Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Đánh giá hệ thống đăng ký đất đai tại tỉnh vĩnh phúc theo chuẩn mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.29 KB, 21 trang )

Mở Đầu
Đất đai là tài nguyên quý giá của mỗi quốc gia là điều kiện tồn tại và phát
triển của con người, các sinh vật khác trên trái đất đối với mỗi quốc gia, mỗi doanh
nghiệp đất đai là nguồn tài nguyên và cũng là nguồn lực và là yếu tố đầu vào của
quá trình sản xuất không thể thiếu được.
Đất đai là nguồn tài nguyên, là nguồn lực có hạn, việc sử dụng tài nguyên
đất và phát triển kinh tế đất nước cần sử dụng một cách tiết kiệm để đảm bảo hiệu
quả cao là vấn đề vô cùng quan trọng và có ý nghĩa rất lớn.
Đối với cá nhân , từ đất con người có thể tạo ra thực phẩm phục vụ nhu cầu
của con người, tạo ra không gian sống phục vụ nhu cầu ở, tạo ra hạ tầng phục vụ
nhu cầu đi lại sinh hoạt giải trí… những nhu cầu thiết yếu cho sự tồn tại cơ bản
mình.từ những lợi ích có thể đem lại cho con người, đất đai được xem như là một
tài sản có giá trị lớn của mỗi cá nhân. Người ta có thể đem đất đai ra trao đổi, mua
bán như là hàng hóa để thu về nguồn vốn nhất định và do đó việc bảo vệ quyền sở
hữu, hưởng lợi từ đất đai trở thành vấn đề quan trọng được quan tâm.
Vì vậy cần phải có một hệ thống đăng ký đất đai hoàn thiện để quản lý việc
sử dụng đất sao cho hiệu quả không lãng phí những quà tặng của thiên nhiên ban
cho.
Do đó cần “Đánh giá hệ thống đăng ký đất đai tại tỉnh Vĩnh phúc”.
Tiểu luận bao gồm 4 Chương
chương I: Cơ sở khoa học hệ thống đăng ký và vai trò của đất
chương II: Cơ sở pháp lý về công tác đăng ký đất đai ở Việt Nam.
chương III: Đánh giá hệ thống đăng ký đất đai và hiện trạng đăng ký đất tại
tỉnh Vĩnh Phúc
chương IV: Kết luận và kiến nghị


Chương I
cơ sở khoa học hệ thống đăng ký đất đai và vai trò của đất đai
1.Vai trò của đất đai
Trong phạm vi nội bộ quốc gia, đất đai và các chính sách đất đai luôn là mối


quan tâm hàng đầu của nhà nước bởi nó có ảnh hưởng lớn đến tình hình chính trịxã hội và sự phát triển kinh tế. nếu chính sách đất đai phù hợp, không những đảm
bảo được sự bình ổn về an ninh, chính trị mà còn tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế
phát triển và ngược lại. với tầm quan trọng, ảnh hưởng rộng khắp của minhf vấn đề
đất đai luôn là một vấn đề phức tạp, đòi hỏi nhà nước trong từng thời kỳ phải có
sự cân nhắc, lựa chọn hướng đi từng bước cho phù hợp.
Tầm quan trọng của đất đai còn thể hiện trong đời sống văn hóa, tinh thần
của con người. đất đai cùng nhiều yếu tố khác như khí hậu, địa hình điều kiện tự
nhiên…góp phần hình thành nên lối sống, tính cách con người. sự khác nhau về
truyền thống văn hóa, phong tục tập quán… giữa các châu lục ,giữa các quốc gia,
thậm chí giữa từng địa phương trong một quốc gia là bằng chứng rõ ràng nhất.
Đất đai là một trong những bộ phận lãnh thổ quốc gia, nó liên quan đến chủ
quyền của mỗi quốc gia. Tôn trọng chủ quyền của mỗi quốc gia trước hết phải tôn
trọng lãnh thổ của mỗi quốc gia đó. Vì thế đất đai đóng vai trò quyết định cho sự
phát triển và tồn tại của mỗi nước. Nếu không có đất đai thì rõ không có một ngành
sản xuất nào, cũng như không thể có sự tồn tại của loài người.Đất đai là một trong
những tài nguyên vô cùng quý giá của loài người,điều kiện sống và sự sống của
động thực vật trên trái đất.
Đất đai tham gia vào tất cả các hoạt động của đời sống kinh tế xã hội. đất đai
là địa điểm là cơ sở của các thành phố làng mạc, các công trình giao thông…đât
đai cung cấp nguyên liệu cho ngành công nghiệp xây dựng như ngói gốm sứ…
Đất đai cùng với các điều kiện tự nhiên khác là một trong những cơ sở quan
trọng nhất để hình thành các vùng kinh tế của đất nước, nhằm khai thác và sử dụng
có hiệu quả các tiềm năng tự nhiên kinh tế xã hội của mỗi vùng đất nước. Nhu cầu
về đời sống kinh tế xã hội rất phong phú và đa dạng.Khai thác lợi thế của mỗi vùng
đất nước là một tất yếu khách quan để đáp ứng nhu cầu đó. Ở nước ta trên cơ sở
các điều kiện tự nhiên, cả nước có 7 vùng kinh tê- sinh thái.Mỗi vùng có những sắc


thái riêng về các điều kiện tự nhiên khác. Sử dụng đầy đủ và hợp lý đất đai của
mỗi vùng là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhằm phát triển kinh tế của mỗi

