Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Lăng khải định TP huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.94 MB, 18 trang )

Học phần: Văn hóa Huế
Chủ đề: Lăng Khải Định


LỜI MỞ ĐẦU
Kinh Thành Huế xưa kia là vùng đất của 9 đời Chúa và 13 đời vua triều Nguyễn với
sự khởi đầu là Chúa Nguyễn Hoàng (1958) và kéo dài suốt 5 thế kỉ đến 1945 kết thúc
dưới thời Vua Bảo Đại. Có thể nói đây là nơi lưu giữ nhiều di tích lịch sử có giá trị nhân
văn. Cho đến ngày nay, tại tỉnh Thừa Thiên Huế nhiều công trình lăng tẩm của các vua
triều Nguyễn được UNESCO công nhận là những di sản thế giới. Đóng góp vào kho tàng
mỹ thuật chung của nhân loại với nghệ thuật kiến trúc độc đáo là các công trình lăng tẩm
mang nhiều phong cách khác nhau thể hiện tính cách của bậc đế vương. Mỗi lăng tẩm là
một công trình kiến trúc tiêu biểu cho nền mỹ thuật và lưu giữ những giá trị văn hoá, kiến
trúc của một Triều đại. Trong điều kiện lịch sử đầy biến động nên 13 vua chỉ có 8 vua là
có lăng tẩm.
Và hiện nay trong số những kiến trúc lăng tẩm đầy bí ẩn đó thì Lăng vua Khải Định
(vị vua thứ 12 của triều Nguyễn - một ông vua đầy thị phi) so với các công trình lăng tẩm
khác còn khá nguyên vẹn và có kiến trúc thật sự khác biệt. Đây chính là công trình duy
nhất có sự giao thoa văn hóa Đông – Tây trong buổi giao thời của lịch sử và cá tính của
Khải Định.
I.

Cuộc đời và sự nghiệp của vua
Khải Định:

Khải Định, sinh ngày 8/10/1885, mất ngày
6/11/1925, có tên huý là Nguyễn Phúc Bửu
Đảo, nhưng sau đổi tên thành Nguyễn Phúc
Tuấn – là vị vua thứ 12 của triều Nguyễn, trị vì
trong 9 năm (1916 – 1925), và là ông vua cuối
cùng xây dựng lăng mộ cho mình. Ông là con


trưởng của vua Đồng Khánh và Hoàng hậu
Dương Thị Thục.
Vua Đồng Khánh ở ngôi được hơn ba năm
(19/9/1885- 25/1/1889) thì băng hà lúc mới 25
tuổi, lúc này con trưởng của vua Đồng Khánh
là Hoàng tử Bửu Đảo mới hơn 3 tuổi do còn
quá nhỏ nên không được đưa lên nối ngôi vua
cha.
Nǎm 1906, Bửu Đảo được phong là Phụng Hóa công, nên còn được gọi là Hoàng thân
Phụng Hóa. Trong khoảng thời gian giữ tước vị Phụng Hóa Công, Khải Định rất ham mê
cờ bạc, nhưng thường xuyên bị thua, có khi phải cầm bán cả những đồ dùng và những


người hầu hạ. Thậm chí, vợ ông là con gái của quan đại thần Trương Như Cương, luôn
luôn bị buộc về xin tiền của bố mẹ để gán nợ cho chồng.
Sau khi phế truất Thành Thái (9/1907), thực dân Pháp định đưa Bửu Đảo lên ngôi vua
nhưng vấp phải sự phản đối của đa phần triều thần nên đành chấp nhận Duy Tân.
Sau khi Duy Tân bị đi đày vì thái độ bất hợp tác và chống đối người Pháp, ngày 18
tháng 5 năm 1916 hoàng tử Bửu Đảo lên ngôi lấy niên hiệu là Khải Định, ngôi vị mà
đáng ra đã thuộc về ông 10 năm về trước.
Lên ngôi trong giai đoạn Pháp thuộc, không bản lĩnh như Gia Long, táo bạo như Minh
Mạng, yêu nước như Hàm Nghi, Khải Định là một ông vua đầy tai tiếng.

Vua Khải Định sang Pháp dự hội chợ
Marseille

Có một vở kịch là “Con Rồng tre”. Đó là
vở kịch viết về vua Khải Định được công
chiếu ở ngoại ô Paris trong thời gian vị vua
này sang Pháp dự hội chợ Marseille (Mác xây) vào ngày 20/5/1922 để đả kích chế giễu

Khải Định. Đây được coi là chuyến công cán
nước ngoài đầu tiên của một vị vua triều
Nguyễn, điều chưa từng có tiền lệ từ trước tới
nay. Sự kiện này đã thổi bùng lên ngọn lửa đấu
tranh của những người Việt Nam yêu nước
nhằm phản đối ông.

