Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Thế giới nghệ thuật trong ba tập truyện ngắn của Ma Văn Kháng: San Cha Chải, Nỗi nhớ mưa phùn, Bài ca Trăng sáng (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (955.89 KB, 104 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

PHẠM LINH ANH

THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT TRONG BA TẬP TRUYỆN
NGẮN CỦA MA VĂN KHÁNG: SAN CHA CHẢI,
NỖI NHỚ MƯA PHÙN, BÀI CA TRĂNG SÁNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Thái Nguyên, 2017


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

PHẠM LINH ANH

THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT TRONG BA TẬP TRUYỆN
NGẮN CỦA MA VĂN KHÁNG: SAN CHA CHẢI,
NỖI NHỚ MƯA PHÙN, BÀI CA TRĂNG SÁNG
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN NGỌC THIỆN

Thái Nguyên, 2017



LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian học tập, nghiên cứu, dưới sự chỉ bảo, dạy dỗ tận tình
của các thầy cô giáo và sự giúp đỡ của bạn bè, gia đình, luận văn đã được hoàn
thành.
Trước tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành sâu sắc tới thầy giáo
hướng dẫn luận văn: PGS.TS Nguyễn Ngọc Thiện - người đã nhiệt tình chỉ
bảo, hướng dẫn từ khi hình thành ý tưởng, lựa chọn đề tài, xây dựng đề cương,
nghiên cứu tài liệu liên quan và hoàn thành Luận văn này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô giáo khoa Ngữ Văn,
Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên.
Đồng thời tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến bạn bè, nhất là những người
thân trong gia đình đã khích lệ động viên tinh thần, tạo điều kiện thuận lợi, giúp
đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, khảo cứu để tôi hoàn thành luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, tháng 04/2017
Tác giả luận văn

Phạm Linh Anh

ii


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 7
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 7

6. Đóng góp luận văn ........................................................................................ 8
7. Cấu trúc luận văn .......................................................................................... 8
Chương 1: KHÁI NIỆM THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT VÀ QUAN NIỆM CỦA
MA VĂN KHÁNG VỀ VĂN CHƯƠNG NGHỆ THUẬT .............................. 9
1.1. Khái niệm về thế giới nghệ thuật ............................................................... 9
1.2. Vài nét về cuộc đời, sự nghiệp của Ma Văn Kháng ................................ 10
1.2.1. Cuộc đời của Ma Văn Kháng ............................................................... 10
1.2.2. Quá trình sáng tác của Ma Văn Kháng ................................................. 12
1.2.2.1. Giai đoạn thứ nhất: Gắn bó với mảnh đất Lào Cai với đề tài dân tộc
miền núi ........................................................................................................... 12
1.2.2.2. Giai đoạn thứ hai: Trở về Hà Nội với đề tài đời sống thành thị ........ 13
1.3. Quan niệm của Ma Văn Kháng về văn chương nghệ thuật ..................... 14
1.3.1. Quan niệm Ma Văn Kháng về sống và viết .......................................... 16
1.3.2. Quan niệm Ma Văn Kháng về lao động văn chương ............................ 19
1.3.2. Ma Văn Kháng quan niệm “Nhà văn - triệu phú chữ” ......................... 22
Chương 2: NHÂN VẬT VÀ KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG BA
TẬP TRUYỆN NGẮN SAN CHA CHẢI, NỖI NHỚ MƯA PHÙN,............... 25
BÀI CA TRĂNG SÁNG CỦA MA VĂN KHÁNG.......................................... 25
2.1. Tổng quan về ba tập truyện San Cha Chải, Nỗi nhớ mưa phùn, Bài ca
Trăng sáng....................................................................................................... 25
2.1.1. Tập truyện San Cha Chải ...................................................................... 25

iii


2.1.2. Tập truyện Nỗi nhớ mưa phùn .............................................................. 25
2.1.3. Tập truyện Bài ca Trăng sáng............................................................... 26
2.2. Nhân vật trong ba tập truyện ngắn San Cha Chải, Nỗi nhớ mưa phùn, Bài
ca Trăng sáng .................................................................................................. 26
2.2.1. Khái niệm nhân vật văn học .................................................................. 26

2.2.2. Các loại nhân vật trong ba tập truyện ngắn San Cha Chải, Nỗi nhớ mưa
phùn, Bài ca Trăng sáng ................................................................................. 28
2.2.2.1. Nhân vật con người ............................................................................ 28
2.2.2.2. Nhân vật loài vật ................................................................................ 46
2.3. Không gian nghệ thuật trong ba tập truyện ngắn San Cha Chải, Nỗi nhớ
mưa phùn, Bài ca Trăng sáng ......................................................................... 49
2.3.1. Khái niệm không gian nghệ thuật ......................................................... 49
2.3.2. Các kiểu không gian nghệ thuật trong ba tập truyện ngắn San Cha Chải,
Nỗi nhớ mưa phùn, Bài ca Trăng sáng ........................................................... 50
2.3.2.1. Không gian miền núi .......................................................................... 50
2.3.2.2. Không gian đô thị ............................................................................... 58
2.3.2.2. Không gian làng quê .......................................................................... 60
Chương 3: NGHỆ THUẬT TỰ SỰ TRONG BA TẬP TRUYỆN NGẮN SAN
CHA CHẢI, NỖI NHỚ MƯA PHÙN, BÀI CA TRĂNG SÁNG CỦA MA VĂN
KHÁNG .......................................................................................................... 64
3.1. Điểm nhìn trần thuật................................................................................. 64
3.1.1. Khái niệm điểm nhìn trần thuật............................................................. 64
3.1.2. Điểm nhìn bên ngoài ............................................................................. 66
3.1.3. Điểm nhìn bên trong.............................................................................. 69
3.1.4. Sự dịch chuyển và kết hợp các điểm nhìn trần thuật ............................ 73
3.2. Ngôn ngữ trần thuật ................................................................................. 76
3.2.1. Khái niệm ngôn ngữ trần thuật.............................................................. 76
3.2.2. Ngôn ngữ đời thường giản dị ................................................................ 77

iv


3.2.3. Ngôn ngữ giàu chất thơ ......................................................................... 81
3.3. Giọng điệu trần thuật ................................................................................ 82
3.3.1. Khái niệm giọng điệu trần thuật ............................................................ 82