nước.
Đất đai tham gia vào tất cả các hoạt động sản xuất vật chất của xã hội.Tuy
vậy đối với từng ngành cụ thể của nền kinh tế quốc dân đất đai có vai trog khác
nhau.Đối với ngành nông nghiệp đất đai có vai trò đặc biệt nó không những là chỗ
đứng, chỗ tựa của người lao động mà còn là nguồn cung cấp thức ăn cho cây
trồng.Thông qua sự phát triển của sản xuất trồng trọt mà cung cấp thức ăn cho gia
súc, là nơi chuyển dần hầu hết tác động của con người vào cây trồng. Vì vậy đất
đai được đưa vào sử dụng là ruộng đất và tư liệu sản xuất chủ yếu không thể thay
thế được. Không có ruộng đất không thể tiến hành sản xuất kinh doanh nông
nghiệp. Ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu trong nông nghiệp nó vừa là đối
tượng lao động vừa là tư liệu lao động.
Trong ngành công nghiệp và xây dựng đất đai là nền tảng là địa điểm để tiến
hành các hoạt động sản xuất làm nền móng, chỗ đứng cho các cơ sở vật chất như
nhà máy, công xưởng, kho tàng, bến bãi, các công trình giao thông và các cơ sở vật
chất khác. Đất đai đóng vi trog quan trọng đòi hỏi cần có sự cải tạo và sử dụng hợp
lý. Cùng với sự phát triển nhanh chóng của ngành công nghiệp và xây dựng thì các
ngành khác hiện nay cũng rất cần đất đai để phục vụ sản xuất cho nhu cầu phát
triển kinh tế đất nước. Như xây nhà ở, hình thành các khu dân cư, khu đô thị mới.
Những nhu cầu này càng tăng thì diện tích đất đai để sử dụng ngày càng thu hẹp vì
cung đất đai có hạn trong khi nhu cầu ngày càng tăng. Vì thế việc sử dụng hợp lý
là một yêu cầu quan trọng trong việc sử dụng đất. Trong tiến trình lịch sử xã hội
loài người, con người và đất ngày càng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Đất đai
trở thành nguồn của cải vô tận của con người, thông qua các hoạt động khai thác
đất đai như trồng trọt, chăn nuôi mà con người có thể làm ra những sản phẩm cần
thiết phục vụ nhu cầu của con người. Đất đai là thành phần quan trọng hàng đầu
của môi trường sống, không có đất đai thì không có sự tồn tại của con người ngày
nay. Không có bất kỳ ngành sản xuất nào , đất đai tham gia vào tất cả các hoạt
động của đời sống kinh tế xã hội, đất đai là cơ sở là địa điểm của các làng mạc
thành phố, các công trình công nghiệp , giao thông… đất đai cung cấp nguyên liệu
cho các ngành công nghiệp…đất đai tham gia vào tất cả các ngành sản xuất vật

chất.


Tuy vậy đối với từng ngành cụ thể của nền kinh tế thì đất đai có vị trí khác
nhau. Đất đai là nguồn của cải là tài sản cố định, là thước đo nguồn lực giàu có của
mỗi con người và mỗi quốc gia. Nó là tài sản vì có thể cầm cố, thế chấp, mua bán
trên thị trường, chuyển nhượng, thừa kế từ đời này sang đời khác , là nguồn lực
cho các mục đích sản xuất và tiêu dùng.Tất cả cho thấy trong mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội, từ kinh tế, chính trị đến văn hóa, tinh thần, vai trog của đất đai là
không thể phủ nhận và không thiếu. theo đó việc khai thác đất đai phải mang tính
cộng đồng cao, không ai được sử dụng đất theo ý thích riêng của mình. Điều này
đồi hỏi nhà nước phải thống nhất quản lý đất đai và xây dựng một hệ thống quản
lý đất đai có hiệu quả nhằm bảo đảm sự phát triển bền vững của ngồn tài nguyên
quý giá này, cũng là nhằm đảm bảo cho sự phát triển bền vững của xã hội lẫn
tương lai.Quản lý đất đai hiệu quả còn thúc đẩy sự phát triển kinh tế bởi nó bảo vệ
quyền sở hữu và lợi ích của người sử dụng đất, tạo sự yên tâm cho các nhà đầu tư
và ngay cà hoạt động của bộ máy nhà nước cũng được đảm bảo bởi nó hỗ trợ hữu
hiệu cho việc thu ngân sách thông qua các loại thuế, phí, lệ phí liên quan đến đất
đai
2. Cơ sở khoa học của hệ thống đăng ký đất đai
Hệ thống đăng ký đất đai là một thành phần quan trọng trong hệ thống
quản ;ý đât đai, chứa đựng và cung cấp thông tin liên quan đến đất đai, bao gồm
những không giới hạn thông tin về quyền đối với đất đai ( quyền sở hữu, sử dụng,
khai thác và hưởng lợi từ đất), chủ thể có quyền và các thuộc tính của đất đai. Các
thông tin này được đăng ký và lữu trự theo nhiều cách khác nhau tùy thuộc và mục
đích mà chúng được khai thác, sử dụng.
Theo pháp luật của Việt Nam, đăng ký quyền sử dụng đất gồm đăng ký
quyền sử dụng đất lần đầu và đăng ký biến động về sử dụng đất. đăng ký quyền sử
dụng đất lần đầu được thực hiện khi người sử dụng đất có được quyền sử dụng đất
từ nhà nước hoặc được nhà nước công nhận quyền sử dụng đất.Đăng ký biến động

được thực hiện khi người sử dụng đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất và có biến động trong quá trình sử dụng đất như chuyển quyền sử dụng đất,
thay đổi mục đích sử dụng đất, thay đổi hạn chế về quyền.
Lợi ích của hệ thống đăng ký đất đai: hệ thống đăng ký đất đai hiện đại
không chỉ quan tâm đến những dữ liệu chung về đất đai, mà còn tập trung vào


những thông tin cụ thể đối với từng thửa đất. có như thế mới có thể phục vụ tốt cho
nhu cầu của từng cá nhân cũng như toàn xã hội. Những lợi ích mà hệ thống này
mang lại một khi xây dựng được là: quản lý tài sản, chuyển nhượng, an toàn tín
dụng, phân tích nhân khẩu học, quản lý sự phát triển và quy hoạch sử dụng đất;
đánh giá tác động môi trường; phân tích giao dịch nhà ở và thị trường đât đai, sở
hữu đất đai và bất động sản; thuế đất đai và bất động sản; cải tạo đất, quản lý dữ
liệu, thông tin cộng đồng.