Đặc biệt, ông có quan hệ rất tốt với Khâm
Sứ Trung Kỳ, thậm chí Khải Định còn gửi gắm con mình là Vĩnh Thuỵ (vua Bảo Đại sau
này) cho vợ chồng Khâm Sứ. Chính vì vậy trong thời gian này triều đình Huế không hề
có xích mích gì với thực dân Pháp. Nhưng cũng vì vậy mà ông vua này không được lòng
dân chúng.
Ở Huế người dân hay truyền miệng câu:
“Tiếng đồn Khải Định nịnh Tây
Nghề này thì lấy ông này tiên sư”.
Khải Định là một ông vua rất thích sự xa hoa. Người ta kể lại rằng một ngày nhà vua
dành thời gian khoảng 6 tiếng đồng hồ để trang điểm cho con người của mình. Ông để
móng tay rất dài và 10 ngón tay thì nhà vua đã đeo đến 8 chiếc nhẫn mặt ngọc rồi. Trang
phục thì phía trong mặc áo vetton nhưng bên ngoài thì khoác áo Hoàng bào, trên ngực có
gắn huy chương Bắc Đẩu Bội Tinh của Pháp. Trên lưng thì không mang nịt như thanh
niên thời bây giờ, thời xưa vua chúa thưởng đeo đai ngọc. Nhưng vua Khải Định lại


không làm như vậy mà lại cho bắt những cái bóng điện
chớp nháy vàng xanh tím đỏ quanh lưng của mình. Và
mỗi khi cảm thấy thích thú thì ông cho bật lên tắt đỏ tắt
đỏ trông rất vui mắt. Đó chính là cái sự khác người và
có phần trẻ con của vi vua này.
Có điều quan trọng hơn nữa đã xảy ra dưới thời này
đó chính là số vợ con của nhà vua. Vua Khải Định là vị

vua nổi tiếng ít vợ và ít con nhất. Ông có 12 bà vợ và có
duy nhất một con trai là Nguyễn Phúc Vĩnh Thuỵ.
Người ta nói Khải Định bất lực, không thích gần đàn bà
đã gây nhiều dư luận khi ông có con với bà Hoàng Thị
Cúc. Tuy nhiên ông vẫn luôn đối xử tốt với vợ của mình.
Nhưng qua những điều trên ta cũng phải nhìn nhận
lại. Nếu vua không đi nước ngoài thì liệu vua có mang về những kiến trúc độc đáo để tạo
dựng nên những công trình kiệt tác mà chúng ta đang thấy hay không. Và người ta nói
rằng ông ăn mặc diêm dúa, vì thời đó trang phục ông tạo ra trông thật khác người. Nhưng
bây giờ nhìn lại, ta vẫn mặc những bộ đồ gọn gàng như ông đã từng mặc, những áo
vetton, những đôi giày ống thậm chí có bắt điện nhấp nhấy mà những bạn trẻ thời nay gọi
là thời trang, sành điệu. Vậy phải chăng ông là một nhà thiết kế thời trang tài ba, đi trước
cả thời đại.

II.
Tổng thể lăng Khải Định. Quá trình xây dựng lăng:
a. Tổng thể lăng Khải Định:
Theo quan niệm “sống gửi thác về” của nhà Nho và triết lí vô thường của nhà Phật
cuộc sống trần gian chỉ là tạm bợ khi thác về thế giới bên kia mới là cuộc sống thực. Do
đó mà các Vua Chúa xưa kia rất coi trọng nơi yên nghỉ của mình.
Lăng Khải Định toạ lạc trên núi Châu Chữ nay thuộc xã Thuỷ Bằng, huyện Hương
Thuỷ cách thành phố Huế 10 km.
Về tổng thế của Lăng là một hình chữ nhật vươn lên cao với
127 bậc cấp, lăng dựa vào thế núi ở đằng sau, dòng suối uốn lượn
quanh co ở phía trước theo quan niệm phong thuỷ cổ truyền
nhưng xu hướng đặt cao theo kiểu Phương Tây chứ không ở dưới
thấp theo lối truyền thống như các lăng tẩm khác, tạo nên một
khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ. Từ tổng quan cho đến
chi tiết có lẽ công trình này bị ảnh hưởng khá nhiều bởi phong
cách kiến trúc Châu Âu.



Từ dưới mặt đất lên phải vượt qua 37 bậc cấp mới đến được Cổng Tam Quan. Ở tầng
thứ nhất này có hai công trình Tả Tòng Tự và Hữu Tòng Tự được xây dựng để thờ bài vị
các vị công thần.
Tiếp tục vượt qua 29 bậc cấp nữa sẽ đến Nghi Môn và sân Bái Đính. Hai bên sân Bái
Đính là hai hàng tượng chầu gồm quan văn, quan võ được tạc đúng theo tỉ lệ 1:1. Nằm ở
giữa cuối sân Bái Đính là Bi Đình hình bát giác. Trong Bi Đình có tấm bia bằng đá cao
3,1m. Trên bia có khắc công đức của vua Khải Định do vua Bảo Đại viết. Hai bên tả, hữu
của nhà bia (Bi Đình) là hai Trụ Biểu tượng trưng cho hai ngọn nến soi sáng linh hồn của
vua ở thế giới bên kia.
Sau Bái Đình là hai tầng sân hình chữ nhật được lát gạch caro, mỗi tầng cách nhau 13
bậc. Và cuối cùng là Cung Thiên Định nằm ở tầng thứ năm - vị trí cao nhất của Ứng
Lăng.
Gọi là 8 lăng trong 13 đời vua nhưng trải qua thời gian dài, cho đến hôm nay chỉ còn
lại 7 lăng. Trong 7 lăng hay được nhắc đến là Lăng Gia Long, Lăng Thiệu Trị, Lăng Khải
Định, Lăng Minh Mạng, Lăng Tự Đức, Lăng Đồng Khánh, Lăng Dục Đức thì lăng của
Vua Khải Định có diện tích khá nhỏ khoảng 0,5265 ha tương đương 117m chiều dài và
48,5m chiều rộng nhưng cực kì công phu và tốn nhiều thời gian.
Khi Vua Khải Định trị vì đất nước được 4 năm thì ông đã lo nghĩ đến việc tạo dựng
sinh phần cho mình. Sau khi tham khảo nhiều tấu trình của các thầy địa lí, Vua Khải Định
đã chọn triền núi Châu Chữ làm vị trí xây cất lăng mộ và đã đổi tên núi Châu Chữ (vừa là
hậu chẩm vừa là mặt bằng của lăng) thành Ứng Sơn, gọi tên lăng theo tên núi nên lăng
Khải Định có tên gọi là Ứng Lăng. Thoạt nhìn có thể thấy Ứng Lăng như một toà lâu đài
của Châu Âu vì nó được xây bằng bê tông cốt thép.

