Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

ĐỀ CƯƠNG THI TỐT NGHIỆP TRUNG CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (317.35 KB, 41 trang )

ĐỀ CƯƠNG THI TỐT NGHIỆP MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG
Ghi chú

Nội dung
Câu 1: Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
Bài làm:
1. Đảng ra đời là tất yếu lịch sử
a. Hoàn cảnh thế giới và trong nước tác động đến xã hội Việt Nam những năm cuối

thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20
Những tác động của tình hình thế giới:
Cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ XX sau khi chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh phát
triển thành chủ nghĩa đế quốc đã chiếm hầu hết các vùng đất trên thế giới biến các
nước nhỏ yếu thành những nước thuộc địa và phụ thuộc các dân tộc phải đứng lên
đấu tranh tự giải phóng khỏi ách chủ nghĩa đế quốc thực dân trở thành phong trào
giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ nhất là ở Châu Á
Cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất 1914 1918 phản ánh mâu thuẫn giữa các
nước đế quốc trên nhiều vấn đề trong đó có tranh chấp các thuộc địa các cuộc chiến
tranh càng làm sâu sắc thêm mâu thuẫn giữa vô sản và tư sản ở chính quốc và mâu
thuẫn giữa các dân tộc bị áp bức với Chủ nghĩa đế quốc chủ nghĩa thực dân
Năm 1917 Cách mạng tháng 10 Nga Thắng Lợi đã mở ra thời đại mới trong lịch
sử loài người thời đại quá độ lên Chủ nghĩa xã hội thắng lợi của Cách mạng Tháng
Mười Nga không chỉ có ý nghĩa to lớn đối với cách mạng vô sản ở các nước tư bản
mà còn có bố soi đường cho phong trào dân tộc thuộc địa tìm thấy con đường đấu
tranh đúng đắn Cách mạng tháng 10 Nga là tấm gương chỉ dẫn các dân tộc bị áp bức
con đường đấu tranh giành độc lập hoàn toàn và phát triển theo con đường xã hội
chủ nghĩa
Tại Đại hội 2 của Quốc tế Cộng sản năm 1920 Sơ thảo lần thứ nhất những luận
cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin được công bố Luận cương đã
chỉ ra phương hướng đấu tranh giải phóng các dân tộc bị áp bức những tư tưởng của
Lênin được những người mác xít chân chính trên thế giới thừa nhận và góp phần


hình thành hướng hoạt động phong trào cộng sản quốc tế dưới sự lãnh đạo của
Quốc tế Cộng sản đứng đầu là Lê nin khuynh hướng mới trong phong trào cộng sản
và công nhân quốc tế đã tạo nên một yếu tố cực kỳ quan trọng để thúc đẩy việc
truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin đến các nước thuộc địa
Nhờ ảnh hưởng của Cách mạng tháng 10 Nga và Quốc tế cộng sản mà các đảng


cộng sản được thành lập ở nhiều nước tư tưởng lý luận Chủ nghĩa Cộng sản đã ảnh
hưởng và thức tỉnh phong trào Dân tộc ở các nước thuộc địa trong đó có Việt Nam
b. Sự chuyển biến về kinh tế xã hội Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ 20:

chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp đã bước đầu du nhập quan
hệ sản xuất tư bản và Việt Nam làm chuyển biến cơ cấu kinh tế và Cơ cấu xã hội của
một nước phong kiến độc lập hàng nghìn năm
Chính sách thống trị của thực dân Pháp không chỉ làm phân hóa các giai cấp vốn
có trong xã hội Việt Nam như địa chủ phong kiến và nông dân mà còn làm xuất hiện
các giai cấp mới như giai cấp công nhân giai cấp tư sản và các tầng lớp mới ra đời các
giai cấp này có địa vị kinh tế khác nhau và do đó cũng có thái độ chính trị khác nhau
trước vấn đề dân tộc
Giai cấp địa chủ phong kiến đặc trưng của xã hội thuộc địa nửa phong kiến là
một bộ phận giai cấp địa chủ phong kiến Câu kết chặt chẽ với thực dân Pháp và làm
tay sai đắc lực cho chúng trong việc ra sức bóc lột đàn áp nông dân và kìm hãm lực
lượng sản xuất trong nước một bộ phận khác nêu cao truyền thống và tinh thần dân
tộc khởi xướng và lãnh đạo các phong trào yêu nước chống Pháp để giành độc lập và
bảo vệ chế độ phong kiến tiêu biểu là phong trào Cần Vương Một số trở thành lãnh
đạo phong trào nông dân chống thực dân Pháp và chống triều đình phong kiến bán
nước một bộ phận nhỏ Chuyển sang kinh doanh theo lối tư bản chủ nghĩa
Giai cấp nông dân là thành phần đông đảo nhất trong xã hội Việt Nam chiếm
gần 90% dân số dưới chế độ thuộc địa nửa phong kiến nông dân bị đế quốc phong
kiến và tư bản bóc lột nặng nề nông dân Việt Nam bị Bần cùng hóa bởi chính sách

chiếm đoạt ruộng đất để lập đồn điền của dân Pháp đẩy mạnh sưu cao thuế nặng
của nhà nước phong kiến thực dân bởi địa tô và cho vay nặng lãi của địa chủ phong
kiến đời sống nông dân Việt Nam Vì thế ngày thêm điêu đứng bị áp bức bóc lột nặng
nề đây là giai cấp có tinh thần đấu tranh kiên cường bất khuất cho nền độc lập tự do
của dân tộc và khát khao giành lại ruộng đất cho dân cày khi có lực lượng tiên phong
lãnh đạo giai cấp nông dân sẵn sàng bùng Dạy làm cách mạng lật đổ chính quyền
thực dân và phong kiến
Tư sản Việt Nam hình thành và phát triển trong quá trình khai thác thuộc địa
của thực dân Pháp một bộ phận gắn lợi ích với tư bản Pháp tham gia vào đời sống
chính trị kinh tế của chính quyền thực dân trở thành tầng lớp tư sản mại bản một bộ
phận là giai cấp tư sản dân tộc mâu thuẫn với tư bản Pháp nhưng thế lực kinh tế yếu
ớt phụ thuộc do vậy tư sản dân tộc tui có tinh thần yêu nước chống đế quốc và


phong kiến Nhưng họ không có khả năng lãnh đạo cách mạng
Tầng lớp tiểu tư sản Việt Nam gồm nhiều tầng lớp khác nhau từ những người
thợ thủ công tiểu thương tiểu chủ đến viên chức trí thức sinh viên học sinh bị đế
quốc tư bản chèn ép khinh miệt do đó có tinh thần dân tộc yêu nước và rất nhạy cảm
về chính trị và thời cuộc Tuy nhiên do địa vị kinh tế bấp bênh thái độ hai dao động
thiếu kiên định khi phong trào gặp khó khăn nhưng nếu được tổ chức cùng với công
nông thì đây là lực lượng đông đảo tích cực chống đế quốc và là bạn đồng minh của
giai cấp công nhân có vai trò quan trọng trong phong trào đấu tranh của nhân dân
nhất là ở đô thị
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời cùng với quá trình thực dân Pháp thực hiện
cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất trái với ý muốn của thực dân pháp giai cấp vô
sản công nghiệp Việt Nam bắt đầu hình thành từ đầu thế kỷ XX khi tư bản Pháp thực
hiện kế hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng và thiết bị kinh tế phục vụ cho chương trình
khai thác ở Đông Dương ngoài những đặc điểm của giai cấp công nhân quốc tế đại
diện cho lực lượng sản xuất tiến bộ nhất không có tư liệu sản xuất bị bóc lột nên là
giai cấp kiên quyết cách mạng nhất có ý thức tổ chức kỷ luật cao giai cấp công nhân

Việt Nam có những đặc điểm riêng ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc kế thừa
truyền thống yêu nước của dân tộc bị ba tầng áp bức ngay khi ra đời giai cấp công
nhân Việt Nam đã tiếp thu ảnh hưởng của Cách mạng tháng 10 Nga
Xã hội Việt Nam có hai mâu thuẫn cơ bản mâu thuẫn dân tộc là mâu thuẫn giữa
Toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc Pháp mâu thuẫn giai cấp và mâu thuẫn giữa
nông dân với địa chủ phong kiến
c. Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong quá trình chuẩn bị thành lập Đảng

Với khát vọng giải phóng dân tộc cùng với thiên tài trí tuệ nhãn quan chính trị
sắc bén và được kế thừa các giá trị truyền thống của dân tộc ngày 5 tháng 6 năm
1911 Người ra đi tìm đường cứu nước khác với sự lựa chọn của các bậc tiền bối yêu
nước hướng đi của người trước hết là sang Anh Pháp Mỹ và nhiều nước thuộc địa đế
quốc thực dân sau khi đến nhiều nước trên thế giới và trải qua nhiều nghề lao động
khác nhau người đã rút ra một kết luận quan trọng ở đâu bọn đế quốc Thực dân
cũng tàn ác ở đâu người lao động cũng bị bóc lột dã man
Năm 1919 Nguyễn Ái Quốc tham gia Đảng xã hội Pháp một chính Đảng tiến bộ
nhất lúc đó ở Pháp tháng 6 năm 1919 các nước thắng trận họp tại versailles 10 Quốc
đã Thay mặt hội những người Việt Nam yêu nước ở Pháp gửi tới Hội nghị Vécxây Bản
yêu sách 8 điểm nhưng không được đáp ứng tháng 7 năm 1920 Nguyễn Ái Quốc
được đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề


thuộc địa của Lênin những luận điểm cách mạng của Lênin về vấn đề dân tộc và
thuộc địa đã giải đáp những vấn đề cơ bản và chỉ dẫn hướng phát triển của sự nghiệp
cứu nước giải phóng dân tộc mà sau gần 10 năm Tìm kiếm Nguyễn Ái Quốc mới bắt
gặp tháng 12 năm 1920 Nguyễn Quốc đang bỏ phiếu tán thành việc gia nhập quốc tế
thứ 3 và trở thành một trong những người sáng lập đảng cộng sản Pháp và là người
Cộng sản đầu tiên của Việt Nam đánh dấu bước chuyển biến quyết định trong tư
tưởng và lập trường chính trị của Nguyễn Ái Quốc từ lập trường yêu nước chuyển
sang lập trường Cộng sản, sự kiện đó cũng mở ra cho cách mạng giải phóng dân tộc

