Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

BÁO CÁO ĐỔI MỚI MỘT SỐ BIỆN PHÁP LUYỆN ĐỌC ĐÚNG CHO HỌC SINH LỚP 1 TRONG CÁC TIẾT TẬP ĐỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.12 MB, 39 trang )

PHÒNG GD - ĐT HUYỆN ĐIỆN BIÊN
-------------------------------------

BÁO CÁO ĐỔI MỚI

MỘT SỐ BIỆN PHÁP LUYỆN ĐỌC ĐÚNG CHO
HỌC SINH LỚP 1 TRONG CÁC TIẾT TẬP ĐỌC

Người viết: Lương Thị Chuyên
Tổ : 1
Trường: Tiểu học Thanh Chăn

Năm: 2014

- 2015

------------------------------------1


BÁO CÁO ĐỔI MỚI

MỘT SỐ BIỆN PHÁP LUYỆN ĐỌC ĐÚNG CHO
HỌC SINH LỚP 1 TRONG CÁC TIẾT TẬP ĐỌC

Người viết: Lương Thị Chuyên
Tổ : 1
Trường: Tiểu học Thanh Chăn

Năm: 2014

2



- 2015


ĐỀ TÀI: "MỘT SỐ BIỆN PHÁP LUYỆN ĐỌC ĐÚNG CHO HỌC SINH LỚP
1 TRONG CÁC TIẾT TẬP ĐỌC"

Mở đầu
***********************
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Văn học là nghệ thuật của ngôn ngữ, là sự nhận thức về thế giới cuộc sống
con người và xã hội. Tác phẩm văn học dùng phương tiện ngôn từ để sáng tạo nên
những hình tượng về cuộc sống con người, quê hương, xứ sở và đem lại cho người
đọc những dung cảm thực sự trong sáng. Trong nhà trường tiểu học ở Việt Nam đã coi
Tiếng Việt là một môn học trung tâm, làm nền móng các môn học khác.

Môn Tiếng Việt ở trường tiểu học có nhiệm vụ vô vùng quan trọng đó là
hình thành 4 kỹ năng: Nghe – nói - đọc – viết cho học sinh. Tập đọc là một phân
môn của chương trình Tiếng Việt bậc tiểu học. Đây là phân môn có vị trí đặc biệt
trong chương trình vì nó đảm nhiệm việc hình thành và phát triển kỹ năng đọc, một
kỹ năng quan trọng hàng đầu của học sinh ở bậc tiểu học đầu tiên. Kỹ năng đọc có
nhiều mức độ: đọc đúng, đọc nhanh (lưu loát, trôi chảy), đọc có ý thức (thông hiểu
được nội dung những điều mình đọc hay còn gọi là đọc hiểu) và đọc diễn cảm. Khi
học sinh đọc tốt, viết tốt thì các em mới có thể tiếp thu các môn học khác một cách
chắc chắn. Từ đó học sinh mới hoàn thành được năng lực giao tiếp của mình.
Những kỹ năng này không phải tự nhiên mà có. Nhà trường phải từng bước hình thành
và trường tiểu học nhận nhiệm vụ đặt viên gạch đầu tiên. Nên việc dạy học phải có định
hướng, có kế hoạch từ lớp 1 đến lớp 5.


Đặc biệt đối với học sinh lớp 1 - Lớp đầu cấp - việc dạy đọc cho các em thật
vô cùng quan trọng bởi các em có đọc tốt được ở lớp 1 thì khi học các lớp tiếp
theo các em mới nắm bắt được những yêu cầu cao hơn của môn Tiếng Việt. Việc
dạy đọc ở lớp 1 cũng quan trọng bởi từ chỗ các em còn phải đọc đánh vần từng
tiếng đến việc đọc thông thạo được một văn bản là việc tương đối khó với các em
mà mục tiêu của giờ dạy Tiếng Việt là phải hướng đến giáo dục học sinh yêu tiếng
Việt bằng cách nêu bật sức mạnh biểu đạt của Tiếng Việt, sự giàu đẹp của âm
thanh, sự phong phú của ngữ điệu trong việc biểu đạt nội dung. Thế nhưng hiện
nay, ở trường tiểu học, mặt âm thanh của ngôn ngữ, đặc biệt ngữ điệu chưa được
chú ý đúng mức. Đó là một trong những lý do cho học sinh của chúng ta đọc và nói
chưa tốt. Đó cũng là ý do khiến cho trong nhiều trường hợp, học sinh không hiểu
đúng văn bản được đọc.

Cũng như nhiều giáo viên lớp 1 khác, tôi suy nghĩ rất nhiều về cách dạy tập
đọc ở lớp 1. Đặc biệt là rèn cho học sinh không những chỉ đọc thông được văn bản
mà còn phải đọc đúng văn bản được đọc. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để giúp các
3


em đọc đúng tiếng, đọc liền tiếng trong từ, trong câu, đọc đúng ngữ điệu, biết cách
ngắt nghỉ hơn trong văn bản thơ, cũng như văn bản văn xuôi. Những băn khoăn
này chính là lý do tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp luyện đọc đúng cho học
sinh lớp 1 trong các tiết tập đọc”

NỘI DUNG
1-/ MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU

Tập đọc là phân môn thực hành vì vậy nhiệm vụ của nó là hình thành kỹ
năng đọc cho học sinh. Kỹ năng đọc có nhiều mức độ: đọc đúng, đọc nhanh. Dạy
đọc giáo dục lòng ham đọc sách cho học sinh giúp cho các em thấy được đây chính

là con đường đặc biệt để tạo cho mình một cuộc sống trí tuệ phát triển. Tập đọc
góp phần làm giàu vốn kiến thức ngôn ngữ, bồi dưỡng cho học sinh lòng yêu cái
thiện và cái đẹp, dạy cho các cách tư duy có hình ảnh.

Đặc điểm của dạy tập đọc lớp 1 chính là ở chỗ: đây là bước chuyển tiếp từ
dạy “học vần” sang dạy “tập đọc” (ở lớp 2). Giờ tập đọc ở lớp 1 vận dụng cả
phương pháp học vần, cả phương pháp tập đọc. Yêu cầu của giờ tập đọc lớp 1 là
củng cố hệ thống âm vần đã đọc (nhất là các vần khó) đọc đúng tiếng, liền tiếng
trong từ, trong câu, đoạn, bài. Bước đầu biết cách ngắt hơi ở các dấu câu, biết lên
giọng và hạ giọng. Để làm tốt được những nhiệm vụ nêu trên, đề tài của tôi mục
đích đưa ra một số biện pháp để giúp học sinh đọc thông được văn bản và đọc
đúng ngữ điệu nói chung, ngắt giọng đúng nói riêng nhằm nâng cao chất lượng của
1 giờ dạy tập đọc ở lớp 1.
2-/ ĐỐI TƯỢNG PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu là thực trạng dạy đọc của lớp 1 ở Trường tiểu học hiện
nay nói chung và HS ở trường Tiểu học Thanh Chăn nói riêng.
3. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU

Tập đọc là một phân môn thực hành nhiệm vụ quan trọng nhất của nó là
hình thành năng lực đọc cho học sinh. Năng lực đọc được tạo nên từ bốn kỹ năng
cũng là bốn yêu cầu về chất lượng của “đọc”: đọc đúng, đọc nhanh (đọc lưu loát,
trôi chảy), đọc có ý thức (thông hiểu được nội dung những điều mình đọc hay còn
gọi là đọc hiểu) và đọc diễn cảm. Bốn kỹ năng này được hình thành trong 2 hình
thức đọc: đọc thành tiếng và đọc thầm. Chúng được rèn luyện đồng thời và hỗ trợ
lẫn nhau. Sự hoàn thiện một trong những kỹ năng này sẽ có tác động tích cực đến
những kỹ năng khác. Ví dụ, đọc đúng là tiền đề của đọc nhanh cũng như cho phép
thông hiểu nội dung văn bản. Ngược lại, nếu không hiểu điều mình đang đọc thì
không thể đọc nhanh và diễn cảm được. Nhiều khi khó mà nói được rạch ròi kỹ
năng nào làm cơ sở cho kỹ năng nào, nhờ đọc đúng mà hiểu đúng hay chính nhờ
hiểu đúng mà đọc được đúng. Vì vậy, trong dạy đọc không thể xem nhẹ yếu tố nào.


4


Nhiệm vụ thứ hai của dạy đọc là giáo dục lòng ham đọc sách, hình thành
thói quen làm việc với văn bản, với sách cho học sinh. Nói cách khác thông qua
việc dạy đọc phải giúp học sinh thích đọc và thấy được rằng khả năng đọc là có lợi
ích cho các em trong cả cuộc đời, phải làm cho học sinh thấy đó là một trong những
con đường đặc biệt để tạo cho mình một cuộc sống trí tuệ đầy đủ và phát triển.

Ngoài ra việc đọc còn có những nhiệm vụ khác đó là làm giàu kiến thức về
ngôn ngữ, đời sống và kiến thức văn hoá cho học sinh, phát triển ngôn ngữ và tư
duy, giáo dục tư tưởng đạo đức, tình cảm, thị hiếu thẩm mỹ cho các em.
4-/ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để thực hiện đề tài này tôi đã sử dụng những phương pháp sau :
- Phương pháp thu nhận tài liệu;
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế;
- Dạy thực nghiệm;
- Trao đổi, toạ đàm với đồng nghiệp.
5-/ THỰC TRẠNG:

Qua nhiều năm giảng dạy ở trường tiểu

học Thanh Chăn và trao đổi với
đồng nghiệp tôi đã có những nhận xét chung về thực trạng dạy, luyện đọc đúng cho
học sinh lớp 1 trong các tiết tập đọc như sau:
TÌNH HÌNH GIẢNG DẠY CỦA GIÁO VIÊN
* Quan điểm của giáo viên về giờ tập đọc:

Nhìn chung giáo viên tiểu học đều rất coi trọng giờ tập đọc. Giáo viên ở các

lớp đầu cấp cho rằng phần luyện đọc từ, đọc câu là quan trọng hơn còn ở các lớp
cuối cấp thì cho rằng phần luyện đọc và phần tìm hiểu bài quan trong như nhau.
Nhưng nhìn chung 70% giáo viên khẳng định việc luyện đọc quan trọng hơn còn
về thời gian phân bố trong giờ luyện đọc thì 80% số giáo viên cho rằng thời gian
luyện đọc là nhiều hơn còn 20% cho rằng thời gian của 2 phần này như nhau.
Được dự các tiết tập đọc chuyên đề của cụm nói chung và của trường nói riêng,
tôi nhận thấy phần lớn giáo viên đều chú ý sửa lỗi phát âm cho học sinh, song do
thời gian bị hạn chế nên việc sửa lỗi do chỉ được thực hiện lướt qua khi luyện đọc
từ hoặc câu giáo viên thường chỉ cho học sinh luyện những từ và câu mà sách giáo
khoa yêu cầu chứ chưa chọn lọc ra những từ hoặc câu mà học sinh của mình hay
nhầm lẫn.
* Những phương pháp giáo viên thường sử dụng trong phần rèn đọc:

Hiện

nay ở tiểu học, về vấn đề rèn đọc cho học sinh, giáo viên sử dụng
phương pháp dạy học cụ thể là: phương pháp làm mẫu, phương pháp luyện đọc
theo mẫu, phương pháp luyện tập củng cố, phương pháp hỏi đáp (đặt câu hỏi để
5


học sinh tự tìm và phát hiện từ khó, cách ngắt nhịp câu dài…) và phương pháp
đóng vai (đối với văn kể chuyện).
* Thực trạng phần rèn đọc ở lớp 1
Qua giảng dạy, tìm hiểu và dự giờ ở lớp 1 tôi thấy hiện nay nhìn chung giờ
tập đọc được tiến hành theo trình tự sau:
Tiết 1:
1. Kiểm tra bài cũ
Học sinh đọc lại bài của tiết trước và trả lời một số câu hỏi ứng với nội dung
bài học.

2. Bài mới:
a. Giới thiệu bài:
- Giáo viên chép sẵn bài đọc lên bảng lớp
- Giáo viên đọc mẫu, học sinh theo dõi
b. Hướng dẫn học sinh luyện đọc
* Luyện đọc tiếng, từ
Giáo viên kể chân những tiếng từ mà SKG yêu cầu → cá nhân học sinh đọc
* Luyện đọc câu
Giáo viên đưa ra những câu thơ, văn ngắt nhịp, ngắt giọng sẵn và đọc mẫu
sau đó học sinh đọc theo cô. Khi cá nhân học sinh đọc các em khác nghe và nhận
xét bạn.
* Luyện đọc đoạn
Giáo viên nêu bài đọc chia thành……đoạn…... sau đó cho học sinh đọc nối
tiếp đoạn cho đến hết bài.
* Luyện đọc cả bài:
Cá nhân học sinh đọc → các em khác nhận xét
3. Ôn vần:
- Dựa vào các câu hỏi và bài tập của SGK.
+ Tìm tiếng có chứa vần cần ôn
+ Nói câu chứa tiếng có vần cần ôn
4. Củng cố: Ghép từ thành câu
Tiết 2
5. Tìm hiểu bài và luyện nói
6


a. Tìm hiểu bài
- Học sinh đọc trong SGK
+ Cá nhân học sinh đọc từng đoạn và giáo viên nêu câu hỏi ứng với nội dung
của từng đoạn để học sinh trả lời.