b. Quá trình xây dựng lăng:

Lăng được khởi công xây dựng vào ngày 4/9/1920 nhưng công cuộc xây dựng lăng
này đang dang dở thì năm 41 tuổi nhà vua băng hà (6/11/1925) và việc xây lăng được cựu

hoàng Bảo Đại - người con trai duy nhất của Khải Định tiếp tục hoàn thành, kéo dài suốt


11 năm (1920 - 1931). Do Tiền Quân Đô Đốc Thống Phủ Lê Văn Bá là người chỉ huy với
sự tham gia của nhiều nghệ nhân nổi tiếng như Phan Văn Tánh, Nguyễn Văn Khả, Ký
Duyệt, Cửu Sừng... Để có kinh phí xây dựng lăng Vua Khải Định đã xin chính phủ bảo
hộ Pháp cho phép tăng thuế điền lên 30% để lấy số tiền đó xây lăng cho mình. Trong khi
đó nhân dân đang trong tình cảnh lầm than, sưu thuế nặng giờ đây càng nặng hơn nữa ai
ai cũng oán trách. Hành động này của ông đã bị lên án gay gắt. Công trình này dù đã trải
qua bao năm tháng nhưng so với các công trình khác vẫn còn nguyên vẹn với lối kiến
trúc thật sự khác biệt. Cho đến nay khu lăng mộ này còn vô số câu hỏi bí ẩn mà các nhà
nghiên cứu không thể giải đáp.

III. Phong thủy của lăng và sự giao thoa văn hóa kiến trúc Đông – Tây:
a. Phong thủy của lăng:
Điều kiện đầu tiên để xây dựng lăng vua là vị trí phong thủy
phải đảm bảo nghiêm ngặt các yếu tố: tiền án, hậu chẩm, tả
Thanh Long, hữu Bạch Hổ và yếu tố minh đường.
Mặc dù đã sẵn sàng tiếp nhận phong cách kiến trúc mỹ thuật
mới mẻ đến từ phương Tây nhưng vua Khải Định vẫn giữ gìn và
tuân thủ triết lí phong thủy về việc xây lăng cho mình như các
đời vua trước đã làm.
Điều đó được thể hiện qua việc vua cho các thầy phong thủy
tập trung khảo sát kĩ lưỡng địa thế và đặc điểm sơn thủy ở nhiều
nơi trong vùng phía Nam sông Hương và họ đã tìm thấy một địa thế cách kinh thành Huế
10km về phía Tây Nam trên một vùng núi có độ dốc tương đối vừa phải dường như “sinh
ra để làm nơi ngả lưng cho một linh hồn quyền quý”. Núi có tên Châu Chữ mà theo Đại
Nam nhất thống chí nằm về phía Tây Bắc của huyện Hương Thủy, có một con suối kề cận
từ phía Nam chảy về, đó là suối Châu Ê.
Núi không cao lắm song nằm giữa khung cảnh thiên nhiên thoáng đãng, có dòng nước

uốn mình qua chân núi, có các dãy đồi nhấp nhô xa xa dưới tầm nhìn và một rừng cây
xanh bao bọc. Như mọi người đã thấy phía trước lăng là một quả đồi thấp làm tiền án, lần
lượt hai bên trái và bên phải là hai ngọn núi Chóp Vung và Kim Sơn là tả Thanh long và
hữu Bạch Hổ. Khe Châu Ê ở phía trước kia chảy từ trái qua phải làm thủy tụ, còn gọi là
minh đường. Ngay phía sau lăng là vùng núi Châu Chữ, sau này Khải Định đổi thành
Ứng Sơn làm hậu chẩm, đồng thời là mặt bằng của lăng. Như vậy, vị trí của lăng mang
đầy đủ các yếu tố về phong thuỷ, tạo nên công trình kiến trúc độc đáo mới lạ.