3.3.2. Giọng điệu triết lý, tranh biện ............................................................... 83
3.3.3. Giọng điệu ngợi ca ................................................................................ 85
3.3.4. Giọng điệu thương cảm, xót xa ............................................................. 87
3.3.5. Giọng điệu mỉa mai, châm biếm ........................................................... 89
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 93
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 95

v


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1 Ma Văn Kháng là một trong những nhà văn xuất sắc của nền văn học
hiện đại Việt Nam. Trong hành trình lao động nghệ thuật hơn 50 năm miệt mài
không ngừng nghỉ, ông được khẳng định là “một cây bút văn xuôi sung sức, một
đời văn sáng tạo” của nền văn học nước nhà. Ông đã cho ra đời một khối lượng
tác phẩm đồ sộ: hơn 200 truyện ngắn, 20 tiểu thuyết, 1 hồi ký - tự truyện, 2 tập
bút ký - tiểu luận phê bình.
Trong thời kỳ đầu của sự nghiệp văn chương, hơn 20 năm sống làm việc
trải qua các nghề nhà giáo, nhà báo, nhà văn tại Lào Cai mảnh đất biên ải của Tổ
quốc, Ma Văn Kháng đã cho ra đời nhiều tác phẩm thuộc truyện ngắn và tiểu
thuyết. Trong sự nghiệp văn chương của mình, Ma Văn Kháng viết thành công
nhất trong hai thể loại tiểu thuyết và truyện ngắn. Truyện ngắn thể loại mà ông
viết nhiều nhất, được mệnh danh là thể loại “giống như một búp chè được sao
khô, nén chặt lại, nhưng khi dội nước vào nó tở ra, cho cả 1 đại dương nước trà
thơm”[16]. Năm 1961 ông trình làng truyện ngắn đầu tay Phố cụt (Văn Nghệ số
136, ngày 3.3.1961) từ đó đến nay là hơn 200 truyện ngắn.
Kho tàng truyện ngắn của Ma Văn Kháng có thể tạm chia làm hai nhóm
đề tài đó là: Nhóm đề tài dân tộc miền núi và nhóm đề tài thành thị. Về đề tài
dân tộc miền núi, ngòi bút của nhà văn hướng về phản ánh đời sống lao động và

công cuộc đấu tranh bảo vệ biên ải của đồng bào các dân tộc miền núi Tây Bắc.
Đó là các tập truyện như: Bài ca Trăng sáng (1972), Góc rừng xinh xắn (1972),
Người con trai họ Hạng (1972), Mùa mận hậu (1972),… và gần đây nhất có thể
kể đến tập truyện ngắn San Cha Chải được PGS.TS Nguyễn Ngọc Thiện tuyển
chọn với 17 truyện ngắn viết về cuộc sống của những con người miền núi và hình
ảnh các chiến sĩ công an mưu trí, dũng cảm. Những truyện ngắn ở nhóm đề tài này,
đã khẳng định tài năng, tâm huyết của ông với miền núi.

1


Về đề tài thành thị, ông đề cập về những vấn đề nóng hổi: đời tư, thế sự,
nhân sinh… Ông quan tâm đến nhiều lĩnh vực cuộc sống hôm nay như: tình yêu,
hôn nhân, tình dục, gia đình. Chúng được phản ánh qua các tập truyện: Trăng
soi sân nhỏ (1995), Trốn nợ (2008), Mùa thu đảo chiều (2012), Nỗi nhớ mưa
phùn (2015)…
Với nhiều đóng góp sáng tạo những tác phẩm có giá trị về mặt nội dung,
tư tưởng và nghệ thuật xuất sắc, ông đã vinh dự nhận được tặng nhiều Giải
thưởng, trong đó có các giải thưởng cao quý: Giải thưởng Văn học Đông Nam
Á năm 1998 với tập truyện ngắn Trăng soi sân nhỏ; Giải thưởng Nhà nước về
Văn học nghệ thuật đợt I năm 2001 (cho cụm tác phẩm: tiểu thuyết Đồng bạc
trắng hoa xòe, tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn, tập truyện ngắn Trăng soi
sân nhỏ); Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật đợt IV năm 2012
(cho cụm tác phẩm: Truyện ngắn chọn lọc, 3 tiểu thuyết Mưa mùa hạ, Côi cút
giữa cảnh đời, Gặp gỡ ở La Pan Tẩn).
1.2 Đã có nhiều công trình nghiên cứu về sáng tác của Ma Văn Kháng,
về thế giới nhân vật, nghệ thuật tự sự,... của ông. Các công trình này tập trung
chủ yếu vào hai thể loại tiểu thuyết và truyện ngắn. Tuy nhiên, những tập truyện
ngắn của ông mới xuất bản gần đây San Cha Chải, Nỗi nhớ mưa phùn, Bài ca
Trăng sáng cần được nghiên cứu.

1.3 Tìm hiểu thế giới nghệ thuật trong ba tập truyện ngắn San Cha Chải,
Nỗi nhớ mưa phùn, Bài ca Trăng sáng của nhà văn Ma Văn Kháng là một việc
làm cần thiết, vừa có ý nghĩa thực tiễn, vừa có ý nghĩa khoa học. Tuy nhiên, chưa
có công trình nào đi sâu nghiên cứu về thế giới nghệ thuật qua ba tập truyện ngắn
này. Vì vậy chúng tôi chọn đề tài: Thế giới nghệ thuật trong ba tập truyện ngắn
của Ma Văn Kháng: San Cha Chải, Nỗi nhớ mưa phùn, Bài ca Trăng sáng
làm đối tượng nghiên cứu của mình. Chúng tôi hi vọng, đề tài này sẽ góp phần
nhỏ bé vào làm sáng tỏ nét độc đáo, đặc sắc về nội dung và hình thức nghệ thuật
ngòi bút văn xuôi Ma Văn Kháng. Qua đó khẳng định được vị trí, đóng góp của

2


Ma Văn Kháng trong nền văn học Việt Nam đương đại. Đồng thời đây cũng là
cơ hội để bản thân tôi mở rộng thêm vốn kiến thức văn học và rèn luyện thêm
kỹ năng nghiên cứu và phân tích tác phẩm.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Là nhà văn có một chặng đường dài hơn nửa thế kỷ đóng góp cho nền
văn học nước nhà. Ngay từ tập truyện ngắn đầu tay của mình (1969), Ma Văn
Kháng đã được giới nghiên cứu, phê bình và độc giả chú ý quan tâm. Nhiều
công trình nghiên cứu, phê bình đề cập đến một số phương diện trong sáng tác
của Ma Văn Kháng của một số tác giả như: GS Phong Lê, PGS.TS Nguyễn
Ngọc Thiện. PGS.TS Lã Nguyên, PGS.TS Đào Thủy Nguyên… được đăng
tải trên các sách báo và tạp chí.
GS Phong Lê đã nhận định: ‘‘Truyện ngắn Ma Văn Kháng là hiện tượng
nổi bật trong những năm 90’’ [24] có thể thấy Ma Văn Kháng khẳng định tài
năng, vị trí của mình trong lòng bạn đọc và giới nghiên cứu và phê bình ở thể
loại này.
PGS. TS Nguyễn Ngọc Thiện trong bài viết ‘‘Con người giữa dòng xoáy
ham muốn đời thường’’ đã nhận định: ‘‘Văn xuôi Ma Văn Kháng đang ở đỉnh

cao của phong độ đã hướng ngòi bút chú mục đào sâu, soi lật cặn kẽ, nghiêm
ngặt vào một khía cạnh hiện diện như một thực thể khó nắm bắt trong đời sống
con người hiện đại hôm nay. Đó là sự thúc đẩy, chi phối nhiều khi với một sức
mạnh vô hình, nhưng khắc nghiệt của những ham muốn tiềm ẩn nơi mỗi con
người, hoặc là sự xung đột, va chạm gay gắt về lợi ích giữa những dục vọng
của những cá thể khác nhau’’. Cũng trong bài viết này tác giả đưa ra nhận xét
về thế giới nhân vật trong văn xuôi Ma Văn Kháng: ‘‘Trong cái nhìn con người,
ông không lý tưởng hóa, tô vẽ nó nhân danh những tín điều cao siêu. Ông đặt
con người vào đúng chỗ đứng của nó trên trần thế, vào giữa xã hội nhân quần
bao bọc lấy nó, và qua ham muốn, ông lần tìm động cơ, lẽ sống của mỗi con
người’’[45, tr.269 - 270]