Việt Nam một giai đoạn phát triển mới giai đoạn gắn phong trào cách mạng Việt Nam
với phong trào công nhân quốc tế đưa nhân dân Việt Nam đi theo con đường mà
chính người đã trải qua từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác Lênin
Từ đây người tiếp tục học tập để bổ sung hoàn thiện Tư tưởng cứu nước Đồng
thời tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin về Việt Nam nhằm chuẩn bị các bước
tiền đề về tư tưởng chính trị và tổ chức cho sự ra đời của chính Đảng tiên phong ở
Việt Nam
Về tư tưởng năm 1921 Nguyễn Ái Quốc cùng với một số nhà cách mạng của các
nước thuộc địa khác thành lập Hội Liên hiệp Thuộc địa năm 1922 ra báo Người Cùng
Khổ người viết nhiều bài trên các báo Nhân Dân đời sống công nhân Tạp chí Cộng Sản
tạp chí thư tín quốc tế Nguyễn Ái Quốc đã tích cực tố cáo lên án bản chất bóc lột của
Chủ Nghĩa Thực dân đối với nhân dân các nước thuộc địa và kêu gọi thức tỉnh nhân
dân bị áp bức đấu tranh giải phóng người đã góp phần quan trọng vào việc tố cáo tội
ác của chủ nghĩa thực dân Pháp ở các thuộc địa chỉ rõ bản chất của chủ nghĩa thực
dân xác định chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động thế giới
Về chính trị lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã hình thành một hệ thống luận điểm
chính trị sau này phát triển thành nội dung cơ bản trong cương lĩnh chính trị của
Đảng
Một là từ thực tiễn lịch sử phong trào cách mạng thế giới Nguyễn Ái Quốc
khẳng định con đường cách mạng của các dân tộc bị áp bức là chỉ có giải phóng giai
cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự
nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới
Hai là xác định cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận của cách mạng vô
sản thế giới cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và cách mạng chính
quốc có quan hệ chặt chẽ với nhau hỗ trợ cho nhau nhưng không phụ thuộc vào
nhau cách mạng giải phóng dân tộc có thể thành công trước cách mạng chính quốc


góp phần thúc đẩy cách mạng chính quốc

Ba là trong nước nông nghiệp lạc hậu nông dân là lực lượng đông đảo nhất bị
Đế Quốc Phong Kiến áp bức bóc lột nặng nề Vì vậy cần phải thu phục và lôi cuốn
được nông dân cần phải xây dựng khối công nông làm động lực cách mạng công nông
là gốc của cách mạng còn học trò nhà buôn nhỏ Điền chủ nhỏ là bầu bạn cách mạng
của công nông
Bốn là cách mạng muốn giành được thắng lợi trước hết phải có đảng cách mạng
đóng vai trò lãnh đạo Đảng muốn vững phải được trang bị chủ nghĩa Mác Lênin trước
hết phải có đảng cách mạng để trong thì vận động và tổ chức dân chúng ngoài thì liên
lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi Đảng có vững cách mạng mới
thành công cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy Đảng muốn vững thì
phải có chủ nghĩa làm cốt Trong Đảng ai cũng phải hiểu ai cũng phải theo chủ nghĩa
ấy Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn tàu không có bàn
chỉ Nam Bây giờ học thuyết nhiều chủ nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính chắc
chắn nhất cách mạng nhất là chủ nghĩa Lenin
Năm là cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân vì vậy cần phải tập
hợp giác ngộ và từng bước tổ chức của chúng đấu tranh từ thấp đến cao
Về tổ chức tháng 11 năm 1924 Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu Trung Quốc
tháng 2 năm 1925 người lựa chọn một số thanh niên tích cực trong tâm tâm xã lập ra
nhóm Cộng sản Đoàn tháng 6 năm 1925 thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh
niên tại Quảng Châu Trung Quốc lòng cốt là Cộng sản Đoàn hội đã công bố chương
trình Điều lệ mục đích để làm cách mạng dân tộc rồi sau đó làm cách mạng thế giới
Sau khi thành lập Người mở lớp đào tạo bồi dưỡng lý luận chủ nghĩa Mác Lênin
cho những người trong tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên Ngoài ra Ban
Lãnh đạo Hội còn cử người đi học tại đại học Phương Đông Liên Xô trường Quân
Chính Hoàng phố Trung Quốc .để tuyên truyền hội quả xuất bản tờ báo Thanh Niên
Tháng 7 năm 1925 Nguyễn Ái Quốc tham gia sáng lập hội liên hiệp các dân tộc
bị áp bức ở Á Đông Năm 1927 các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc được tập hợp lại
thành cuốn sách đường cách mệnh Đây là cuốn sách giáo khoa chính trị đầu tiên của
cách mạng Việt Nam trong đó tầm quan trọng của lý luận cách mạng được đặt ở vị trí
hàng đầu đối với cuộc vận động Cách mạng và đối với Đảng cách mạng tiên phong

Như vậy Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên chưa phải là chính đảng cộng sản
nhưng chương trình hành động đã thể hiện quan điểm lập trường của giai cấp công
nhân là tổ chức tiền thân dẫn tới sự ra đời các tổ chức cộng sản ở Việt Nam gọi là tổ


chức trực tiếp truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin vào trong nước và cũng là sự chuẩn bị
quan trọng về tổ chức để tiến tới thành lập chính Đảng của giai cấp vô sản ở Việt
Nam những hoạt động của hội có ảnh hưởng và thúc đẩy mạnh mẽ đến sự chuyển
biến của phong trào công nhân phong trào yêu nước trong những năm 1928 1929
theo khuynh hướng cách mạng vô sản
Năm 1928 Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tổ chức phong trào vô sản hóa
hội viên đã thúc đẩy phong trào yêu nước Việt Nam theo khuynh hướng cách mạng
vô sản nâng cao ý thức giác ngộ và lập trường cách mạng của giai cấp công nhân vì
vậy phong trào công nhân đã nổ ra mạnh mẽ sôi nổi đều khắp 3 Kỳ
2. Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
a. Những chuyển biến trong phong trào yêu nước Việt Nam và sự ra đời 3 tổ chức

cộng sản
Sự chuyển biến mạnh mẽ của các phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân
dân ngày càng lên cao nhu cầu thành lập một chính Đảng cách mạng có đủ khả năng
tập hợp lực lượng toàn dân tộc và đảm nhiệm vai trò lãnh đạo sự nghiệp giải phóng
dân tộc ngày càng trở nên bức thiết đối với cách mạng Việt Nam
Tháng 5 năm 1929 tại đại hội lần thứ nhất của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh
niên đoàn đại biểu bắc kỳ đề nghị thành lập Đảng cộng sản nhưng không được chấp
nhận sau đó đoàn đại biểu bắc kỳ đã bỏ về nước tháng 6 năm 1929 thành lập Đông
Dương Cộng Sản Đảng ra báo Búa Liềm là cơ quan ngôn luận. Tháng 11 năm 1929 kỳ
bộ Nam Kỳ Quyết định thành lập An Nam Cộng Sản Đảng xuất bản báo đỏ làm cơ
quan ngôn luận tại Trung Kỳ Tân Việt cách mạng Đảng chịu tác động của Hội Việt Nam
Cách mạng Thanh niên đã thành lập Đông Dương Cộng sản Liên Đoàn
Ba tổ chức Cộng sản ra đời đã khẳng định bước phát triển quan trọng của

phong trào cách mạng Việt Nam Sự ra đời 3 tổ chức cộng sản là tất yếu lịch sử
b. Hội nghị thành lập Đảng và nội dung cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng

Trước nhu cầu cấp bách của phong trào cách mạng trong nước Nguyễn Ái Quốc
đã đến Hương Cảng Trung Quốc triệu tập hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản
thành một chính Đảng duy nhất của Việt Nam
Honey thảo luận tán thành ý kiến chỉ đạo của Nguyễn Ái Quốc hợp nhất các tổ
chức cộng sản thành một Đảng lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam hội nghị thông qua
các văn kiện do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo chính cương vắn tắt sách lược vắn
tắt chương trình tóm tắt điều lệ vắn tắt của Đảng cộng sản Việt Nam. Đây được coi là


cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
Hội nghị thành lập Đảng cộng sản Việt Nam dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc
có giá trị như một đại hội Đảng Những văn kiện được thông qua trong Hội nghị hợp
nhất dù vắn tắt nhưng đã phản ánh những vấn đề cơ bản trước mắt và lâu dài cho
cách mạng Việt Nam đưa cách mạng Việt Nam sang một bước ngoặt lịch sử vĩ đại
c. Ý nghĩa lịch sử của sự kiện thành lập Đảng cộng sản Việt Nam