b. Sự giao thoa văn hóa kiến trúc Đông – Tây:
Nguyên vật liệu chính là bê tông cốt thép được vận chuyển từ Pháp về, đồ sứ, thủy
tinh màu,... Được mang từ Trung Quốc, Nhật Bản sang. Người đời sau thường đặt lăng
Khải Định ra ngoài dòng kiến trúc truyền thống thời Nguyễn bởi cái mới lạ, ngông
nghênh nhưng lạc lõng của nó. Một điều mà chúng ta dễ dàng nhận thấy sự khác biệt đến
ngông nghênh của vua Khải Định là ông cho xây dựng lăng của mình ở vị trí cao nhất,
cao hơn hết tất cả các vị vua thời trước.
Cổng vào lăng được làm hoàn toàn bằng sắt thép và xi măng, những trụ cổng hình
tháp là sự ảnh hưởng của kiến trúc Ấn Độ.
Khu vực sân chầu có hai ngôi nhà hai bên giống hệt nhau, chúng cũng được kết hợp
hai lối kiến trúc Đông - Tây: mái xây theo kiểu chồng diêm, 2 lớp xếp lên nhau, bên trong
là các vì kèo làm bằng xi măng cốt thép.


Ở giữa sân khi nhìn về phía trước là Bi đình với
kiến trúc rất độc đáo, khác lạ so với các Bi đình
khác. Đó là nhà gồm hai tầng, tầng trên nhỏ hơn
tầng dưới, kiến trúc mái xây theo kiểu Phật giáo với
những con rồng uốn lượn nhịp nhàng. Trên góc xéo
của Bi đình là những hoa văn đắp nổi hình chữ Thọ
cách điệu thể hiện sự trường tồn của nhà vua.

Nhà bia hình bát giác xây bê tông cốt thép hoà trộn cổ kim, trong đó có bia đá với
những hàng cột bát giác, các vòm cửa hình bán cầu, thấp, các cửa sổ nhỏ và dày theo lối
Roman biến thể…
Hai bên bi đình là

hai trụ biểu hình chóp mũi nhọn dạng stoupa ảnh
hưởng từ kiến trúc Phật giáo của Ấn Độ. Stoupa là
kiến trúc Phật giáo cổ nhất của ở Ấn Độ vào thế kỉ
IV - I TCN, dạng bán cầu và đỉnh nhọn, vì theo
tương truyền trước khi tịch, Phật được hỏi: làm thế
nào để bảo tồn sự tôn kính di thể Phật? Lúc ấy, Phật
gấp tư áo cà sa, úp bát khất thực lên, rồi đặt cái gậy
chống lên trên cù. Trụ biểu tượng trưng cho hai
ngọn nến soi sáng linh hồn vua ở thế giới bên kia.

Xung quanh là
hàng rào như những cây thánh giá khẳng khiu, tương tự
như những hàng rào giáo đường của nhà thờ, đây là những
đường nét kiến trúc chịu ảnh hưởng từ kiến trúc La Mã.

IV. Sự đối xứng về kiến trúc:
Giống như hầu hết các khu lăng tẩm khác, lăng
Khải Định vẫn có kiểu kiến trúc đối xứng, các
công trình trong lăng được bố trí dọc theo trục
xuyên tâm lăng từ ngoài cổng chạy vào Cung
Định.

dài
Thiên



Bước lên những bậc cấp tiếp theo chúng ta sẽ đến khu vực sân chầu, nơi có hai hàng
lính bảo vệ phía sau và hai hàng đứng trước là các quan văn, quan võ đứng theo thứ tự
“thượng văn quan võ”. Điều này chứng tỏ thì thời xưa triều đình coi trọng quan văn hơn.
Ngoài ra, còn có tượng voi ngựa đối xứng hai bên.
Bi đình nằm ở vị trí chính giữa, hai bên là hai trụ biểu uy nghi. Mọi thứ được sắp xếp
đối xứng một cách hoàn hảo.

IV. Sân Bái đính, Bi đình, Bia đá:
a. Sân Bái đính:

Sân bái đính bao gồm hệ thống quan văn, quan võ, voi ngựa, hai trụ biểu và bi đình.
Khác với các lăng khác, lăng Khải Định còn có hệ thống hàng binh lính ở phía sau.
Hơn nửa thế kỉ trước, khi khảo cổ về các lăng tẩm ở Huế, Ed Castagnol một nhà khảo
cổ học cho rằng: hệ thống đá trong các lăng, chúng tôi bắt buộc kết luận rằng ý sáng tạo
quá nghèo nàn. Hơn nữa, còn vụng về là tạc những tượng đá quá to hay quá thấp, phong
cách cứng nhắc, không chút gì là nghệ thuật. Phải chăng những pho tượng đá này không
đáng được quan tâm bởi chúng chẳng có giá trị gì về nghệ thuật.
Mới gần đây nhất văn hóa Huế mới giới thiệu nhiều về giá trị của hệ thống tượng đá
ấy. Ở thời Nguyễn lăng mộ vẫn cấu trúc theo mẫu của thế kỷ về trước, được làm theo
mẫu lăng mộ hoàng đế Trung Hoa, tại tất cả các lăng ở Huế đều có hàng tượng được đặt
dọc hai bên sân bái đính và quay nhìn vào lòng sân. Với các lăng Gia Long, Thiệu Trị, Tự
Đức, Đồng Khánh thì sân bái đính đặt ở bên lăng còn phải trải qua nhiều cấp mới lên nấm
mộ, tượng được dựng tại nền đầu tiên. Riêng lăng Minh Mạng và lăng Khải Định, nền
sân bái đính của tẩm cũng là của lăng nhưng do cấu trúc mặt bằng khác nhau nên nơi đặt
tượng của hai bên khác nhau. Bởi vậy tầng nền sát tầng đặt lăng và tẩm mới dùng làm bái
đính với hai hàng tượng.


