Tải bản đầy đủ (.docx) (110 trang)

KS tiềm năng sử dụng phế liệu nông nghiệp làm nguyên liệu sản xuất điện ở ĐỒNG THÁP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.56 MB, 110 trang )

Khảo sát tiềm năng sử dụng phế phẩm nông nghiệp làm nguồn nhiên liệu sản xuất điện tại tỉnh Đồng Tháp

MỤC LỤC

PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
- CĐNN & CNSTH

: Cơ điện nông nghiệp và Công nghệ sau thu hoạch.

- cm

: Centimet – đơn vị đo độ dài.

-Cty CP

: Công ty cổ phần.

-ĐBSCL

: Đồng bằng sông Cửu Long.

-ĐBSH

: Đồng bằng song Hồng.

-EM

: Effective Microoganism – vi sinh vật có ích.


-EVN

: Vietnam Electricity - tập đoàn điện lực Việt Nam.

-GDP

: Gross Domestic Product – Tổng sản lượng nội địa.

-GMP

: Good Manufacturing Practice – tiêu chuẩn đánh giá

quy trình sản xuất trong dược phẩm.
-Ha

: Hecta – đơn vị đo diện tích.

-Kg

: Kilogram- đơn vị đo khối lượng.

-Km

: Kilomet - đơn vị đo độ dài.

-Kcal

: Kilo calo – đơn vị đo nhiệt lượng.

-KW


: Kilo-oát - đơn vị dùng để đo mật độ điện tích.

-KCN

: Khu công nghiệp.

GVHD: TH.S Trần Thị Tường Vân

1

SVTH: Nguyễn Thị Xuân Duyên


Khảo sát tiềm năng sử dụng phế phẩm nông nghiệp làm nguồn nhiên liệu sản xuất điện tại tỉnh Đồng Tháp

-MW

: Mega-oát – đơn vị dung để đo mật độ điện tích.

-mA

: Mili Ampe – đơn vị đo độ lớn của dòng điện.

-MJ

: Megajun – đơn vị đo giá trị nhiệt lượng.

-m3/s


: Mét khối trên giây - đơn vị dùng để đo lương lượng

nước.
-NLSH

: Năng lượng sinh học.

-N/m2

: Newton trên mét vuông – là đại lượng cho biết mức độ

của lực tác dụng trên một đơn vị diện tích tiếp xúc.
-NLMT

: Năng lượng mặt trời.

-pH

: Chỉ tiêu dung đánh giá tính axit hay bazo.

-PGS.TS

: Phó giáo sư tiến sĩ.

-THPT

: Trung học phổ thông.

-TP


: Thành phố.

-USD

: United States dollar- đồng đô la Mỹ.

-V

: Vôn – đơn vị đo độ lớn của dòng điện.

-VNĐ

: Việt Nam đồng – đơn vị tiền tệ của Việt Nam.

GVHD: TH.S Trần Thị Tường Vân

2

SVTH: Nguyễn Thị Xuân Duyên


Khảo sát tiềm năng sử dụng phế phẩm nông nghiệp làm nguồn nhiên liệu sản xuất điện tại tỉnh Đồng Tháp

DANH MỤC BẢNG BIỂU
-Bảng 1.1 Thành phần hóa học của rơm rạ.
- Bảng 1.2 Thành phần tro của rơm rạ.
- Bảng 1.3 Thành phần hóa học của vỏ trấu.
- Bảng 1.4 Chi phí sử dụng các nguồn nguyên liệu năm 2006.
- Bảng 3.1 Thống kê số lượng mẫu khảo sát tại các huyện.
- Bảng 3.2 Thống kê diện tích, sản lượng cây trồng - vật nuôi tại các địa bàn

khảo sát.
- Bảng 3.3 Thống kê lượng phế phẩm từ trồng trọt và chăn nuôi phát thải ra
môi trường.
- Bảng 3.4 : Khối lượng vỏ trấu tại các nhà máy xay xát tại các huyện.
- Bảng 3.5 Thống kê các hình thức sử dụng vỏ trấu tại các địa bàn khảo sát.
- Bảng 3.6 Thống kê các hình thức sử dụng rơm rạ tại các địa bàn khảo sát.
- Bảng 3.7 Thống kê các hình thức sử dụng phân heo tại các địa bàn khảo sát.
- Bảng 3.8 Thống kê số hộ gia đình bị cúp điện với tần suất tương ứng và tỷ lệ %
người dân ủng hộ xây dựng nhà máy điện trấu trên địa bàn khảo sát.
- Bảng 4.1 Khả năng sinh nhiệt của vỏ trấu khi đốt.
- Bảng 4.2 Lượng hơi nước sinh ra từ đốt vỏ trấu.

GVHD: TH.S Trần Thị Tường Vân

3

SVTH: Nguyễn Thị Xuân Duyên


Khảo sát tiềm năng sử dụng phế phẩm nông nghiệp làm nguồn nhiên liệu sản xuất điện tại tỉnh Đồng Tháp

- Bảng 4.3 Sản lượng điện tạo ra từ vỏ trấu.
- Bảng 4.4 Nhu cầu tiêu thụ điện và lượng điện cung cấp tại hộ gia đình ở các địa
bàn khảo sát.
- Bảng 4.5 Nhu cầu tiêu thụ điện và lượng điện cung cấp cho nhà máy, xưởng
cưa tại các địa bàn khảo sát.
- Bảng 4.6 So sánh giá các loại nhiên liệu dùng sản xuất điện.

DANH MỤC CÁC HÌNH
- Hình 1.1 Các loại bã nông nghiệp.

- Hình 1.2 Gốc rạ.
- Hình 1.3 Rơm.
- Hình 1.4 Đốt rơm trên trục đường giao thông.
- Hình 1.5 Đốt trực tiếp gốc rạ ngoài đồng.
- Hình 1.6 Thu hoạch nấm rơm.
- Hình 1.7 Nấm rơm sau khi làm sạch.
- Hình 1.8 Các loại cây trồng được dùng sản xuất nhiên liệu sinh học.
- Hình 1.9 Các loại bã nông nghiệp được sử dụng tạo nhiên liệu sinh học.
- Hình 1.10 Các loại thực vật dùng sản xuất dầu sinh học.
- Hình 1.11 Sơ đồ hệ nhiệt phân rơm rạ.
- Hình 1.12 Tranh phong cảnh làm từ rơm.
- Hình 1.13 Những ngôi nhà được làm bằng rơm xưa và nay.
- Hình 1.14 Cây lúa.
- Hình 1.15 Vỏ trấu.
- Hình 1.16 Vỏ trấu được đổ bỏ ra sông.

GVHD: TH.S Trần Thị Tường Vân

4

SVTH: Nguyễn Thị Xuân Duyên


Khảo sát tiềm năng sử dụng phế phẩm nông nghiệp làm nguồn nhiên liệu sản xuất điện tại tỉnh Đồng Tháp

- Hình 1.17 Lò đốt trấu dùng trong sinh hoạt.
- Hình 1.18 Lò nung gạch sử dụng trấu.
- Hình 1.19 Máy ép củi trấu.
- Hình 1.20 Thanh củi trấp sau khi ép.
- Hình 1.21 Sản phẩm làm từ vỏ trấu.