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là bước ngoặt quan trọng trong lịch sử cách
mạng Việt Nam chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối cứu nước và tổ chức lãnh
đạo phong trào yêu nước Việt Nam từ đầu thế kỷ 20
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa
Mác Lênin tư tưởng Hồ Chí Minh với phong trào công nhân và phong trào yêu nước
đó là sự phản ánh quy luật ra đời và cội nguồn sức mạnh của Đảng cộng sản Việt
Nam đồng thời là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin vào đặc điểm của dân
tộc Việt Nam và là công lao to lớn của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc Hồ Chí Minh trong
công cuộc vận động thành lập một chính Đảng vô sản ở Việt Nam một nước thuộc
địa nửa phong kiến công lao to lớn ấy không chỉ là sự lựa chọn con đường cách mạng
cho dân tộc Việt Nam mà còn linh hoạt sáng tạo trong phương thức truyền bá chủ

nghĩa Mác Lênin và phong trào công nhân Việt Nam mà khi giai cấp công nhân lúc đó
chỉ chiếm 1% dân số
Công lao to lớn của Nguyễn Ái Quốc là đã tập hợp được các lực lượng cộng sản
phân tán thành một khối Nhờ đó mà đưa lại cho những người lao động Đông Dương
một đội Tiên Phong chiến đấu và kiên quyết cách mạng
Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập đã khẳng định dứt khoát nội dung xu hướng
phát triển của xã hội Việt Nam là gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội sự lựa
chọn con đường cách mạng vô sản phù hợp với nội dung và xu thế của thời đại mới
được mở ra từ Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời trở
thành một bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản thế giới
Sự kiện thành lập Đảng cộng sản Việt Nam là một bước ngoặt quyết định trong
sự phát triển của dân tộc tạo ra những tiền đề và nhân tố hàng đầu quyết định đưa
cách mạng Việt Nam đi Từ thắng lợi này đến thắng lợi khác
3. Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh năm 1930:
a. Nội dung cơ bản của cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng

Chính cương vắn tắt của Đảng sách lược vắn tắt của Đảng được thông qua tại


Hội nghị thành lập Đảng đã phản ánh về đường hướng phát triển của những vấn đề
cơ bản về chiến lược và Sách lược của Cách mạng Việt Nam vì vậy Có thể khẳng định
rằng Chính cương vắn tắt của Đảng sách lược vắn tắt của Đảng là cương lĩnh chính trị
đầu tiên của Đảng cộng sản Việt Nam
Chính cương vắn tắt của Đảng phân tích đánh giá khái quát đặc điểm cơ bản
nhất của kinh tế xã hội Việt Nam dưới chế độ thuộc địa nửa phong kiến đặc biệt
phân tích tính chất độc quyền khai thác thuộc địa của tư bản pháp gây nên hậu quả
kiềm hãm sự phát triển kinh tế của Việt Nam xuất phát từ Phân tích thực trạng và
mâu thuẫn trong xã hội Việt Nam một xã hội thuộc địa nửa phong kiến mâu thuẫn
giữa dân tộc Việt Nam trong đó có công nhân nông dân với đế quốc ngày càng gay
gắt cần phải giải quyết từ đó chính cương xác định đường lối chiến lược của Cách

mạng Việt Nam Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng
để đi tới xã hội cộng sản như vậy mục tiêu chiến lược được nêu ra trong cương lĩnh
đầu tiên của Đảng đã làm rõ nội dung của cách mạng thuộc địa nằm trong phạm trù
của cách mạng vô sản chính là làm Cách mạng Dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ
nghĩa xã hội giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp giải phóng xã hội gắn liền mật
thiết với nhau thể hiện ở mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
Về nhiệm vụ và mục tiêu cụ thể chủ yếu trước mắt của cách mạng Việt Nam
đánh đổ đế quốc chủ nghĩa pháp và bọn phong kiến làm cho nước Việt Nam hoàn
toàn độc lập Đây là vấn đề căn cốt của Cách mạng Việt Nam lúc này cương lĩnh đã xác
định chống đế quốc và chống phong kiến là nhiệm vụ cơ bản để giành độc lập cho
dân tộc và ruộng đất cho dân cày trong đó chống Đế Quốc giành độc lập cho dân tộc
được đặt ở vị trí hàng đầu để sau đó dựng ra chính phủ công nông binh thông hết
sản nghiệp lớn của tư bản đế quốc giao cho chính phủ công nông binh quản lý trong
đó trước hết là không hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho
dân cày nghèo
Về lực lượng cách mạng xác định lực lượng cách mạng phải đoàn kết công nhân
nông dân đây là lực lượng cơ bản trong đó giai cấp công nhân lãnh đạo đồng thời chủ
trương đoàn kết tất cả các giai cấp các lực lượng tiến bộ yêu nước để tập trung
chống đế quốc và tay sai do vậy Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp
mình phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày hết sức liên lạc với tiểu tư sản trí
thức trung nông để kéo họ đi vào phía vô sản giai cấp Còn đối với bọn Phú Nông
Trung Tiểu Địa Chủ chưa rõ mặt phản Cách mạng thì phải lợi dụng ít lâu mới làm cho
họ đứng trung lập Đây là cơ sở tư tưởng chiến lược đại đoàn kết dân tộc xây dựng
khối đại đoàn kết mở rộng các giai cấp các tầng lớp nhân dân yêu nước và các tổ
chức yêu nước cách mạng trên cơ sở đánh giá đúng đắn thái độ các giai cấp phù hợp


với đặc điểm xã hội Việt Nam
Về phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc cương lĩnh khẳng định
phải bằng con đường bạo lực cách mạng chứ không thể là con đường cải lương thỏa

hiệp
Phát huy tinh thần tự lực tự cường đồng thời tranh thủ sự đoàn kết ủng hộ của
các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới nhất là vô sản Pháp cương lĩnh nêu rõ
cách mạng Việt Nam liên lạc mật thiết và là một bộ phận của cách mạng vô sản thế
giới như vậy ngay từ khi thành lập Đảng cộng sản Việt Nam đã nêu cao chủ nghĩa
quốc tế và mang bản chất quốc tế của giai cấp công nhân
Về vai trò lãnh đạo của Đảng Với tư cách là đội Tiên Phong của giai cấp vô sản
sách lược vắn tắt của Đảng ghi rõ Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp phải thu
phục cho được đại bộ phận giai cấp mình phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được
dân chúng Đảng là đội tiên phong của đạo quân vô sản gồm một số lớn của giai cấp
công nhân và làm cho họ có đủ năng lực lãnh đạo quần chúng
b. Ý nghĩa lịch sử của cương lĩnh chính trị đầu tiên đối với tiến trình cách mạng Việt

Nam
cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã phản ánh một cách súc tích các luận
điểm cơ bản về đường lối chiến lược và Sách lược của Cách mạng Việt Nam trong đó
thể hiện bản lĩnh chính trị độc lập tự chủ sáng tạo trong việc đánh giá đặc điểm tính
chất xã hội thuộc địa nửa phong kiến Việt Nam trong những năm 20 của thế kỷ 20 chỉ
rõ những mâu thuẫn cơ bản chủ yếu của dân tộc Việt Nam lúc đó đặc biệt là việc
đánh giá đúng đắn sát thực thái độ của các Giai tầng xã hội đối với nhiệm vụ giải
phóng dân tộc từ đó các văn kiện đã xác định chiến lược và Sách lược của Cách mạng
Việt Nam đồng thời xác định phương pháp cách mạng nhiệm vụ cách mạng và lực
lượng của cách mạng để thực hiện đường lối chiến lược và Sách lược đã đề ra
Cương lĩnh chính trị phản ứng được quy luật khách quan của xã hội Việt Nam
đáp ứng những nhu cầu cơ bản và cấp bách của xã hội Việt Nam phù hợp với xu thế
của thời đại định hướng chiến lược đúng đắn cho tiến trình phát triển của Cách mạng
Việt Nam
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là sự vận dụng đúng đắn sáng tạo chủ
nghĩa Mác Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của một nước thuộc địa nửa phong kiến đó
chính là giải quyết đúng đắn các mối quan hệ cốt lõi trong cách mạng Việt Nam kết

hợp đúng đắn Vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc kết hợp truyền thống yêu nước và
tinh thần cách mạng của nhân dân ta với những kinh nghiệm của cách mạng thế giới


kết hợp chủ nghĩa yêu nước với Chủ nghĩa Quốc tế trong sáng đặc biệt là sự kết hợp
nhuần nhuyễn và đầy sáng tạo đặc điểm thực tiễn yêu cầu của cách mạng Việt Nam
với tư tưởng tiên tiến cách mạng của thời đại vận dụng chủ nghĩa Mác Lênin vào
thực tiễn cách mạng Việt Nam một cách đúng đắn sáng tạo và có phát triển trong
điều kiện lịch sử mới
Từ thực tiễn cách mạng Việt Nam Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định cương
lĩnh ấy rất phù hợp với nguyện vọng thiết tha của đại đa số nhân dân vì vậy Đảng đã
đoàn kết được những lực lượng cách mạng to lớn xung quanh giai cấp mình còn các
đảng phái của các tầng lớp giai cấp khác thì hoặc bị phá sản hoặc bị cô lập Do đó
quyền lãnh đạo của Đảng ta Đảng của giai cấp công nhân không ngừng củng cố và
tăng cường chính vì vậy có đường cách mạng vô sản và cương lĩnh đã khẳng định là
sợi chỉ đỏ xuyên suốt cách mạng Việt Nam từ năm 1930
Hơn 80 năm thực hiện đường lối chiến lược cương lĩnh chính trị đầu tiên Việt
Nam từ một nước thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập tự do
phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ đã
trở thành người làm chủ đất nước làm chủ xã hội đất nước ta đã rời khỏi tình trạng
nước nghèo kém phát triển đang đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa có quan hệ
quốc tế rộng rãi có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới
Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã khẳng định dứt khoát nội dung xu hướng phát
triển của xã hội Việt Nam là gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội sự lựa chọn
con đường xã hội chủ nghĩa là phù hợp với nội dung và xu thế cách mạng của thời đại
mới được mở ra từ Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại
Ghi chú

Nội dung
Câu 2: Đảng lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền giai đoạn 1930-1945.