3


PGS. TS Lã Nguyên với viết bài : ‘‘Khi nhà văn đào bới bản thể ở chiều
sâu tâm hồn’’ (1998) được in trong lời giới thiệu cuốn Truyện ngắn chọn lọc
Ma Văn Kháng, đã có cái nhìn tổng quát truyện ngắn của Ma Văn Kháng. Dựa
vào sắc điệu cảm hứng thẩm mỹ, tác giả chia truyện ngắn Ma Văn Kháng thành
ba nhóm: Nhóm thứ nhất những tác phẩm chủ yếu về đề tài miền núi “những
truyện ngắn thể hiện cái nhức nhối, xót xa, giận mà thương cho sự hoang dã
mông muội của những kẻ chưa thành người và những người không được làm
người”. Nhóm thứ hai chủ yếu là những truyện ngắn viết về đời sống thành thị
trước sự đổi thay của đất nước sau chiến thắng 1975 “những truyện ngắn cất
lên tiếng nói cảm khái thâm trầm trước thế sự hôm nay”. Nhóm thứ ba gắn với
đề tài tính dục “những truyện ngắn thể hiện cảm hứng trào lộng trang nghiêm
trước vẻ đẹp của cuộc đời sinh hoá hồn nhiên”. Tác giả cũng chỉ ra một số đặc
điểm nghệ thuật của truyện ngắn Ma Văn Kháng: tính công khai bộc lộ chủ đề,
sự cố ý tô đậm chân dung, tính cách nhân vật, việc lồng giai thoại vào cốt
truyện, đưa thành ngữ, tục ngữ vào ngôn ngữ nhân vật… Cũng trong bài viết

này, tác giả đã đưa ra nhận xét: “Ma Văn Kháng là nhà văn của cái đẹp trong
dòng đời sinh hóa bình dị, hồn nhiên, cái đẹp trong niềm hạnh phúc được làm
người với ý nghĩa đích thực của nó chứ không phải là cái gì khác, Ma Văn
Kháng đã cất lên tiếng nói riêng” [31].
Tác giả Phạm Mai Anh với đề tài luận văn thạc sĩ: Đặc điểm nghệ thuật
của truyện ngắn Ma Văn Kháng từ sau 1980 (1997), đã tập trung khai thác một
số yếu tố nghệ thuật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng như: Kết cấu, nhân vật,
ngôn ngữ. Tác giả đã bám sát đề tài và có những đóng góp đáng kể khi nhìn nhận
một số phương diện nghệ thuật của truyện ngắn Ma Văn Kháng.
Trong công trình nghiên cứu: Đặc điểm truyện ngắn của Ma Văn Kháng
về đề tài dân tộc miền núi (2009) PGS.TS Đào Thủy Nguyên đã đi sâu nghiên
cứu những vấn đề nhân sinh, thế sự, những thành công đặc sắc về nghệ thuật
xây dựng nhân vật và sử dụng ngôn từ trong truyện ngắn viết về đề tài dân tộc
và miền núi của Ma Văn Kháng.

4


Đỗ Phương Thảo trong bài viết: ‘‘Vài suy nghĩ về phương diện nghệ
thuật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng’’ cho rằng cách dựng truyện là yếu tố
tạo nên sự hấp dẫn trong truyện ngắn Ma Văn Kháng: ‘‘cốt truyện đơn giản,
không có nhiều tình huống nổi bật, then chốt, ít xung đột và mâu thuẫn lớn song
có sự bứt phá đầy sáng tạo’’ [41].
Ngoài ra còn kể đến nhiều công trình, bài báo tập trung nghiên cứu khám
phá đề cập đến một số phương diện khía cạnh truyện ngắn Ma Văn Kháng như:
- Nghệ thuật tự sự trong sáng tác của Ma Văn Kháng, Tác giả Đỗ Phương
Thảo, Chuyên luận, NXB Văn học, 2008.
- ‘‘Phong cách văn xuôi miền núi của Ma Văn Kháng’’, Phạm Duy
Nghĩa, Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, (số 175) tháng 8/2009.
- ‘‘Nghệ thuật tự sự trong sáng tác của Ma Văn Kháng’’, Nguyễn Ngọc

Thiện, Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, (số 186) tháng 7/2010.
- “Những người đàn bà của nhà văn Ma Văn Kháng”, Hoài Nam, Văn
nghệ Công an, (số 279), 2016.
Bên cạnh đó, chúng tôi lưu ý một số luận văn, đề tài nghiên cứu tiêu biểu:
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng của Nguyễn Thị
Thanh Nga (2007); Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng
thời kỳ đổi mới của Nguyễn Hải Yến (2010); Đặc điểm truyện ngắn Ma Văn
Kháng thời kỳ đổi mới của Nguyễn Thị Hồng Thắm (2013)…
Gần đây nhất, có thể kể đến ba công trình của Nguyễn Minh Hạnh, Bùi
Thị Thúy, Lê Thị Thanh Nhàn, bước đầu nghiên cứu về từng tập truyện ngắn
San Cha Chải, Nỗi nhớ mưa phùn của Ma Văn Kháng. Với đề tài: Thế giới
nhân vật trong các tập truỵên ngắn gần đây của Ma Văn Kháng (Trốn nợ 2008, Mùa thu đảo chiều - 2012, San Cha Chải - 2013), tác giả Nguyễn Minh
Hạnh đã đi sâu khai tác thế giới nhân vật trong ba tập truyện này qua cách phân