Với năm lăng trước Gia Long, Thiệu Trị, Minh Mạng, Tự Đức, Đồng Khánh tượng

hai bên sân bái đình đều dàn hàng mỗi bên một hàng ngang, tạo thành từng cặp đối nhau,
thứ tự từ ngoài vào trong là một đôi voi, một đôi ngựa, hai hoặc ba đôi quan võ, cuối
cùng là hai đôi quan văn.
Ở lăng Khải Định thì ngoài các tượng quan văn, quan võ, ngựa và voi, còn có đôi
tượng lính túc vệ vẫn dàn ngang và xếp dọc hai bên sân bái đính, mỗi bên có hai hàng. Từ
ngoài vào trong, ở hàng trước là hai đôi quan võ rồi đến hai đôi quan văn, còn ở hàng sau
là một đôi voi, một đôi ngựa rồi đến sáu đôi lính túc vệ.
Về chất liệu lăng này được làm bằng đá xi măng chỉ có lăng Đồng Khánh được đắp
bằng vữa tam hợp cát thô như bê tông giả đá.
Lúc nhà vua thiết triều nhà vua sử dụng hai phương tiện chính là voi và ngựa. Khi nhà
vua về với ông bà, tổ tiên về với cõi vĩnh hằng thì voi và ngựa cũng đi theo chân nhà vua,
đây cũng là hai con vật dùng để vận chuyển thời bấy giờ. Và ở đây cũng theo trình tự
nam tả nữ hữu võ có nghĩa bên tay trái chúng ta là những quan văn và bên tay phải là
hình ảnh những quan võ điều này nói rằng dù nhà vua sống hay chết thì mọi thứ cũng
theo vua.
Thực sự tượng có chiều cao hơi thấp một chút. Bởi vì bản thân nhà vua có cơ thể nhỏ
bé vì vậy các quan khi chầu không được quá chiều cao của nhà vua, nếu to hơn vua sẽ
được xem là phạm thượng.
Huế có tất cả 91 pho tượng, song chỉ gồm 5
loại: quan văn, quan võ, voi, ngựa và lính túc vệ.
So với các loại tượng trong các lăng vua Trần, Lê
ở ngoài Bắc thì tượng vua Nguyễn ở Huế có phần
nghèo nàn hơn cả về đề tài lẫn bố cục vì những
người tạc tượng phải tuân thủ đúng quy định triều
đình đề ra. Công trình ở lăng Khải Định mới hơn
tạo nên sự uy nghi, trầm mặc. Dù cao hay thấp
nhưng tượng ở đây khá là tỉ mỉ, tỉa tốt đến từng
sợi râu, tư thế nghiêm trang gây ấn tượng như
nhân vật bằng da thịt.


b. Bi đình, bia đá:
Ở giữa sân khi
những bi đình khác.

nhìn về phía trước là bi đình có kiến trúc rất độc đáo khác lạ với


Đây là tòa nhà hình lục giác, nhà gồm hai tầng, tầng trên nhỏ hơn tầng dưới, kiến trúc
mái xây theo Phật giáo với những con rồng uốn lượn nhịp nhàng. Cái gì cho vua thì đều
là rồng 5 móng, quan trở xuống là 4 móng, 3 móng thôi, 5 móng là phạm thượng. Cõi
dương như thế nào thì cõi âm cũng như thế, vua xuống có làm ma cũng làm ma vương
hay vua của ma. Trong thế giới âm cũng có xếp hạng. Trên các góc xéo của bi đình là
những hoa văn đắp nối hình chữ Thọ cách điệu thể hiện cho sự trường tồn của nhà vua.
Xung quanh là những hàng cột bát giác và vòm cửa theo lối Roman biến thể.

Trong bi đình là tấm bia Thánh đức thần
công do Bảo Đại lập cho vua cha. Bài văn
bia ở đây được viết bằng chữ Hán, mà vua
Bảo Đại lại không giỏi chữ Hán bằng chữ
Pháp, vì từ nhỏ vua Bảo Đại được vua cha
gửi sang Pháp học, nên bài văn này không
phải chính tay vua viết mà do một ông quan
cận thần viết.
Bài văn bia kể lại tất cả các công trình kiến trúc được xây dựng dưới quần thể lăng
này, sau đấy vua Bảo Đại nêu lên tính cách và cuộc đời của vua cha. Nội dung tấm bia
còn nhấn mạnh đến việc cảm ơn các vị vua thời trước, những điều vua tâm đắt nhất để
tưởng nhớ. Bi đình của lăng Khải Định khác với các lăng khác được xây dựng theo kiến
trúc Roman nghĩa là lầu bát giác 8 cạnh. So với tấm bia lớn nhất nước Thánh đức thần
công trong lăng Tự Đức cao 5m; rộng 2,6m; nặng 20 tấn, tấm bia khắc 2 mặt 5000 chữ
rất sắc sảo, là bài “Khiêm cung ký” nổi tiếng của vua Tự Đức năm 1871, khắc vào bia

năm 1875. Bia của lăng Khải Định khá đặc sắc về hình dáng, kiến trúc nhưng nội dung
vẫn tương tự các lăng khác đều ca ngợi nhớ công ơn của vua cha.