- Hình 1.22 Vật liệu aerogel cách âm và cách nhiệt.
- Hình 1.23 Tro trắng thành aerogel dạng bột.
- Hình 1.24 Mô hình trồng nấm linh chi trên bã mía.
- Hình 1.25 Ô nhiễm nước thải chăn nuôi.
- Hình 1.26 Mô hình lọc thử nghiệm bằng bã mía.
- Hình 1.27 Bã mía.
- Hình 1.28 Ván ép từ bã mía.
- Hình 1.29 Hệ thống sản xuất điện từ bã mía ở nhà máy đường.
- Hình 1.30 Các mẫu chậu làm từ bã mía.
- Hình 1.31 Quá trình tạo thành biogas.
- Hình 1.32 Hầm biogas được xây dựng trong trại chăn nuôi.
- Hình 1.33 Trộn phân trong khi ủ.
- Hình 1.34 Phân đã ủ xong.
- Hình 1.35 Nuôi heo và cá ở hộ gia đình.
- Hình 1.36 Nuôi heo và cá ở trang trại.
- Hình 2.1 Bản đồ hành chính tỉnh Đồng Tháp.
- Hình 2.2 Biểu đồ nhiệt độ trung bình các tháng trong năm 2010.
- Hình 2.3 Biểu đồ lượng mưa trung bình các tháng trong năm 2010.

GVHD: TH.S Trần Thị Tường Vân

5

SVTH: Nguyễn Thị Xuân Duyên


Khảo sát tiềm năng sử dụng phế phẩm nông nghiệp làm nguồn nhiên liệu sản xuất điện tại tỉnh Đồng Tháp

- Hình 2.4 Biểu đồ độ ẩm trung bình các tháng trong năm 2010.
- Hình 2.5 Cây và hoa tràm trong khu du lịch Xẻo Quýt.

- Hình 2.6 Các loài động vật đặc trưng ở Đồng Tháp.
- Hình 2.7 Dân số trung bình tỉnh Đồng tháp phân theo giới tính.
- Hình 3.1 Biểu đồ thể hiện tỷ lệ các hình thức tái sử dụng vỏ trấu.
- Hình 3.2 Các hình thức sử dụng vỏ trấu tại các địa bàn khảo sát.
- Hình 3.3 Biểu đồ thể hiện tỷ lệ % các hình thức tái sử dụng rơm rạ.
- Hình 3.4 Các hình thức sử dụng rơm rạ.
- Hình 3.3 Biểu đồ thể hiện tỷ lệ các hình thức sử dụng bã mía tại ĐBSCL.
- Hình 3.4 Biểu đồ thể hiện tỷ lệ các hình thức sử dụng phân heo.
- Hình 4.1 Các loại đập thuỷ điện.
- Hình 4.2 Quy trình sản xuất điện của nhà máy nhiệt điện.
- Hình.4.3 Nhà máy nhiệt điện Cà Mau (trái), nhà máy nhiệt điện Cần Thơ (phải).
- Hình 4.4 Sơ đồ cấu tạo lò phản ứng hạt nhân.
- Hình 4.5 Mô hình nhà máy điện hạt nhân ở Ninh Thuận.
- Hình 4.6 Phiến pin quang điện.
- Hình 4.7 Các công trình thử nghiệm pin mặt trời nối điện lưới quốc gia.
- Hình 4.8 Nhà máy điện gió ở Bình Thuận.
- Hình 4.9 Mô hình địa nhiệt kiểu Dry srteam.
- Hình 4.10 Mô hình nhà máy địa nhiệt kiểu Flash steam.
- Hình 4.11 mô hình nhà máy địa nhiệt kiểu Binary –cycle.
- Hình 4.12 Sơ đồ công nghệ sản xuất điện từ việc đốt trấu.

GVHD: TH.S Trần Thị Tường Vân

6

SVTH: Nguyễn Thị Xuân Duyên


Khảo sát tiềm năng sử dụng phế phẩm nông nghiệp làm nguồn nhiên liệu sản xuất điện tại tỉnh Đồng Tháp


GVHD: TH.S Trần Thị Tường Vân

7

SVTH: Nguyễn Thị Xuân Duyên


Khảo sát tiềm năng sử dụng phế phẩm nông nghiệp làm nguồn nhiên liệu sản xuất điện tại tỉnh Đồng Tháp

LỜI MỞ ĐẦU
Trước nguy cơ thiếu hụt năng lượng như hiện nay, thì con người buộc phải tìm
những nguồn năng lượng mới để thay thế nguồn năng lượng sử dụng nhiên liệu hóa
thạch là điều tất yếu. Một trong những nguồn năng lượng đang được quan tâm gần
đây nhất là nguồn năng lượng được tạo ra từ phế phẩm nông nghiệp. Việc tận dụng phế
phẩm nông nghiệp, ngoài hiệu quả về năng lượng thì còn có hiệu quả tích cực về môi
trường.
Các chất phế thải từ phụ phẩm nông nghiệp như trấu, mùn cưa, vỏ cà phê, lõi ngô,
bã mía, xơ dừa, rơm rạ,.. là nguồn nhiên liệu khổng lồ, những nguồn nhiên liệu này
luôn sẵn có và ngày càng gia tăng cùng với sự gia tăng diện tích canh tác và năng suất
cây trồng.
Việt Nam với thế mạnh là một đất nước nông nghiệp, đa dạng các loại phế phẩm
nông nghiệp. Tuy nhiên, hiện nay nguồn nhiên liệu quan trọng này vẫn chưa được
quan tâm, sử dụng, phân phối hiệu quả. Việc sử dụng các phế thải nông nghiệp trong
sinh hoạt nông thôn ngày càng giảm dần và được thay thế bằng các nguồn nhiên liệu
thuận lợi hơn. Phần lớn được đem đi thải bỏ dẫn đến các tác động tiêu cực đến môi
trường và lãng phí tài nguyên. Chính vì thế nên cần phải sớm có các giải pháp thích
hợp để giải quyết vấn đề trên.

GVHD: TH.S Trần Thị Tường Vân


8

SVTH: Nguyễn Thị Xuân Duyên


Khảo sát tiềm năng sử dụng phế phẩm nông nghiệp làm nguồn nhiên liệu sản xuất điện tại tỉnh Đồng Tháp

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài.
Đề tài “Khảo sát tiềm năng sử dụng phế phẩm nông nghiệp làm nguồn nhiên liệu
sản xuất điện tại tỉnh Đồng Tháp” nhằm hướng đến mục tiêu xây dựng mô hình nhà
máy nhiệt điện sử dụng phế phẩm nông nghiệp có giá trị nhiệt lượng cao để tạo ra
nguồn điện, nhằm sử dụng nguồn nhiên liệu này một cách hiệu quả, bền vững, tạo điều
kiện phát triển vùng nông thôn, cũng như cải thiện tình trạng ô nhiễm môi trường do
các phế phẩm này gây ra.

