đi kèm với Quy trình Tuyên
truyền - Hỗ trợ NNT là Quy chế hướng dẫn, giải đáp vướng mắc về chính sách
thuế, quản lý thuế và giải quyết các thủ tục hành chính thuế của NNT theo cơ chế
"một cửa" ban hành kèm theo Quyết định số 78/2007/QĐ-BTC ngày 18/9/2007
của Bộ Tài chính. Quy chế hướng dẫn, giải đáp vướng mắc về chính sách thuế,
quản lý thuế và giải quyết các thủ tục hành chính thuế của NNT theo cơ chế “một
cửa” nhằm đảm bảo việc tiếp nhận và giải quyết các yêu cầu hướng dẫn, giải đáp
các vướng mắc về chính sách thuế, quản lý thuế, tiếp nhận và giải quyết các thủ
tục hành chính thuế của NNT được thuận lợi nhất, đồng thời đảm bảo giám sát


11

được công chức thuế trong việc thực hiện giải quyết các yêu cầu, thủ tục hành
chính thuế của NNT.
1.3.4.2. Đối với đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế, quyết toán thuế.
a. Công việc đăng ký thuế được quy định tại Quyết định số 443/QĐ-TCT
ban hành ngày 29/4/2009 của Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế. Trong đó đăng ký
thuế là việc Doanh nghiệp khai thác khoáng sản phải kê khai những thông tin theo
mẫu quy định và nộp tờ khai cho cơ quan quản lý thuế trong thời hạn 10 ngày làm
việc, kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc giấy phép
thành lập, hoạt động hoặc giấy chứng nhận đầu tư để thực hiện nghĩa vụ về thuế
với Nhà nước theo qui định của pháp luật. Tổng cục thuế là cơ quan nhà nước có

trách nhiệm quản lý về đăng ký thuế và cấp mã số thuế.
Cơ quan quản lý thuế thực hiện quản lý doanh nghiệp khai thác vàng, cát,
đá, sỏi, đất làm gạch thông qua việc đăng ký thuế. Mỗi một doanh nghiệp sau khi
thành lập phải làm thủ tục hồ sơ đăng ký thuế, cơ quan quản lý thuế thực hiện cấp
“Giấy chứng nhận đăng ký thuế”. Các chỉ tiêu trên giấy chứng nhận đăng ký thuế
bao gồm: Tên người nộp thuế; mã số thuế; số, ngày, tháng, năm của giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh hoặc giấy phép hoạt động hoặc giấy chứng nhận đầu tư
đối với tổ chức, cá nhân kinh doanh; số, ngày, tháng, năm của quyết định thành
lập đối với tổ chức không kinh doanh; số ngày, tháng, năm và nơi cấp của giấy
chứng minh nhân dân hoặc hộ chiếu đối với cá nhân không kinh doanh; cơ quan
thuế quản lý trực tiếp; ngày cấp mã số thuế. Các thông tin chi tiết liên quan tới
NNT thuế như tên cơ sở kinh doanh, trụ sở giao dịch, địa điểm nhận thông báo
thuế, tên giám đốc, kế toán trưởng, số tài khoản ngân hàng, phương pháp tính thế,
các loại tờ khai thuế phải nộp…được quản lý thống nhất tại ứng dụng quản lý
thông tin về NNT trên phạm vi toàn quốc. Bất cứ ai cũng có thể tìm hiểu thông tin
về một mã số thuế có liên quan thông qua việc tra cứu thông tin trên trang web của
ngành thuế.


12

b. Công việc khai thuế, tính thuế được thực hiện theo Điều 13 Thông tư
số 28/2011/TT-BTC ngày 28/02/2011 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành một
số điều của Luật Quản lý thuế, hướng dẫn thi hành Nghị định số 85/2007/NĐ-CP
ngày 25/5/2007 và Nghị định số 106/2010/NĐ-CP ngày 28/10/2010 của Chính
phủ (gọi tắt là Thông tư 28/2011/TT-BTC). Doanh nghiệp khai thác khoáng sản
nộp hồ sơ khai thuế tài nguyên cho cơ quan quản lý thuế trực tiếp. Trường hợp
doanh nghiệp khai thác khoáng sản tại các mỏ trên địa bàn nhiều huyện trong
cùng một tỉnh thì nộp hồ sơ khai thuế tài nguyên cho Cục thuế nơi có tài nguyên
khai thác.