5


loại nhân vật, nghệ thuật thể hiện nhân vật, giọng điệu, ngôn ngữ, tình huống
truyện.
Còn với tác giả Bùi Thị Thúy tiếp tục nghiên cứu về thế giới nhân vật
trong tập truyện ngắn San Cha Chải. Song tác giả lại nghiên cứu cùng tập
truyện vừa, viết sau tập truyện ngắn San Cha Chải với đề tài luận văn: Thế giới
nhân vật trong hai tập truyện của Ma Văn Kháng (San Cha Chải và Xa xôi
Thôn Ngựa Già). Trong luận văn này, tác giả đã tập trung khai thác, phân loại
thế giới nhân vật, nghệ thuật thể hiện nhân vật, giọng điệu, ngôn ngữ.
Với luận văn Nghệ thuật tự sự trong hai tập truyện ngắn Bông hồng
vàng; Nỗi nhớ mưa phùn của Ma Văn Kháng, tác giả Lê Thị Thanh Nhàn đã
tập trung khai thác một số yếu tố nghệ thuật trong hai tập truyện như: miêu tả
nhân vật, điểm nhìn trần thuật và giọng điệu.
Qua việc tìm hiểu các công trình nghiên cứu truyện ngắn Ma Văn Kháng,

chúng tôi nhận thấy những bài viết các tác giả trên đã khẳng định đặc sắc nội
dung và nghệ thuật trong sáng tác của Ma Văn Kháng, song các yếu tố làm nên
thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn của ông mới chỉ được quan tâm ở mức độ
nhất định. Đặc biệt chưa có tác giả nào có điều kiện nghiên cứu tác phẩm mới
xuất bản Bài ca Trăng Sáng của Ma Văn Kháng, cũng như đi sâu tìm hiểu
không gian nghệ thuật trong ba tập truyện ngắn San Cha Chải, Nỗi nhớ mưa
phùn, Bài ca Trăng sáng. Thực tế đó đã gợi ý cho chúng tôi lựa chọn đề tài
Thế giới nghệ thuật trong ba tập truyện ngắn của Ma Văn Kháng: San Cha
Chải, Nỗi nhớ mưa phùn, Bài ca Trăng sáng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Để hoàn thành luận văn này chúng tôi sẽ thực hiện những nhiệm vụ sau:
Làm sáng tỏ các khái niệm lý luận liên quan thế giới nghệ thuật, hành
trình sáng tạo của nhà văn Ma Văn Kháng.

6


Tìm hiểu thế giới nghệ thuật ba tập truyện ngắn San Cha Chải, Nỗi nhớ
mưa phùn, Bài ca Trăng sáng của Ma Văn Kháng thể hiện ở các phương diện:
nhân vật, không gian, điểm nhìn trần thuật, ngôn ngữ, giọng điệu từ đó khẳng
định những đóng góp của Ma Văn Kháng đối với nền văn học Việt Nam hiện
đại.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Chúng tôi tập trung nghiên cứu sự phong phú, đa dạng thuộc thế giới
nghệ thuật trong ba tập truyện ngắn San Cha Chải, Nỗi nhớ mưa phùn, Bài
ca Trăng sáng.
- Đặc sắc về nhân vật.
- Đặc sắc về không gian nghệ thuật.
- Đặc sắc về nghệ thuật tự sự qua cái nhìn nghệ thuật, ngôn ngữ và giọng

điệu trần thuật trong ba tập truyện ngắn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Giới hạn chủ yếu qua ba tập truyện ngắn của Ma Văn Kháng: Tập truyện
San Cha Chải (Nhà xuất bản Công An Nhân Dân - 2013, 288 trang); Tập
truyện Nỗi nhớ mưa phùn (Nhà xuất bản Lao Động - 2015, 290 trang); Tập
truyện Bài ca Trăng sáng (Nhà xuất bản Kim Đồng - 2015, 202 trang).
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng nhiều phương pháp nghiên cứu nhằm phù hợp với
đối tượng và mục đích nghiên cứu như:
- Phương pháp nghiên cứu tác giả
- Phương pháp so sánh - đối chiếu
- Phương pháp nghiên cứu phân loại - thống kê

7


- Phương pháp phân tích - tổng hợp
6. Đóng góp luận văn
Với đề tài Thế giới nghệ thuật trong ba tập truyện ngắn của Ma Văn
Kháng: San Cha Chải, Nỗi nhớ mưa phùn, Bài ca Trăng sáng, chúng tôi
mong muốn nghiên cứu, khám phá, phân tích sự đa dạng về thế giới nghệ thuật
trong ba tập truyện ngắn trên. Ở tuổi cao nhưng nhà văn vẫn không ngừng thể
nghiệm những tìm tòi, sáng tạo mới. Qua đó, chúng tôi khẳng định tài năng,
phong cách nghệ thuật của nhà văn và những đóng góp về tư tưởng, giá trị nhân
văn của ba tập truyện.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Nội dung chính của
luận văn được triển khai thành ba chương
+ Chương 1: Khái niệm thế giới nghệ thuật và quan niệm của Ma Văn
Kháng về văn chương nghệ thuật.

+ Chương 2: Nhân vật và không gian nghệ thuật trong ba tập truyện ngắn
San Cha Chải, Nỗi nhớ mưa phùn, Bài ca Trăng sáng của Ma Văn Kháng.
+ Chương 3: Nghệ thuật tự sự trong ba tập truyện ngắn San Cha Chải,
Nỗi nhớ mưa phùn, Bài ca Trăng sáng của Ma Văn Kháng.

8


NỘI DUNG
Chương 1
KHÁI NIỆM THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT VÀ QUAN NIỆM CỦA
MA VĂN KHÁNG VỀ VĂN CHƯƠNG NGHỆ THUẬT
1.1. Khái niệm về thế giới nghệ thuật
Nhà văn Seđrin đã nói “Tác phẩm văn học là một vũ trụ thu nhỏ, mỗi sản
phẩm nghệ thuật là thế giới khép kín trong bản thân nó” [Dẫn theo 5]. Một tác
phẩm hay toàn vẹn phải có thế giới nghệ thuật riêng độc đáo.
Bêlinxki cũng từng nhận xét: “Mọi sản phẩm nghệ thuật đều là một thế
giới riêng mà khi đi vào đó thì ta buộc phải sống theo các quy luật của nó, hít
thở không khí của nó” [Dẫn theo 5].
Thế giới nghệ thuật là khái niệm được sử dụng nhiều trong văn học. Theo
nhóm tác giả Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên)
trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học thì thế giới nghệ thuật là: “Khái niệm về
tính chỉnh thể của sáng tác nghệ thuật (một tác phẩm, một loại hình tác phẩm,
sáng tác của một tác giả, một trào lưu). Thế giới nghệ thuật nhấn mạnh rằng
sáng tác nghệ thuật là một thế giới riêng, được tạo ra theo nguyên tắc tư tưởng
(…) Khái niệm thế giới nghệ thuật giúp ta hình dung tính độc đáo về tư duy
nghệ thuật của sáng tác nghệ thuật, có cội nguồn trong thế giới quan, văn hóa
chung, văn hóa nghệ thuật và có tính sáng tạo của người nghệ sĩ”. [6, tr.302 303]
Thế giới nghệ thuật là thế giới được người nghệ sĩ sáng tạo trong tác
phẩm văn học. Thế giới nghệ thuật phản ánh đời sống ngoài đời thực của con

người song nó khác với thế giới vật chất tâm lí của con người. “Là một thế giới
riêng được sáng tạo theo các nguyên tắc tư tưởng, khác với thế giới thực tại vật
chất hay thế giới tâm lí của con người, mặc dù nó phản ánh thế giới ấy. Thế
giới nghệ thuật có không gian riêng, thời gian riêng, có quy luật tâm lí riêng,