2. Mục đích của đề tài.
Khảo sát tiềm năng sử dụng phế phẩm nông nghiệp làm nguồn nhiên liệu sản xuất
điện tại tỉnh Đồng Tháp.

3. Nội dung của đề tài.
-

Tổng quan về phế phẩm nông nghiệp và tình hình sử dụng phế phẩm nông

-

nghiệp hiện nay.
Thu thập các dữ liệu về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của tỉnh Đồng Tháp.

Khảo sát cơ cấu cây trồng vậy nuôi tại tỉnh Đồng Tháp và ước tính lượng phế

-

phẩm nông nghiệp phát sinh
Tìm hiểu về các hình thức tái sử dụng phế phẩm nông nghiệp của người dân tại

-

các địa bàn khảo sát.
Khảo sát chất lượng dịch vụ cấp điện mà người dân đang sử dụng.
Phân tích nhu cầu về tiêu thụ điện năng và đề xuất mô hình nhà máy điện trấu
tại tỉnh Đồng Tháp cùng các biệp pháp hỗ trợ.

4 Giới hạn của đề tài.
-

Phạm vi khảo sát chỉ tập trung khảo sát 8 huyện trong tổng số 1 thành phố, 2 thị

-

xã, 9 huyện của tỉnh Đồng Tháp.
Nội dung khảo sát tập trung vào lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi đặc biệt là trồng

-

lúa và chăn nuôi heo.
Các giải pháp đề xuất chỉ tập trung đối với việc tái sử dụng các phế phẩm của
trồng lúa đặc biệt là vỏ trấu.


GVHD: TH.S Trần Thị Tường Vân

9

SVTH: Nguyễn Thị Xuân Duyên


Khảo sát tiềm năng sử dụng phế phẩm nông nghiệp làm nguồn nhiên liệu sản xuất điện tại tỉnh Đồng Tháp

5 Phương pháp thực hiện.
5.1 Phương pháp thu thập tài liệu.
Thu thập các thông tin liên quan đến phế phẩm nông nghiệp, cách phân loại phế
phẩm nông nghiệp, các ứng dụng trong thực tế.
Thu thập các thông tin về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của tỉnh Đồng Tháp.

5.2 Phương pháp điều tra khảo sát.
Lập phiếu điều tra, khảo sát thực tế, thu thập số liệu liên quan đến diện tích canh
tác, quy mô chăn nuôi, và các hình thức tái sử dụng phế phẩm nông nghiệp của người
dân từ trước đến nay.

5.3 Phương pháp tham vấn ý kiến cộng đồng.
Tham khảo ý kiến người dân về phương án sử dụng nguồn phế phẩm nông nghiệp
để sản xuất điện năng phục vụ người dân.

5.4 Phương pháp tham khảo ý kiến chuyên gia.
Tham khảo ý kiến của các chuyên gia về lĩnh vực môi trường, năng lượng để đề
xuất hướng tận dụng phế phẩm nông nghiệp làm nguồn nhiên liệu sản xuất điện.

5.5 Phương pháp phân tích, tổng hợp, đánh giá.
Thống kê, tổng hợp, phân tích các số liệu thu thập được. Đánh giá hiện trạng sử

dụng phế phẩm nông nghiệp dựa trên các khía cạnh về môi trường và kinh tế. Từ đó đề
xuất các giải pháp khai thác nguồn nhiệt lượng tiềm năng từ phế phầm nông nghiệp.

GVHD: TH.S Trần Thị Tường Vân

10

SVTH: Nguyễn Thị Xuân Duyên


Khảo sát tiềm năng sử dụng phế phẩm nông nghiệp làm nguồn nhiên liệu sản xuất điện tại tỉnh Đồng Tháp

CHƯƠNG I TỔNG QUAN VỀ PHẾ PHẨM NÔNG NGHIỆP
1.1 Định nghĩa về phế phẩm nông nghiệp.
Phế phẩm nông nghiệp là chất thải phát sinh trong quá trình hoạt động nông nghiệp
[12].

1.2 Nguồn gốc phát sinh phế phẩm nông nghiệp.
Phế phẩm nông nghiệp phát sinh trong quá trình chế biến các loại cây công nghiệp,
cây lương thực, cây hoa màu, sản xuất hoa quả, thực phẩm, sinh ra từ hoạt động chăn
nuôi,..[12].
1.3 Phân loại phế phẩm nông nghiệp.

1.3.1 Bã nông nghiệp.
Chất thải nông nghiệp là các chất dư thừa sau các vụ thu hoạch. Chúng có thể được
thu gom với các thiết bị thu hoạch thông thường cùng lúc hoặc sau khi gặt hái. Các
chất thải nông nghiệp bao gồm thân và lá bắp, rơm rạ, vỏ trấu, mía,... Ở một số nơi,
đặc biệt những vùng khô, các chất bã cần phải được giữ lại nhằm bổ sung các chất
dinh dưỡng cho đất cho vụ mùa kế tiếp. Tuy nhiên, đất không thể hấp thu hết tất cả các
chất dinh dưỡng từ cặn bã, các chất bã này không được tận dụng tối đa và bị mục rữa

làm thất thoát năng lượng.

Vỏ trấu

Cùi ngô

Bã mía

Rơm rạ

Hình 1.1 Các loại bã nông nghiệp.

GVHD: TH.S Trần Thị Tường Vân

11

SVTH: Nguyễn Thị Xuân Duyên


Khảo sát tiềm năng sử dụng phế phẩm nông nghiệp làm nguồn nhiên liệu sản xuất điện tại tỉnh Đồng Tháp

1.3.2 Chất thải từ chăn nuôi gia súc.
Chất thải từ chăn nuôi gia súc, như phân trâu, bò, heo và gà, có thể được chuyển
thành gas hoặc đốt trực tiếp nhằm cung cấp nhiệt và sản xuất năng lượng. Phần lớn
phân gia súc có hàm lượng methane khá cao nên các bánh phân được dùng như nhiên
liệu cho việc nấu nướng. Tuy vậy, phương pháp này khá nguy hiểm vì các chất độc
hại sinh ra từ việc đốt phân là nguy hại đối với sức khỏe người tiêu dùng, là nguyên
nhân gây ra 1,6 triệu người chết mỗi năm ở các nước đang phát triển [11]. Các chất
thải gia súc có thể được sử dụng để sản xuất ra nhiều loại sản phẩm và tạo ra điện năng
thông qua các phương pháp tách methane và phân hủy yếm khí.

Để đáp ứng nhu cầu về thực phẩm của con người, ngành chăn nuôi thế giới đã phát
triển rất nhanh và đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Ngành chăn nuôi thế giới hiện
chiếm 70% diện tích đất nông nghiệp và 30% diện tích đất tự nhiên (không kể diện
tích đất bị băng bao phủ). Chăn nuôi đóng góp khoảng 40% tổng GDP nông nghiệp
toàn cầu [11]. Tuy nhiên, bên cạnh việc sản xuất và cung cấp một lượng lớn sản phẩm
quan trọng cho nhu cầu của con người, ngành chăn nuôi cũng đã gây nên nhiều hiện
tượng tiêu cực về môi trường. Ngoài chất thải rắn và chất thải lỏng, với các khí thải
gây hiệu ứng nhà kính như: CO2, CH4, N2O… chăn nuôi hiện đang đóng góp tới 18%
hiệu ứng nóng lên của trái đất, và theo dự đoán các loại chất thải này sẽ tăng lên trong
thời gian tới [11].