Khai thuế tài nguyên đối với doanh nghiệp khai thác khoáng sản vàng, cát,
đá, sỏi, đất làm gạch là việc người nộp thuế thực hiện tính toán số thuế tài nguyên
phải nộp dựa trên sản lượng tài nguyên thực tế khai thác và giá bán tài nguyên
trong kỳ. Kế toán doanh nghiệp sau khi tính toán cụ thể sẽ đưa số liệu vào phần
mềm hỗ trợ kê khai thuế do cơ quan thuế cấp phát miễn phí để in ra tờ khai thuế
mã vạch và nộp cho cơ quan thuế. Khai thuế vừa là quyền lợi cũng vừa là nghĩa
vụ của NNT, trường hợp NNT khai chính xác sẽ tạo thuận lợi cho quá trình quản
lý của cơ quan thuế, ngược lại sẽ gây mất thời gian để kiểm tra, xử lý.
c. Nộp thuế tài nguyên đối với doanh nghiệp khai thác khoáng sản vàng,
cát, đá, sỏi, đất làm gạch là việc NNT sau khi lập và nộp tờ khai thuế cho cơ quan
thuế sẽ tự giác nộp số tiền thuế tài nguyên phát sinh theo hồ sơ khai thuế vào ngân
sách nhà nước thông qua kho bạc nhà nước, các ngân hàng thương mại, các tổ
chức tín dụng…Có 02 trường hợp là NNT nộp thuế đúng hạn và NNT chậm nộp
tiền thuế. Đối với trường hợp NNT chậm nộp tiền thuế, ngoài nguyên nhân do khó
khăn về tài chính, một số doanh nghiệp thường xuyên cố tình chậm nộp tiền thuế
để chiếm dụng vốn, chỉ nghiêm túc thực hiện khi cơ quan thuế áp dụng các biện
pháp đôn đốc thu nợ hoặc cưỡng chế nợ thuế.
d. Khác với thuế giá trị gia tăng, thuế tài nguyên đối với khai thác khoáng
sản vàng, cát, đá, sỏi, đất làm gạch phải thực hiện quyết toán thuế theo năm. Điều
này tạo cơ hội cho NNT được tính toán chính xác lại số thuế tài nguyên thực tế đã


13

khai, nộp tại các kỳ khai thuế trong năm do trong năm mới chỉ tạm tính vì chưa
xác định được sản lượng hoặc giá bán chính xác. Sau quyết toán thuế, NNT có thể
xin hoàn lại phần thuế đã nộp thừa hoặc đề nghị bù trừ với số thuế tài nguyên phát
sinh trong kỳ tính thuế mới, hoặc có thể phải nộp thêm nếu có chênh lệch tăng sau
quyết toán.
1.3.4.3. Đối với miễn thuế, giảm thuế.

Quy trình miễn, giảm thuế được thực hiện theo Quyết định số 598/QĐTCT ban hành ngày 29/5/2008 của Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế. DN khai thác
khoáng sản vàng, cát, đá, sỏi, đất làm gạch được xét miễn, giảm thuế trong trường
hợp gặp thiên tai, hoả hoạn, tai nạn bất ngờ gây tổn thất đến tài nguyên đã kê khai,
nộp thuế. Trường hợp đã nộp thuế thì được hoàn trả số thuế đã nộp hoặc trừ vào
số thuế tài nguyên phải nộp của kỳ sau.
Hồ sơ miễn, giảm thuế tài nguyên gồm: Văn bản đề nghị miễn, giảm thuế;
tờ khai thuế tài nguyên tháng; tờ khai quyết toán thuế tài nguyên; các tài liệu liên
quan đến việc miễn, giảm thuế tài nguyên kèm theo.
Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, thủ trưởng cơ quan thuế
quản lý trực tiếp ra quyết định miễn thuế, giảm thuế hoặc thông báo cho người
nộp thuế lý do không thuộc diện được miễn thuế, giảm thuế. Trường hợp cần
kiểm tra thực tế để có đủ căn cứ giải quyết hồ sơ thì thời hạn ra quyết định miễn
thuế, giảm thuế là sáu mươi ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ.
Mặc dù là chính sách thuế, nhưng chính sách thuế tài nguyên cũng lồng
ghép một phần chính sách xã hội, đó là quy định miễn, giảm thuế tài nguyên phải
nộp đối với khai thác vàng, cát, đá, sỏi, đất làm gạch đối với trường hợp thiên tai,
hỏa hoạn, tai nạn bất ngờ gây tổn thất tới tài nguyên đã kê khai nộp thuế, điều này
thể hiện quan điểm của nhà nước xã hội chủ nghĩa do dân và vì nhân dân.
1.3.4.4. Đối với kiểm tra thuế, thanh tra thuế.
a. Kiểm tra thuế.