chương II
Cơ sở pháp lý về công tác đăng ký đất đai ở Việt Nam
1.Hệ thống văn bản về công tác đăng ký từ trước tới nay
Trong năm 1980, có hai quy định của hội đồng chính phủ được ban hành: đó
là Quyết đinh 201-CP ngàu 01/7/1980 về thống nhất quản lý ruộng đât và tăng
cường công tác quản lý ruộng đất trong cả nước; và chỉ thị 299-TTg ngày
10/11/1980 của thủ tướng chính phủ về công tác đo đạc phân hạng và đăng ký
thông kê ruộng đất.
Trên cở sở các quy định của chính phú, tổng cục quản lý ruộng đất đã ban
hành quyết định 56/ĐKTK ngày 05/11/1981 quy định về thủ tục đăng ký thông kê
trong cả nước, theo đó việc đăng ký đât đai được tiến hành thống nhất với quy
trình chặt chec, có ít nhiều kế thừa cách làm của chế độ cũ.mỗi xã thành lập một
hội đồng đăng ký thống kê ruộng đất, thực hiện xác định ranh giới hành chính từng
xã, xét duyệt đơn đăng ký đất đai và lập sổ sách đăng ký của xã với hệ thống hồ sơ

đât đai được quy đinh khá chi tiết gồm 14 loại mẫu giấy tờ khác nhau. Hồ sơ của
xã phải được UBND huyện phê duyệt mới được đăng ký và cấp giấy chứng nhận.
Tuy nhiên do phải tập trung khắc phục hệ quả chiến tranh, đối phó với hàng
loạt khó khăn trên nhiều lĩnh vực, nên nhiều nhiệm vụ, yêu cầu đăng ký đất đai
theo quy định bị giảm bớt, lược bỏ nhằm đáp ứng yêu cầu nhanh chóng quản lý đất
đai phục vụ cho các kế hoạch phát triển kinh tế của đất nước.
Hầu hết ở nông thôn là do người dân tự khai và chỉ tiến hành đo bao, không
xác định được vị trí cụ thể trên bản đồ, hồ sơ. Do đó quyền sử dụng đất hợp pháp
của người kê khai đăng ký rất khó xác định. Cho đến thời điểm này, hệ thống hồ sơ
đăng ký đất đai chỉ mang tính chất kiểm kê, phản ánh hiện trnagj sử dụng đất và do
tiến hành chưa chặt chẽ nên sự sai sót, nhầm lẫn trong hồ sơ khá cao.vì thế công
tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cũng chưa được thực hiện
Từ năm 1988 đến nay. Kể từ khi luật đất đai đầu tiên được ban hành 1987 có
hiệu lực năm 1988 vấn đề đăng ký đât đai, lập hồ sơ đại chính và cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất được chính thức quy đinh là một trong những nội dung của
hoạt động quản lý nhà nước về đất đai, trở thành một trong những nhiệm vụ bắt
buộc phải chỉ đạo các địa phương tiến hành.


Kế thừa và phát huy kết quả đo đạc, đăng ký đất đai theo chỉ thị 299-ttg và
tổng cục quản lý ruộng đất đã ban hành quyết định 201/đktk ngày 14/7/1989 ban
hành quy định về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và thông tư 302/đktk
ngày 28/10/1989 để hướng dẫn thi hành quy định này, các địa phương đã đồng loạt
triển khai từ năm 1990 tạo ra những bước chuyển lớn trong hoạt động đăng ký đất
đai.tuy nhiên việc đăng ký đất đai chủ yếu là kế thừa các kết quả trước đó , rà soát
khắc phục tồn tại. chỉ có việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là thủ mới
hầu như chưa được thực hiện, hơn nữa do hồ sơ đất đai trước đây chỉ phản ánh
hiện trạng còn nhiều sai sót., không xác định chính xác nguồn gốc pháp lý và
quyền của người sử dụng đất, đồng thời , do chính sách đất đai có nhiều biến động
nên thực tiễn thi hành hết sức khó khăn với kết quả còn nhiều hạn chế.

Chính sách đất đai trong giai đoạn này có nhưng thay đổi quan trọng thứ
nhất là sự thay đổi chế độ sở hữu đối với đất đai, nếu trước Hiến Pháp 1980 còn
tồn tại nhiều hình thức sở hữu đối với đất đai là sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể
và sở hữu tư nhân thì đến hiến pháp 1980 điều 19 quy định thống nhất chỉ còn một
hình thức sở hữu đất đai là sở hữu toàn dân.
Đến Luật đất đai 1993 với sự thừa nhận chính thức thị trường bất động sản
nói chung và thị trường quyền sử dụng đất nói riêng thông qua những quy đinh về
giá đất, về các quyền giao dịch đối với quyền sử dụng đất của người sử dụng đất,
nhu cầu đẩy nhanh công tác đăng ký đất đai, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
dụng đất cho người sử dụng đất càng trở nên cần thiết.như năm 1998 Tổng cục địa
chính ban hành thông tư 346/1998/TT-TCĐC ngày 16/3/1998 hướng dẫn thống
nhất thủ tục đăng ký đất đai, lập hồ sơ đại chính và cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất. đến năm 2001 thông tư 1990/2001/TT-TCĐC ngày 30/11/2001 sửa đôi
cơ bản thủ tục đăng ký biến động đất đai, chỉnh lý đơn giản hồ sơ địa chính, tạo sự
chủ động theo điều kiện của đia phương.
Trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, những năm gần
đây , cơ cấu kinh tế nước ta đang có sự chuyển đổi mạnh mẽ từ nông nghiệp sang
công nghiệp và dịch vụ; kéo theo nó là sự chuyển đổi trong việc sử dụng các nguồn
lực lao động, công nghệ, đất đai, tài nguyên thiên nhiên…và sự tác động môi
trường.điều này đặt ra nhu cầu đối với đất đai và tài nguyên thiên nhiên cần được
quản lý thống nhất; sự phát triển bền vững ohair đặt trong mối quan hệ với vấn đề
môi trường. một lần nữa ngành địa chính và hệ thống đăng ký đất đai được tổ chức


lại với sự ra đời của BTNMT đặc biệt hoạt động đăng ký đất đai được luật đất đai
năm 2003 quy đinh thống nhất tiến hành tại một cơ quan được thành lập mới Văn
phòng đăng ký quyền sử dụng đất.
Luật đất đai năm 2003- Quốc hội khoá XI thông qua ngày 26 tháng 11 năm 2003
Luật đất đai năm 2003 sửa đổi bổ sung năm 2010
Nghị định 181/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2004 của Chính phủ về thi hành Luật đất