+ Giáo viên giảng giải thêm về nội dung, kết hợp giải nghĩa từ.
b. Luyện đọc (mức độ đọc hay)
- Giáo viên nêu cách đọc hay: giọng đọc, nhấn giọng, ngắt giọng
- Giáo viên đọc mẫu lần 2
- Học sinh đọc (cá nhân → đồng thanh)
c. Luyện nói
- Học sinh nhìn vào tranh hoặc ảnh của SGK để luyện nói về những chủ đề
mà bài đọc yêu cầu.
6. Củng cố – dặn dò
Dặn dò học sinh đọc lại bài nhiều lần và chuẩn bị bài sau
Sau một thời gian tiến hành tìm hiểu điều tra thực trạng, tôi rút ra một số kết
luận sau:

DẠY THỰC NGHIỆM
Tôi đã tiến hành dạy thực nghiệm ở khối lớp 1 của mình. Sau đây là bài
tập đọc mà tôi xin trình bày giáo án trong đề tài đó là bài “Sau cơn mưa” khi
dạy hai bài này tôi đã áp dụng những biện pháp nêu trên để rèn đọc cho học
sinh đạt kết quả tốt.
Dưới đây là nội dung giáo án đó
Môn: Tập đọc
Tiết số: 1
Lớp 1

Tuần: 32

Tên bài dạy: Sau cơn mưa

I – Mục tiêu :

Giúp học sinh:

+ Đọc trơn cả bài “Sau cơn mưa”
+ Luyện đọc các từ ngữ “mưa rào, đoá râm bụt, xanh bóng nhởn nhơ,
sáng tựa, quay quanh, giội rửa”
+ ôn vần ây, uây
II - Đồ dùng dạy học :

7


- Giáo viên : Tranh hoa râm bụt và tranh vẽ như SGK
- Học sinh : Sách giáo khoa
III – Hoạt động dạy học chủ yếu:

T.gian
dự kiến

5’

Hoạt động của thầy

Hoạt động của trò

A. Bài cũ : Bài Luỹ tre
+ Đọc khổ thơ 1 của bài và trả lời câu hỏi: - Mỗi khổ thơ một học sinh
Khổ thơ này tả luỹ tre vào buổi nào? Em thích đọc và trả lời câu hỏi
hình ảnh nào của luỹ tre vào buổi sớm?
+ Đọc khổ thơ 2 của bài và trả lời câu hỏi:
Khổ thơ tả luỹ tre vào buổi nào? Em thích
hình ảnh nào trong khổ thơ này?
B. Bài mới

1. Giới thiệu bài :

2’

Giáo viên dùng lời:
Mùa hè thường có các trận mưa rất to
nhưng mau tạnh, gọi là mưa rào. Hôm nay
các em sẽ học một bài văn tả cảnh vật sau
một cơn mưa rào → Giáo viên ghi bảng tên
đầu bài.
2. Hướng dẫn luyện đọc
a. Giáo viên đọc mẫu
- Giọng chậm, đều, tươi vui

Học sinh theo dõi bài đọc ở
bảng

b. Hướng dẫn học sinh đọc
* Luyện đọc từ ngữ
Giáo viên gọi 1 học sinh giỏi đọc to những từ
ngữ mà SGK yêu cầu luyện đọc → cô ghi
bảng các từ đó: mưa rào, đoá râm bụt, xanh
bóng nhởn nhơ, sáng rực, mặt trời quây
quanh, vườn
5’

- Giáo viên gọi cá nhân học sinh đọc lần lượt
từng từ một cho đến hết và kết hợp phân tích
những tiếng mà học sinh dễ lẫn khi đọc và
viết: rào, đoá, xanh, quây, quanh

- Lưu ý: Tập trung gọi những em đọc còn yếu

8

Cá nhân học sinh đọc lần
lượt từng từ và cho đến hết
kết hợp phân tích tiếng theo
yêu cầu của giáo viên


T.gian
dự kiến

Hoạt động của thầy

Hoạt động của trò

- Trong khi học sinh đọc giáo viên kết hợp
giải nghĩa từ:
+ Đoá râm bụt: Sử dụng tranh hoa râm bụt
cho học sinh quan sát
+ Nhởn nhơ: Chỉ hoạt động chậm không tập
trung
* Luyện đọc câu:
- Học sinh theo dõi và trả
Giáo viên yêu cầu học sinh theo dõi SGK và lời bài đọc có 5 câu
cho biết xem bài đọc này có mấy câu ?
- Giáo viên gọi 1 nhóm 5 em đọc nối tiếp
nhau từng câu một cho đến hết bài. Sau đó
hỏi học sinh trong lớp xem trong bài này có

5 - 7'
câu nào dài mà khi đọc các em cần phải ngắt
nghỉ hơi cho đúng và gọi các em đọc theo
cách của mình.

- 1 nhóm 5 học sinh đọc nối
tiếp
- Cá nhân học sinh tìm câu
dài và đọc to trước lớp. Các
bạn nhận xét

- Tập trung luyện đọc 2 câu sau:
+ Mấy đám mây bông trôi nhởn nhơ / sáng
rực lên trong ánh mặt trời.
+ Mẹ gà mừng rỡ / “tục tục” / dắt bầy con
quây quanh vũng nước đọng trong vườn

- Nhiều em luyện đọc câu
sau khi đã sửa theo hướng
dẫn của giáo viên.
- Hình thức đọc: cá nhân
nhóm, lớp. Khi bạn đọc, học
sinh khác nghe và nhận xét
xem bạn đọc đúng hay sai

- Giáo viên giới thiệu câu: “Mẹ gà…” cần - 2 nhóm đọc nối tiếp
ngắt giọng ở sau tiếng “rỡ” và tiếng “tục” để
nhấn giọng cho tiếng gà mẹ gọi đàn con.
- Sau khi đã tập trung luyện đọc các câu dài
xong, giáo viên lại cho học sinh đọc nối tiếp

từng câu cho đến hết bài

6'

* Luyện đọc đoạn
Chia bài làm 2 đoạn:
- Đoạn 1: từ đầu ….. mặt trời
- Đoạn 2: còn lại
- Gọi học sinh đọc nối tiếp đoạn theo nhóm

- 2 nhóm mỗi nhóm 2 em
đọc nối tiếp

* Luyện đọc toàn bài
Gọi học sinh đọc

- Học sinh đọc theo, cá
nhân, nhóm. Cuối cùng cả
9


T.gian
dự kiến

Hoạt động của thầy

Hoạt động của trò
lớp đồng thanh đọc

3'


Hát múa tập thể

Nghỉ giữa giờ

3. Ôn vần: ây, uây
- Yêu cầu học sinh đọc to yêu cầu của từng
bài tập của SGK và giải từng bài
10'

+ Bài 1: Tìm tiếng trong bài có chứa vần - Cá nhân học sinh tìm từ ở
"ây”
SGK và trả lời
+ Bài 2: Tìm tiếng ngoài bài có chứa vần - Học sinh tìm và ghép trên
“ây, uây”
bộ chữ
Giáo viên nhận xét câu trả lời của học sinh
4. Củng cố : Ghép từ thành câu
- Thi ghép theo nhóm đôi
Giáo viên đưa ra các thẻ từ không theo thứ
tự:
Sau cơn mưa mọi vật đều sáng và tươi
Yêu cầu học sinh ghép thành câu

6-/ KẾT QUẢ SAU KHI ÁP DỤNG:
* Giờ tập đọc có vị trí quan trọng ở tiểu học.
* Giáo viên nhận thức được ý nghĩa của việc tập đọc và nhiệm vụ chính của
dạy đọc.
* Trong giờ tập đọc giáo viên còn làm mẫu nhiều mà chưa để các em tự phát
hiện ra cách đọc.