9


có quan hệ xã hội riêng, quan niệm đạo đức, thang bậc giá trị riêng,… chỉ xuất
hiện một cách ước lệ trong sáng tác nghệ thuật”. [6, tr.302 - 303].
Lý luận văn học tập 2 do GS. Trần Đình Sử (chủ biên) khẳng định: “Gọi
bằng thế giới nghệ thuật bởi vì đó là cấu tạo đặc biệt, có sự thống nhất không
tách rời, vừa có sự phản ánh thực tại, vừa có sự tưởng tượng sáng tạo của tác
giả, có sự khúc xạ thế giới bên trong nhà văn. Thế giới này chỉ có trong tác
phẩm và trong tưởng tượng nghệ thuật (…) Thế giới nghệ thuật là thế giới tư
tưởng, thế giới thẩm mỹ, thế giới tinh thần của con người… Và “Một thế giới
nghệ thuật nhất định với tư cách là hệ thống không đặc trưng cho tác phẩm đó,
mà còn đặc trưng cho cả nhà văn nói chung (…) Nghiên cứu cấu trúc của thế
giới nghệ thuật vừa cho ta hiểu hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm, quan
niệm của tác giả về thế giới, vừa có thể khám phá thế giới bên trong ẩn kín của
nhà văn, cái thế giới chi phối sự hình thành phong cách nghệ thuật” [40, tr.8183].
Từ những định nghĩa trên ta có thể thấy: thế giới nghệ thuật là sản phẩm
sáng tạo của người nghệ sĩ. Là thế giới thứ hai mà người nghệ sĩ sáng tạo ra
trong tác phẩm văn học của mình theo những nguyên tắc tư tưởng - thẩm mỹ,
thế giới nghệ thuật bao gồm toàn bộ các phương diện về nội dung và hình thức
một tác phẩm văn học. Là đứa con tinh thần của người nghệ sĩ, thế giới nghệ
thuật phản ánh đời sống hiện thực vào trong tác phẩm văn học thể hiện cá tính
độc đáo, phong cách nghệ thuật của nhà văn. Trong từng tác phẩm của mình
tác giả đều có những thế giới nghệ thuật riêng của mình.
1.2. Vài nét về cuộc đời, sự nghiệp của Ma Văn Kháng

1.2.1. Cuộc đời của Ma Văn Kháng
Ma Văn Kháng tên thật là Đinh Trọng Đoàn, sinh ngày 01 tháng 12 năm
1936, quê ở làng Kim Liên, thuộc Kẻ Chợ, nay là phường Phương Liên, quận
Đống Đa, Hà Nội. Lớn lên trong phong trào cách mạng và kháng chiến chống

10


thực dân Pháp diễn ra sôi nổi ở khắp nơi. Ngày từ thủa còn thiếu niên, Định
Trọng Đoàn đã tham gia Thiếu sinh quân và được cử đi học ở Khu học xá Trung
Quốc.
Năm 1954, cuộc kháng chống Pháp thắng lợi, hòa bình được lập lại ở
miền Bắc. Đinh Trọng Đoàn tốt nghiệp trường trung cấp Sư phạm ở Nam Ninh,
Trung Quốc, theo tiếng gọi Tổ Quốc ông đã xung phong lên Tây Bắc dạy học
tình nguyện ở Lào Cai. Cũng chính tại mảnh đất Lào Cai “miền đất vàng”, trong
một chuyến đi công tác ở nông thôn, Đinh Trọng Đoàn đã làm quen cảm phục
kết nghĩa anh em với một cán bộ người Kinh mang họ Ma đó là đồng chí Ma
Văn Nho Phó Chủ tịch huyện Bảo Thắng, bèn cải tên họ mới của người anh ơn
sâu kết nghĩa này. Cái tên mới của Đinh Trọng Đoàn chuyển thành Ma Văn
Kháng và được ông sử dụng ký học bạ cho học sinh, ông cũng lấy tên này là
bút danh trong viết văn.
Năm 1960, ông về Hà Nội học Đại học Sư Phạm I, năm 1963 sau khi tốt
nghiệp ông trở về Lào Cai tiếp tục dạy học. Hơn 20 năm ở Lào Cai ông lần lượt
làm giáo viên đứng lớp; làm hiệu trưởng trường cấp II, cấp III; Thư ký cho Bí
thư Tỉnh ủy; phóng viên rồi Phó tổng biên tập báo Lào Cai.
Ông được kết nạp vào Hội nhà văn Việt Nam năm 1974, năm 1976, Ma
Văn Kháng rời Lào Cai về Thủ đô Hà Nội công tác, chuyên tâm với nghề viết
văn - báo chí - xuất bản. Nhiều năm liền ông giữ chức vụ Phó Giám đốc kiêm
Tổng biên tập Nhà xuất bản Lao Động. Ông cũng từng đảm nhiệm các cương
vị khác nhau như: Trưởng ban sáng tác, Trưởng ban Tổ Chức - Hội viên, Tổng

biên tập tạp chí Văn học nước ngoài, ủy viên ban chấp hành Hội Nhà văn Việt
Nam, ủy viên Đảng đoàn Hội. Ở cương vị công tác nào, ông cũng là người dễ
mến, sống chan hòa với mọi người, luôn hòa thành xuất sắc nhiệm vụ của mình.
Cuộc đời lao động vất vả, trải nghiệm nhiều nghề đã để lại dấu ấn trên nhiều
trang viết đậm đà hơi thở cuộc sống của Ma Văn Kháng.

11


1.2.2. Quá trình sáng tác của Ma Văn Kháng
Hơn nửa thế kỷ lao động cẩn mẫn, đầy tâm huyết hăng say với nghề Ma
Văn Kháng có một sự nghiệp văn chương đồ sộ gồm hơn 8 nghìn trang in, với
hơn 200 truyện ngắn, 20 tiểu thuyết, 1 hồi ký - tự truyện, 2 tập bút ký - tiểu luận
phê bình. Mỗi tác phẩm của ông là tiếng nói, là sự chia sẻ cảm thông với những
số phận bất hạnh của con người, là sự đấu tranh cho cái đẹp và cái thiện trong
cuộc sống. Trong sự nghiệp văn chương của mình Ma Văn Kháng viết thành
công nhất trong hai thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết. Căn cứ đề tài, cảm hứng
trong sáng của ông có thể chia quá trình sáng tác làm hai giai đoạn:
1.2.2.1. Giai đoạn thứ nhất: Gắn bó với mảnh đất Lào Cai với đề tài dân tộc
miền núi
Ma Văn Kháng đến với Lào Cai như một cái “duyên” của cuộc đời. Ông
từng tâm sự rằng “tôi bị hấp dẫn bởi mảnh đất này, và tôi cảm giác mình có thể
làm điều gì đó ở đây”. Lào Cai nơi ông bắt đầu lập nghiệp, thành danh với bút
danh Ma Văn Kháng. Ông nhận ra: “miền núi cần khám phá cả trong cái nhìn
chung của đời sống vừa phải có nét đặc trưng riêng”. Theo ông: “Cái quy lụât
chung cần tồn tại trong cái riêng biệt cụ thể, độc đáo và cái riêng biệt ấy có
nguồn rất sâu xa tự trong lịch sử, địa dư và nền văn hóa dân tộc Lào Cai - một
tỉnh có hơn hai mươi dân tộc anh em sinh sống” [Dẫn theo 11]. Quan niệm ấy
đã trở thành yếu tố quan trọng tạo nên thành công của Ma Văn Kháng về mảng
đề tài dân tộc miền núi.