đai.
Nghị định 84/2007/NĐ-CP ngày 25 tháng 05 năm 2007 của Chính phủ về giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất
Nghị định 88/2009/NĐ-CP về giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Thông tư 08/2007/TT-BTNMT ngày 02 tháng 8 năm 2007 của Bộ Tài nguyên và
Môi trường về việc hướng dẫn thực hiện thống kê, kiểm kê đất đai và xây dựng
bản đồ hiện trang sử dụng đất
Thông tư 09/2007/TT-BTNMT ngày 02/8/2007của Bộ Tài nguyên và Môi trường
về việc hướng dẫn lập, chỉnh lý, quản lý lập hồ sơ địa chính
Thông tư số 17/2009/TT-BTNMT ngày 21 tháng 10 năm 2009 của Bộ Tài nguyên
và Môi trường ban hành quy đinh về giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sở hữu
nhà ở và các tài sản gắn liền với đất.
Luật đất đai 2013;
Thông tư số 24/2014/TT-BTNMT ngày 19/5/2014 của Bộ Tài nguyên và Môi
trường quy định về hồ sơ địa chính;
Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết một
số điều của Luật Đất đai;
Thông tư số 23/2014/TT-BTNMT ngày 19/5/2014 của Bộ Tài nguyên và Môi
trường quy định về giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài
sản khác gắn liền với đất;
Hiện nay, Bộ đang chỉ đạo các địa phương thực hiện Chỉ thị 21/CT-TTg của Thủ
tướng Chính phủ thực hiện kiểm kê đất đai, lập bản đồ hiện trạng sử dụng đất
năm 2014. Bộ đã trình Chính phủ phê duyệt (1) Dự án kiểm kê đất đai, lập bản đồ
hiện trạng sử dụng đất năm 2014


chương III
Đánh giá hệ thống đăng ký đất đai và hiện trạng đăng ký đất tại tỉnh Vĩnh
Phúc
1.Đánh giá hệ thống đăng ký đất đai hiện nay.

sự thống nhất của cơ quản quản lý hoạt động đăng ký chưa được thực sự
đảm bảo.Với quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân, quyền sử dụng đất của người
sử dụng đất được nhà nước- đại diên chủ sở hữu-thông qua cơ quan quản lý đất
đai, quyết định giao cho thuê hoặc công nhận thì quy định việc đăng ký quyền sử
dụng đất cũng do các cơ quan này quản lý có thể nói là phù hợp, bởi nó giúp nhà
nước quản lý chặt chẽ tài sản đất đai.
Đối với cơ quan quản lý, sự ổn định cần có cho hoạt động quản lý chưa thể
đạt được bởi sự tách , nhập cơ cấu tổ chức, thay đổi tên gọi và chức năng,nhiệm
vụ. về nguyên tắc , muốn tổ chức bộ máy đầu tiên và quan trọng nhất là phải xác
đinh rõ chức năng, nhiệm vụ đã được xác định, nhưng thực tế, tình trạng thiết lập
cơ cấu tổ chức bộ máy thiếu tính khoa học và thực tế, chia cắt sự thống nhất
thường xảy ra.điều nay thể hiện rõ trong bối cảnh pháp luật đối với tài sản hiện
hành ở Việt Nam, khi mà giữa quyền sử dụng đất và các tài sản gắn liền trên đất
dù có mối quan hệ mật thiết với nhua, nhưng lại được quản lý tách rời nhau. Chính
vì nhận thức được những điều đó từ giữa năm 2009 nhà nước đã mạnh dạn tiến
hành cải cách thống nhất mẫu giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, qua đó thống
nhất việc đăng ký quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất với trách nhiệm
thuộc về cơ quan TNMT và văn phòng đăng ký quyền sử dụng đât, dù sự thống
nhất này được tiến hành khá muộn và chủ yếu dừng lại ở thủ tục đăng ký, còn việc
quản lý tài sản gắn liền với đất vẫn thuộc cơ quan chuyên ngành khác, nhưng đất
cũng là tín hiệu mừng.
Tổ chức và hoạt động của cơ quan nhà nước thực hiện đăng ký đất đai chưa
được hoàn thiện và ổn định. Bên cạnh vấn đề quản lý, trong tổ chức cơ quan thực
hiện đăng ký đất đai là VPĐK quyền sử dụng đất, dù đac có quy định cụ thể và
thực tiễn triển khai thành lập , đi vào hoạt động , vẫn có nhiều bất cập…


VPĐK quyền sử dụng đất không chỉ thực hiện dịch vụ công trong đăng ký
đất đai, mà còn thực hiện các thủ tục hành chính trong quản lý đất đai và hồ sơ địa
chính hỗ trợ cơ quan TNMT.đây là những công việc mang tính chất trái ngược

nhau.Vì vậy bộ máy và nhân sự chưa thể đảm trách đầy đủ những chức năng,
nhiệm vụ của văn phòng đã được quy định, cần có thời gian đào tạo, tập huấn, luân
chuyển và sắp xếp lại cán bộ cho phù hợp với công việc.
Theo đó chức năng của VPĐK quyền sử dụng đất sẽ vẫn do Phòng TNMT
đảm nhiệm. việc thực hiện thủ tục hình chính tng quản lý đất đai và đăng ký quyền
sử dụng đất đối với người sử dụng đất là hộ gia đình , cá nhân tại địa phương này
vì thế vẫn chưa đúng theo tinh thần cơ chế một cửa thống nhất tại cơ quan. Người
sử dụng đất phải liên hệ nhiều nơi từ UBND cấp Xã. Phòng TNMT rồi đến UBND
cấp huyện cho hồ sơ trong từng trường hợp sử dụng đất và biến động sử dụng đất
của mình. Trong khi đó các báo cáo về tình hình đăng ký lại chưa được thực hiện
nghiêm túc, chưa đầy đủ và chủ yếu chú trọng về thành tích, thiếu sự hỗ trợ, kiểm
tra là nguyên nhân dẫn đến nhiều sai phạm của cán bộ quản lý đất đai trong hoạt
động quản lý cũng như sai sót trong lập hồ sơ đăng ký đất đai. Những sai sót, yếu
kém này lại được bao biện bởi những lý do khách quan, chưa được xử lý hoặc có
xử lý nhưng chưa nghiêm minh theo quy định.
Đội ngũ cán bộ quản lý, đăng ký đất đai. Đội ngũ cán bộ chưa đáp ứng được
hết công việc yêu cầu, vì công việc đăng ký đất đai mà họ đảm trách vừa mang
tính chất quản lý vừa mang tính chất nghiệp vụ rộng trong nhiều lĩnh vự, đòi hỏi
nhiều hơn những kiến thức chuyên môn được đào tạo. khi bắt tay vào công việc
chủ yếu rút kinh nghiệm từ thực tiễn và từ sự hướng dẫn ,chỉ đạo của các cấp trên
nên nhiều lúc khó đảm bảo tính khách quan trong hoạt động và sự né tránh, đùn
đẩy trách nhiệm khi có hậu quả tiêu cực xảy ra. Công tác đào tạo cán bộ, bổ sung
nghiệp vụ chưa được chú trọng do các địa phương có nguồn kinh phí dành cho đào
tạo không cao.
2.Hiện trạng đăng ký và quản lý đất đai trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc
Theo đó, Sở Tài nguyên và Môi trường đã tham mưu HĐND, UBND tỉnh
ban hành các văn bản quy phạm pháp luật liên quan như: Nghị quyết số 136/NQHĐND ngày 18/7/2014 của HĐND tỉnh khóa XV về chính sách đất dịch vụ cho
các hộ gia đình, cá nhân khi nhà nước thu hồi đất. Quyết định số 61/2014/QĐUBND ngày 31/12/2014 Về việc ban hành quy định về giá các loại đất trên địa bàn
tỉnh Vĩnh Phúc 05 năm 2015-2019; Quyết định số 42/2014/QĐ-UBND ngày