1.4 Thu gom, xử lý và tái chế phế phẩm nông nghiệp.
Bên cạnh mức tăng trưởng xuất khẩu nông sản thì các phụ, phế phẩm trong quá
trình chế biến các loại cây công nghiệp, sản xuất hoa quả, thực phẩm, phân gia súc, gia
cầm... cũng rất đa dạng về chủng loại và phong phú về số lượng. Và đó cũng là nỗi lo
về các bãi chứa, đầu ra cho các phế phẩm nông nghiệp sau thu hoạch như rơm rạ, vỏ
trấu, thân cây chuối, xơ dừa, bã mía, lõi ngô, phân gia súc,… Số liệu hàng trăm ngàn
tấn nông sản xuất khẩu hàng năm, tương ứng với con số gấp nhiều lần như thế về phế
phẩm nông nghiệp thải ra môi trường sẽ là vấn nạn về rác, đe dọa ô nhiễm môi trường
cho các tỉnh đang có thế mạnh về sản xuất nông nghiệp.

GVHD: TH.S Trần Thị Tường Vân

12

SVTH: Nguyễn Thị Xuân Duyên


Khảo sát tiềm năng sử dụng phế phẩm nông nghiệp làm nguồn nhiên liệu sản xuất điện tại tỉnh Đồng Tháp


Do đặc thù của sản xuất nông nghiệp của nước ta hiện nay vẫn mang tính nhỏ lẻ,
phân tán, nên việc thu gom, phân loại phụ, phế thải rất khó khăn. Còn các cơ sở chế
biến nông sản, thực phẩm thì chủ yếu tập trung đầu tư cho dây chuyền sản xuất chính,
ít quan tâm tận thu, tái chế sử dụng lại phụ, phế phẩm trong quá trình sản xuất. Nhiều
doanh nghiệp còn sản xuất trong điều kiện không bảo đảm vệ sinh môi trường, huống
chi nói đến đầu tư công đoạn xử lý sản phẩm phụ, phế thải để tái chế. Các phụ, phế
phẩm sau khi sử dụng thường được xử lý bằng các biện pháp chôn lấp, đốt bỏ, đổ
xuống hồ, ao, sông, suối... vừa lãng phí, vừa gây ô nhiễm môi trường. Chỉ một phần
nhỏ trong số đó được sử dụng làm nhiên liệu đốt, thức ăn gia súc, phân bón, còn phần
lớn đổ ra các hồ ao, cống rãnh làm ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường sinh thái.
Việc sử dụng các phế thải nông nghiệp trong sinh hoạt nông thôn ngày càng giảm và
dần dần được thay thế bằng các nguồn nhiên liệu thuận lợi hơn như gas, điện,... Trong
khi đó, các cơ sở sản xuất và chế biến nông sản lại cần rất nhiều nguồn năng lượng mà
hiện đang phải sử dụng các nhiên liệu hoá thạch đắt như than, dầu, gas. Vì vậy, việc
nghiên cứu tận dụng phế thải nông nghiệp tạo ra nguồn năng lượng, nguyên vật liệu
phục vụ công nghiệp, xây dựng, đời sống sinh hoạt hàng ngày của người dân là việc
làm hết sức cần thiết và cấp bách hiện nay.

1.5 Tổng quan về rơm rạ.
1.5.1 Nguồn gốc của rơm rạ.
Lúa là một loại cây lượng thực có hạt phổ biến ở Châu Á và Châu Mỹ La Tinh. Cây
lúa khi thu hoạch thì người ta lấy hạt đem sấy khô, tách vỏ lúa ra khỏi hạt. Phần hạt
được sử dụng gọi là hạt gạo, còn phần thân, gốc lúa bị bỏ trực tiếp ngoài đồng được
gọi là rơm rạ. Khi nhắc đến rơm rạ thì đa số những người nông dân đều nghĩ đến rơm
rạ được sử dụng làm thức ăn cho gia súc, dùng để lót chuồng trại, lợp nhà, đốt tạo ra
tro để bón ruộng,..

GVHD: TH.S Trần Thị Tường Vân

13


SVTH: Nguyễn Thị Xuân Duyên


Khảo sát tiềm năng sử dụng phế phẩm nông nghiệp làm nguồn nhiên liệu sản xuất điện tại tỉnh Đồng Tháp

Hình 1.2 Gốc rạ.

Hình 1.3 Rơm.

Gốc rạ và rơm có chứa nhiều cellulose, lignin, hemicellulose, các hợp chất trich ly,
và nhiều thành phần khác.
Bảng 1.1 Thành phần hóa học của rơm rạ [8].
Thành
phần
Tỷ lệ
%

Cellulose

Hemicellulos

Các hợp
chất trich ly

Độ
ẩm

Lignin


Tro

Tổng

7,08

42,41

12,65

18,62

6,48

12,76

100

Những cách thông thường để quản lý rơm ra sau khi thu hoạch bao gồm việc thu về
làm nhiên liệu đun nấu, đốt, rải trên đồng, cày vùi vào đất hoặc sử dụng như là chất
che phủ cho các cây trồng v.v.. Mỗi cách quản lý khác nhau, về lâu dài, đều ảnh hưởng
đến toàn bộ sự cân bằng và tình trạng dinh dưỡng trong đất. Theo thói quen của người
nông dân thu hoạch xong là đốt đồng. Việc đốt rơm rạ không được khuyến khích vì
nhiều lý do:


Đốt rơm rạ gây ra sự mất mát gần như hoàn toàn N. Lượng P mất đi khoảng

25%, K mất đi khoảng 20% và S mất từ 5-60% [8].
• Lượng dinh dưỡng mất mát tuỳ thuộc vào cách thức đốt rơm rạ. Ở những vùng

mà thu hoạch đã được cơ giới hoá, hầu như tất cả rơm rạ được để lại trên đồng
và được đốt nhanh chóng tại chỗ, vì thế sự mất mát S, P và K là nhỏ. Một số nơi
khác rơm rạ được để thành đống ở chỗ tuốt lúa và được đốt sau khi thu hoạch,
vì thế tro không được rải đều trên đồng, nên gây ra sự mất mát khoáng chất rất
lớn. Các nguyên tố K, Si, Ca, Mg dễ bị rửa trôi từ đống tro. Hơn nữa, việc làm
như vậy sẽ gây nên sự chuyển dịch dinh dưỡng rất lớn từ ngoại vi vào giữa
GVHD: TH.S Trần Thị Tường Vân