* Trong giờ tập đọc nhất là khi có người dự giờ thì giáo viên còn ít chú ý
đến học sinh yếu vì đối tượng này thường đọc chậm, làm mất thời gian, làm giảm
tiến độ của tiết dạy.

Qua nhiều năm dạy học, tôi nhận thấy ở tiểu học các em thường coi nhẹ
môn tập đọc vì các em cho rằng môn tập đọc là môn dễ không phải suy nghĩ như
môn toán mà chỉ cần đọc trôi chảy, lưu loát là được. Các em cũng chưa để ý đến
việc đọc của mình như thế nào. Một số ít học sinh phát âm sai do thói quen đã có
từ trước hoặc do tiếng địa phương. Khi đọc các em còn hay mắc lỗi ngắt giọng, các
em còn ngắt giọng để lấy hơi một cách tuỳ tiện (còn gọi là ngắt giọng sinh lý). Học
sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 1 nói riêng phần lớn các em chỉ biết bắt
chước cô một cách tự nhiên

10


7-/ KIỂM TRA LẤY ĐIỂM
Sau khi tiến hành dạy thực nghiệm với giáo án trên ở lớp 1A1, 1A2 và 1A3
ở trường Tiểu học Thanh Chăn tôi tiến hành kiểm tra miệng (gọi học sinh đọc cả
bài), kết quả thu được như sau:
Lớp

Số học sinh đọc đúng,
lưu loát (%)

Số học sinh đọc không
đúng (%)

1A1


98%

2%

1A2

97%

3%

1A3

97%

3%

kẾT LUẬN
Căn cứ vào những kết quả thu được ở trên tôi nhận thấy việc áp dụng một
số biện pháp ở chương 3 vào việc hướng dẫn học sinh luyện đọc đúng thực sự nâng
cao hiệu quả của giờ dạy, phát huy được tính chủ động sáng tạo và tạo được sự
hứng thú say mê của học sinh.
I. GIẢI PHÁP, BÀI HỌC KINH NHIỆM

Qua quá trình nghiên cứu thực nghiệm để dạy tốt phân môn tập đọc mà nội
dung trọng tâm là truyền kỹ năng đọc đúng cho học sinh lớp 1. Tôi thấy rằng đây
là một phương pháp và hình thức nhằm tích cực hoá hoạt động của học sinh vì khi
thực hiện phương pháp và hình thức này học sinh hoàn toàn chủ động tự giác sáng
tạo và tích cực tiếp thu tri thức mới. Đây là mục đích của quá trình dạy học hiện
nay và hoàn toàn phù hợp với đặc điểm phát triển sinh lý của học sinh lớp 1.


Để giờ dạy tập đọc đạt kết quả cao giáo viên cần áp dụng linh hoạt các biện
pháp trong phần luyện đọc đúng. Tuỳ từng bài giáo viên chọn các biện pháp phù
hợp để làm sao đạt kết quả cao nhất trong giờ tập đọc. Muốn vậy người giáo viên
phải làm được những công việc sau:


Giáo viên phải có sự chuẩn bị bài trước khi lên lớp, phải dự đoán được
tình huống có thể xảy ra trong bài dạy, từ đó có biện pháp thích hợp để
giải quyết tình huống đó.



Giáo viên chuẩn bị đủ đồ dùng trực quan trong giờ dạy học. Giáo viên
luôn coi học sinh là trung tâm của mọi hoạt động, còn giáo viên chỉ là
người tổ chức hướng dẫn học sinh.

11




Để đạt được các yêu cầu trên đòi hỏi người giáo viên phải có trình độ
nhất định về kiến thức, phải linh hoạt sáng tạo trong việc đổi mới phương
pháp dạy học. Ngoài ra một điều không thể thiếu đó là lòng nhiệt tình, sự
tận tâm với nghề, dức tính chịu khó kiên trì, với đầu tư thích đáng cho
việc nghiên cứu tài liệu phục vụ bài dạy của mỗi giáo viên.

II. NHỮNG ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ:
1, Đối với phòng GD & ĐT
Cần tổ chức chuyên đề theo các cụm trường về biện pháp rèn đọc đúng cho

HS ở tiểu học.
2, Đối với trường
Thường xuyên tổ chức các buổi chuyên đề đánh giá và rút kinh nhiệm để
nâng cao chất lượng rèn đọc đúng cho HS từ lớp 1 đến lớp 5.

Trên đây là những ý kiến nhỏ của bản thân tôi nhằm giúp giáo viên tham
khảo khi rèn đọc đúng cho học sinh. Mong thầy cô và các đồng nghiệp góp ý và bổ
sung để nâng cao chất lượng giờ dạy tập đọc ở tiểu học.
Xin chân thành cảm ơn!
Điên Biên, Ngày 10 tháng 10 năm 2014.
Người viết
Nguyễn Thị Trang
PHẦN ĐÁNH GIÁ NHẬN XÉT
CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CÁC CẤP

12


PHÒNG GD - ĐT HUYỆN ĐIỆN BIÊN
TRƯỜNG TIỂU HỌC THANH CHĂN
-------------------

@&?

BÁO CÁO ĐỔI MỚI

13


RÈN KĨ NĂNG VIẾT ĐÚNG CHÍNH TẢ CHO

HỌC SINH LỚP 1

Người viết: Nguyễn Thị Trang
Tổ: 1

Năm: 2013

-

2014

Đề tài: "Rèn kĩ năng viết đúng chính tả cho học sinh lớp 1

MỤC LỤC
Số TT Mục
01

Nội dung
Lời nói đầu

Trang
1

02

I

Lý do chọn đề tài

2-3


03

II

Mục đích nghiên cứu

4-8

04

III

Biện pháp thực hiện

9 – 13

05

IV

06

V

Các bước thực hiện
Kết quả

14 –
28

29 –

14


30
07

VI

08

VII

Bài học kinh nghiệm

31 –
32

Kết luận

33

09

Mục lục

34

10


Phần đánh giá nhận xét của Hội đồng
khoa học các cấp.