Bài làm:
a/ Luận cương chính trị tháng 10-1930
* Hoàn cảnh:
- Tháng 4-1930, Trần Phú về nước hoạt động, được bổ sung vào Ban Chấp hành Trung ương lâm thời,
cùng Ban Thượng vụ chuẩn bị cho Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương.
- Từ ngày 14 đến 31-10-1930, Ban Chấp hành Trung ương họp Hội nghị lần thứ nhất tại Hương Cảng,
Trung Quốc do Trần Phú chủ trì. Hội nghị thống nhất:
+ Đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương.
+ Thông qua Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương do Trần Phú soạn thảo.
+ Cử Trần Phú làm Tổng Bí thư.
* Nội dung Luận cương chính trị:


- Phương hướng chiến lược của cách mạng Đông Dương: lúc đầu là cuộc “cách mạng tư sản dân
quyền”, có “tính chất thổ địa và phản đế”. Sau khi cách mạng tư sản dân quyền thắng lợi sẽ tiếp tục
phát triển bỏ qua thời kỳ tư bản mà đấu tranh thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa.
- Nhiệm vụ cách mạng:
Xoá bỏ tàn tích phong kiến và đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc
lập. Hai nhiệm vụ đó có quan hệ khăng khít với nhau. Trong đó “vấn đề thổ địa cách mạng là cái cốt
của cách mạng tư sản dân quyền”.
- Lực lượng cách mạng: Vô sản và nông dân là lực lượng chính, trong đó vô sản lãnh đạo cách mạng.
Bỏ qua, phủ nhận vai trò của tư sản, tiểu tư sản, địa chủ và phú nông.
- Vai trò của Đảng: “điều kiện cốt yếu cho sự thắng lợi của cuộc cách mạng ở Đông Dương là cần phải
có một Đảng Cộng sản”. Đảng phải có kỷ luật tập trung, mật thiết liên lạc với quần chúng và được vũ
trang bởi chủ nghĩa Mác-Lênin.
- Phương pháp cách mạng: Võ trang bạo động, theo khuôn phép nhà binh.
- Quan hệ quốc tế: Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới vì thế giai cấp vô sản
Đông Dương phải gắn bó với giai cấp vô sản thế giới, trước hết là vô sản Pháp. Liên hệ với phong trào
cách mạng ở các nước thuộc địa, nửa thuộc địa.
* Ý nghĩa của Luận cương :

Luận cương đã vạch ra được nhiều vấn đề căn bản của cách mạng Việt Nam mà Chính cương vắn tắt
và Sách lược vắn tắt đã nêu ra, tuy nhiên vẫn còn tồn tại một số hạn chế: Luận cương không nêu ra
được mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam và đế quốc Pháp;
Không đặt nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc lên hàng đầu; Chưa đánh giá đúng vai trò
cách mạng của giai cấp tiểu tư sản, tư sản dân tộc mà cường điệu hoá những hạn chế của họ.
b/Nội dung chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng trong HNTƯ 6 (1939), HNTƯ 7
(1940), HNTƯ 8 (1941)
Trên cơ sở nhận định khả năng diễn biến của Chiến tranh thế giới lần thứ hai và căn cứ vào tình hình
cụ thể ở trong nước, BCH Trung ương đã quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược như sau:
-Một là, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Tạm gác khẩu hiểu “đánh đổ địa chủ, chia
ruộng đất cho dân cày” thay bằng khẩu hiều “tịch thu ruộng đất của đế quốc và Việt gian chia cho
dân cày nghèo” chia lại ruộng đất cho công bằng, giảm tô, giảm tức.
-Hai là, giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước Đông Dương. Ở Việt Nam, Trung ương
Đảng quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) thu hút mọi người dân
yêu nước không phân biệt thành phần, lứa tuổi, đoàn kết bên nhau đặng cứu Tổ quốc, cứu giống nòi.
- Ba là, quyết định phải xúc tiến ngay công tác khởi nghĩa vũ trang, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm của
Đảng trong giai đoạn hiện tại. Để khởi nghĩa vũ trang đi đến thắng lợi cần phải phát triển lực lượng
cách mạng, tiến hành xây dựng căn cứ địa cách mạng.Hội nghị cũng chú trọng công tác đào tạo cán
bộ, nâng cao năng lực tổ chức và lãnh đạo của Đảng, đẩy mạnh công tác vận động quần chúng.
* Ý nghĩa của sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược


-`Với tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo BCH Trung ương Đảng đã giải quyết mục tiêu số một của
cách mạng là độc lập dân tộc và đề ra nhiều chủ trương đúng đắn để thực hiện mục tiêu ấy.
- Đường lối đúng đắn gương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc đã dẫn đường cho nhân dân ta tiến lên
giành thắng lợi trong sự nghiệp đánh Pháp đuổi Nhật, giành độc lập cho dân tộc và tự do cho nhân
dân. Chủ trương đúng đắn của Hội nghị thực sự là kim chỉ nam đối với hoạt động của Đảng cho tới
thắng lợi cuối cùng năm 1945.
c/ Kết quả sự lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn 1930-1945
Thứ nhất, Đảng lãnh đạo cao trào cách mạng 1930-1931. Cao trào cách mạng 1930-1931 không phải

là hiện tượng ngẫu nhiên, mà là kết quả tất yếu của các điều kiện khách quan và chủ quan trong đời
sống xã hội của nước ta lúc đó. Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 đã thúc đẩy thực dân Pháp
tăng cường cấu kết với thế lực phong kiến thuộc địa ra sức bóc lột nhân dân Việt Nam và đẩy đời
sống của toàn thể nhân dân lâm vào tình trạng cùng cực; buộc nhân dân ta vùng dậy đấu tranh
chống bọn thực dân đế quốc và phong kiến thuộc địa. Đảng ra đời là nhân tố quyết định và là nguyên
nhân trực tiếp dẫn đến cao trào cách mạng 1930-1931 mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh. Cao trào
cách mạng 1930-1931 là cuộc tổng diễn tập đầu tiên của cách mạng Việt Nam để tiến tới giành chính
quyền trên cả nước.
Thứ hai, Đảng lãnh đạo cao trào dân chủ Đông Dương 1936-1939. Tháng 7-1936, Hội nghị Ban Chấp
hành Trung ương Đảng đã họp ở Thượng Hải (Trung Quốc) do đồng chí Lê Hồng Phong chủ trì, và
nhận định: Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng tư sản dân quyền (chống đế quốc, chống phong kiến để
dành độc lập cho dân tộc và ruộng đất cho nông dân) không thay đổi, nhưng lúc này chưa phải là
nhiệm vụ trực tiếp. Yêu cầu cấp thiết trước mắt của nhân dân lúc này là tự do, dân chủ, cải thiện đời
sống. Do đó, Đảng phải lãnh đạo thành lập mặt trận dân chủ công khai và rộng rãi, bao gồm các giai
cấp, các tôn giáo, các đảng phái, các đoàn thể chính trị,… nhằm tập trung chống kẻ thù cụ thể, trực
tiếp trước mắt là chủ nghĩa phát xít và bọn phản động ở thuộc địa Việt Nam để bảo vệ hoà bình, đòi
thực hiện tự do, dân chủ, cải thiện đời sống cho nhân dân.
Thứ ba, Đảng lãnh đạo cao trào giải phóng dân tộc 1939-1945. Ngay khi chiến tranh thế giới thứ hai
bùng nổ (tháng 9-1939), Trung ương Đảng đã họp Hội nghị lần thứ 6 (tháng 11-1939) để điều chỉnh
chiến lược cách mạng với nội dung: Đặt nhiệm vụ chống đế quốc và tay sai, giành độc lập dân tộc lên
hàng đầu. Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương, nhằm
thu hút tất cả các dân tộc, giai cấp, đảng phái, tôn giáo và các cá nhân yêu nước để đánh đổ đế quốc
và tay sai, dành độc lập hoàn toàn cho các dân tộc ở Đông Dương. Trung ương Đảng đã kịp thời chỉ
đạo các tổ chức đảng và quần chúng nhanh chóng rút vào hoạt động bí mật, chuyển hướng hoạt
động về nông thôn, tránh sự đàn áp khủng bố của kẻ thù. Tháng 11-1940, Hội nghị Trung ương Đảng
lần thứ 7 họp ở Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh), khẳng định chủ trương của Hội nghị Trung ương Đảng
lần thứ 6 là đúng, và cử đồng chí Trường Chinh làm Bí thư Trung ương Đảng lâm thời. Tháng 02-1941
lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam. Tháng
5-1941, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 đã họp tại Pắc Bó (Cao Bằng), do lãnh tụ Nguyễn Ái