15/9/2014 Ban hành Quy định về giao đất xây dựng nhà ở không qua đấu giá
quyền sử dụng đất, hạn mức giao đất ở, hạn mức công nhận diện tích đất ở và diện
tích chia, tách thửa đất ở tối thiểu; hạn mức giao đất trống, đồi núi trọc, đất có mặt
nước thuộc nhóm đất chưa sử dụng cho hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn tỉnh Vĩnh
Phúc (đã được sửa đổi, bổ sung tại Quyết định số 28/2016/QĐ-UBND ngày
18/5/2016 của UBND tỉnh)...
Sở Tài nguyên và Môi trường đã tổ chức 05 Hội nghị tuyên tuyền, phổ biến
pháp luật đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành cho lãnh đạo các sở, ban,
ngành, đoàn thể tỉnh; lãnh đạo UBND các huyện, thành, thị; lãnh đạo các Phòng
Tài nguyên và Môi trường; Ban Giải phóng mặt bằng các huyện, thành, thị; cán bộ
công chức, viên chức và người lao động ngành Tài nguyên và Môi trường công tác
trên địa bàn tỉnh; cán bộ Tư pháp - Hộ tịch cấp xã; đại diện các doanh nghiệp được
nhà nước giao đất, cho thuê đất trên địa bàn tỉnh; biên tập, in, phát tờ rơi, tờ gấp
(14.000 tờ); tham mưu UBND tỉnh xây dựng 3.833 cuốn Sổ tay tìm hiểu pháp luật
về lĩnh vực đất đai. Đặc biệt, ngày 18/6/2014 UBND tỉnh đã ban hành Kế hoạch số
3275/KH-UBND về tổ chức cuộc thi “Tìm hiểu pháp luật về đất đai” và đã triển
khai rộng khắp ở các cấp, các ngành, đoàn thể từ tỉnh đến cơ sở. Tổng số có 30.105
bài dự thi, thông qua đó nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền,
các tổ chức, đoàn thể các cấp trong công tác quản lý, sử dụng hiệu quả nguồn lực
đất đai, tạo chuyển biến rõ rệt về quản lý và sử dụng đất, đưa công tác quản lý đất
đai đi vào nền nếp, kỷ cương theo đúng quy định của pháp luật.
Tổ chức thực hiện quy định của Luật đất đai năm 2013:Thực hiện theo quy
định của Luật Đất đai 2013 về việc lập kế hoạch sử dụng đất hàng năm cấp huyện,
đến nay UBND tỉnh đã phê duyệt Kế hoạch sử dụng đất năm 2015 và 2016 cho 9/9
huyện thành thị trên địa bàn tỉnh. Sở đã tham mưu cho UBND tỉnh lập, hoàn thiện
hồ sơ về phương án điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch
sử dụng đất kỳ cuối 2016-2020, trình HĐND tỉnh thông qua tại kỳ họp thứ nhất
khóa XVI năm 2016.
Về công tác thu hồi, giao đất: Tính từ ngày 01/7/2014 đến 31/12/2016, Sở Tài

nguyên và Môi trường đã thẩm định, tham mưu trình UBND tỉnh thu hồi, giao đất
và cho phép chuyển mục đích sử dụng đất để thực hiện 284 công trình dự án với
tổng diện tích là 292,74 ha.
Về kết quả việc chuyển mục đích sử dụng đất chuyên trồng lúa nước: Theo
quy định tại Điều 58 Luật Đất đai 2013, các công trình, dự án sử dụng đất trồng
lúa, đất rừng đặc dụng, đất rừng phòng hộ phải được cấp có thẩm quyền cho phép
chuyển mục đích trước khi thực hiện. Trong đó, thẩm quyền Thủ tướng Chính phủ
cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đối với công trình, dự án sử dụng từ 10 ha
đất trồng lúa, từ 20 ha đất rừng đặc dụng, đất rừng phòng hộ trở lên; thẩm quyền
HĐND tỉnh cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đối với công trình, dự án sử
dụng dưới 10 ha đất trồng lúa và dưới 20 ha đất rừng đặc dụng, đất rừng phòng hộ.