14

SVTH: Nguyễn Thị Xuân Duyên


Khảo sát tiềm năng sử dụng phế phẩm nông nghiệp làm nguồn nhiên liệu sản xuất điện tại tỉnh Đồng Tháp

ruộng, và đôi khi là từ những thửa ruộng xung quanh vào ruộng trung tâm, làm
cho hiệu quả sử dụng chúng bị giảm đi rất nhiều, vì nơi quá thừa, nơi quá thiếu
[8]. Tuy nhiên, việc đốt rơm rạ gây ra ô nhiễm không khí và mất mát dinh
dưỡng, nhưng lại là biện pháp giảm giá thành và giảm thiểu sâu bệnh hại.
Trong lĩnh vực trồng lúa nếu có kỹ thuật canh tác tốt thì sẽ giảm lượng phân bón
hóa học bón cho đất và cây rất lớn, góp phần sử dụng bền vững tài nguyên đất đai,
tăng chất lượng gạo,.. Tuy nhiên không phải là sau khi vùi rơm rạ thì chất dinh dưỡng
của chúng sẽ được sử dụng toàn bộ cho vụ lúa kế tiếp mà chỉ sử dụng một lượng rất
nhỏ, đa số là cần có thời gian để chuyển hóa thành các chất cho cây dễ hấp thụ, nên
chúng sẽ có tác dụng về lâu dài.
Bảng 1.2 Thành phần tro của rơm rạ [8].
Thành phần

SiO2


K

Na

Các chất khác

Tổng

Tỷ lệ %

72,593

2,636

0,369

24,402

100

1.5.2 Hiện trạng rơm rạ tại Việt Nam.
Rơm rạ có mặt ở những cánh đồng lúa chạy dài khắp đất nước nhưng chúng tập
trung chủ yếu ở vùng đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) và đồng bằng sông Cửu Long
(ĐBSCL). Tại những vùng này thì rơm rạ được người nông dân chủ yếu dùng lót
chuồng cho trâu, bò, một số ít được dùng trầm nấm, phần lớn còn lại là đổ bỏ ngoài
đồng,.. Theo số liệu thống kê thì năm 2010 Việt Nam có khoảng 4 triệu ha đất trồng
lúa, sản lượng năm 2010 là 38 triệu tấn lúa [13]. Theo nghiên cứu của các nhà chuyên
môn thì 1 tấn thóc sẽ tạo ra 1.35 tấn rơm rạ [8]. Điều này có nghĩa là hàng năm nước ta
thải ra khoảng 51 triệu tấn rơm rạ. Nhưng khoảng 50 % được tái sử dụng để trồng
nấm, lót chuồng trại, còn lại là đổ bỏ bừa bãi ngoài đồng, gây ô nhiễm môi trường.

Thói quen của người nông dân là sau khi gặt xong lúa thì sẽ chất rơm thành đống
ngoài đồng rồi đốt cả rơm và gốc rạ. Việc đốt rơm rạ không những gây ô nhiễm môi
trường mà còn lãng phí một lượng rất lớn chất dinh dưỡng mà đất rất cần. Các nhà
khoa học khuyến cáo người nông dân nên vùi rơm rạ vào đất bằng biện pháp cày, xới
để bổ sung dưỡng chất cho đất.

GVHD: TH.S Trần Thị Tường Vân

15

SVTH: Nguyễn Thị Xuân Duyên


Khảo sát tiềm năng sử dụng phế phẩm nông nghiệp làm nguồn nhiên liệu sản xuất điện tại tỉnh Đồng Tháp

Diện tích lúa canh tác ngày càng tăng điều đó đồng nghĩa với việc là phế phẩm từ
trồng lúa cũng tăng theo. ĐBSCL chiếm hơn 50% sản lượng lúa cả nước, và theo ước
tính mỗi năm vựa lúa của miền Nam này tạo ra hơn 26 triệu tấn rơm rạ. Với khối
lượng khổng lồ như vậy thì việc giải quyết nguồn phế phẩm nông nghiệp này không
phải là chuyện một sớm một chiều có thể làm được.

Hình 1.4 Đốt rơm ngay trục

Hình 1.5 Đốt trực tiếp gốc rạ

đường giao thông

ngoài đồng.

1.5.3 Ứng dụng của rơm rạ hiện nay.

Đồng hành cùng với nổi lo của người nông dân thì các nhà nghiên cứu cũng tìm
tòi, nghiên cứu tìm những ứng dụng mới của rơm rạ để giải quyết phần nào nạn ô
nhiễm môi trường nông nghiệp mà vừa tạo được thu nhập cho người nông dân.

1.5.3.1 Sử dụng rơm rạ trồng nấm.
Nhằm mục đích tái sử dụng lại phế phẩm của cây lúa, tạo thêm thu nhập cho gia
đình,.. người nông dân đã tận dụng lại nguồn phế phẩm này một cách có hiệu quả. Từ
nhiều năm qua đã tận dụng nguồn rơm sẵn có trên đồng ruộng sau khi thu hoạch để
trồng nấm rơm. Ban đầu chỉ là trồng theo kiểu nhỏ lẻ, manh mún, nên chỉ đủ cung cấp
cho gia đình để bổ sung thêm nguồn thực phẩm mới. Tuy nhiên với khối lượng rơm
khổng lồ từ những cánh đồng thì nếu trồng theo kiểu nhỏ lẻ sẽ không thể nào giải
quyết được vấn đề rác thải nông nghiệp này. Thấy được điều này nên chính quyền các
địa phương đã hướng dẫn nông dân trồng theo quy trình kỹ thuật để nâng cao chất

GVHD: TH.S Trần Thị Tường Vân

16

SVTH: Nguyễn Thị Xuân Duyên


Khảo sát tiềm năng sử dụng phế phẩm nông nghiệp làm nguồn nhiên liệu sản xuất điện tại tỉnh Đồng Tháp

lượng và sản lượng nấm. Cũng nhờ chất lượng và sản lượng gia tăng, mang lại nguồn
thu khá lớn nên người nông dân tiếp tục nhân rộng mô hình, mở rộng quy mô sản xuất.
Và kết quả là năm 2010 sản lượng nấm tính riêng ở ĐBSCL đã lên tới 30 ngàn tấn.
tính trung bình 1kg rơm sẽ cho ra được 0,15kg nấm [7], với cách tính này thì một năm
ĐBSCL sẽ sử dụng hết 200.000 tấn rơm. Không chỉ giải quyết được vấn đề tồn đọng
rơm mà còn mang về thu nhập khá lớn cho người nông dân.


Hình 1.6 Thu hoạch nấm rơm.

Hình 1.7 Nấm rơm sau khi làm sạch.

Một ưu điểm nửa của trồng nấm bằng rơm là không cần nhiều diện tích, vốn đầu tư
thấp, kỹ thuật trồng không khó lắm nếu so với hoa lan, cây kiểng nhưng lại tạo ra giá
trị cao vượt trội so với nhiều cây trồng vật nuôi khác, gấp 20 lần trồng lúa và cả chục
lần so với rau [7]. Quá trình trồng nấm nhìn chung chỉ qua có bốn bước đơn giản:
chuẩn bị rơm, chọn meo giống, xếp mô và rắc meo giống, chăm sóc và thu hoạch.
Sau khi rơm được đem từ ngoài đồng về được đem đi ủ khoảng 10 - 12 ngày. Trong
quá trình ủ thì tưới nước vôi lên rơm để diệt nấm tạp, rửa chất phèn, chất mặn trong
rơm. Kế tiếp là chọn meo giống. Khi chọn được loại meo giống chất lượng tốt thì tiến
hành đem rơm đã ủ xếp thành những mô và gieo meo giống dọc hai bên luống. Sau
khoảng 14 - 15 ngày là có thể thu hoạch nấm.