Quốc trực tiếp chủ trì. Hội nghị này đã cụ thể hóa và hoàn thiện thêm một bước đường lối giải
phóng dân tộc của cách mạng Việt Nam. Hội nghị chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn
khổ mỗi nước Đông Dương và chủ trương thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất ở mỗi nước. Tại
Việt Nam, Hội nghị quyết định thành lập tổ chức Việt Nam Độc lập đồng minh, gọi tắt là Mặt trận
Việt Minh, gồm các đoàn thể cứu quốc trên cả nước. Hội nghị nhấn mạnh công tác chuẩn bị cho tổng
khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm và dự kiến một số chủ trương, chính sách khi Tổng khởi nghĩa
thắng lợi. Tháng 8-1942, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc lấy tên mới là Hồ Chí Minh với danh nghĩa là đại
diện của Việt Minh sang Trung Quốc để liên hệ với các lực lượng đồng minh quốc tế chống phát xít
và vận động những người yêu nước ở nước ngoài tham gia cách mạng. Năm 1943, bản “Đề cương
văn hoá Việt Nam” của Đảng được công bố, nhằm lôi cuốn các tầng lớp tri thức, văn nghệ sĩ cùng
toàn dân tham gia phong trào cách mạng. Được sự giúp đỡ của Đảng Cộng sản Đông Dương, tháng
6-1944, Đảng Dân Chủ Việt Nam - một chính đảng của tư sản dân tộc và tiểu tư sản tri thức yêu
nước, tiến bộ đã ra đời. Đảng Dân chủ Việt Nam tham gia vào Mặt trận Việt Minh đã góp phần thúc
đẩy mặt trận dân tộc thống nhất phát triển ngày càng sâu rộng. Đội du kích Bắc Sơn (ra đời từ Khởi
nghĩa Bắc Sơn tháng 9-1940); Đội du kích Ba Tơ (ra đời từ Khởi nghĩa Ba Tơ tháng 3-1945),... đã phát
triển đấu tranh vũ trang. Ngày 22-12-1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành
lập tại Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ đạo. Trên cơ sở đó, Mặt trận Việt
Minh, lực lượng vũ trang cách mạng và cả căn cứ địa cách mạng, đều phát triển mạnh mẽ, không chỉ
ở khu Việt Bắc. Trên khắp cả nước, đâu đâu cũng diễn ra các phong trào đấu tranh giành độc lập cho
dân tộc. Qua các cuộc vận động cách mạng đó, Đảng ta đã có nhiều kinh nghiệm, hình thành các chủ
trương, quyết sách, đồng thời đẩy mạnh xây dựng một cách toàn diện các lực lượng cách mạng (Mặt
trận Việt Minh, lực lượng vũ trang, căn cứ cách mạng,...) gấp rút chuẩn bị cho cuộc Cách mạng Tháng
Tám năm 1945 thắng lợi.
Thứ tư, Đảng phát động cao trào chống Nhật, cứu nước, dự kiến thời cơ khởi nghĩa giành chính
quyền Từ đầu năm 1945 , Chiến tranh thế giới lần thứ 2 bước vào giai đoạn kết thúc. Tại khu vực
Đông Dương, do lo sợ quân đồng minh sẽ đổ bộ lên Đông Dương, Nhật tiến hành đảo chính lật đổ
Pháp để độc chiếm Đông Dương (vào đêm 09-3-1945). Ngay lúc đó, Ban Thường vụ Trung ương Đảng
đã họp tại Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh), để đánh giá tình hình và ra chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau và
hành động của chúng ta”. Bản chỉ thị vạch rõ: Cuộc đảo chính Nhật - Pháp làm cho các điều kiện khởi

nghĩa nhanh chóng chín muồi. Kẻ thù chính, cụ thể trước mắt của nhân dân Đông Dương lúc này là
phát xít Nhật; phải nhanh chóng phát động cao trào chống Nhật, cứu nước, đồng thời thực hiện khởi
nghĩa từng phần, giành chính quyền từng bộ phận, chuẩn bị mọi điều kiện để tiến tới tổng khởi nghĩa.
Trước tình hình phát xít Nhật thẳng tay vơ vét, bóc lột, gây ra một nạn đói khủng khiếp và làm chết
gần hai triệu người, Đảng kịp thời đề ra khẩu hiệu “Phá kho thóc của Nhật để cứu đói”. Khẩu hiệu đó
đã lôi cuốn hàng triệu quần chúng, nhất là nông dân, đứng lên chống Nhật, giành chính quyền về tay
nhân dân. Từ giữa tháng 3-1945, cách mạng Việt Nam đã nhanh chóng trở thành cao trào. Đến giữa
tháng 8-1945, lực lượng cách mạng, bao gồm cả lực lượng chính trị và vũ trang, đã phát triển rộng rãi
khắp nông thôn và đô thị. Ngày 13-8-1945, Chính phủ Nhật đã đầu hàng Liên Xô và các nước Đồng
minh vô điều kiện. Quân Nhật ở Đông Dương lâm vào tình thế bị tê liệt. Chính phủ tay sai Trần Trọng
Kim hoang mang cực độ. Trước tình hình đó, Đại hội quốc dân đã họp ở Tân Trào (Tuyên Quang) từ
ngày 13 đến ngày 15-8-1945 dưới sự chủ trì của Hồ Chí Minh, thống nhất với chủ trương của Đảng


Cộng sản Đông Dương là nhanh chóng phát động toàn dân kịp thời đứng lên tổng khởi nghĩa, quyết
tâm giành chính quyền từ tay phát xít Nhật. Đại hội đã cử ra Ủy ban dân tộc giải phóng do Hồ Chí
Minh làm chủ tịch để lãnh đạo tổng khởi nghĩa. Mệnh lệnh khởi nghĩa của Uỷ ban dân tộc giải phóng
và lời kêu gọi cả nước đứng lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền của Hồ Chủ tịch được các địa
phương nhiệt liệt hưởng ứng. Từ ngày 14 đến 28-8-1945, cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền đã
thắng lợi hoàn toàn trên cả nước. Chính quyền từ trung ương đến các địa phương đã thuộc về nhân
dân Việt Nam. Ngày 02-9-1945, tại Quảng Trường Ba Đình lịch sử, Hồ Chủ tịch đã đọc Bản Tuyên ngôn
độc lập, long trọng tuyên bố với nhân dân trong cả nước và các quốc gia trên thế giới: Nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà đã ra đời, có chủ quyền độc lập như mọi quốc gia khác trên toàn thế giới.

Ghi chú

Nội dung
Câu 3: Đảng lãnh đạo Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân (1945 – 1975)
Bài làm:


1. Đường lối giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc
1.1. Đường lối kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954)
- Cách mạng Tháng 8 thành công ngày 19/08/1945 đã mở ra một thời kỳ phát
triển mới của lịch sử Việt Nam. Ngày 02/09/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc
bản Tuyên ngôn độc lập ở Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), khai sinh ra nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Tuy nhiên, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà vừa
ra đời đã phải đối mặt với nhiều kẻ thù. Ở miền Bắc, với danh nghĩa Đồng minh
giải giáp quân Nhật, 20 vạn quân Trưởng vào đóng quân từ bắc vĩ tuyến 16 đến
biên giới Việt – Trung và tìm mọi cách lật đổ chính quyền cách mạng, tạo điều
kiện cho lực lượng tay sai lên nắm quyền. Ở miền Nam, quân đội Anh với danh
nghĩa giải giáp quân Nhật đã giúp Pháp trởi lại xâm lược Việt Nam. Ngày
02/09/1945, quân Pháp đã nổ súng giết hàng chục người khi đồng bào ta đang
mít tinh mừng ngày độc lập ở Sài Gòn. Ngày 23/09/1945, Pháp tiến công Sài
Gòn, mở đầu cuộc xâm lược nước ta lần thứ hai.
- Trước dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa của thực dân Pháp, đứng đầu
Đảng ta là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phải có một sự lựa chọn lịch sử, kịp thời có
quyết định chiến lược để xoay chuyển vận nước đang lâm nguy. Ngày 18,
19/12/1946 tại Vạn Phúc (Hà Đông), Ban thường vụ Trung ương Đảng họp Hội
nghị mở rộng do Hồ Chí Minh chủ trì, đã quyết định chủ trương phát động cuộc
kháng chiến chống Pháp trên phạm vi cả nước và đề ra đường lối, chủ trương
kháng chiến của Đảng.
- Ban thường vụ Trung ương đã điện cho các chiến khu, các tỉnh uỷ, chỉ thị “tất
cả hãy sẵn sàng”.Đúng 20 giờ ngày 19/12/1946, tín hiệu bắt đầu cuộc kháng
chiến trong toàn uốc đã được phát ra. Quân dân thủ đô Hà Nội đã nổ súng mở
đầu cuộc kháng chiến trong toàn quốc.Tiếng súng kháng chiến trong toàn quốc
đang rền vang khắp Hà Nội, lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ
Chí Minh được truyền đi khắp cả nước với quyết tâm “chúng ta thà hi sinh tất
cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.



- Từ Tuyên ngôn độc lập đến Chỉ thị kháng chiến kiến quốc (25/11/1945), Công
việc khẩn cấp bây giờ (10/1946), Chỉ thị toàn dân kháng chiến (12/12/1946) và
lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/12/1946), những quan điểm cơ bản
của đường lối kháng chiến đã được hình thành. Giữa năm 1947, Tổng Bí thư
Trường Chinh đã viết một loạt bài báo tập hợp thành cuốn sách Kháng chiến
nhất định thắng lợi.
- Đường lối của cuộc kháng chiến tập trung ở một số nội dung sau:
+ Mục đích của cuộc kháng chiến là giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ
quốc, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, góp phần bảo vệ hoà bình thế giới.
+ Tính chất kháng chiến lúc này vẫn là “cuộc cách mạng giải phóng.
Cuộc cách mạng ấy đang tiếp diễn, nó chưa hoàn thành, vì nước chưa hoàn toàn
được độc lập”.
+ Nhiệm vụ của cuốc kháng chiến được xác định ngay từ đầu là “vừa
kháng chiến, vừa kiến quốc”. Hai nhiệm vụ đó bổ sung, hỗ trợ cho nhau đưa sự
nghiệp cách mạng đến thắng lợi.
+ Lực lượng kháng chiến: Huy động sức mạnh toàn dân tộc, các tầng lớp
nhân dân tập hợp trong Mặt trận Việt Minh, Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam
và các tổ chức quần chúng khác.
+ Phương châm của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp được khái
quát: toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính để đưa cuộc
kháng chiến đi đến thắng lợi.
 Toàn dân kháng chiến: Đảng chủ trương động viên sức mạnh
toàn dân tộc bằng những hình thức, biện pháp phong phú, phù hợp để tổ chức cả
nước thành một mặt trận, tạo nên thế trận cả nước đánh giặc.
 Kháng chiến toàn diện nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của
cuộc kháng chiến chống lại cuộc chiến tranh xâm lược trên tất cả các lĩnh vực:
chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá, ngoại giao, tạo thành sức mạnh tổng hợp.
Về chính trị, phải đoàn kết toàn dân chống Pháp xâm lược, phải thống
nhất toàn dân, làm cho mặt trận dân tộc thống nhất mỗi ngày một vững, mỗi
ngày một rộng. Phải củng cố chế độ cộng hoà dân chủ, xây dựng bộ máy kháng