35 36

Mở đầu

LỜI NÓI ĐẦU
Giáo dục là nền tảng của sự phát triển con người về mọi mặt. Thời gian
qua giáo viên là những người cố gắng hết sức trong sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ.
Nhờ đó mà ngành giáo dục đã đạt được những thành tích đáng kể. Những người
làm giáo dục phải có lòng nhiệt huyết với nghề. Ngoài việc rèn luyện phẩm chất
đạo đức, tác phong, giáo viên còn có nhiệm vụ không kém phần quan trọng đó là
không ngừng học hỏi và nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
Giáo viên luôn là chiếc cầu nối cho học sinh nắm bắt được kiến thức cơ
bản về con người, tự nhiên, xã hội… và một số kĩ năng cơ bản: nghe, nói, đọc,
viết, của Tiếng việt, là một trong những mảng kiến thức quan trọng ấy. Đọc - viết,
nghe - viết là những kĩ năng đặc trưng của phân môn Chính tả là một trong những
vấn đề đang được quan tâm nhằm nâng cao chất lượng của môn Tiếng Việt trong
nhà trường. Vì vậy là giáo viên dạy Lớp 1 tôi phải đặc biệt chú ý đến vấn đề học
chính tả của các em ngay ở lớp đầu cấp.
Chính tả là kỹ năng thật sự cần thiết đối với mọi người, không chỉ đối với
học sinh tiểu học. Nếu ta đọc một văn bản được viết đúng chính tả, người đọc có
cơ sở để hiểu đúng nội dung văn bản đó. Trái lại, đọc một văn bản mắc nhiều lỗi
chính tả, người đọc khó nắm bắt nội dung và có thể hiểu sai hoặc không hiểu đầy
đủ văn bản.

15



Chính vì thế, tôi không muốn học sinh của mình mắc lỗi chính tả khi viết,
nên tôi đã nghiên cứu và chọn đề tài “Rèn kỹ năng viết đúng chính tả cho học
sinh Lớp 1”.

I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Chính tả là một trong những phân môn Tiếng Việt ở tiểu học. Phân môn
Chính tả trong nhà trường giúp học sinh hình thành thói quen viết đúng chính tả.
Đây là phân môn mang đậm dấu ấn truyền thống của việc dạy và học Tiếng Việt.
Vì tôi đã tìm hiểu và nhận thấy những điểm mới, điểm nổi trội trong nội dung và
phương pháp dạy học phân môn này để có những cách tiếp cận và chuyển tải phù
hợp hơn đến các đối tượng học sinh, nhằm đạt được hiệu quả tốt trong việc hình
hành kĩ năng nghe – viết cho cơ cấu chương trình môn Tiếng Việt nói riêng, các
môn học ở trường phổ thông nói chung.
Muốn đọc thông viết thạo, học sinh phải được học phân môn chính tả. Chính
tả là phân môn có tính chất công cụ. Nó có vị trí quan trọng trong giai đoạn học
tập đầu tiên của học sinh. Nó cũng có ý nghĩa quan trọng đối với việc học tập
Tiếng Việt. Ngoài ra, phân môn Chính tả còn rèn luyện cho học sinh một số phẩm
chất như: Tính cẩn thận, óc thẩm mĩ, bồi dưỡng cho học sinh lòng yêu quý Tiếng
Việt và chữ Tiếng Việt.
Ở bậc tiểu học, phân môn Chính tả có vị trí vô cùng quan trọng. Vì học sinh
Lớp 1 là giai đoạn đầu cấp và cũng là giai đoạn then chốt trong quá trình hình
thành khả năng chính tả cho học sinh. Không phải ngẫu nhiên mà ở bậc tiểu học
học chính tả còn được bố trí thành một phân môn độc lập (thuộc môn Tiếng Việt)
có tiết dạy riêng. Giống như các phân môn khác, tính nổi bật của môn Chính tả là
tính thực hành, chỉ có thể hình thành các kỹ năng, kỹ xảo cho học sinh thông qua
việc thực hành và luyện tập.
Đối với học sinh Lớp 1 khi học phân môn Chính tả sẽ gặp những khó khăn
nhất định. Vì các em là lứa tuổi đầu tiên phải làm quen với môn học này một cách
mới lạ, bỡ ngỡ. Nó đòi hỏi các em phải có trí tư duy về nhiều mặt đối với những

bài chính tả nghe/ viết vừa phải nghe bằng tai và viết thành chữ cho đúng nên mỗi

16


khi dạy tiết này tôi đều phải đầu tư, chuẩn bị tranh ảnh, đồ dùng phù hợp để vụ cho
tiết dạy không còn khô khan. Điều mà tôi băn khoăn lo lắng là làm thế nào để tiết
dạy không còn nhàm chán giữa thầy, trò để đạt kết quả cao.
Nhằm giúp học sinh từng bước làm quen và có kĩ năng viết đúng chính tả tạo
cho các em sự thích thú và chủ động, tích cực học tập ở phân môn Chính tả nên tôi
đã không ngần ngại chọn và thực hịên đề tài “Rèn kỹ năng viết đúng chính tả cho
học sinh Lớp 1”.

II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Phân môn Chính tả trong nhà trường có mục đích giúp học sinh nắm vững
các quy tắc và hình thành kỹ năng chính tả, nói cách khác, giúp học sinh hình
thành năng lực và thói quen viết đúng chính tả. Ngoài ra còn rèn cho học sinh lòng
yêu quý Tiếng Việt.
Về chương trình dạy chính tả bắt đầu ở tuần 25, mỗi tuần có hai tiết tập
chép. Học sinh nhìn lên bảng, nhìn sách giáo khoa để chép lại bài theo cỡ chữ nhỏ,
kết hợp nghe giáo viên đọc từng tiếng – mỗi bài viết từ 20 đến 30 chữ trong thời
gian từ 10 đến 15 phút. Ở tuần 31, 33, 35, mỗi tuần có một tiết chính tả (tập chép)
và một tiết chính tả (nghe/viết) yêu cầu: Viết đều nét, rõ ràng, thẳng dòng, đúng
chính tả.
Mục đích dạy phân môn Chính tả là hình thành cho học sinh năng lực viết
thành thạo, thuần thục chữ viết theo các “chuẩn chính tả” nghĩa là giúp học sinh
hình thành kỹ xảo chính tả và luôn viết đúng chính tả.
Phân môn chính tả nhằm ba mục đích, với mức độ như sau:
1/ Rèn kỹ năng nghe, viết đúng chính tả với các chỉ tiêu cần đạt: Viết
đúng mẫu, đúng chính tả, không mắc phải 5 lỗi mỗi bài tốc độ viết 1 – 2 chữ /1

phút.