V.

Nghệ thuật trang trí ở Cung Thiên Định:


Mặt trước của cung là những cột hình vuông tròn xen kẽ xươn lên cao thể hiện cho
trời đất, âm dương hài hòa. Xung quanh là tường rào với những hình tượng thánh giá,
chịu sự ảnh hưởng từ Thiên chúa giáo, nhưng ngay bên cạnh đó lại là những cột trụ với
chóp hình hoa sen của Phật giáo.
Công trình này gồm 5 phần liền nhau: 2 bên là Tả, Hữu Trực Phòng dành cho lính hộ
lăng; phía trước là điện Khải Thành, nơi có án thờ và chân dung vua Khải Định; chính
giữa là bửu tán, pho tượng nhà vua và mộ phần phía dưới; trong cùng là khám thờ bài vị
của ông vua quá cố.
Toàn bộ tường và trần đều được lát bằng đá Cẩm Thạch. Thực ra đó không phải Cẩm
Thạch, mà chỉ đơn giản là xi măng, các nghệ nhân, thợ lành nghề đã sử dụng màu xanh
sẫm vẽ họa tiết lên tường giả Cẩm Thạch.
Phía bên tả trực phòng này là đôi câu đối phác họa nên hầu như toàn bộ giá trị về nghệ
thuật cũng như kiến trúc của lăng:
“Tứ diện hiến kỳ quan, phong cảnh biệt khai vũ trụ
Ức niên chung vượng khí, giang sơn trường hộ trừ tư”
Dịch nghĩa:
Bốn mặt đều là kỳ quan, phong cảnh mở ra một vũ trụ biệt lập
Muôn năm hun đúc nên vượng khí, núi sông giúp đỡ mãi hoài


a. Điện Khải Thành:


Phía trước là điện Khải Thành, toàn bộ nội thất của 3 gian giữa trong cung Thiên Định
đều được trang trí những phù điêu ghép bằng sành sứ và thủy tinh. Đó là những bộ tranh
tứ quý, bát bửu, ngũ phúc, bộ khay trà, vương miện... kể cả những vật dụng rất hiện đại
như đồng hồ báo thức, vợt tennis, đèn dầu hỏa... của vua cũng được trang trí nơi đây.
Những sành sứ, thủy tinh được vua Khải Định đã cho người sang Trung Hoa, Nhật Bản
để mua về. Đây là nơi đặt án thờ và chân dung vua Khải Định.
Khi bước vào điện Khải Thành có thể thấy rõ ràng hơn điểm khác biệt của lăng Khải
Định so với các lăng khác. Thường thì án thờ các ông vua khác làm theo phong cách
truyền thống là bằng gỗ, nhưng riêng Khải Định là được làm bằng bê tong cốt sắt, xung
quanh khảm sành sứ những hoa văn, phong cảnh được các nghệ nhân tài hoa khắc họa
đầy tính nghệ thuật.
Nội thất điện Khải Thành (cung Thiên Định) là nơi chứa tải của hầu hết các đề tài
trang trí hoa lá thời Nguyễn với nhiều kiểu thức tạo hình khác nhau. Tại đây có sự gặp gỡ
của các phong cách, bút pháp, đề tài tạo hình trang trí dân gian và cung đình như các kiểu
thức, bộ đề tài cung đình truyền thống mai, lan, cúc, trúc và nhiều loại cây cỏ khác rất
quen thuộc trong dân gian như những loại cây hoa, trái, chim thú, con vật đời thường.

b. Tranh tứ quý:
Tranh Tứ quý thuộc loại tranh bốn bức vẽ cảnh bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông. Tứ thời
phản ánh khá sâu đậm mỹ cảm cung đình và khát vọng, mong ước về cuộc sống quý phái,
trang nhã, về sự hoà nhập giữa con người và thiên nhiên, vũ trụ.


Mỗi bức tranh là một loài cây, loài hoa tương ứng đại diện cho một mùa trong năm.
-Mùa xuân: hoa mai, hoa lan, hoa
đào.

-Mùa thu: hoa cúc, hoa phù dung.
-Mùa đông: cây thông (tùng).