Tính từ ngày 01/7/2014 đến 31/12/2016, Sở Tài nguyên và Môi trường đã rà soát,
tham mưu UBND tỉnh trình HĐND tỉnh và Thủ tướng Chính phủ cho phép chuyển
mục đích sử dụng đất làm cơ sở để triển khai thực hiện các công trình, dự án theo
quy định. Cụ thể:
Đối với các công trình dự án được HĐND tỉnh cho phép chuyển mục đích sử
dụng đất: Năm 2014, 2015, 2016, HĐND tỉnh ban hành các nghị quyêt cho phép
chuyển mục đích sử dụng đất với tổng diện tích 3.833,51 ha, trong đó đất trồng lúa
là 1.652,32 ha, đất rừng đặc dụng 44,26 ha, đất rừng phòng hộ 40,58 ha để thực
hiện 2.297 công trình, dự án trên địa bàn tỉnh;
Đối với các công trình dự án được Thủ tướng chính phủ cho phép chuyển
mục đích sử dụng đất trồng lúa: Ngày 23/11/2015, Thủ tướng Chính phủ đã cho
phép chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa để thực hiện 3 công trình dự án với
tổng diện tích là 109,6 ha; từ năm 2014 đến 2016, UBND tỉnh trình Thủ tướng
Chính phủ cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đối với 35 công trình, dự án,
trong đó Thủ tướng Chính phủ đã chấp thuận cho phép chuyển mục đích 9/35 công
trình, dự án.
Công tác đo đạc và bản đồ.Sau khi Luật Đất đai năm 2013 ra đời, công tác

đo đạc và bản đồ đã đạt được kết quả như sau: Đo đạc xong và bàn giao sản phẩm
bản đồ địa chính tỷ lệ 1/500, 1/1.000, 1/2.000 và 1/5.000 khu vực huyện Lập Thạch
cho địa phương quản lý sử dụng; hoàn thành dự án xây dựng cơ sở dữ liệu 1/2000
từ bản đồ địa hình và ảnh hàng không kỹ thuật số khu vực thị xã Phúc Yên và
huyện Bình Xuyên theo Quyết định số 3073/QĐ-UBND ngày 30/10/2014; hoàn
thành công tác thành lập lưới địa chính huyện Sông Lô; triển khai công tác đo đạc
lập bản đồ địa chính 17/ 17 xã, thị trấn huyện Sông Lô.
Công tác đăng ký đất đai.Tổng số Giấy chứng nhận đã cấp cho các tổ chức
từ khi thực hiện Luật Đất đai 2013 (từ 01/7/2014) đến tháng 11 năm 2016 là: 3.165
Giấy chứng nhận, cụ thể như sau: Cấp lần đầu là 2.834 Giấy chứng nhận; cấp mới
do người sử dụng đất thực hiện các quyền là 331 Giấy chứng nhận. Về công tác
cấp Giấy chứng nhận cho hộ gia đình, cá nhân, các chi nhánh Văn phòng đăng ký
đất đai đã phối hợp với UBND cấp huyện, UBND cấp xã trên địa bàn và các đơn vị
liên quan hoàn thiện hồ sơ và cấp Giấy chứng nhận cho 43.662 trường hợp, trong
đó cấp lần đầu là 6.854 GCN, cấp GCN do người sử dụng đất thực hiện các quyền
(chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, thừa kế, cấp đổi, cấp lại…) là 36.808
GCN. Sở Tài nguyên và Môi trường đã chỉ đạo Văn phòng đăng ký đất đai thường
xuyên cập nhật, chỉnh lý vào hồ sơ địa chính; Công tác cập nhật, chỉnh lý phải đi
đôi với công tác cấp Giấy chứng nhận để đảm bảo tính đồng bộ của các loại tài
liệu, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai. Qua kiểm tra, nghiệm thu
công tác cấp Giấy chứng nhận, đăng ký biến động, cập nhật hồ sơ địa chính đến
tháng 11/2016, cơ bản các đơn vị đã thực hiện cập nhật chỉnh lý hồ sơ địa chính
đối với các thửa có biến động theo từng xã, phường, thị trấn, nhưng kết quả đạt


được chưa cao. Hiện tại, trên địa bàn tỉnh đã triển khai công tác xây dựng cơ sở dữ
liệu đối với 14/20 xã trên địa bàn huyện Lập Thạch, Sở Tài nguyên và Môi trường
đã giao cho Chi cục Quản lý đất đai thường xuyên đôn đốc, kiểm tra tiến độ thực
hiện. Tổng số hồ sơ đã kê khai đăng ký tính đến tháng 11/2016 là 36.432/45.087 hồ
sơ cần kê khai, bước đầu chuyển hội đồng xét duyệt ở cấp xã là 15.350 hồ sơ, số

hồ sơ trình Văn phòng đăng ký đất đai thẩm định là 3.847, còn lại hầu hết các hồ
sơ đơn vị tư vấn đang bổ sung và hoàn thiện.
Sở tiếp tục tham mưu cho UBND tỉnh triển khai xây dựng cơ sở dữ liệu đối
với 6 xã còn lại của huyện Lập Thạch và triển khai xây dựng cơ sở dữ liệu huyện
Sông Lô sau khi hoàn thành đo đạc Bản đồ địa chính.
Công tác giá đất, hợp đồng thuê đất, bồi thường, hỗ trợ tái định cư
Từ ngày 01/7/2014 đến ngày 01/7/2016, đã có 197 tổ chức, doanh nghiệp ký hợp
đồng thuê đất với tổng diện tích là 7.985.198,1m 2. (trong đó có 82 hợp đồng ký
mới với diện tích là 1.724.121,5 m2 và 105 hợp đồng ký lại số với diện tích là
6.260.941,7 m2). Thực hiện quy định của Luật Đất đai năm 2013, Sở Tài nguyên và
Môi trường đã tham mưu cho UBND tỉnh hoàn thiện cơ chế chính sách về bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư trên địa bàn tỉnh. Kết quả như sau: Tổng số dự án Nhà
nước thu hồi đất bồi thường GPMB là 406 dự án (trong đó, đã thực hiện xong 267
dự án, số dự án đang triển khai thực hiện là 139 dự án).
Từ năm 2015 đến hết tháng 6 tháng đầu năm 201, thực hiện xác định giá đất cụ thể
cho 467 dự án (trong đó, xác định giá đất cụ thể phục vụ công tác bồi thường là
406 dự án; xác định giá đất cụ thể phục vụ công tác thuê đất, thu tiền sử dụng đất:
18 dự án; xác định giá đất cụ thể phục vụ công tác xác định giá khởi điểm đấu giá
QSD đất là 43 dự án.
Sở TN&MT đã tiến hành các cuộc thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp
luật đất đai đối với chủ sử dụng đất là các tổ chức, hộ gia đình được Nhà nước giao
đất, cho thuê đất theo kế hoạch. Qua Thanh tra đã kiến nghị thu hồi đối với diện
tích do chậm tiến độ sử dụng đất, không có nhu cầu sử dụng đất theo Điều 64 Luật
Đất đai năm 2013; kiến nghị cho ra hạn, giãn thời gian triển khai dự án đối với chủ
sử dụng đất theo khoản 1 điểm i, Điều 64 Luật Đất đai năm 2013; đồng thời xử
phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cho thuê tài sản gắn liền với đất không đủ
điều kiện, xử phạt vi phạm về hành vi tự chuyển mục đích sử dụng đất, lấn, chiếm
hành lang giao thông.
Sở tiến hành 01 cuộc kiểm tra hành chính tại 05 Chi nhánh Văn phòng đăng
ký đất đai cấp huyện, thời gian kiểm tra từ ngày 01/01/2015 (ngày các Chi nhánh