17


2/ Kết hợp việc luyện tập chính tả với việc rèn luyện cách phát âm, củng
cố nghĩa từ, trau dồi kiến thức cơ bản về ngữ pháp Tiếng Việt, góp phần phát triển
thao tác tư duy: Nhận xét, so sánh, liên tưởng, ghi nhớ ...
3/ Bồi dưỡng một số đức tính và thái độ cần thiết trong công việc như:
Cẩn thận, chính xác, khiếu thẩm mĩ, lòng tự trọng và tinh thần trách nhiệm.
Mỗi tuần có 2 bài chính tả, mỗi bài học trong 1 tiết ở chương trình học kỳ
II bắt đầu từ tuần 25 với tổng số bài chính tả mà học sinh được học là 26 bài (cả
các bài ôn tập – kiểm tra). Hình thức chủ yếu là tập chép, có xen kẽ thêm hình thức
chính tả nghe/viết. Mỗi bài chính tả tăng dần độ dài. Kết hợp trong bài chính tả
cho học sinh làm các bài tập về các từ dễ viết sai chính tả theo quy tắc như: Luyện
viết các vần khó, các chữ bắt đầu bằng g/gh; ng/ngh; c/k/q,…Tập ghi các dấu câu
(dấu chấm, dấu chấm hỏi). Tập trình bày một bài chính tả ngắn.
Trên cơ sở đó, phân môn chính tả còn giải quyết vấn đề dạy cho học sinh
biết chữ để học, dùng chữ để học các môn học khác và để sử dụng trong giao tiếp.
Chính tả trước hết là môn học có tính chất thực hành. Nói cách khác, chính tả là
những quy ước của xã hội trong ngôn ngữ. Mục đích chính tả là làm phương tiện
truyền đạt thông tin bằng chữ viết, bảo đảm cho người viết và người đọc đều được
hiểu nội dung văn bản. Chính tả trước hết là sự quy định có tính chất xã hội, nó
không cho phép vận dụng quy tắc một cách linh hoạt, có tính chất sáng tạo cá
nhân.
Phân môn Chính tả còn có nhiệm vụ: Phối hợp với Tập Viết, tiếp tục củng
cố và hoàn thiện tri thức cơ bản về hệ thống chữ viết và hệ thống ngữ âm tiếng
việt. Phân môn Chính tả dạy cho học sinh hệ thống chữ cái, mối liên hệ âm – chữ
cái – cấu tạo và cách viết chữ. Cung cấp tri thức cơ bản về hệ thống quy tắc chuẩn,
thống nhất chính tả Tiếng Việt là liên kết và khu biệt khi viết chữ, các quy tắc nhận

biết và thể hiện chức năng của chữ viết … Rèn luyện thuần thục kĩ năng viết, đọc,
hiểu chữ viết Tiếng Việt.
Trong tiếng việt có 14 nguyên âm làm âm chính, trong đó có 11 nguyên
âm đơn: a, ă, â, e, ê, i (y), o, ô,ơ, u, ư và 3 nguyên âm đôi: ia (ya, iê, yê); ua (uô);
ưa (ươ).Vị trí của âm chính trong âm tiết được xác định như sau :
Thanh điệu
18


Phụ âm đầu

Vần
Âm đệm
Âm chính
Âm cuối
Khi viết các dấu ghi thanh ( `, ?, ~, /, .) được đánh lên trên hoặc dưới âm
chính.
Các nguyên âm đơn có đặc điểm không thay đổi cách viết ở trong các từ
khác nhau (trừ trường hợp i có khi viết y).


i : viết ngay sau âm đầu: bi, mĩ, kính,…



y : viết sau âm đệm: quy, quỳnh,…



Khi đứng một mình viết i đối với từ thuần việt: ầm ĩ,…Viết y đối với


từ Hán việt: y tá, ý kiến …


Các nguyên âm đôi có cách viết khác nhau, tuỳ vào cấu tạo của âm

tiết:
Viết
ia

ya

ua

ưa
ươ

Trong trường hợp
Không có âm đệm và âm cuối
Không có âm đệm và âm cuối
Có âm đệm, không có âm cuối
Có âm đệm và âm cuối(hoặc mở

Ví dụ
bìa, tía
Liên, tiến
Khuya
Xuyến, quyên, yên, yết,

đầu âm tiết không có âm đầu)

yêu…
Không có âm cuối
chua, cua, …
Có âm cuối
Muối, tuốt, chuối, …
Không có âm cuối
Chưa, thừa, …
Có âm cuối
Được, thường, …
Mặt khác, còn trang bị cho học sinh một công cụ quan trọng để học tập

và giao tiếp (ghi chép, viết, đọc và hiểu bài, làm bài…) phát triển ngôn ngữ và tư
duy khoa học cho học sinh. Chính tả còn có quan hệ với chính âm, với tập viết và
tập đọc…Phân môn chính tả còn góp phần bồi dưỡng cho học sinh những tình
cảm, phẩm chất tốt đẹp qua cách sử dụng ngôn ngữ: Tính khoa học, tính chính xác
và tính thẫm mĩ ở học sinh. Mục đích của chính tả là rèn luyện khả năng: “Đọc
thông, viết thạo” chủ yếu là viết đúng chuẩn mực chữ viết và dạng thức viết.
Với tầm quan trọng của phân môn Chính tả như vậy. Là một giáo viên
dạy lớp 1 tôi thiết nghĩ phải rèn luyện và phát huy kỹ năng viết chính tả cho học
sinh ngay từ lớp 1. Từ đó làm nền tảng, là kiến thức cơ bản để các em học chính tả
ở các lớp trên.

19


Trong quá trình lựa chọn và bước đầu nghiên cứu đề tài tôi tiến hành trao
đổi trực tiếp với học sinh lớp tôi năm học 2011 - 2012 với tổng số học sinh là 25
em và kết quả ban đầu về kỹ năng viết chính tả sau khi dạy thực nghiệm như sau:
Kỹ năng


Giữa học kỳ II
Viết sai

Viết đúng

Nhóm phụ âm đầu

6

19

Nhóm âm ệm

7

18

Nhóm âm chính

9

16

Nhóm âm cuối

6

19

Nhóm dấu thanh


8

17

Trong thực tế giảng dạy tôi thấy khi học phân môn chính tả, các em không
chú ý, chỉ viết bài theo quán tính, theo phát âm hằng ngày, không tập trung vào bài
viết, hoặc giọng đọc của giáo viên nên thường xuyên mắc nhiều lỗi. Mặt khác môn
chính tả đối với các em lúc này là vô cùng bỡ ngỡ.

III. BIỆN PHÁP THỰC HIỆN:
1/ Phối hợp với gia đình, nhà trường giúp các em tiến bộ trong học tập:
Sau khi tổ chức dạy thực nghiệm tiết chính tả và có kết quả như bảng thống
kê trên tôi xin ý kiến Ban giám hiệu cho họp phụ huynh nhằm thông báo kết quả
học tập của các em, khi các bậc phụ huynh nắm được tình hình học tập của con em
mình qua phiếu liên lạc, tôi mong muốn các bậc phụ huynh hãy quan tâm, kiểm
tra, giúp đỡ con em mình hơn nữa. Đặc biệt là chương trình Tiếng việt ở học kỳ II
có nhiều thay đổi, mức độ của chương trình được nâng cao, so với học kỳ I học
sinh chỉ học âm, ghép vần nhưng học kỳ II các em được tiếp cận với nhiều phân
môn như: Tập đọc, Chính tả, Tập viết, Kể chuyện, mỗi phân môn có những đặc
thù riêng. Mỗi tuần các em được học 2 tiết với hình thức chính tả tập chép và
chính tả nghe/ viết.
Riêng phân môn Chính tả là phân môn hoàn toàn mới lạ đối với các em, khi
học bài chính tả nghe/viết học sinh phải vận dụng các kĩ năng nghe, viết, mà phải
nắm được quy tắc chính tả mới viết chính xác bài viết …v.v…
20