1.5.3.2 Sử dụng rơm rạ làm phân hữu cơ.
Sử dụng rơm rạ làm phân bón hữu cơ cho đất là một trong những biện pháp góp
phần sử dụng bền vững tài nguyên đất đai. Có nhiều phương thức để biến rơm rạ thành
GVHD: TH.S Trần Thị Tường Vân

17

SVTH: Nguyễn Thị Xuân Duyên


Khảo sát tiềm năng sử dụng phế phẩm nông nghiệp làm nguồn nhiên liệu sản xuất điện tại tỉnh Đồng Tháp

phân hữu cơ cung cấp cho đất, nhưng về cơ bản có hai phương thức chính: là vùi trực
tiếp rơm rạ vào đất bằng biện pháp cày, bừa, và đem rơm rạ ủ rồi đem bón cho đất.
 Vùi trực tiếp rơm rạ vào đất.


Đây là việc làm trả lại cho đất hầu hết các nguyên tố dinh dưỡng mà cây lúa đã lấy
đi từ đất, nên nó có tác dụng bảo toàn nguồn dự trữ dinh dưỡng của đất về lâu dài. Mặc
dù tác dụng trực tiếp lên năng suất lúa vụ kế tiếp là không lớn. Nếu kết hợp song song
việc bón phân hàng vụ cho lúa cùng với việc vùi rơm rạ vào đất sẽ bảo toàn được dinh
dưỡng N, P, K và S cho lúa, và nhiều khi còn làm tăng được dự trữ dinh dưỡng cho
đồng ruộng. Việc vùi rơm rạ vào đất ướt, sẽ gây ra tình trạng cố định tạm thời của đạm
và làm tăng lượng metan phóng thích trong đất [8], gây ra tình trạng tích luỹ khí nhà
kính. Khi vùi một lượng lớn rơm rạ tươi sẽ rất tốn lao động và cần có những máy móc
thích hợp cho việc làm đất cũng như có thể gây ra những vấn đề về bệnh cây. Việc
trồng trọt chỉ nên bắt đầu sau 2 đến 3 tuần vùi rơm rạ.
Các kết quả nghiên cứu hiện tại cho thấy, cày khô, nông 5 - 10cm để vùi rơm rạ và
tăng cường sự thoáng khí cho đất trong thời kỳ bỏ hoá có tác dụng tốt đến độ phì đất
trong hệ thống thâm canh lúa - lúa. Việc cày khô, nông nên tiến hành sau 2 đến 3 tuần
sau khi thu hoạch ở những cánh đồng mà thời kỳ bỏ hoá khô - ướt giữa 2 vụ lúa tối
thiểu là 30 ngày. [8]. Các lợi ích gồm có:


Tăng cường sự thoáng khí cho đất, nghĩa là oxy hoá Fe 2+ và những chất khử khác



tích luỹ trong suốt quá trình ngập nước [8].
Tăng cường được sự khoáng hoá N và sự giải phóng P cho cây trồng sau, cho đến

giai đoạn phân hoá đòng [8].
• Làm giảm được sự phát sinh cỏ dại trong suốt thời kỳ bỏ hoá [8].
• Làm cho quá trình làm đất được dễ dàng hơn (thường không cần cày đất lần 2).
• Sự phóng thích CH4 sẽ ít hơn so với việc vùi rơm rạ lúc làm đất ngay trước khi
gieo trồng [8].

 Ủ rơm rạ.
Phân hữu cơ sinh học được tạo ra từ rơm là sản phẩm tạo ra thông qua quá trình lên
men vi sinh vật, qua đó các hợp chất giàu cellulose được phân huỷ, trở thành mùn.
Rơm rạ sau khi thu hoạch được gom thành đống. Dùng 1kg chế phẩm Vixura, 1kg
phân NPK hoà vào nước, tưới đều lên rơm rạ rồi phủ nylon che kín để giữ ẩm và nhiệt.
GVHD: TH.S Trần Thị Tường Vân

18

SVTH: Nguyễn Thị Xuân Duyên


Khảo sát tiềm năng sử dụng phế phẩm nông nghiệp làm nguồn nhiên liệu sản xuất điện tại tỉnh Đồng Tháp

Khoảng 21 ngày, có thể mang ra ruộng làm phân bón. Bà con có thể để thời gian ủ kéo
dài thêm để rơm rạ mủn tốt hơn. Trong quá trình ủ, nếu rơm rạ bị khô, cần bổ sung
nước. Để xử lý 1 tấn rơm rạ cần khoảng 2 - 3kg chế phẩm Vixura, giá 13.000 – 15.000
đồng/kg [15].
Sử dụng rơm rạ đúng mục đích, không chỉ giúp cải tạo đất, nâng cao hiệu quả kinh
tế trong sản xuất nông nghiệp mà còn hạn chế ô nhiễm môi trường. Phân bón hữu cơ
từ rơm rạ góp phần gia tăng độ mùn, bổ sung chất dinh dưỡng, nâng cao chất lượng
cây trồng.

1.5.3.3 Sử dụng rơm rạ sản xuất dầu sinh học.
Năng lượng có nguồn gốc sinh học đang thu hút được sự quan tâm của nhiều quốc
gia trền toàn thế giới, đặc biệt là các nước có nền nông nghiệp phát triển. Trên thế giới,
nhiên liệu sinh học đang nghiên cứu nhiều là ethanol sinh học (bioethanol) và diesel
sinh học (biodiesel). Ethanol sinh học được sản xuất bằng cách lên men các sản phẩm
nông nghiệp như mía, ngô, khoai, sắn và sau đó được pha trộn với xăng dùng cho các
động cơ xăng. Diesel sinh học chủ yếu được sản xuất từ dầu thực vật hay mỡ động vật

và được trộn với diesel dùng cho động cơ diesel. Tuy nhiên, nhiên liệu sinh học sản
xuất từ các nguồn này vẫn còn khá đắt. Do đó, việc tìm kiếm các nguồn nguyên liệu rẻ
hơn từ nguồn phế thải để tạo nhiên liệu sinh học là rất cần thiết.
Có nhiều cách phân loại nhiên liệu sinh học (NLSH). Thông thường dựa vào nguồn
gốc của các nguyên liệu dùng để sản xuất NLSH có thể chia NLSH thành ba thế hệ:[8]


NLSH thế hệ thứ nhất từ các loại cây trồng ăn được như lương thực, thực phẩm,
ví dụ: mía, của cải, ngũ cốc, dầu mỡ động thực vật. Nhược điểm cơ bản là đã sử
dụng những nguồn tài nguyên sinh khối liên quan đến lương thực dẫn đến mất
an ninh lương thực trên thế giới.