Văn phòng đăng ký đất đai đi vào hoạt động theo quy định) đến ngày 31/7/2015.
Qua kiểm tra công tác tiếp nhận, giải quyết xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất phát hiện có 1.500 hồ sơ giải quyết quá thời hạn quy định, chiếm 20,5 %
đã giải quyết xong. Sở đã đề xuất với UBND tỉnh các giải pháp để tháo gỡ khó


khăn vướng mắc, bất cập trong việc thực hiện các thủ tục hành chính để cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất.
Những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện Luật Đất đai năm
2013 và đề xuất, kiến nghị
Trong quá trình thực hiện Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn
thi hành, Sở TN&MT Vĩnh Phúc gặp một số khó khăn, tồn tại cũng như những bất
cập nhất định, gây khó khăn, lúng túng trong công tác thi hành Luật trên địa bàn
tỉnh như: Việc uỷ quyền ra quyết định thu hồi đất theo quy định của Luật Đất đai
năm 2013; việc thực hiện quy định về thời điểm phê duyệt phương án bồi thường
giải phóng mặt bằng và ra quyết định thu hồi đất trong cùng một ngày theo quy
định Luật Đất đai năm 2013; việc thực hiện thủ tục hành chính thẩm định nhu cầu
sử dụng đất; thẩm định điều kiện giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích
sử dụng đất. Hiện nay Bộ Tài nguyên và Môi trường chưa ban hành Hướng dẫn
việc thẩm định nhu cầu sử dụng đất đối với các dự án sản xuất, kinh doanh nên
trong quá trình thẩm định nhu cầu sử dụng đất đối với các dự án này gặp nhiều khó
khăn, lúng túng, nếu không nói là không thể vì không có căn cứ, cơ sở; sự chồng
chéo, chưa thống nhất giữa các Thông tư gây khó khăn trong quá trình triển khai,
thực hiện...
Việc cấp đổi Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) cho các hộ
gia đình, cá nhân nhằm mục đích nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước về đất đai,
tránh tình trạng lấn chiếm, tranh chấp của người sử dụng đất để họ yên tâm chủ
động sử dụng đất có hiệu quả cao nhất và thực hiện các quyền, nghĩa vụ sử dụng
đất theo pháp luật... Tuy nhiên, công tác cấp đổi GCNQSDĐ cho hộ gia đình, cá
nhân trên địa bàn tỉnh còn chậm. Đến nay, diện tích đã cấp GCNQSDĐ cho hộ gia

đình, cá nhân mới đạt 60.959,38 ha/68.057,79 ha, đạt 89,57% diện tích đất cần cấp.


Người dân đến làm thủ tục cấp GCNQSD tại văn phòng đăng ký đất đai
huyện Tam Dương.
Theo Sở TN&MT thì nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến tình trạng chậm
trễ nói trên là do nguồn gốc đất, hồ sơ địa chính để làm cơ sở cấp GCNQSDĐ rất
phức tạp; công tác đăng ký đất đai, cấp giấy chứng nhận trước kia chưa được gắn
liền với công tác cập nhật, chỉnh lý biến động về đất đai nên hồ sơ không thống
nhất; các chính sách pháp luật đất đai bất cập, không đồng bộ, phức tạp, thay đổi
qua từng thời kỳ, trung bình từ 5 - 10 năm lại có luật mới đi kèm với nó là hàng
loạt nghị định, thông tư nên cán bộ thực hiện và người dân khó nắm bắt, hiểu và
khó thực hiện đúng,dẫn đến một số thủ tục hành chính về cấp GCNQSDĐ còn bất
cập, thái độ thực thi công vụ của cán bộ, công chức chưa tốt.
Nhiều chính quyền các cấp xã, cấp huyện chưa quan tâm đôn đốc, chỉ đạo
quyết liệt, thậm chí có nơi còn đùn đẩy, né tránh, sợ trách nhiệm, sợ sai phạm khi
ký cấp GCNQSDĐ. Kinh phí và cơ sở vật chất, trang thiết bị không đáp ứng được
yêu cầu cũng là một nguyên nhân ảnh hưởng rất lớn đến tiến độ cấp giấy chứng


nhận. Công tác cấp đổi GCNQSDĐ theo số liệu đo đạc mới rất chậm, đạt kết quả
thấp là do trong quá trình thực hiện đòi hỏi phải xử lý những vấn đề tồn tại trong
việc công nhận hạn mức, chênh lệch diện tích giữa các lần đo đạc và những vướng
mắc từ quá khứ, những sai phạm của các cấp quản lý, nhất là xác nhận thời điểm
sử dụng đất còn gặp nhiều khó khăn, lúng túng; các thửa đất nông nghiệp đã
chuyển đổi, chuyển nhượng qua rất nhiều chủ sử dụng đất nhưng chưa làm thủ tục
với cơ quan Nhà nước; hồ sơ đầu vào không đảm bảo cả về yếu tố pháp lý và yếu
tố kỹ thuật nên việc cấp giấy chứng nhận phải mất nhiều thời gian kiểm tra thực
địa, kiểm tra xác minh, trong khi thời gian này không có trong thủ tục hành chính.
Tam Dương là địa phương có diện tích đã cấp GCNQSDĐ cho hộ gia đình,