Riêng những gia đình chưa đủ điều kiện quan tâm đến việc học của con em,
nên các em lơ là việc học, tôi trao đổi riêng sau giờ họp nêu rõ lực họcvà khả năng

học chính tả của các em, ngoài giờ học trên lớp thì sự hỗ trợ của phụ huynh ở nhà
là vô cùng quan trọng. Tôi tha thiết mong được sự hỗ trợ đắc lực của phụ huynh để
cùng với giáo viên, nhà trường giúp các em học tập tốt.
Sau cuộc họp, tất cả phụ huynh đã đồng ý với đề nghị mà tôi đã đưa ra.
2/ Phân loại trình độ và sắp xếp chỗ ngồi:
Học lực của từng em đã được thể hiện rõ, tôi tiến hành xếp lại chỗ ngồi cho
học sinh. Mỗi tổ xếp xen kẽ theo học lực: giỏi, khá, trung bình, yếu và xen kẽ các
em theo nhóm đã phân loại được như bảng thống kê trên nhằm thực hiện phương
châm: “Học thầy không tày học bạn” .
Tôi hy vọng với cách sắp xếp như vậy ngoài các kiến thức cơ bản, hệ thống
được học ở giáo viên, trẻ còn có thể hỗ trợ lẫn nhau trong học tập. Sự hỗ trợ giữa
các học sinh giúp các em tự tin vào khả năng của bản thân và tự rút kinh nghiệm
về cách học của chính mình.
3/ Đối với giáo viên:
Nắm vững nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy. Giọng đọc phải
rõ ràng, chuẩn theo tiếng phổ thông. Giáo viên phải đầu tư cho tiết dạy, chuẩn bị
tranh ảnh (vật thật), phục vụ cho tiết dạy và phần bài tập…) sao cho một tiết dạy
chính tả không còn nhàm chán, nặng nề đối với các em nữa.
Uốn nắn cách phát âm của học sinh, các em thường có thói quen nói sao viết
vậy, đặc biệt là các em ở miền Nam.
Ví dụ: khỏe khoắn viết là phẻ phắn, bơi lội viết là bê lội…
Theo phân phối chương trình sách giáo khoa Tiếng Việt (Lớp 1). Ngoài học
phần học âm, học vần, tập đọc, tập viết các em còn phải làm quen một phân môn
nữa đó là Chính tả. Đây là một phân môn mới mẻ đối với học sinh đầu cấp nên đòi
hỏi gidáo viên phải biết đưa ra những biện pháp khéo léo và phù hợp với đối tượng
học sinh và làm sao cho tiết dạy không mất thời gian và giúp các em có hứng thú ở
môn học này.

21



- Về cơ bản nói chung phần lớn học sinh viết chính tả đúng hiện nay đều
dựa vào nhớ từng từ một. Theo cách này học sinh chỉ cần tập trung nhớ mặt chữ
của những từ dễ viết sai, nắm vững một số nguyên tắc cơ bản thì việc viết một
đoạn văn ngắn đối với các em sẽ không gặp khó khăn.
4/ Giúp học sinh nắm vững quy tắc chính tả:
Học sinh phải nắm âm đứng cuối vần, cuối âm tiết trong Tiếng Việt có các
phụ âm cuối: p, t, m, n, ng (nh), ch và 2 bán nguyên âm i (y); u (o)
Ví dụ: tắt, xắp, chắc, bám, bán, ngang, cách, tai, tay, tàu,...
Những âm tiết có âm cuối là p, t, c chỉ có 2 thanh điệu (/ và .)
Ngoài các âm trên, ở ví trí cuối âm Tiếng Việt không có một âm nào khác.
Đây là một trong những đặc điểm riêng của cấu trúc âm tiết Tiếng Việt.
Muốn đạt được những điểm trên đòi hỏi người giáo viên phải biết hướng
dẫn học sinh chuẩn bị trước bài và đọc thông, viết thạo bài chính tả sẽ viết, nắm
được nội dung chính tả của bài, nhận xét những hiện tượng chính tả hoặc cách
trình bày một văn bản. Mặt khác, học sinh phát âm chuẩn xác giữa cách đọc và
cách viết phải thống nhất với nhau. Điều mà giáo viên cần chú trọng ở đây là làm
sao cho học sinh của mình không mắc sai nhiều lỗi chính tả khi viết, gặp phải
nhiều tiếng có vần khó làm ảnh hưởng đến thói quen của các em.
Ví dụ: tàu thủy thì viết tàu thỉ, ngoằn ngoèo thì viết ngoằn ngoè,…
Phân môn Chính tả Lớp 1 nói về hình thức các em chỉ học kiểu bài tập chép
(nhìn viết) là hình thức chủ yếu. Ở kiểu bài này, giáo viên phải đọc cả bài viết cho
học sinh nghe trước khi viết. Giáo viên viết theo mẫu chữ hiện hành trên bảng lớp
rõ ràng. Hình thức tập chép đòi hỏi học sinh chuyển từ hình ảnh thị giác (nhìn
bảng viết) thành hành động tái tạo lại dạng thức viết. Tập chép là hình thức lặp đi,
lặp lại nhiều lần dạng thức viết của các chữ cái các từ trong văn bản. Do đó, tập
chép vừa giúp học sinh củng cố kỹ năng viết các chữ cái, định hình dạng thức các
đơn vị ngôn ngữ, vừa có tác dụng hoàn thiện kỹ năng đọc. Ngoài ra, giáo viên còn
cho học sinh luyện viết đúng chữ cái ở các vị trí có phụ âm đầu hoặc vần và thanh
dễ nhầm lẫn.