Chính bút danh Ma Văn Kháng cũng nói lên tâm nguyện của nhà văn “Tôi
muốn làm một sự hóa thân”. Những năm tháng gắn bó cùng ăn, cùng ở, cùng lao
động sản xuất với người dân đã giúp Ma Văn Kháng có những chuyến đi đến
từng bản làng, hòa mình vào cuộc sống của người dân, giúp ông có thêm vốn
sống sự am hiểu về văn hóa, tập tục, tâm lý của đồng bào miền núi, đã tạo cho
ông nguồn cảm hứng viết.

12


Bằng tình yêu, sự gắn bó với mảnh đất ấm áp tình người đầy biến động,
người nghệ sĩ Ma Văn Kháng sáng tác bắt đầu từ truyện ngắn Phố Cụt được
trang trọng in trên trang nhất của tuần báo Văn nghệ số 136 (1961) và sau đó ông
liên tiếp cho ra đời các tập truyện ngắn Xa phủ (1969), Bài ca trăng sáng (1972),
Góc rừng xinh xắn (1972), Người con trai họ Hạng (1972), Mùa mận hậu
(1972) … Những tập truyện ngắn thời kỳ này của Ma Văn Kháng thể hiện tình
cảm trước những vẻ đẹp thiên nhiên kỳ thú và con người miền núi hiền lành,
mộc mạc, giản dị. Người đọc sẽ bắt gặp trong những truyện này hình ảnh về
những con người miền núi mộc mạc, giản dị một lòng theo cách mạng, không
quản khó khăn, vất vả. Những tác phẩm viết về đề tài dân tộc miền núi này của
ông mang đậm tính lịch sử dân tộc.
Vốn sống phong phú, sự ưa tìm tòi, không ngừng nỗ lực học hỏi say mê
của bản thân trong sáng tạo nghệ thuật đã giúp Ma Văn Kháng khẳng định tên
tuổi của mình trong mảng văn xuôi hiện đại viết về đề tài miền núi. Ông là một
trong số ít những nhà văn hiện đại của nền văn học Việt Nam thành công khi viết
về mảng đề tài này.
1.2.2.2. Giai đoạn thứ hai: Trở về Hà Nội với đề tài đời sống thành thị
Sau khi đất nước hoàn toàn được giải phóng, năm 1976 Ma Văn Kháng
rời Lào Cai trở về Hà Nội hoạt động với tư cách nhà báo, nhà văn chuyên nghiệp.
Lào Cai mảnh đất ông đã gắn bó hơn 20 năm coi như quê hương thứ hai của

mình, nơi cho ra đời những trang viết đầu tiên đã để trong ông biết bao kỷ niệm
“Xa Lào Cai rồi, nhưng những gì đã cảm hội được trong hai mươi năm trời, sống
cùng đồng chí bạn bè một đời cần lao, giản dị ở vùng đất này của Tổ quốc, ngày
đêm giục giã tôi viết tiếp” [21]. Những ấn tượng về mảnh đất thấm đẫm tình
người, những dư âm của chiến tranh được Ma Văn Kháng gửi gắm vào các tập
truyện Vệ sĩ Quan Châu (1988), Móng vuốt thời gian (2003). Và các tiểu thuyết:
Gió rừng; Đồng bạc trắng hoa xòe (1979), Vùng biên ải (1981), Gặp gỡ ở La
Pan Tẩn (2001).

13


Thời điểm ông trở về Hà Nội vào đúng lúc đất nước đang chuyển mình
sang giai đoạn mới. Cuộc sống đô thị diễn ra phức tạp và nhanh chóng. Đứng
trước sự thay đổi đó, con người cũng cần thay đổi cho phù hợp với thực tại. Ma
Văn Kháng nhạy cảm trước hiện thực mới. Ông vẫn gìn giữ những kỷ niệm gắn
bó với mảnh đất Lào Cai đồng thời thêm cảm nhận về những bề bộn lo toan,
phức tạp, bon chen mưu sinh của cuộc sống thành thị. Ông hướng ngòi bút của
mình vào mảng đề tài thành thị, quan tâm tới những mảnh đời số phận bất hạnh,
những cảnh đời éo le nhưng vẫn khát khao vươn lên bằng sức sống mãnh liệt.
Sáng tác của ông thời kỳ này bắt đầu nở rộ có thể kể đến các tác phẩm xuất sắc
đó là các tiểu thuyết: Mưa mùa hạ (1982), Mùa lá rụng trong vườn (1985), Đám
cưới không có giấy giá thú (1988), Côi cút giữa cảnh đời (1988), Chó Bi, đời lưu
lạc (1992), Ngược dòng nước lũ (1999). Và các tập truyện ngắn Trăng soi sân
nhỏ (1995), Heo may gió lộng (1992), Nỗi nhớ mưa phùn (2015) Bông hồng
vàng (2015)…
Sự thay đổi về đề tài trong sáng tác nghệ thuật của ông đi liền với sự đổi
về cảm hứng: từ cảm hứng lịch sử dân tộc ông chuyển sang cảm hứng thế sự đời
tư. Từ cái nhìn về cuộc sống đơn tuyến giờ đây ông đã chuyển sang cái nhìn về
cuộc sống đa tuyến, nhiều chiều con người với tất cả các mặt tốt - xấu, thiện - ác

đan xen lẫn nhau. Truyện ngắn thời kỳ này của ông thấm đẫm tinh thần nhân
bản về vẻ đẹp tình người, tình đời.
Đặc biệt trong sự nghiệp văn chương của mình ngoài truyện ngắn và tiểu
thuyết Ma Văn Kháng còn viết Hồi ký, và tiểu luận phê bình.
1.3. Quan niệm của Ma Văn Kháng về văn chương nghệ thuật
Trong cuộc đời hoạt động văn chương của mình, Ma Văn Kháng khởi
nghiệp văn xuôi bằng thể loại truyện ngắn và thể loại này cũng giúp ông đã giặt
hái được nhiều thành công nhất, nó giúp ông khẳng được tên tuổi của mình
trong nền văn học Việt Nam với những tác phẩm để đời. Từ truyện ngắn đầu