-Mùa hạ: cây trúc, hoa sen, hoa hồng,
hoa lựu.
Mỗi loài hoa, loài cây lại tương ứng với một loài chim. Vẽ hoa ấy phải đi với chim ấy
mới là đúng quy tắc, đúng luật. Như vẽ hoa mai phải vẽ với chim khổng tước (mai/điểu),
hoa hồng với chim công (hồng/công), hoa cúc với gà (kê/cúc), cây thông với chim hạc
(tùng/hạc). Cây mai có khí chất chống ma quỷ, và cũng là hình ảnh tượng trưng cho
người con gái. Mai cũng là biểu tượng cho sự cao thượng, kiêu dũng và nhẫn nại. Hoa
sen tượng trưng cho sự thanh bạch, bởi đài sen nhiều hạt và nó sinh ra trong bùn rồi vượt
lên mà tỏa sắc hương.
Cây cúc tượng trưng cho sức mạnh thiên nhiên, niềm hạnh phúc của con người, hoa
cúc biểu thị cho vẻ đẹp sâu lắng, kín đáo. Từ đặc tính tự nhiên là khi cây khô tàn cánh
hoa rơi xuống gốc, cúc còn là biểu tượng của lòng chung thủy. Cây liễu, người Trung
Quốc quan niệm cây liễu xanh chính là tượng trưng cho tuổi trẻ và sự hạnh phúc khi xuân
đến)… Cây trúc tượng trưng cho sự bất diệt, cho sự ngay thẳng của người quân tử. Nó
cũng là cây của đời sống trần gian, biểu hiện cho sự khôn ngoan, chịu đựng với đời. Cây
tùng biểu hiện cho sức mạnh, tượng trưng cho sự chịu đựng, sự bất diệt và khí phách
người quân tử.


Bên cạnh đó là hình tượng cây ngô đồng, trúc, đó là biểu tượng của sự thái bình thịnh
trị, của sức mạnh quyền lực.
c. Bức tranh “Cửu long ẩn vân”:

Về hội họa nếu đã nhắc đến nghệ thuật trang trí của lăng Khải Định thì không thể
không nói đến tác phẩm kinh điển – bức tranh “Cửu long ẩn vân”- chín con rồng ẩn trong
mây.
Người chịu trách nhiệm chính trong việc kiến tạo nên tuyệt tác nghệ thuật này chính
là nghệ nhân Phan Văn Tánh (có tài liệu ghi quê ông ở huyện Quảng Điền, Thừa Thiên
Huế, có tài liệu thì lại Thanh Hoá). Ông còn là tác giả của bức “Long Vân khế hội” ở
chùa Diệu Đế toạ lạc tại đường Bạch Đằng, thành phố Huế.

Có giai thoại kể rằng:
Lăng được xây dựng từ khi nhà vua còn sống. Có một lần vua Khải Định đến để xem
tranh thì thấy ông Phan Văn Tánh vẽ rồng lên bức tranh, tuy nhiên điều kì lạ ở đây là ông
Tánh lại dùng chân để vẽ chứ không dùng tay. Khi nhà vua đến thì tất cả mọi người đều
dừng làm việc để nghênh tiếp nhà vua, chỉ có mỗi ông Tánh thì vẫn mải mê vẽ trên trần
nhà, nằm nguyên trên giá, mặc cho nhà vua đứng dưới ngửa cổ ngước lên.
Thấy vậy vua Khải Định mới nghĩ rằng ông này đã không coi trọng vua nên mới tỏ
thái độ như vậy, ngay cả con rồng thể hiện uy quyền sức mạnh của nhà vua mà ông lại
dùng chân để vẽ. Vua Khải Định tức giận bằng gọi ông Tánh xuống để hỏi tội.


Khi tụt xuống đất, ông Tánh liền giải thích với nhà vua rằng sở dĩ ông không xuống
nghênh tiếp nhà vua vì mất rất nhiều thời gian mà công trình lại không hoàn thành như
nhà vua đã đưa ra. Còn lí do thứ hai ông Tánh dùng chân để vẽ tranh vì nếu vẽ bằng tay
thì khoảng cách từ mắt đến tay rất là gần mà để điều chỉnh độ đậm nhạt một cách tỉ mỉ và
hoàn hảo đối với một bức tranh có quy mô lớn như vậy thì phải vẽ bằng chân mới nhìn rõ
được.
Sau khi nghe người thợ đưa ra những lí lẽ như vậy, mặc dù lúc đầu ông rất tức giận
nhưng giờ thì không còn lí do gì để trách nữa, ông mới quay lại bảo với ông Tánh rằng:
“Nếu như Việt Nam này có hai Phan Văn Tánh như nhà ngươi thì ta đã chặt đầu nhà
ngươi rồi”.
Ba bức tranh trên ba trần nhà từ xưa đến nay chưa lần nào được tô sửa nhưng vẫn còn
nguyên như mới. Tuy nhiên ở đây có một điều đặc biệt là dù lăng được xây dựng đã lâu
nhưng không hề có nhện bám trên 3 trần nhà nơi có bức vẽ “Cửu Long ẩn vân”, cho đến
bây giờ người ta vẫn chưa lí giải được lí do tại sao. Ngay cả màu sắc của bức tranh này,
hay ngày xưa ông Phan Văn Tánh đã sử dụng loại thuốc gì trên nước sơn mà trên 3 trần
nhà lại nguyên như mới và không hề có nhện bám. Hiện nay công trình hội hoạ này vẫn
là sự ngạc nhiên cho những nhà nghiên cứu mĩ thuật và họ cũng chưa tìm được lời giải
đáp.