22


Nói về dấu thanh gồm 5 thanh đệm (trừ thanh 1 – thanh ngang không có dấu
ghi), thanh 2 – dấu huyền (`), thanh 3 – dấu ngã (~), thanh 4 – dấu hỏi (?), thanh 5
– dấu sắc(/), thanh 6 – dấu nặng (.).
Nếu âm chính ghi bằng hai chữ nguyên âm đôi: ia, ya, ie, ua, uô, ưa, ươ thì dấu ghi
thanh thường ghi bằng 2 cách:
+

Các âm chính viết ia, ya, ua, ươ ghi dấu thanh trên chữ

cái đầu:
Ví dụ: mía, múa, sữa, …
+

Các âm chính viết ie, yê, uô, ươ ghi dấu thanh trên chữ

cái sau:
Ví dụ: tiết, thuyền, buổi, …
Điều mà giáo viên cần lưu ý là khi giáo viên đang đọc văn bản của bài viết
thì giáo viên phải hết sức tập trung quan sát và phát hiện kịp thời hiện tượng học
sinh vội vã ghi lại lời giáo viên đọc. Kinh nghiệm cho rằng, ở học sinh cấp 1 với
sự vội vã như vậy sẽ không đạt được kết quả tốt. Chính vì thế đòi hỏi giáo viên
không chỉ dạy mà còn phải biết bao quát lớp học và phải thống nhất một tiến trình
một bài dạy môn chính tả sao cho phù hợp với học sinh lớp mình.
Khi học sinh viết bài xong, giáo viên nên đọc lại một lần để học sinh rà soát
lại bài viết của mình. Hướng dẫn học sinh theo dõi bài viết để sửa lời văn. Giáo
viên cần đọc chậm khi đọc từ khó có thể phân tích cách viết cho học sinh sửa lỗi

ngay lúc đó. Sau mỗi bài viết là phần bài tập. Những hình thức bài tập thường
được sử dụng là: Điền phụ âm đầu g/gh, ng/ngh, c/k/q, … Điền vần và thanh …
Hình thức bài tập chính tả âm, vần phong phú và mang đậm tính tình huống cho
học sinh. Ngoài ra, giáo viên cần hết sức chú ý cách hướng dẫn học sinh làm bài
tập, giúp các em nắm vững yên cầu của bài tập giáo viên nên chuẩn bị vật thật,
tranh ảnh phù hợp với nội dung bài tập, hệ thống câu hỏi, bằng lời giải thích hoặc
bằng cách hướng dẫn học sinh cách làm mẫu, nhẹ nhàng, khéo léo lôi cuốn các em
vào các tình huống nhằm kích thích sự ham muốn giải bài tập của các em, tránh
mang lại cảm giác nặng nề, tâm lý ngại khó trước các yêu cầu rất đa dạng của hệ
thống bài tập này.

23


Tuy nhiên, điều giáo viên cần lưu ý cần khai thác có hiệu quả các bài tập
trong sách giáo khoa, tổ chức cho học sinh làm bài tập cũng như uốn nắn thường
xuyên kịp thời những lỗi các em dễ mắc phải nhằm củng cố bền vững kĩ năng viết
chính tả ở học sinh nói chung.
5. Khuyến khích động viên và nêu gương:
Sau mỗi bài, mỗi tiết học nên tạo cho học sinh niềm vui vì đã hoàn thành bài
học, niềm tin vào sự tiến bộ của bản thân bằng những lời động viên khen ngợi,
tuyên dương và nêu gương những em luôn luôn viết đúng, trình bày sạch sẽ.
Tạo cho các em mong muốn tìm tòi, chú ý tốt nhất cho bài học của mình.
Vì vậy, cho dù đã hoàn thành bài học, bài làm học sinh cũng vẫn không thoả mãn
với những gì đạt được. Học sinh cần tự kiểm tra, đánh giá và luôn tìm cách hoàn
thiện việc đã làm.

IV. CÁC BƯỚC THỰC HIỆN:
A. Phân môn chính tả không phải chỉ là một môn học phát hiện, mà là một
môn học phát hiện và sửa chữa những vi phạm (sửa lỗi chính tả), chính tả Tiếng

Việt không đơn giản là cách viết theo sát ngữ âm, cách viết hoàn toàn giống như
nói. Mà chính tả có xu hướng thống nhất, chuẩn hoá, không phải là chính tả cho
từng phương ngữ, từng khu vực có biến thể ngữ âm riêng biệt.
- Nội dung chính tả bao gồm các nguyên tắc dùng chữ để viết âm tiết và
một số nguyên tắc viết chữ ngoại lệ.
Theo đó mỗi nguyên tắc trên là sự hoà hợp, khái quát hoá một nhóm phương
pháp cụ thể, nhằm dạy cho học sinh viết đúng và hạn chế viết sai chính tả.
* Dạy chính tả gắn với sự phát triển tư duy. Trong quá trình dạy chính tả,
giáo viên thường xuyên dẫn dắt học sinh chiếm lĩnh các quy tắc chính tả và ghi
nhớ để áp dụng vào việc viết văn bản bằng một hệ thống thao tác tư duy hợp lý.
a/ Phân chia nhiệm vụ thực hành quy tắc thành các bước cụ thể.
b/ Lần lượt giải quyết các bước cụ thể đó theo một trình tự logic.
c/ Vận dụng các kinh nghiệm thực tiễn vào việc giải quyết từng bước cụ thể
và giải quyết nhiệm vụ chung.

24


Ví dụ: Dạy cho học sinh biết phân biệt l/n. Nhiệm vụ chính tả ở trường hợp
này là giải quyết hiện tượng viết như nói, nói sao viết vậy, phát âm nhầm lẫn l/n thì
viết cũng không phân biệt. Khác với quy tắc phân biệt ch, tr, x, s. Trong một số
phương ngữ vẫn tồn tại phát âm l/n nhưng lại chỉ có ch, x không có tr, s. Vì thế, có
thể phân chia lần lượt cho học sinh tìm nguyên nhân viết nhầm lẫn l/n cách phát
âm l/n để viết đúng.
Nói tóm lại, nguyên tắc dạy chính tả gắn liền với phát triển tư duy cho học
sinh đòi hỏi:
+ Vận dụng các phương pháp tích cực lĩnh hội tri thức rèn luyện thao tác tư
duy giúp học sinh chủ động và rèn luyện kĩ năng chính tả tự động hoá.
+ Hướng dẫn học sinh hoạt động trí tuệ để “hiểu” chữ viết và chức năng
của chữ viết, tác dụng của nó trong quá trình giao tiếp và tư duy bằng ngôn ngữ

Tiếng Việt.
+ Luyện tập thực hành các hình thức chính tả để củng cố kĩ năng thao tác
tư duy khoa học cho học sinh.
* Ví dụ:
Phụ âm đứng đầu âm tiết trong Tiếng việt có 21 phụ âm đầu là: b, c
(q, k), d (gi), đ, g (gh), h, l, m, n, r, s, t, v, x, nh, ng (ngh), th, ph, c, h, tr, kh. Có các
phụ âm được ghi bằng những ký hiệu khác nhau:
Để biểu thị âm có dùng ba chữ :c, k, q trong đó:
Viết
C

Trong trường hợp
Ví dụ
Đứng trước các chữ cái: a, ă, â, Ca, căn, cân, cô, cơ, cử,

K
Q

o, ô, u, ư
cung,..
Đứng trước các chữ cái: i, e, ê Kính, kiến, kèn, kênh,..
Đứng trước chữ cái u (làm âm Quả, quang, quên,..
đệm)
- Riêng trường hợp ka, ki theo thói quen k viết trước a mà không phải là c.
Song, người ta phải thường chia âm tiết thành bốn kiểu như sau:

1.

Kiểu
Mở


Âm tiết
Đặc điểm
Ví dụ
Cuối âm tiết là nguyên Cha, mẹ, cô ,chú …
âm chính: a, o, ô, ơ, u,
25


×