14


tay Phố cụt đến Heo may gió lộng, San Cha Chải... đến những tiểu thuyết Mùa
lá rụng trong vườn, Mưa mùa hạ... với phong cách sáng tạo độc đáo và vốn
hiểu biết dồi dào, những tác phẩm này của ông đã có một vị trí đáng kể, gây ấn
tượng, chiếm lĩnh cảm tình sự tin yêu của người đọc.
Hơn nửa thế kỷ lao động mệt mài cống hiến cho sự nghiệp văn chương
nước nhà, năm 2012 Ma Văn Kháng cho ra đời tác phẩm Phút giây huyền diệu
và năm 2015 ông tiếp tục cho ra đời tác phẩm Nhà văn anh là ai ?. Đây là hai
tác phẩm ghi lại những tâm sự chân thành, cởi mở của nhà văn về lao động viết
văn được đúc rút từ những kỷ niệm đã trải qua của nghề văn một công việc
nhọc nhằn, khổ ải ông chia sẻ: “Đó là toàn bộ những gì đã kết tinh lại trong
cuộc đời văn chương của tôi, đó là điều muốn nói lại với chính bản thân mình
cũng như mọi người” [38].
Qua tác phẩm Phút giây huyền diệu và một số bài tiểu luận được đăng
trên các tạp chí Văn nghệ trước đó, nhà văn đã bộc lộ quan niệm đối với nghề
trong hành trình lao động sáng tạo văn chương của mình. Ma Văn Kháng lý
giải cơ duyên gắn kết cuộc đời ông với nghề văn bằng một câu nói giản dị “yêu
nghề đến với nghề”. Trước khi bước vào con đường viết văn ông từng làm giáo

viên rồi chuyển sang làm thư ký cho Bí thư tỉnh Lào Cai. Bước chân của Ma
Văn Kháng được lưu lại rất nhiều nơi như: Y Tý, San Cha Chải, Lầu Thí Ngài,
Túng Séng Sui… đến nơi nào nhà văn cũng khám phá phong tục tập quán, đời
sống của từng dân tộc để làm giàu thêm vốn hiểu biết của mình. Ông đến với
nghề văn bằng tình yêu, điều này được kiểm chứng qua những tác phẩm ông
đã viết.
Giống như Nguyễn Tuân, con đường đến với nghề văn Ma Văn Kháng có
sự tương đồng bởi ông nói, “ông viết văn khởi đầu là tình yêu tiếng Việt, yêu vẻ
đẹp ngôn từ, vượt qua mọi thế cuộc, văn chương có những giá trị vĩnh hằng”. Có
thể thấy hai nhà văn Nguyễn Tuân và Ma Văn Kháng đến với văn chương gắn bó
với văn chương bằng tình yêu, trách nhiệm mong muốn giữ gìn tiếng Việt.

15


1.3.1. Quan niệm Ma Văn Kháng về sống và viết
Để có được thành công trong sự nghiệp văn chương như ngày hôm nay,
nhà văn Ma Văn Kháng đã phải cố gắng nỗ lực vượt lên những gian nan khổ
ải, không ngừng học hỏi ở những nơi ông đã đến, đã đi qua. Đọc tác phẩm của
ông, người đọc thấy được vốn kiến thức, sự am hiểu đa ngành như: triết học,
văn hóa, lịch sử, địa lý, nghệ thuật… Mỗi tác phẩm ông đều ghi dấu ấn riêng
của mình bởi nó thấm đẫm tình người, tình đời. Mỗi trang viết là cuộc đời, số
phận, những lát cắt của cuộc sống được ông đưa vào tác phẩm thật dung dị và
tự nhiên. Đó cũng là kết quả của những chuyến đi thực tế, lấy tư liệu từ chính
đời sống hằng ngày để ông viết lên những trang văn hay.
Cũng giống như nhà văn Nam Cao, Ma Văn Kháng quan niệm “sống rồi
hãy viết”, và coi cuộc sống chính là nguồn mạch sáng tạo của nhà văn.
Đề cao vốn sống, Ma Văn Kháng cho rằng muốn viết hay người nghệ sĩ
phải có vốn sống, được lấy tư liệu từ đời sống. Vốn sống, giúp cho nhà văn có
được cái nhìn đầy đủ hơn về những vấn đề cần phản ánh. Để có những tư liệu

đời sống nhà văn cần phải hòa vào đời sống, quăng mình vào cuộc sống, làm
đủ các nghề, tiếp xúc với đủ hạng người nếm đủ dư vị của cuộc đời: “Hiển
nhiên là ai cũng biết, muốn viết được, trước hết là phải có vốn sống, tức chất
liệu. Chất liệu là cuộc sống của chính mình. Bởi vì cái bí quyết thành công của
nhà văn là ở chỗ trên trang viết anh phải thể hiện mình đầy đủ nhất” [18, tr.78].
Cuộc sống đã đem lại cho nhà văn nguồn cảm hứng, tư liệu, cảm xúc để viết,
vốn sống là điều không thể thiếu của mỗi nhà văn, thiếu vốn sống nhà văn
không thể viết. Đồng thời Ma Văn Kháng cũng cho rằng muốn viết hay, người
nghệ sĩ phải viết bằng trải nghiệm sống trực tiếp, sống với tất cả “những chi tiết
vụn vặt của cuộc sống đang chảy trôi” (Dostoyevski). Người nghệ sĩ sống với
dung lượng rộng hơn, quan sát, cảm nhận bằng mọi giác quan “để cuộc sống
tràn vào mình tự nhiên như mưa lâu thấm đất, được hình dung là mở tất cả các

16


luân xa, nói theo ngôn ngữ nhà Phật, khai thông tất cả các giác quan và nhận
biết cuộc sống tràn vào anh. Tràn vào thế giới bên trong anh” [18, tr.80 - 81].
Khi được hỏi: “Để nói sự ra đời cuốn sách viết về nghề văn Phút giây
huyền diệu, thì tôi xin chọn ba chữ: Sống - Học - Viết”. Tư tưởng then chốt
này của Ma Văn Kháng được tiếp nối từ quan niệm của nhà thơ Chilê Pablo
Neruda, thi sĩ của tình yêu và đồng quê, giải Nobel văn học 1971, là ứng viên
trong cuộc bầu cử tổng thống của đất nước mình. Khi trả lời câu hỏi các phóng
viên báo chí: “Nếu được bầu vào ngôi vị nọ, liệu ông có tiếp tục viết nữa không?
Neruda thản nhiên đáp: Với tôi, viết là hít thở. Tôi không thể hít thở, và tôi
không thể sống mà không viết” [19. tr.10].
Sống - Học - Viết đã trở thành một nguyên tắc chủ đạo của một nhà văn
chân chính. Vấn đề chỉ là Sống thề nào? Học thế nào để làm nên mình khi cầm
bút? Về sống thế nào ta cứ theo dõi Ma Văn Kháng bộc lộ qua cuốn hồi ký
Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương. Mỗi chuyến đi thực tế là một