GVHD: TH.S Trần Thị Tường Vân

19

SVTH: Nguyễn Thị Xuân Duyên


Khảo sát tiềm năng sử dụng phế phẩm nông nghiệp làm nguồn nhiên liệu sản xuất điện tại tỉnh Đồng Tháp

Ngô

Đậu

L úa mì

Mía

Hình 1.8 Các loại cây trồng được dùng sản xuất nhiên liệu sinh học.



NLSH thế hệ thứ hai chủ yếu từ các phụ phẩm hoặc phế thải trong sản xuất,
sinh hoạt có nguồn gốc hữu cơ, ví dụ: phế thải nông lâm nghiệp (rơm rạ, trấu,
bã mía, thân ngô, mùn cưa, gỗ vụn…), chăn nuôi (phân súc vật, bùn cống
rãnh…) và sinh hoạt (dầu, mỡ thải) ưu điểm nổi bật là sử dụng nguồn sinh khối
không ảnh hưởng gì đến lương thực, thực phẩm nuôi sống con người và gia súc
đảm bảo an ninh lương thực toàn cầu, đồng thời còn góp phần giảm thiểu ô
nhiễm.

Vỏ trấu

Bã mía

Mùn cưa

Phân gia súc

Hình 1.9 Các loại bã nông nghiệp được sử dụng tạo nhiên liệu sinh học.


NLSH thế hệ thứ ba từ tảo (nước ngọt và nước biển), cây jatropha curcas (cây
cộc rào hay cây dầu mè), cỏ swichgrass, cây halophyte, có ưu điểm vượt trội là

GVHD: TH.S Trần Thị Tường Vân

20

SVTH: Nguyễn Thị Xuân Duyên



Khảo sát tiềm năng sử dụng phế phẩm nông nghiệp làm nguồn nhiên liệu sản xuất điện tại tỉnh Đồng Tháp

dựa vào nguồn sinh khối phong phú của các loại cây không thuộc cây lương
thực, có thể sinh trưởng hoang dại ở cả những nơi đất cằn cỗi với hàm lượng
dầu cao. Tuy nhiên đó mới chỉ là nghiên cứu thăm dò ban dầu còn nhiều vấn đề
khoa học và công nghệ liên quan đến canh tác, khai thác, chế biến các tài
nguyên sinh khối này cần phải giải quyết trước khi nhiên liệu sinh học thế hệ ba
xuất hiện trên thị trường.

Cây dầu mè

Cây Halophyte

C ỏ Swichgrass

Tảo

Hình 1.10 Các loại thực vật dùng sản xuất dầu sinh học.
Hiện nay NLSH thế hệ thứ hai đươc ưu tiên nghiên cứu và sử dụng vì hầu như sẽ
không ảnh hưởng đến giá lương thực và đảm bảo an ninh lương thực toàn cầu. Do
nhiệt trị của rơm rạ rất thấp (thấp hơn nhiều so với dầu mỏ) và không thuận tiện cho
việc vận chuyển, tích trữ nên rơm rạ không được sử dụng như nhiên liệu công nghiệp.
Vì vậy, việc chuyển hóa rơm rạ thành sản phẩm có giá trị hơn, dễ dàng vận chuyển,
bảo quản, tích trữ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các nước đang phát
triển.Thông thường, để chuyển hóa biomass thành nhiên liệu người ta sử dụng ba
phương pháp chính là thủy phân (phương pháp sinh học), khí hóa và nhiệt phân.
-

Phương pháp khí hóa là quá trình oxy hóa không hoàn toàn biomass ở nhiệt độ

cao (có thể lên đến 13000C) có sự điều chỉnh lượng khí oxy cho phù hợp. Sản

-

phẩm của quá trình này chủ yếu là khí tổng hợp, nhưng thiết bị phức tạp.
Quá trình thủy phân bằng enzym có ưu điểm là hiệu suất và tính chọn lọc cao,
nhưng nhược điểm là khó tạo ra và nuôi sống chủng enzym thích hợp. Khi thủy

GVHD: TH.S Trần Thị Tường Vân

21

SVTH: Nguyễn Thị Xuân Duyên


Khảo sát tiềm năng sử dụng phế phẩm nông nghiệp làm nguồn nhiên liệu sản xuất điện tại tỉnh Đồng Tháp

phân biomass, cellulose và hemicellulose có thể bị thủy phân tương đối hoàn
toàn nhưng lignin gần như không bị thủy phân. Nếu có thì phải đòi hỏi công
-

nghệ phức tạp và điều kiện thủy phân khắc nghiệt.
Phương pháp nhiệt phân là sản phẩm thu được cả dạng khí, lỏng và rắn. Hơn
nữa, cũng như khí hóa, quá trình nhiệt phân có khả năng bẻ gãy liên kết hóa học
của cả cellulose, hemicellulose và lignin, do đó làm tăng hiệu quả sử dụng.

Hình 1.11 Sơ đồ hệ nhiệt phân rơm rạ. [8]
Rơm rạ được nhiệt phân trên hệ thiết bị tĩnh, làm việc gián đoạn. Rơm rạ (5g) có
kích thước trong khoảng 0,04 – 0,85mm được cho vào ống phản ứng (4) trước mỗi
phản ứng. Trước khi nhiệt phân 15 phút, thổi khí N 2 để đuổi hết không khí trong lò

phản ứng. Lò phản ứng (3) được điều chỉnh nhiệt độ bởi thiết bị điều chỉnh nhiệt độ
(6). Sản phẩm khí sinh ra được làm lạnh ở thiết bị làm lạnh (8) sẽ ngưng tụ lại thành
sản phẩm lỏng trong các bình hứng sản phẩm (7) [8].
Sau khi nhiệt phân sẽ thu được sản phẩm ở cả ba dạng rắn, lỏng, khí. Sản phẩm khí
gồm các khí không bị ngưng tụ như: CO, CO2, H2, CH4 và các hydrocacbon. Các khí
này được dùng để sấy nguyên liệu sinh khối (biomass) hoặc sử dụng trong động cơ
chạy khí. Sản phẩm rắn (than) có thể sử dụng làm than hoạt tính hoặc dùng để cấp
nhiệt cho việc sấy sinh khối và tăng nhiệt độ cho lò phản ứng nhiệt phân. Sản phẩm

GVHD: TH.S Trần Thị Tường Vân

22

SVTH: Nguyễn Thị Xuân Duyên


Khảo sát tiềm năng sử dụng phế phẩm nông nghiệp làm nguồn nhiên liệu sản xuất điện tại tỉnh Đồng Tháp

lỏng (bio-oil) là hỗn hợp của hàng trăm hợp chất hữu cơ có khối lượng phân tử thấp
như axit axetic, metanol, axeton… chiếm từ 40 – 50% về khối lượng. Pha hữu cơ có
chứa các hợp chất cacbonyl, axit, phenol, crezol, benzenđiol, các hydrocacbon thơm
(như benzen, toluen. Inden, và các dẫn xuất của chúng) và các hợp chất thơm đa vòng
(như naphtalen, fluoren, phenanthren và các dẫn xuất của chúng). Sự phân bố của các
hợp chất này tùy thuộc vào thành phần của nguyên liệu và điều kiện nhiệt phân.