14

Quy trình kiểm tra thuế được thực hiện theo Quyết định số 528/QĐ-TCT
ngày 29 tháng 5 năm 2008 của Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế. Công việc kiểm
tra thuế có thể thực hiện tại trụ sở cơ quan thuế và tại trụ sở của NNT. Đối với
từng trường hợp thực hiện như sau:
- Nếu kiểm tra hồ sơ khai thuế tại trụ sở cơ quan thuế thì cán bộ thuế thực
hiện kiểm tra, đối chiếu nội dung kê khai trong hồ sơ khai thuế với cơ sở dữ liệu

của NNT và tài liệu có liên quan về NNT, so sánh với dữ liệu của NNT cùng
ngành nghề, mặt hàng kinh doanh để phân tích, đánh giá tính tuân thủ của NNT.
Đối với hồ sơ khai đầy đủ nội dung và đảm bảo tính đầy đủ, chính xác của
các thông tin, tài liệu trong hồ sơ thuế, không có dấu hiệu vi phạm thì chấp nhận
hồ sơ. Đối với hồ sơ chưa rõ thì ghi nội dung để kiểm tra tiếp. Trường hợp phát
hiện trong hồ sơ chưa đủ tài liệu hoặc khai chưa đầy đủ các chỉ tiêu theo quy định
thì cơ quan thuế thông báo cho NNT biết để bổ sung, hoàn chỉnh hồ sơ. Trường
hợp thấy có nội dung khai chưa đúng, số liệu khai không chính xác hoặc có những
nội dung cần xác minh thì cơ quan thuế ra Thông báo bằng văn bản đề nghị NNT
giải trình hoặc bổ sung thông tin, tài liệu.
Trường hợp NNT không giải trình được, cơ quan thuế ban hành quyết định
kiểm tra tại trụ sở NNT để làm rõ vi phạm hoặc thực hiện ấn định ngay số thuế
phải nộp nếu có đủ căn cứ.
- Nếu kiểm tra được thực hiện tại trụ sở của NNT thì quy trình như sau:
Bước 1: Ban hành quyết định kiểm tra:
Thủ trưởng cơ quan thuế ra quyết định kiểm tra đối với trường hợp phải
kiểm tra tại trụ sở của NNT. Thời hạn gửi quyết định cho NNT chậm nhất là 03
ngày làm việc kể từ ngày ký quyết định.
Bước 2: Tiến hành kiểm tra: Trưởng đoàn kiểm tra thuế công bố quyết định
kiểm tra thuế, lập biên bản công bố và giải thích nội dung Quyết định kiểm tra để
đối tượng kiểm tra hiểu và chấp hành. Đối tượng kiểm tra có nghĩa vụ cung cấp
kịp thời, đầy đủ, chính xác các thông tin, tài liệu theo yêu cầu của đoàn kiểm tra.


15

Bước 3: Lập biên bản kiểm tra: Biên bản kiểm tra thuế phải được lập theo
mẫu số 04/KTTT ban hành kèm theo Thông tư số 28/2011/TT-BTC và được ký
trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày kết thúc kiểm tra.
Bước 4: Xử lý kết quả kiểm tra thuế: Trưởng đoàn kiểm tra báo cáo lãnh