cuộc trải nghiệm tích lũy cho ông những chất liệu của cuộc sống, với bao điều
cần học hỏi. Khi cần một tác phẩm viết về con người miền Đông Nam Bộ và
cánh đồng lúa Đồng bằng sông Cửu Long ông đã có chuyến đi thực tế cùng ăn,
cùng ở, cùng làm việc với người dân, trải nghiệm đời sống lao động vùng sông
nước của nhân dân Tiền Giang, Hậu Giang, lấy tư liệu cảm xúc sáng tác và kết
quả ông thu lại là: “Hai tháng ở vùng đất xa lạ. Các sự kiện ghi đầy mấy cuốn
sổ tay. Cảm xúc ấn tượng dạt dào, tưởng như chỉ cần đặt bút là chữ nghĩa đổ
xuống trang giấy ào ào” [18, tr.73].
Ngoài học từ những chuyến đi trải nghiệm Ma Văn Kháng còn học từ
những kinh nghiệm của chính bản thân, những sự việc diễn ra trong cuộc đời
hoạt động văn nghệ của mình, trong những tình huống cụ thể để từ đó ông khái
quát nhận thức về “sống” đối với nhà văn. Ông bày tỏ: “Năm 1975, giải phóng
miền Nam thống nhất đất nước. Hội Liên hiệp Thanh niên thống nhất họp đại
hội bầu Ban Chấp hành mới. Tổng thư ký Nguyễn Đình Thi gọi điện mời tôi
sang, nói, sẽ giới thiệu tôi là đại diện cho giới nhà văn vào ban chấp hành nọ.

17


Tôi đáp, tôi đã 40 tuổi, không còn trẻ nữa: Nguyễn Đình Thi cười: Làm gì có
nhà văn dưới tuổi bốn mươi! Tất nhiên nói điều đó là quy tắc chung. Chứ ông
thừa biết, Chế Lan Viên viết Điêu tàn, Tô Hoài viết Dế mèn phiêu lưu ký và
Nguyên Hồng có Bỉ vỏ đều dưới tuổi hai mươi. Vậy với nhà văn, sống không
có nghĩa là sống nhiều năm tháng” [18, tr.76].
Hơn 20 năm sống và làm việc ở miền núi đã cho ông cơ hội tích lũy kiến
thức. Về với Hà Nội ông không ngần ngại thâm nhập từng dãy phố, ngõ hẻm
nơi thành phố phức tạp bon chen. Mỗi khi có dịp để đi đến những vùng miền
khác nhau, ông lại thu gom chất liệu cho những trang viết của mình. Nhà văn
quan niệm, nghề viết xét cho cùng “là một cuộc phiêu lưu lâu dài vào những
vùng bí ẩn của con người và đời sống xã hội”. Ông đã có nhiều chuyến đi trải

nghiệm từ Bắc vào Nam và từ miền ngược cho đến miền xuôi ở đâu ông cũng
luôn lắng nghe, quan sát, trải nghiệm cùng người dân thấu hiểu đời sống, lý giải
sự khác nhau về văn hóa từng vùng miền của Tổ quốc.
Sống và học chính là Sống cũng là Học. Người nghệ sĩ muốn viết ra
những trang viết hay cần phải tích lũy vốn sống, chịu khó học hỏi từ cuộc sống.
Chứ không phải như nhiều tác giả trẻ hiện nay dốc toàn bộ sức lực, vốn liếng,
viết vài ba tác phẩm nổi lên rồi không viết được nữa. Trong những trang viết
về đề tài dân tộc miền núi của Ma Văn Kháng ngoài những hình ảnh về những
người dân tộc thiểu số ta còn bắt gặp hình ảnh những người thầy, người cô
những người vượt qua bao khó khăn mang cái chữ đến cho học sinh vùng cao
Tây Bắc. Ngoài trách nhiệm mang những kiến thức sách vở đến cho học sinh
vùng cao. Những người thầy, người cô còn là những người chỉ đường dẫn lối
dạy các em những kỹ năng sống. Để có những tác phẩm sâu sắc đó ông đã đi
và học gắn bó hơn 20 năm tuổi trẻ ở mảnh đất Lào Cai.
Từ những tác phẩm đầu tiên cho đến nay, hơn nửa thế kỷ cống hiến sức
lực cho văn chương, Ma Văn Kháng đã đánh dấu tên tuổi của mình trong lòng
bạn đọc. Đọc những tác phẩm của ông ta cảm nhận được bút pháp tài hoa đáng

18


ca ngợi. Đặc biệt khi đọc các tác phẩm của ông, người đọc rút ra được những
nhận xét về con người, về hiện thực xã hội, hiểu hơn về văn hóa nhiều dân tộc
vùng miền của đất nước.
1.3.2. Quan niệm Ma Văn Kháng về lao động văn chương
Mỗi ngành nghề đều có những khó khăn riêng, chẳng nghề nào giống
nghề nào, chỉ có những người làm trong nghề mới hiểu thấu được hết những
khó khăn, vất vả của nghề. Lao động văn chương là một nghề khó nhọc nó đòi
hỏi sự tỷ mỉ và chi tiết của từng con chữ. Bên cạnh sự khó nhọc mỗi nhà văn
đều phải chọn cho mình một lối đi riêng, lấy chất liệu sáng tác bằng việc khám

phá đời sống vì thực chất văn học là sự phản ánh hiện thực mà con người là
trung tâm của hiện thực đó. Từ thực tế lao động văn chương của mình, Ma Văn
Kháng đã thấu hiểu và ý thức rõ về phẩm chất của nhà văn. Ông đã chia sẻ, tâm
sự rút ra những quan niệm về nghề vô cùng sâu sắc.
Ma Văn Kháng cho rằng sáng tạo văn học được: “xếp hạng lao động bậc
nhất về sự kì khu và cực nhọc” và “Công việc này giống như người đào giếng thủ
công, một thân một mình cô độc dưới lòng đất sâu hum hút [18, tr.258].
Hơn nửa thế kỷ lao động sống với nghề văn, Ma Văn Kháng cho ra đời
nhiều tác phẩm viết về mọi khía cạnh cuộc sống như: Đồng bạc trắng hoa xòe,
Vùng biên ải, Trăng non... gần đây ông đã cho ra đời hai cuốn tiểu luận và bút
ký về nghề văn Phút giây huyền diệu, Nhà văn anh là ai ? hai cuốn sách này
đã bộc lộ chân tình những quan niệm đối với nghề trong hành trình sáng tạo
của ông. Nghề văn là nghề cao quý, khó nhọc, vượt quá sức người bình thường.
Ma Văn Kháng một mặt đề cao giá trị văn chương cũng như sự nghiệp cầm bút,
một mặt ông cũng muốn nói đến cái duyên đối với nghề. “Duyên” trời cho,
muốn cũng không được mà không muốn cũng không được. Sự thành bại trong
văn chương chỉ trong gang tấc nhiều khi như là có duyên tác phẩm viết ra được
người đọc đón nhận thì coi như có lộc “kẻ đón người đưa”. Ngược lại, tác phẩm

19


×