d. Bửu tán:
Ở giữa điện Chính Tâm là ngai
vàng của vua, phía trên có che một bửu
tán với kích thước khoảng 4m2, là một
khối xi măng “nặng cả nghìn cân”
nhưng dưới bàn tay tài năng của những
nghệ nhân Việt, bửu tán được gia công
kỹ thuật khéo léo trở nên vô cùng

thanh thoát, uốn lượn như một chiếc lọng lớn bằng
lụa gấm bồng bềnh, mềm mại dễ dàng lay động trong
gió mà quên rằng đó là một khối bê tông nặng gần
một tấn. Bửu tán được treo bằng 4 móc sắt lên trần
nhà.
Bốn mặt bửu tán là hình tượng những con rồng
thể hiện uy quyền của nhà vua, kết hợp với những


bức tranh muôn màu: động vật, chim muông, chạy nhảy ca múa sôi động, cây cối hoa lá
đung đưa trước gió. Điều đáng chú ý của Bửu tán là dù đứng ở góc độ nào thì đều có cảm
giác nhà vua đang nhìn mình. Người thiết kế Bửu tán cũng chính là ông Phan Văn Tánh,
người vẽ bức “Cửu long ẩn vân”.
Bên dưới Bửu tán là pho tượng đồng của vua Khải Định được đức với tỷ lệ 1/1 so với
người thật tại Paris, nước Pháp. Đây là tác phẩm do hai người Pháp thực hiện theo yêu
cầu của vua Khải Định. Bức tượng sau khi đúc được đưa về Việt Nam bằng tàu thủy và
nghệ nhân Huế dát vàng mười. Vàng mười là vàng nguyên chất, hay còn gọi là Vàng
mười tuổi. Muốn dát vàng phải trải qua 42 công đoạn tỉ mỉ. Bức tượng được hoàn thành
vào năm 1920. Pho tượng thể hiện nhà vua ngồi trên ngai vàng, mặc long bào, đội mũ
Cửu Long, tay cầm hốt.


Bức tượng này thể hiện theo tư thế
vua đang thiết triều, có ý nhằm làm cho
người xem quên đi cái cảm giác nhà mồ.
Khi hoàn thành bức tượng, người Pháp đã
nhận xét: “Người vua gầy, cao tầm thức,
khuôn mặt vua hơi gầy dài vàng, nhìn
không có sức sống, nên khi vua ngồi trên
ngai vàng thấy ngài lọt thỏm.”

Phía sau ngai vàng là tác phẩm “Thái dương hạ
sạn”, mặt trời tượng trưng cho nhà vua, hình ảnh mặt
trời lặn tượng trưng cho nhà vua băng hà. Khi đã băng
hà, vua cùng mặt trời đi về phía Tây để an giấc ngàn thu
nơi vùng núi đồi yên tĩnh.
Điện Chính Tâm cũng chính là nơi đặt thi hài của vua Khải Định. Bên dưới ngai vàng
chính là nơi đặt thi hài của nhà vua. Sau 9 năm ở ngôi, ông qua đời năm 1925, thọ 40
tuổi.
Có một điều đặc biệt mà lăng Khải Định khác với nhiều lăng của các vua triều trước
đó, là đối với các lăng của vua triều Nguyễn, thi hài nhà vua đặt ở đâu đó trong lăng rất
khó để xác định, nhưng riêng lăng Khải Định được định vị rõ ràng.
Có nhiều ý kiến xoay quanh việc này, có quan điểm cho rằng do tình hình lịch sử biến
động khi vua lên ngôi, triều đình bị người Pháp thao túng. Nhất cử nhất động của nhà


vua đều có ánh mắt của quan thầy Pháp dõi theo, vì thế mà đám tang của vua Khải Định
có nhiều người nước ngoài đưa tiễn cho nên thi hài nhà vua chôn ở đâu không còn là một
điều bí mật như các vua đời trước.
Hiện nay dưới chỗ đặt bức tượng sâu 9m là nơi chôn cất thi hài của nhà vua. Thi hài
nhà vua được đưa vào dưới pho tượng bằng một toại đạo dài gần 30m bắt đầu từ phía sau
Bi Đình mà lúc nãy chúng ta đã đi ngang qua. Có một bức bình phong xây bằng xi măng

cốt thép, ở ngoài khảm sành sứ, ngọc đá. Người ta đào một đường hầm ở dưới lòng đất từ
bức bình phong đến điện chính của lăng (nơi chôn cất nhà vua) là 30m. Sau khi nhà vua
băng hà, quan tài nhà vua được đưa vào bằng đường hầm ở dưới, sau đó người ta bịt kín
đường hầm lại.
Mặc dù lăng Khải Định được xây dựng bằng vật liệu kiên cố, nhưng lăng cũng được
trùng tu vào các năm 1961, 1973, 1985,1987 và 1999 riêng kinh phí cho lần tu sữa cuối
cùng lên đến 3.936.815.000 đồng.
PHẦN KẾT
Nhìn chung, với ngoại cảnh thiên nhiên hùng vĩ, công trình kiến trúc bằng bê tông cốt
thép, tượng đồng bia đá và với nghệ thuật trang trí nội thất ở cung Thiên Định như 1 bảo
tàng mỹ thuật, lăng Khải Định là 1 tác phẩm kiến trúc có sự hội nhập và giao thoa giữa
các dòng văn hóa Đông Tây kim cổ. Nó đánh dấu giai đoạn tân cổ điển của lịch sử mỹ
thuật triều Nguyễn nói riêng và sự hội nhập văn hóa của Việt Nam vào những năm đầu
thập niên thế kỉ XX.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×