đạo bộ phận kiểm tra để trình người ban hành Quyết định kiểm tra về kết quả
kiểm tra. Trường hợp kiểm tra cho kết quả phải xử lý thuế, xử phạt vi phạm hành
chính, thì Thủ trưởng cơ quan thuế ban hành Quyết định xử lý thuế, xử phạt vi
phạm hành chính. Trường hợp qua kiểm tra thuế mà phát hiện hành vi vi phạm về
thuế có dấu hiệu trốn thuế, gian lận về thuế thì trong thời hạn 10 ngày làm việc kể
từ ngày kết thúc kiểm tra, đoàn kiểm tra báo cáo thủ trưởng cơ quan thuế để ban
hành quyết định xử lý sau kiểm tra hoặc chuyển hồ sơ sang bộ phận thanh tra hoặc
xem xét xử lý theo quy định của pháp luật.
b. Thanh tra thuế. Quy trình thanh tra thuế được thực hiện theo Quyết định
số 460/QĐ-TCT ngày 05 tháng 5 năm 2009 của Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế.
Việc thanh tra NNT bao gồm các bước cơ bản sau:
Bước 1: Lập kế hoạch thanh tra: Việc thanh tra thuế được thực hiện căn cứ
vào kế hoạch thanh tra hàng năm và đột xuất. Thanh tra theo kế hoạch được tiến
hành thường kỳ theo kế hoạch đã phê duyệt. Thanh tra đột xuất được tiến hành khi
phát hiện cơ quan, tổ chức, cá nhân có dấu hiệu vi phạm pháp luật về thuế, nhằm
giải quyết khiếu nại, tố cáo hoặc theo yêu cầu của thủ trưởng cơ quan quản lý thuế
các cấp hoặc Bộ trưởng Bộ Tài chính.
Bước 2: Ban hành quyết định thanh tra thuế: Thủ trưởng cơ quan thuế ký
ban hành Quyết định thanh tra theo mẫu số 03/KTTT ban hành kèm theo Thông
tư số 28/2011/TT-BTC.
Bước 3: Tiến hành thanh tra theo trình tự:
- Công bố quyết định thanh tra: Quyết định thanh tra phải được lập
theo mẫu số 05/KTTT theo quy định tại Thông tư 28/2011/TT-BTC. Trưởng
đoàn thanh tra thông báo với NNT được thanh tra về thời gian, thành phần


16

tham dự, giải thích nội dung Quyết định thanh tra để người nộp thuế hiểu rõ
và có trách nhiệm chấp hành nghiêm chỉnh.

- Thực hiện thanh tra: Đoàn thanh tra thực hiện việc kiểm tra, đối
chiếu thông tin trong hồ sơ khai thuế với sổ sách, chứng từ kế toán, báo cáo
tài chính và các tài liệu có liên quan…hình thành các hồ sơ gốc.
- Lập biên bản thanh tra thuế: Biên bản thanh tra thuế được lập theo
mẫu số 04/KTTT ban hành kèm theo Thông tư 28/2011/TT-BTC và công bố
công khai trước đoàn thanh tra, NNT. Biên bản thanh tra phải được trưởng
đoàn thanh tra và NNT (hoặc đại diện hợp pháp của người nộp thuế) ký vào
từng trang, đóng dấu của NNT nếu NNT là tổ chức có con dấu riêng.
Bước 4. Xử lý kết quả thanh tra thuế: Trưởng đoàn thanh tra báo cáo
kết quả thanh tra với lãnh đạo bộ phận thanh tra để trình người ban hành
Quyết định thanh tra và Quyết định xử lý về thuế, xử phạt vi phạm hành
chính (nếu có). Trường hợp phát hiện hành vi trốn thuế có dấu hiệu tội
phạm, đoàn thanh tra có trách nhiệm báo cáo lãnh đạo bộ phận thanh tra để
trình người ban hành quyết định thanh tra xem xét theo quy định của pháp
luật.
Kiểm tra, thanh tra thuế là một khâu vô cùng quan trọng trong quá
trình quản lý thuế tài nguyên đối với khai thác khoáng sản vàng, cát, đá, sỏi,
đất làm gạch. Nếu như quy trình tuyên truyền - hỗ trợ NNT là công cụ để
hướng dẫn, trợ giúp NNT thực hiện các thủ tục hành chính thuế một cách
chính xác, thuận lợi thì thanh tra, kiểm tra lại là nhiệm vụ buộc cán bộ thuế
phải trực tiếp thực hiện để giám sát, đánh giá lại kết quả thực hiện quy định
của chính sách cũng như nghĩa vụ đối với ngân sách nhà nước của NNT.


17

1.3.4.5. Đối với Quản lý thu nợ thuế và cưỡng chế nợ thuế.
a. Quy trình quản lý thu nợ thuế được thực hiện theo Quyết định số
477/QĐ-TCT ngày 15 tháng 5 năm 2008 của Tổng cục trưởng Tổng cục thuế. Nội
dung của quy trình bao gồm:

- Lập chương trình, chỉ tiêu, biện pháp quản lý thu nợ.
Căn cứ vào hướng dẫn của Tổng cục Thuế và tình hình thực tế nợ thuế ở
địa phương, Cục thuế tỉnh xây dựng chương trình, chỉ tiêu, biện pháp quản lý thu
nợ thuế hàng năm của các doanh nghiệp trên địa bàn.
Căn cứ vào chỉ đạo, hướng dẫn của Cục thuế tỉnh, Chi cục thuế các huyện,
thành phố xây dựng chương trình, chỉ tiêu, biện pháp quản lý nợ thuế và báo cáo
Cục thuế trước ngày 30 tháng 12 hàng năm.
- Thực hiện quản lý thu nợ và xử lý nợ.
Công chức quản lý thu nợ thực hiện rà soát các trường hợp nợ của từng
doanh nghiệp nợ thuế tháng trước chuyển sang và nợ mới phát sinh trong tháng
theo nguyên nhân, tình trạng và tuổi nợ để phân loại các khoản nợ thành:
+ Nợ khó thu: Bao gồm nợ của NNT lâm vào tình trạng giải thể, phá sản;
nợ của NNT bỏ trốn, mất tích; nợ của NNT bị khởi tố; nợ của NNT ngừng và tạm
ngừng hoạt động kinh doanh; nợ đang chờ giải quyết theo Luật Phá sản.
+ Nợ chờ xử lý: Bao gồm nợ đang chờ điều chỉnh; nợ đang xử lý miễn,
giảm, xoá nợ; nợ được gia hạn nợ, khoanh nợ, giãn nợ; nợ chờ xử lý bù trừ với
tiền hoàn thuế.
+ Nợ có khả năng thu: Là số tiền nợ thuế của NNT được xác định phải nộp
vào Ngân sách Nhà nước nhưng đã hết hạn nộp theo quy định của pháp luật về
thuế mà chưa nộp, bao gồm: Nợ thuế chậm nộp dưới 30 ngày; nợ thuế chậm nộp
từ 30 ngày đến 90 ngày; nợ thuế quá 90 ngày.
- Quản lý nợ và xử lý thu nợ đối với nhóm nợ khó thu:
+ Đối với nợ khó thu do các nguyên nhân người nợ thuế lâm vào tình trạng
giải thể, phá sản, nhưng chưa tuyên bố giải thể, phá sản: trong trường hợp này,


18

công chức quản lý nợ lập hồ sơ trình lãnh đạo cơ quan thuế yêu cầu doanh nghiệp
nợ thuế giải trình về việc chưa nộp tiền thuế, tiền phạt, đồng thời gửi thông báo tới

các cơ quan chức năng liên quan về tình trạng nợ thuế để được xử lý theo quy
định của Luật doanh nghiệp, Luật phá sản, kiến nghị các biện pháp cưỡng chế thu
hồi nợ. Nếu doanh nghiệp nợ thuế đã có quyết định giải thể hoặc tuyên bố phá sản
thì công chức quản lý thu nợ phải thu thập thông tin, hồ sơ, chứng từ, thủ tục phá
sản của doanh nghiệp nợ thuế. Khi có quyết định của Toà án thì việc thu hồi, xử lý
nợ thực hiện theo quyết định của Toà án.
+ Đối với nợ của chủ doanh nghiệp đã bỏ trốn, mất tích thì công chức quản
lý nợ lập hồ sơ trình lãnh đạo cơ quan thuế kiến nghị biện pháp thu nợ thuế, biện
pháp cưỡng chế hoặc các biện pháp xử lý nợ khác.
Trường hợp cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền đã điều tra, xác minh
được NNT còn tồn tại, có tài sản thì cơ quan thuế lập hồ sơ tiến hành cưỡng chế
thu hồi nợ theo quy định. Nếu không tìm được người nợ thuế hoặc người nợ thuế
không có tài sản để thực hiện cưỡng chế thu nợ thì lập hồ sơ khoanh nợ, theo dõi
riêng. Sau này khi tìm được người nợ thuế hoặc nguồn tài sản thì lập hồ sơ tiến
hành cưỡng chế thu hồi nợ hoặc xử lý nợ theo quy định.
+ Đối với nợ thuế của chủ DN đang bị khởi tố hoặc đang chấp hành án phạt
tù thì công chức quản lý nợ lập hồ sơ trình lãnh đạo cơ quan thuế tình trạng nợ
thuế của doanh nghiệp, đồng thời gửi các cơ quan chức năng liên quan để thông
báo về tình trạng nợ thuế để xử lý khi có kết luận của cơ quan pháp luật hoặc theo
bản án của Toà án. Công chức quản lý nợ lập hồ sơ khoanh nợ để theo dõi riêng.
Khi có kết luận của cơ quan điều tra, quyết định của Toà án thì thực hiện thủ tục
thu hồi nợ thuế hoặc lập hồ sơ xoá nợ theo phán quyết của Tòa án.
+ Đối với nợ của chủ doanh nghiệp nợ thuế đang ngừng hoặc tạm ngừng
hoạt động kinh doanh thì, sau khi đã làm đầy đủ các thủ tục cần thiết theo quy
định của pháp luật nhưng vẫn không thu hồi được nợ và xác định các khoản nợ đó
không có khả năng thu hồi thì làm hồ sơ đề nghị xoá nợ.