chiến vững mạnh, thống nhất quân, chính, dân trong toàn quốc, phát triển các
đoàn thể cứu quốc, củng cố bộ máy lãnh đạo kháng chiến toàn dân. Phải cô lập
kẻ thù, kéo thêm nhiều bạn, làm cho nhân dân Pháp và nhân dân các thuộc địa
Pháp tích cực ủng hộ ta, chống lại thực dân phản động Pháp.
Về quân sự, triệt để dùng “du kích vận động chiến”, tiến công địch ở
khắp nơi, vừa đánh địch vừa xây dựng lực lượng; tản cư nhân dân ra xa vùng
chiến sự.
Về kinh tế, xây dựng nền kinh tế kháng chiến theo nguyên tắc vừa kháng
chiến vừa kiến quốc, toàn dân tăng gia sản xuất, tự túc tự cấp về mọi mặt, xây
dựng kinh tế theo hướng “vừa kháng chiến vừa kiến quốc”. Kinh tế kháng chiến


về hình thức là kinh tế chiến tranh, về nội dung là dân chủ mới, chú trọng phát
triển nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp và công nghiệp.
Về văn hoá, thực hiện 2 nhiệm vụ: xoá bỏ nền văn hoá nô dịch, ngu dân,
xâm lược của thực dân Pháp và xây dựng nền văn hoá dân chủ mới, dựa trên 3
nguyên tắc: dân tộc hoá, khoa học hoá, đại chúng hoá. Tất cả mọi hoạt động văn
hoá lúc này phải nhằm thực hiện khẩu hiệu “yêu nước và căm thù”.
Về ngoại giao, kiên trì chủ trương ngoại giao với các nước theo nguyên
tắc “bình đẳng và tương trợ”. Triệt để cô lập kẻ thù, tranh thủ thêm nhiều bầu
bạn, làm cho nhân dân thế giới kể cả nhân dân Pháp hiểu, tán thành và ủng hộ
cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Đồng thời đẩy mạnh hoạt động biểu dương
thực lực để đưa hoạt động ngoại giao giành thắng lợi.
- Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp về bản chất là đường lối chiến
tranh nhân dân Việt Nam. Trong quá trình tiến hành cuộc kháng chiến, Đảng và
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng việc bổ sung, phát triển, cụ thể hoá đường
lối kháng chiến phù hợp với yêu cầu thực tế của từng giai đoạn lịch sử. Đường
lối đó đã trở thành ngọn cờ dẫn dắt và là động lực chính trị tinh thần đưa nhân
dân ta tiến lên chiến đấu và chiến thắng thực dân Pháp xâm lược.
1.2. Đường lối kháng chiến chống Mỹ (1954 – 1975)

- Khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp chưa chấm dứt, Đảng ta đã nhận
rõ âm mưu của Mỹ. Tại Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương khoá II
Từ ngày 15/07 đến ngày 17/07/1954, Đảng đã nhận định: “Hiện nay đế quốc
Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân thế giới và nó đang trở thành kẻ thù chính là
trực tiếp của nhân dân Đông dương, cho nên mọ việc của ta đều nhằm chống đế
quốc Mỹ”.
- Ngày 06/09/1954, Bộ Chính trị ra Chỉ thị về tình hình mới và nhiệm vụ công
tác mới của miền Nam nêu lên các nhiệm vụ của cách mạng miền Nam:
+ Đấu trang đòi thi hành Hiệp định Genève.
+ Chuyển hướng công tác cho thích hợp với điều kiện hoà bình, vừa che
giấu lực lượng, vừa lợi dụng những điều kiện mới để tiếp tục hoạt động.
+ đoàn kết, tập hợp mọi lực lượng đấu tranh đòi tự do dân chủ, đánh đổ
tập đoàn Ngô Đình Diệm, thống nhất Tổ quốc bằng tổng tuyển cử.
Như vậy, cách mạng miền Nam đã chuyển từ đấu tranh vũ trang sang đấu
tranh chính trị đòi thi hành Hiệp định Genève.
- Tháng 10/1954, Xứ uỷ Nam Bộ được thành lập do đồng chí Lê Duẩn làm Bí
thư. Tháng 06/1956, đồng chí Lê Duẩn – Uỷ viên Bộ chính trị, Bí thư Xứ uỷ
Nam Bộ đã dự thảo bản “Đề cương cách mạng Việt Nam ở miền Nam”. Bản đề
cương đã làm sáng tỏ một số vấn đề về lý luận và thực tiễn cách mạng miền
Nam. Nhưng do điều kiện thực tế, chưa đề ra được những biện pháp cụ thể thúc
đẩy tình hình cách mạng miền Nam.
- Tháng 12/1957, tại Hội nghị lần thứ 13 Ban chấp hành Trung ương khoá II,


Đảng ta nhận định: “Ta đồng thời chấp hành hai chiến lược cách mạng: cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa”.
- Tháng 01/1959, Ban chấp hành Trung ương họp Hội nghị lần thứ 15 đã ra
Nghị quyết về cách mạng miền Nam. Nghị quyết xác định nhiệm vụ trước mắt
là: đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây
chiến, đánh đổ tập đoàn thống trị độc tài Ngô Đình Diệm tay sai, thực hiện độc

lập dân tộc, thống nhất nước nhà.
- Con đường phát triển cơ bản của cách mạng miền Nam là: khởi nghĩa giành
chính quyền về tay nhân dân.
- Chủ trương thành lập một Mặt trận Dân tộc thống nhất riêng cho miền Nam,
có cương lĩnh phù hợp nhằm tập hợp rộng rãi mọi lực lượng yêu nước và tiến
bộ đấu tranh chống Mỹ và tay sai.
- Tháng 09/1960, Đại hội đại biều toàn quốc lần thứ III đã hoàn chỉnh đường lối
cách mạng Việt Nam. Nghị quyết Đại hội chỉ rõ: “nhiệm vụ cơ bản của cách
mạng miền Nam là giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và tay
sai, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, góp phần xây dựng một
nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.
Nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam là đoàn kết toàn dân, kiên quyết
đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây chiến, đánh đổ tập đoàn thống trị
Ngô Đình Diệm tay sai của đế quốc Mỹ, thành lập một chính quyền liên hợp
dân tộc, dân chủ ở miền Nam, thực hiện độc lập dân tộc, các quyền tự do dân
chủ và cải thiện đời sống nhân dân, giữ vững hoà bình, thực hiện thống nhất
nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, tích cực góp phần bảo vệ hoà bình ở
Đông Nam Á và thế giới”.
- Tháng 01/1961, Bộ Chính trị chủ trương chuyển từ khởi nghĩa sang chiến
tranh cách mạng, từng bước đưa đấu tranh vũ trang lên cùng với đấu tarnh chính
trị. Tháng 10/1961, Trung ương Cục miền Nam được thành lập để trực tiếp chỉ
đạo cách mạng miền Nam, đẩy mạnh xây dựng lực lượng cả về quân sự lẫn
chính trị lên cả ba vùng chiến lược. Thự hiện phương châm: “ hai chân, ba mũi,
ba vùng” với nguyên tắc: “Đảng bám dân, dân bám đất, du kích bám địch”,
phong trào đấu tranh dưới nhiều hình thức đã diễn ra sôi nổi, mạnh mẽ khắp
miền Nam.
- Ngày 25/03/1965, Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá
III nêu rõ: “Ra sức tranh thủ thời cơ, tập trung lực lượng của cả nước giành
thắng lợi quyết định ở miền Nam trong thời gian tương đối ngắn, đồng thời
chuẩn bị sẵn sàng đối phó và quyết thắng cuộc chiến tranh cục bộ ở miền Nam

nếu địch gây ra”.
- Tháng 12/1965, Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành Trung ương khoá III nhận
định: Mỹ đưa quân vào miền Nam, nhưng lực lượng so sánh giữa ta và địchvẫn
không thay đổi lớn. Vì thế, cuộc kháng chiến vẫn giữ vững và phát triển thế


chiến lược tiến công. Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã
quyết định những vấn đề chiến lược cơ bản của cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Nghị quyết Hội nghị là sự kết tinh ý chí kiên cường, trí tuệ và tài năng sáng tạo
của Đảng.
- Kết hợp với những thắng lợi về quân sự và chính trị, ngày 28/01/1967, Hội
nghị lần thứ 13 Ban Chấp hành Trung ương khoá III đã quyết định mở mặt trận
ngoại giao nhằm tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế, phát huy sức mạnh tổng hợp
để đánh Mỹ.
- Tháng 11/1968, trong chỉ thị gởi đảng bộ miền Nam, Bộ Chính trị vạch rõ
phương hướng của năm 1969 là “công kích và khởi nghĩa” mùa xuân và mùa
hè. Tháng 04/1969, Bộ Chính trị ra Nghị quyết về “tình hình và nhiệm vụ trước
mắt” là: tiếp tục đẩy mạnh tổng công kích, tổng khởi nghĩa, phát triển chiến
lược tiến công một cách toàn diện, liên tục và mạnh mẽ.
- Tháng 01/1970, Hội nghị lần thứ 18 Ban Chấp hành Trung ương khoá III đề ra
nhiệm vụ trước mắt là: đẩy mạnh cuộc kháng chiến trên tất cả các mặt, vừa tấn
công, vừa xây dựng lực lượng, giành thắng lợi từng bước đi lên giành thắng lợi
quyết định.Tháng 06/1970, Bộ Chính trị ra Nghị quyết về tình hình mới trên
bán đảo Đông Dương và nhiệm vụ mới của chúng ta. Nghị quyết Bộ Chính trị
đã nêu rõ: huy động sức mạnh cả nước tiến hành tiến công và phản công đánh
Mỹ và tay sai trên toàn Đông Dương.
- Tháng 07/1973, Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương khoá III đã ra
Nghị quyết “Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và
nhiệm vụ của cách mạng miền Nam Việt Nam trong giai đoạn mới”.
- Hội nghị đề ra nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là: hoàn thành cách

mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tập trung mũi nhọn vào đế quốc Mỹ và tập
đoàn thống trị tư sản mại bản quan liêu, quân phiệt phát xít, tay sai đắc lực của
đế quốc Mỹ đang thống trị trong vùng địch kiểm soát, đẩy lùi và thắng địch
từng bước đi đến xoá bỏ chế độ thực dân mới , thiết lập một chính quyền dân
tộc dân chủ thực sự, thực hiện hoà hợp dân tộc, thoát ly hẳn sự lệ thuộc vào Mỹ
thực hiện một miền Nam hoà bình, độc lập, dân chủ, trung lập, phồn vinh tiến
tới hoà bình thống nhất nước nhà.
- Về con đường của cách mạng miền Nam, Nghị quyết Hội nghị khẳng định: “
Con đường của cách mạng miền Nam là con đường bạo lực cách mạng. Bất kể
trong tình hình nào, ta cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến
lược tiến công và chỉ đạo linh hoạt để đưa cách mạng miền Nam tiến lên.
- Ngày 21/03/1975, Chiến dịch Huế - Đà Nẵng bắt đầu. Ngày 25/03/1975, Bộ
Chính trị bổ sung quyết tâm chiến lược: giải phóng miền Nam trước mùa mưa.
Ngày 26/03/1975 giải phóng Huế, ngày 29/03/1975 giải phóng Đà Nẵng. Trên
đà thắng lợi của mặt trận Tây Nguyên và Huế - Đà Nẵng, Hội nghị Bộ Chính trị
ngày 31/03/1975 quyết định giải phóng miền Nam trong tháng 04/1975.


- Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước khẳng định tính đúng
đắn, khoa học và sáng tạo của đường lối chiến tranh nhân dân dưới ánh sáng lý
luận Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là đường lối kháng chiến độc
lập, tự chủ của Đảng Cộng sản Việt Nam, là sự hiện thực hoá của sợi chỉ đỏ: kết
hợp mục tiêu độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, tạo nên xung lực cho sự
nghiệp thống nhất Tổ quốc. Lý luận cách mạng sáng tạo, đường lối đúng đắn đã
trở thành ngọn cờ tập hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, kết hợp yếu
tố trong nước với quốc tế, phối hợp nhịp nhàng sức mạnh của cả hai miền Nam
– Bắc để đi tới thắng lợi cuối cùng.
2. Đường lối bảo vệ Tổ quốc XHCN Việt Nam ngày nay
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII khẳng định: “Bảo vệ vững
chắc Tổ quốc; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định; nâng cao hiệu quả hoạt

động đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”
- Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa luôn gắn bó
chặt chẽ, mật thiết với nhau; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát
triển đất nước là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, của cả
hệ thống chính trị toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân, Công an nhân dân là
nòng cốt.
Mục tiêu trọng yếu của quốc phòng, an ninh là: Phát huy mạnh mẽ sức mạnh
tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, tranh thủ tối đa sự đồng
tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững
chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ
Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ công cuộc đổi
mới, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, bảo vệ lợi ích quốc gia – dân tộc;
bảo vệ nền văn hoá dân tộc; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định chính trị, an
ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
- Tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng thế trận quốc phòng
toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc. Chủ động đấu tranh làm thất bại
mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; ngăn chặn, phản
bác những thông tin và luận điệu sai trái, đẩy lùi các loại tội phạm và tệ nạn xã
hội; sẵn sàng ứng phó với các mối đe doạ an ninh truyền thống và phi truyền
thống, bảo đảm an ninh, an toàn thông tin, an ninh mạng.
Kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hoá, xã hội với quốc phòng, an ninh và quốc
phòng, an ninh với kinh tế, văn hoá, xã hội trong từng chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội, chú trọng vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển,
đảo. Kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại; tăng cường hợp
tác quốc tế về quốc phòng, an ninh. Xây dựng “thế trận lòng dân”, tạo nền tảng
vững chắc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân,... Xây dựng
Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng



bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hoá một số quân chủng, binh chủng, lực lượng;
vững mạnh về chính trị, nâng cao chất lượng tổng hợp sức mạnh chiến đấu,
tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân.
- Thực hiện thắng lợi đường lối đối ngoại và hội nhập quốc tế. Bảo đảm lợi ích
tối cao của quốc gia – dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp
quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc
lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hoá, đa phương hoá trong
quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin
cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế,... nhằm phục vụ mục
tiêu giữ vững môi trường hoà bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên
ngoài để phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân; nâng cao vị thế,uy tín
của đất nước và góp phần vào sự nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội trên thế giới.
- Nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tiếp tục đưa các mối quan hệ hợp
tác đi vào chiều sâu. Nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện đầy
đủ các cam kết quốc tế, các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới trong một
kế hoạch tổng thể với lộ trình hợp lý, phù hợp với lợi ích của đất nước. Đẩy
mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất là các đối tác chiến lược
và các nước lớn có vai trò quan trọng đối với phát triển và an ninh đất nước,
đưa khuôn khổ quan hệ đã xác lập vào thực chất. Chủ động tham gia và phát
huy vai trò tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN và Liên hợp quốc. Chủ
động, tích cực tham gia các cơ chế đa phương về quốc phòng, an ninh, trong
đó có việc tham gia các hoạt động hợp tác ở mức cao hơn như hoạt động gìn
giữ hoà bình của Liên hợp quốc, diễn tập về an ninh phi truyền thống và các
hoạt động khác. Đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong lĩnh vực văn hoá, xã hội,
khoa học – công nghệ, giáo dục – đào tạo và các lĩnh vực khác.
Ghi chú

Nội dung
Câu 4: đổi mới đất nước ,quá trình hình thành, phát triển đường lối đổi mới


đất nước của đảng ta 1986 đến nay

Bài làm:
1. Đường lối đổi mới đất nước của đảng
- Hội nghị trung ương 6 năm 1979: Hội nghị Trung ương 6 khóa IV (81979), với chủ trương bằng mọi cách "làm cho sản xuất bung ra", là bước
đột phá đầu tiên của quá trình tìm tòi và thử nghiệm đó. Hội nghị chủ
trương ổn định nghĩa vụ lương thực trong 5 năm, phần dôi ra được bán cho
Nhà nước hoặc trao đổi tự do; khuyến khích mọi người tận dụng ao hồ,
ruộng đất hoang hóa; đẩy mạnh chăn nuôi gia súc dưới mọi hình thức; sửa
lại thuế lương thực và giá lương thực để khuyến khích sản xuất; sửa lại chế
độ phân phối nội bộ hợp tác xã nông nghiệp, bỏ lối phân phối theo định


suất, định lượng, v.v...Tư tưởng cốt lõi của Hội nghị là: Phải tận dụng các
thành phần kinh tế: quốc doanh, công tư hợp doanh, tập thể, cá thể (kể cả tư
sản được kinh doanh hợp pháp); kết hợp với quy mô lớn: vừa, nhỏ, kỹ
thuật, thủ công, nửa cơ giới và cơ giới; kết hợp trung ương, địa phương
(tỉnh thành, huyện) và cơ sở. Tận dụng mọi khả năng về lao động, tài
nguyên và năng lực sản xuất của các ngành kinh tế, quốc phòng, văn hoá để
sản xuất hàng tiêu dùng.
-

Hội nghị Trung ương 8 khóa V (6-1985) lại là bước đột phá thứ hai với
chủ trương dứt khoát xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, thực hiện
cơ chế một giá; xóa bỏ chế độ cung cấp hiện vật theo giá thấp; chuyển mọi
hoạt động sản xuất kinh doanh sang cơ chế hạch toán kinh doanh xã hội chủ
nghĩa... Tháng 9 năm 1985, cuộc tổng điều chỉnh giá lương - tiền được bắt
đầu bằng việc đổi tiền, xóa bỏ hoàn toàn chế độ tem phiếu. Do tư tưởng
nóng vội, cuộc tổng điều chỉnh này đã dẫn tới tình trạng giá cả thị trường có

nhiều diễn biến phức tạp; lạm phát bị đẩy lên tốc độ phi mã. Ðầu năm 1986,
lại phải lùi một bước: Quay trở lại thực hiện chính sách hai giá...