1.5.3.4 Sử dụng rơm rạ tạo ra điện.
Rơm rạ đốt lên sẽ sinh ra một lượng hơi nóng dùng để sản xuất điện. Tro rơm rạ sau
khi đốt bán cho các nhà máy xi măng dùng làm chất trộn lẫn với xi măng để sản xuất
loại xi măng không gây hại cho môi trường (gọi là sản phẩm thân thiện với môi
trường) với giá rẻ hơn. Gọi là sản phẩm thân thiện với môi trường vì việc sản xuất xi

măng ngày nay đóng góp tới 4% vào việc gây ra hiệu ứng nhà kính [29] nên việc sản
xuất xi măng giảm đi là giảm được một phần đáng kể của nguy cơ này. Không những
thế thành công của dự án còn đưa lại nhiều qùa tặng cho người nông dân: giảm thiểu ô
nhiễm môi trường, tăng thu nhập cho người nông dân bên cạnh những sản phẩm thứ
yếu khác.
Công nghệ sản xuất không có gì phức tạp mà chỉ là việc xây dựng nhà máy sử dụng
tuabin được thiết kế để đốt rơm rạ giống như việc xây dựng nhà máy điện chạy bằng
khí gas, nước hay than đá. Vậy nên nhà máy sản xuất điện năng từ rơm rạ ở Thái Lan
dự tính là sẽ tiết kiệm được 88.000 tấn than đá hay 59 triệu lít chất đốt là dầu.
Có 4 nhà máy sản xuất điện từ rơm rạ trị giá 27 triệu USD đã được xây dựng ở miền
trung Thái Lan. Trong khi đó nhà máy điện ở Bali có công suất gần 22 MW cung cấp
điện cho 60.000 hộ gia đình Bali đã đưa vào sử dụng đầu năm 2006 [29].
Tại Thái lan, nhà máy điện đặt tại tỉnh Pichit sẽ tiêu thụ 150.000 tấn rơm rạ/năm
[29]. Để có đủ chừng ấy nguyên liệu để sản xuất điện năng, nhà máy đã ký 100 hợp
đồng với nông dân ở các vùng lân cận. Triển vọng như thế cũng đưa lại nhiều việc làm
cho nông dân địa phương từ việc thu mua rơm rạ, đóng thành kiện, chuyên chở về nhà
máy và trực tiếp tham gia sản xuất… Sản xuất điện được bán cho công ty điện quốc
gia với doanh thu 9,3 triệu USD/năm.
GVHD: TH.S Trần Thị Tường Vân

23

SVTH: Nguyễn Thị Xuân Duyên


Khảo sát tiềm năng sử dụng phế phẩm nông nghiệp làm nguồn nhiên liệu sản xuất điện tại tỉnh Đồng Tháp

1.5.3.5 Sử dụng rơm trong thủ công mỹ nghệ.
 Rơm làm tranh.


Tranh hiện đại ngoài những thủ pháp mới lạ còn là bước đột phá về vật liệu. Việt
Nam đã xuất hiện những thể loại tranh mới như: tranh cánh bướm, tranh ghép bằng vỏ
cây, tranh vỏ sò... Ngoài những chất liệu kể trên thì gần đây xuất hiện thêm một chất
liệu mới để làm tranh là rơm rạ khô.
Màu sắc tranh rơm phong phú và sắc nét như tranh thêu, nhưng nếu xem dưới góc
độ ánh sáng ta sẽ thấy rõ những đường sứa và độ bóng phản quang của từng cọng rơm
ép khô. Để thực hiện tranh rơm hoàn chỉnh phải chọn gốc rạ vừa gặt xong, màu
nguyên thủy của rơm rạ phải dùng bút điện xử lý. Thời gian làm một bức tranh còn tùy
thuộc vào kích cỡ và mức độ phức tạp hay đơn giản của bức tranh. Thông thường
người thợ mất khoảng 15 ngày cho một bức tranh kích cỡ nhỏ và mức độ phức tạp vừa
phải, đôi khi họ mất vài thánh cho một bức tranh cở lớn và phức tạp hơn.

Hình 1.12 Tranh phong cảnh làm từ rơm.
 Nhà làm bằng rơm.

Nhà làm từ rơm đã có lịch sử từ những năm 1850, đặc biệt sử dụng nhiều ở các
nước nông nghiệp, lạc hậu, ít có cơ sở vật chất về vật liệu xây dựng. Lúc đó, người
nông dân chỉ sử dụng như một vật liệu thô sơ để làm nhà.
Rơm rạ là một vật liệu sau khi được chế biến có tính năng cách nhiệt rất tốt. Nhiệt
từ các thiết bị gia dụng, phòng tắm, bếp.. đủ để giữ độ ấm cho ngôi nhà. Lớp vữa bên
GVHD: TH.S Trần Thị Tường Vân

24

SVTH: Nguyễn Thị Xuân Duyên


Khảo sát tiềm năng sử dụng phế phẩm nông nghiệp làm nguồn nhiên liệu sản xuất điện tại tỉnh Đồng Tháp

ngoài sẽ giúp cho ngôi nhà rơm được bảo vệ khỏi ngấm nước và làm cho tường nhà có

độ cứng chắc. Sử dụng loại vữa không có đặc tính hóa chất gây hại môi trường và con
người. Lớp vữa bên trong của ngôi nhà được sử dụng chất liệu đặc biệt cho phép có
thể linh hoạt. Nhờ vậy, độ ẩm trong nhà có thể được cân bằng và thoát mát.

Hình 1.13 Những ngôi nhà được làm bằng rơm xưa và nay.

1.6 Tổng quan về vỏ trấu.
1.6.1 Nguồn gốc của vỏ trấu.
Trấu là lớp vỏ ngoài cùng của hạt lúa và được tách ra trong quá trình xay xát. Trong
vỏ trấu chứa khoảng 75% chất hữu cơ dễ bay hơi sẽ cháy trong quá trình đốt và
khoảng 25% còn lại chuyển thành tro [1]. Chất hữu cơ chứa chủ yếu cellulose, lignin
và Hemicellulose (90%), ngoài ra có thêm thành phần khác như hợp chất nitơ và vô
cơ. Lignin chiếm khoảng 25 - 30% và cellulose chiếm khoảng 35 - 40%.
Bảng 1.3 Thành phần hóa học của vỏ trấu [12].
Thành phần

SiO2 Al2O3 Fe2O3 CaO

Hàm lượng, % 90,21

0,68

0,74

1,41

MgO

K2 O


Na2O

0,59

2,38

0,25

Các chất hữu cơ của trấu là các mạch polycarbohydrat rất dài nên hầu hết các loài
sinh vật không thể sử dụng trực tiếp được, nhưng các thành phần này lại rất dễ cháy

GVHD: TH.S Trần Thị Tường Vân

25

SVTH: Nguyễn Thị Xuân Duyên


×