19


- Quản lý nợ và xử lý thu nợ đối với nhóm nợ chờ xử lý.
Hàng tháng, công chức quản lý nợ rà soát hồ sơ của từng người nợ thuế,
từng trường hợp nợ cụ thể, phối hợp với các bộ phận chức năng của cơ quan thuế
để đề xuất biện pháp xử lý đối với từng khoản nợ, người nợ thuế. Đối với các
trường hợp hồ sơ đầy đủ theo đúng quy định thì làm thủ tục trình cấp có thẩm
quyền xử lý nợ với từng khoản nợ. Các trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ, chưa đúng
theo quy định thì hướng dẫn người nợ thuế lập và hoàn chỉnh hồ sơ đảm bảo theo
đúng quy định để làm thủ tục trình cấp có thẩm quyền xử lý nợ với từng khoản nợ.
- Quản lý nợ và xử lý thu nợ đối với nhóm nợ có khả năng thu:
Đối với nợ thuế chậm nộp dưới 30 ngày, tiến hành đôn đốc nộp thuế bằng
hình thức gọi điện thoại hoặc phát hành Thông báo nộp thuế.
Đối với nợ thuế chậm nộp từ 30 ngày đến 90 ngày, lập thông báo tiền nợ
thuế và tiền phạt chậm nộp gửi cho NNT. Đối với khoản nợ chờ xử lý, nợ khó thu
của NNT thì tạm thời chưa phát hành thông báo phạt chậm nộp, khi có kết quả xử
lý xác định chính xác số nợ thuế, NNT hoạt động kinh doanh trở lại sẽ phát hành
thông báo nợ thuế và tiền phạt chậm nộp.
Sau thời hạn 90 ngày kể từ ngày hết hạn nộp mà NNT chưa nộp tiền nợ
thuế và tiền phạt chậm nộp hoặc nộp chưa đủ số thuế còn thiếu thì cơ quan thuế sẽ
tiến hành các biện pháp cưỡng chế nợ thuế theo quy định của pháp luật.
b) Quy trình cưỡng chế nợ thuế được thực hiện theo Quyết định số
490/QĐ-TCT ngày 08/5/2009 của Tổng cục trưởng Tổng cục thuế, quy định nội
dung, trình tự, thủ tục cưỡng chế nợ thuế đối với các trường hợp là NNT còn nợ
tiền thuế, tiền phạt về thuế đã quá 90 ngày, kể từ ngày hết thời hạn nộp thuế, nộp
tiền phạt vi phạm pháp luật về thuế theo quy định; NNT nợ tiền thuế, tiền phạt vi
phạm pháp luật về thuế khi đã hết thời hạn gia hạn nộp tiền thuế và NNT còn nợ
tiền thuế, tiền phạt có hành vi phát tán tài sản, bỏ trốn. Các biện pháp cưỡng chế
bao gồm:


20


- Biện pháp trích tiền từ tài khoản của đối tượng bị cưỡng chế thi hành
quyết định hành chính thuế, áp dụng đối với trường hợp đối tượng bị cưỡng chế
có tiền gửi tại Kho bạc Nhà nước, ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng
khác. Khi nhận được quyết định cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế,
Kho bạc Nhà nước, ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng nơi đối tượng bị
cưỡng chế mở tài khoản có trách nhiệm trích số tiền ghi trong quyết định cưỡng
chế thi hành quyết định hành chính thuế từ tài khoản của đối tượng bị cưỡng chế
và chuyển sang tài khoản ngân sách nhà nước tại Kho bạc Nhà nước, đồng thời thông
báo bằng văn bản cho người ra quyết định cưỡng chế thi hành quyết định hành chính
thuế và đối tượng bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế biết.
- Biện pháp khấu trừ một phần tiền lương hoặc một phần thu nhập được áp
dụng đối với NNT bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế đang làm
việc theo biên chế hoặc hợp đồng từ sáu tháng trở lên hoặc đang được hưởng trợ
cấp hưu trí, mất sức. Cơ quan, tổ chức sử dụng lao động đang quản lý tiền lương
hoặc thu nhập của đối tượng bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế có
các trách nhiệm khấu trừ một phần tiền lương hoặc thu nhập của đối tượng bị
cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế và chuyển số tiền đã khấu trừ vào
tài khoản ngân sách nhà nước tại Kho bạc Nhà nước theo nội dung ghi trong quyết
định cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế, kể từ kỳ trả tiền lương hoặc
thu nhập gần nhất cho đến khi khấu trừ đủ số tiền thuế, tiền phạt theo quyết định
cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế, đồng thời thông báo cho người ra
quyết định cưỡng chế và đối tượng bị cưỡng chế biết.
- Biện pháp kê biên tài sản, bán đấu giá tài sản kê biên được áp dụng trong
trường hợp cơ quan quản lý thuế không áp dụng được 02 biện pháp cưỡng chế thi
hành quyết định hành chính thuế như trên hoặc đã áp dụng nhưng vẫn chưa thu đủ
số tiền thuế nợ, tiền phạt thì được quyền áp dụng biện pháp kê biên tài sản, bán
đấu giá tài sản kê biên để thu tiền thuế nợ, tiền phạt vào ngân sách nhà nước.



21

- Biện pháp thu tiền, tài sản của đối tượng bị cưỡng chế do tổ chức, cá
nhân khác đang nắm giữ được áp dụng trong trường hợp cơ quan quản lý thuế
không áp dụng được 03 biện pháp cưỡng chế như trên hoặc đã áp dụng nhưng vẫn
chưa thu đủ số tiền thuế nợ, tiền phạt. Cơ quan quản lý thuế có căn cứ xác định
bên thứ ba đang có khoản nợ hoặc giữ tiền, tài sản khác của đối tượng bị cưỡng
chế. Nguyên tắc thu tiền, tài sản khác của đối tượng bị cưỡng chế từ bên thứ ba
được quy định như sau:
Bên thứ ba có khoản nợ đến hạn phải trả cho đối tượng bị cưỡng chế hoặc
giữ tiền, tài sản khác của đối tượng bị cưỡng chế thì có trách nhiệm nộp tiền thuế
nợ, tiền phạt thay cho đối tượng bị cưỡng chế. Số tiền bên thứ ba nộp vào ngân
sách nhà nước thay cho đối tượng bị cưỡng chế được xác định là số tiền đã thanh
toán cho đối tượng bị cưỡng chế. Tổ chức, cá nhân đang có khoản nợ hoặc nắm
giữ tiền, tài sản khác của đối tượng bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính
thuế không thực hiện nộp thay số tiền thuế bị cưỡng chế trong thời hạn mười lăm
ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu của cơ quan quản lý thuế thì bị coi là nợ tiền
thuế của Nhà nước và bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế theo quy định.
- Biện pháp dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hoá nhập khẩu được
thực hiện khi cơ quan hải quan không áp dụng được hoặc đã áp dụng các biện
pháp trích tiền từ tài khoản; kê biên tài sản, bán đấu giá tài sản kê biên; biện pháp
thu tiền, tài sản của đối tượng bị cưỡng chế do tổ chức, cá nhân khác đang nắm
giữ nhưng vẫn chưa thu đủ số tiền thuế nợ, tiền phạt.
- Biện pháp đình chỉ sử dụng hóa đơn.
- Biện pháp thu hồi mã số thuế.
- Biện pháp thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc giấy phép
thành lập và hoạt động, giấy phép hành nghề.
Cưỡng chế bằng biện pháp đình chỉ sử dụng hóa đơn, thu hồi mã số thuế,
thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc giấy phép thành lập và hoạt