Hội nghị Bộ Chính trị khóa V (8-1986) là bước đột phá thứ ba với "Kết luận đối với
một số vấn đề thuộc về quan điểm kinh tế". Nội dung là: (1) Trong bố trí cơ cấu kinh
tế, cơ cấu đầu tư, phải lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu; ra sự phát triển công
nghiệp nhẹ; phát triển có chọn lọc công nghiệp nặng. (2) Trong cải tạo xã hội chủ
nghĩa, phải xác định cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. (3) Trong cơ chế quản lý kinh tế, lấy kế hoạch làm
trung tâm, đồng thời phải sử dụng đúng quan hệ hàng hóa tiền tệ, dứt khoát xóa bỏ cơ
chế tập trung, bao cấp, chính sách giá phải vận dụng quy luật giá trị, tiến tới thực hiện
cơ chế một giá.
Kết luận của Bộ Chính trị có ý nghĩa to lớn trong việc định hướng soạn thảo lại một
cách căn bản Dự thảo Báo cáo chính trị trình Ðại hội VI của Ðảng.
Ðại hội VI của Ðảng (12-1986) đánh dấu một bước ngoặt rất cơ bản trong sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa ở nước ta, với việc đưa ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước từ đổi mới tư duy đến đổi mới tổ chức, cán bộ và phong cách lãnh đạo; từ đổi mới
kinh tế đến đổi mới hệ thống chính trị và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Trong
đánh giá tình hình, Ðại hội đưa ra phương châm "nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá
đúng sự thật, nói rõ sự thật", từ đó không chỉ khẳng định những thành tựu đạt được
mà còn thẳng thắn vạch ra sai lầm trong bố trí cơ cấu kinh tế, trong phân phối lưu
thông, trong cải tạo xã hội chủ nghĩa và cả trong cơ chế quản lý nền kinh tế.
Đổi mới ở đây không phải là thay đổi mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà được hiểu là thay
đổi cách thức để đạt được mục tiêu chủ nghĩa xã hội.
5 nội dung cơ bản:


Đổi mới về kinh tế

Xóa bỏ kinh tế bao cấp, thực hiện cơ cấu kinh tế nhiều thành phần


Đổi mới về cơ chế quản lý kinh tế: cơ chế kế hoạch hóa theo phương thức
hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa.

Đổi mới về nội dung và cách thức công nghiệp hóa, thực hiện 3 chủ trương
kinh tế:
+Sản xuất lương thực, thực phẩm
+ Sản xuất hàng tiêu dùng
+ Sản xuất hàng xuất khẩu.
Đổi mới về chính trị

Đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng, đổi mới quản lý và điều
hành của nhà nước cho phù hợp với cô cấu và cơ chế kinh tế mới.

Đổi mới về quan hệ hợp tác quốc tế theo hướng mở, kêu gọi hợp tác và đầu
tư nước ngoài.
2. Quátrình bổ sung, phát triển đường lối:
a. Đại hội 7 năm 1991:
Đại hội đã tổng kết đánh giá việc thực hiện đường lối đổi mới của đại
hội VI, đề ra chủ trương, nhiệm vụ nhằm kế thừa, phát huy những thành
tựu, ưu điểm đã đạt được, khắc phục khó khăn, yếu kém mắc phải trong
bước đầu đổi mới; ngăn ngừa những lệch lạc phát sinh trong quá trình
đó; điều chỉnh bổ sung, phát triển đường lối đổi mới để tiếp tục đưa sự
nghiệp đổi mới của đất nước tiến lên.
Đại hội VII đề ra Kế hoạch 5 năm 1991-1995 và quyết định phương hướng, nhiệm
vụ, mục tiêu kinh tế xã hội của Kế hoạch là:






Đẩy lùi và kiểm soát lạm phát.
Ổn định phát triển và nâng cao hiệu quả nền sản xuất xã hội.
Bước đầu ổn định và từng bước cải thiện đời sống vật chất và văn hóa của
nhân dân lao động.
Bắt đầu có tích lũy từ nội bộ nền kinh tế.
b. Đại hội 8

Đại hội đã tổng kết đánh giá, kiểm điểm 10 năm thực hiện đường lối đổi mới của đại
hội VI và 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội 7, đề ra chủ trương, nhiệm vụ nhằm kế
thừa, phát huy những thành tựu, ưu điểm đã đạt được; điều chỉnh bổ sung, phát triển
đường lối đổi mới để tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới của đất nước tiến lên[2].Xuất phát
từ đặc điểm tình hình đất nước và từ nhận định Việt Nam đã thoát ra khỏi khủng
hoảng kinh tế xã hội cũng như căn cứ vào Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì
quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, Đại hội khẳng định tiếp tục nắm vững hai nhiệm vụ
chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, nhấn mạnh nước ta đã


chuyển sang thời kì phát triển mới, thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Xuất phát từ đặc điểm tình hình, căn cứ vào mục tiêu của chặng đường đầu
thời kì quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, Đại hội VIII đề ra Kế hoạch 5 năm 1996-2000 và
quyết định phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu kinh tế xã hội của Kế hoạch là:
Đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ.

Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần.

Phấn đấu đạt và vượt mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và
bền vững đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội.

Cải thiện đời sống nhân dân, nâng cao tích lũy từ nội bộ nền kinh tế
c. Đại hội 9

Đại hội đã tổng kết đánh giá, kiểm điểm 15 năm thực hiện đừơng lối đổi mới của đại
hội VI và 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội 8, đề ra chủ trương, nhiệm vụ nhằm kế
thừa, phát huy những thành tựu, ưu điểm đã đạt được; điều chỉnh bổ sung, phát
triển đường lối đổi mới để tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới của đất nước tiến lên
trong thời đại mới[2]. Xuất phát từ đặc điểm tình hình đất nước và quốc tế, Đại hội
khẳng định tiếp tục nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đại hội cũng đã
đề ra chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm (2001-2010).
Kế hoạch 5 năm 2001-2005
Xuất phát từ đặc điểm tình hình trong và ngoài nước Đại hội IX đề ra Kế hoạch 5 năm
2001-2005 và quyết định phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu kinh tế xã hội của Kế
hoạch là:

Đưa đất nước thoát khỏi tình trạng kém phát triển.

Nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần nhân dân

Tạo nền tảng để đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại.
d. Đại hội 10
Đại hội X chủ trương tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn
với phát triển kinh tế tri thức; giải quyết tốt các vấn đề xã hội, văn hoá,
giáo dục, khoa học và công nghệ; tăng cường quốc phòng và an ninh,
mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc
tế; phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; đổi mới, chính đốn Đảng, nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, bổ sung, sửa đổi Điều
lệ Đảng.



Đảng viên làm kinh tế tư nhân không giới hạn về quy mô - Việc Đại
hội ra Nghị quyết cho phép Đảng viên của Đảng được làm kinh tế tư
nhân, kể cả kinh tế tư bản tư nhân là bước tiến quan trọng trong nhận


thức của Đảng Cộng sản Việt Nam sau 20 năm đổi mới, thể hiện bước
đột phá trong thay đổi tư duy của Đảng Cộng sản Việt Nam.
e. Đại hội 11
Đặc trưng của Chủ nghĩa Xã hội mà Việt Nam đang xây dựng
1. Đặc trưng thứ nhất: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh;
2. Đặc trưng thứ hai: do nhân dân làm chủ;
3. Đặc trưng thứ ba: có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại là chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu;
4. Đặc trưng thứ tư: có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
5. Đặc trưng thứ năm: con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều
kiện phát triển toàn diện;
6. Đặc trưng thứ sáu: các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết,
tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển;
7. Đặc trưng thứ bảy: có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo;
8. Đặc trưng thứ tám: có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước
trên thế giới.
Các phương hướng cơ bản
1. Một là, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển
kinh tế tri thức;
2. Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;
3. Ba là, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
4. Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia;
5. Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và

phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế;
6. Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn
dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất;
7. Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân;
8. Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh
f. Đại hội 12
Nội dung: tăng cường xâ dựng đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của đảng, xây dựng hệ thống chính
trị vững mạnh. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ
nghĩa. Đẩy mạnh toàn diện , đồng bộ công cuộc đổi mới, phát triển kinh
tế nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại. nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc
lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc, bảo vệ đảng,
nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ gìn hòa bình, ổn
định chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, nâng cao vị thế và uy tín


của việt nam trong khu vực và trên thế giới.
3. Liên hệ đại hội đảng bộ thành phố
a. Mục tiêu chung

Xây dựng Đảng bộ thành phố thật trong sạch, vững mạnh; tăng cường hiệu lực, hiệu
quả quản lý Nhà nước; không ngừng đổi mới, năng động, sáng tạo, giữ vững ổn định
chính trị - xã hội; nâng cao chất lượng tăng trưởng và năng lực cạnh tranh của kinh tế
thành phố, gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, xây dựng con người, thực
hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; nâng cao phúc lợi xã hội và chất
lượng cuộc sống của Nhân dân. Xây dựng thành phố Hồ Chí Minh có chất lượng sống
tốt, văn minh, hiện đại, nghĩa tình; có vai trò động lực trong sự nghiệp công nghiệp

hóa, hiện đại hóa đất nước; sớm trở thành một trong những trung tâm lớn về kinh
tế, tài chính, thương mại, khoa học - công nghệ của khu vực Đông Nam Á”.
Bảy chương trình đột phá
- Chương trình nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
- Chương trình cải cách hành chính
- Chương trình nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng lực cạnh tranh của kinh tế
thành phố đáp ứng yêu cầu hội nhập
- Chương trình giảm ùn tắc giao thông, giảm tai nạn giao thông
- Chương trình giảm ngâp nước
- Chương trình giảm ô nhiễm môi trường
- Chương trình chỉnh trang và phát triển đô thị

Ghi chú

Nội dung
Câu 5: Những thành tựu nổi bật trong quá trình đổi mới đất nước hơn 30

năm qua, liên hệ thực tiễn TPHCM?
Bài làm:

Trả lời:

1.Nêu 5 thành tựu nổi bật(Giáo trình Lịch Sử Đảng trang 335 ->338)
2.Liên hệ thực tiễn TPHCM(dựa vào những thành tựu đạt được theo văn
kiện ĐH X đảng bộ TPHCM).
Vị trí, vai trò đầu tàu về kinh tế - xã hội của Thành phố đối với khu vực và cả
nước tiếp tục được phát huy, góp phần cùng cả nước kiểm soát lạm phát, ổn
định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội. Nhờ tập trung chuyển dịch cơ cấu
kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng đúng hướng, phát triển của ngành
dịch vụ, công nghiệp có giá trị gia tăng và hàm lượng khoa học - công nghệ cao,



×