22

động, giấy phép hành nghề được thực hiện khi cơ quan quản lý thuế đã áp dụng
lần lượt 05 biện pháp cưỡng chế như trên nhưng vẫn chưa thu đủ số tiền thuế nợ,
tiền phạt. Khi thực hiện 03 biện pháp này, thủ trưởng cơ quan quản lý thuế có
trách nhiệm thông báo cho đối tượng bị cưỡng chế biết trong thời hạn ba ngày làm
việc trước khi đình chỉ sử dụng hóa đơn, thu hồi mã số thuế hoặc gửi văn bản yêu
cầu cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền để thu hồi giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh, giấy phép thành lập và hoạt động, giấy phép hành nghề đồng thời
thực hiện thông báo công khai trên phương tiện thông tin đại chúng.
Trên thực tế, công tác thu thuế thường gặp phải tình trạng doanh nghiệp
khai thác vàng, cát, đá, sỏi, đất làm gạch chậm nộp thuế, không nộp thuế. Bên
cạnh nguyên nhân khó khăn về tài chính còn có một nguyên nhân khác là do tính
chây ỳ, cố tình vi phạm của NNT trong quy định về nộp thuế. Do vậy quy trình
quản lý thu nợ và cưỡng chế nộp thuế là công cụ để giúp cán bộ thuế xử lý tình
trạng trên.
1.3.4.6. Các quy chế phối hợp.
Như chúng ta đã biết, đặc điểm của thuế là điều tiết thu nhập của dân cư,
nhà nước không hoàn trả trực tiếp cho NNT mà chỉ hoàn trả gián tiếp thông qua
việc cung cấp hàng hóa và dịch vụ công cộng. Nhà nước cần phải thu đúng, thu đủ
để đảm bảo chi cho các mục tiêu trên, còn NNT thường muốn nộp thuế càng ít
càng tốt. Do đó khi ý thức tự giác chấp hành pháp luật thuế của người dân chưa
cao thì tình trạng trốn thuế, nợ thuế là điều không thể tránh khỏi. Để công tác thuế
thực sự phát huy hiệu quả đòi hỏi phải có sự tham gia của nhiều tổ chức, cá nhân,
nhiều cấp, nhiều ngành, tạo sự đồng thuận, phối hợp trong công tác thu ngân sách.
Hiện nay, Tổng cục thuế đã ký quy chế phối hợp với nhiều Bộ, ngành, mà cụ
thể ở các địa phương là quy chế phối hợp giữa Cục thuế, Sở Kế hoạch và Đầu tư,
Công an tỉnh, các cơ quan ngôn luận như báo, đài, Sở tư pháp, ban tuyên giáo…



23

1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến xây dựng, triển khai chính sách thu thuế tài
nguyên đối với doanh nghiệp khai thác khoáng sản: vàng, cát, đá, sỏi, đất
làm gạch.
Các nhân tố ảnh hưởng đến xây dựng, triển khai chính sách thu thuế tài
nguyên đối với doanh nghiệp khai thác khoáng sản là vàng, cát, đá, sỏi, đất làm
gạch có thể chia thành 02 nhóm gồm:
1.4.1. Nhóm nhân tố khách quan.
Chính sách thuế tài nguyên là một trong những công cụ tài chính thể hiện
quan điểm, đường lối của nhà nước trong khai thác, sử dụng nguồn tài nguyên
quốc gia phục vụ phát triển kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng ở những giai đoạn
nhất định. Trong đầu những năm 90 của thế kỉ trước, đất nước Việt Nam cực kỳ
khó khăn do thiếu vốn, thiếu công nghệ, mục tiêu của Nhà nước là tăng nguồn thu
cho ngân sách để bù đắp các khoản chi tiêu cho xây dựng cơ bản, đầu tư trang
thiết bị vật chất do vậy chính sách thuế tài nguyên đối với khai thác khoáng sản
vàng, cát, đá, sỏi, đất làm gạch trong giai đoạn này thể hiện quan điểm của nhà
nước là khuyến khích các thành phần kinh tế trong nước, các công ty có vốn đầu
tư nước ngoài tiến hành hoạt động khai thác và nộp thuế cho ngân sách. Quan
điểm này được thể hiện thông qua quy định thuế suất, sản lượng tính thuế và giá
tính thuế thấp, thực hiện miễn giảm đối với dự án thuộc đối tượng ưu đãi đầu tư.
Tuy nhiên ở giai đoạn hiện nay, bên cạnh mục tiêu góp phần tăng thu cho ngân
sách nhà nước, chính sách thuế tài nguyên hiện hành còn thể hiện ý chí của Nhà
nước trong quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, có hiệu quả nhằm
đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển bền vững kinh
tế - xã hội, nâng cao nhận thức xã hội về vai trò của nguồn tài nguyên quốc gia.
Điều này được thể hiện ở những quy định chặt chẽ về đối tượng chịu thuế, người
nộp thuế, sản lượng tài nguyên tính thuế, thuế suất thuế tài nguyên cũng như quy
định bãi bỏ miễn giảm thuế đối với dự án thuộc đối tượng ưu đãi đầu tư sẽ được

trình bày cụ thể ở Chương III.


×