cá nhân trên địa bàn cao hơn mức trung bình của cả tỉnh, đạt 6.962,34 ha/7.556,90
ha, đạt 92% diện tích đất cần cấp. Ông Phùng Quang Thái, Giám đốc Văn phòng
Đăng ký đất đai, chi nhánh Tam Dương cho biết: "Việc chậm cấp GCNQSDĐ cho
hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn có nhiều nguyên nhân như: Bản đồ địa chính
được đo đạc mới, tuy nhiên còn sai sót nhiều về ranh giới thửa đất, do vậy, khi thực
hiện đăng ký đất đai, cấp GCNQSDĐ thường xuyên phải lập biên bản xác minh lại
ranh giới, nguồn gốc thửa đất; thời gian giải quyết thủ tục hành chính theo quy
định ngắn so với công việc thực tế khi xác minh, điều này gây ra nhiều áp lực cho
cán bộ thẩm định hồ sơ và dẫn đến hồ sơ trả quá hạn là không tránh khỏi.
Công tác cấp đổi giấy chứng nhận theo bản đồ mới gặp nhiều khó khăn do
quá trình thực hiện đòi hỏi phải giải quyết các tồn tại về tranh chấp, công nhận hạn
mức đất ở, chênh lệch diện tích giữa các lần đo đạc, thẩm quyền cấp giấy chứng
nhận không đồng nhất; công tác phối hợp giữa chi nhánh với UBND các xã, thị
trấn, các cơ quan liên quan đến công tác đăng ký, cấp giấy CNQSDĐ cho hộ gia
đình cá nhân trên địa bàn chưa chặt chẽ, nhịp nhàng, còn hiện tượng đùn đẩy trách
nhiệm, tạo tâm lý không tốt cho người dân; một số hộ gia đình, cá nhân đăng ký
không kịp thời, có trường hợp mua bán chồng lấn, diện tích đo đạc các thời kỳ
không chính xác...Ví dụ nhiều hộ có diện tích thực tế là 500 m2 nhưng khi kê khai
chỉ là 300 m2 để tránh nghĩa vụ phải nộp thuế đất đối với Nhà nước, vì vậy, khi
cấp GCNQSDĐ không đúng với thực tế diện tích đất của mình. Còn có những
trường hợp khi cán bộ đi xác minh tăng gần 1000 m2, những trường hợp này khi
được xác minh thực tế thì họ đã ở trên thửa đất này qua nhiều thế hệ rồi, không có
sự thay đổi, lấn chiếm…nhưng khi cấp GCNQSDĐ cho các hộ này chỉ cấp một
phần diện tích đất thực tế mà họ đang sử dụng. Khi những trường hợp này thừa ủy
quyền sang tên đổi chủ, cho, tặng, thừa kế sẽ gây khó dễ cho cơ quan quản lý đất
đai khi làm thủ tục cấp mới. Theo quy định chủ thửa đất phải đăng ký biến động
đất của mình trước khi làm thủ tục xin cấp GCNQSDĐ nhưng đại bộ phận người
dân không làm theo quy trình này mà trực tiếp cầm bìa đỏ đến các văn phòng công
chứng để làm thủ tục thừa ủy quyền như thừa kế hay tặng, chờ sang tên đổi chủ…



Việc làm này là không đúng quy trình làm hồ sơ xin cấp GCNQSDĐ nên gây khó
khăn cho cơ quan quản lý đất đai ... Vì vậy, dẫn tới tình trạng cấp GCNQSDĐ ở
huyện Tam Dương chậm".
Bà Vũ Thị Thanh Thủy, Phó Giám đốc Văn phòng Đăng ký đất đai, Chi
nhánh Lập Thạch cho biết: “ Việc cấp GCNQSDĐ còn chậm là do giấy chứng nhận
đã cấp cho người sử dụng trước năm 2013 được cấp trên cơ sở bản đồ 299 và trích
đo sơ đồ vị trí thửa đất nên độ chính xác không cao; giấy chứng nhận không được
chỉnh lý biến động kịp thời; giấy chứng nhận đã cấp trước đây do quy trình không
chặt chẽ dẫn đến việc sai lệch về thông tin của người sử dụng đất với giấy tờ nhân
thân hiện có hoặc thông tin về thửa đất không chính xác nên gây khó khăn trong
việc kê khai cấp đổi ; hiện trạng sử dụng đất biến động nhiều so với giấy chứng
nhận đã cấp, để cấp đổi theo hiện trạng thì cần phải có thời gian xác minh diện tích
tăng có đủ điều kiện để được cấp giấy chứng nhận hay không. Tình trạng chia tách
cho con cái hoặc đã mua bán chuyển nhượng từ lâu nhưng không làm thủ tục đăng
ký đất đai dẫn đến hiện trạng sử dụng đất thay đổi so với giấy chứng nhận đã cấp
(phải thực hiện thủ tục đăng ký biến động theo quy định) dẫn đến thời gian thực
hiện kéo dài… Bên cạnh đó, hội đồng xét duyệt cấp giấy chứng nhận tại các xã, thị
trấn đều phải kiêm nhiệm nhiều công việc. Theo quy định, mỗi xã, thị trấn chỉ
được biên chế một cán bộ công chức địa chính và phải thực hiện rất nhiều công
việc khác nhau. Một số xã cán bộ địa chính mới tiếp nhận công việc nên không
nắm chắc được tình trạng sử dụng đất của tất cả các hộ gia đình, cá nhân trên địa
bàn mình quản lý”.
Theo Sở TN&MT việc cấp GCNQSDĐ còn chậm một phần do sự phối hợp
với các đơn vị liên quan như UBND cấp xã, cơ quan thuế còn chưa thông suốt.
Một số cán bộ trình độ năng lực còn hạn chế, chưa linh hoạt trong quá trình vận
dụng các văn bản quy phạm pháp luật để giải quyết các thủ tục hành chính. Mặc dù
ngành TN&MT đã nỗ lực, phấn đấu và giải quyết những tồn tại, vướng mắc, khó
khăn song do việc phối hợp của các cơ quan đơn vị liên quan chưa tốt, tồn tại lịch
sử kéo dài, tình trạng tranh chấp, lấn chiếm, sử dụng đất trái pháp luật, không thực

hiện đầy đủ các thủ tục hành chính chưa được xử lý, giải quyết dứt điểm, thời gian
thực hiện TTHC vẫn còn chậm, chưa đảm bảo đúng theo quy định của pháp luật do
vậy, vẫn còn khiếu kiện, mức độ hài lòng của người dân chưa cao.
Ông Phan Tuệ Minh, Phó Giám đốc Sở TN&MT cho biết: “Để giải quyết
tình trạng cấp GCNQSDĐ chậm , Sở TN&MT đã tham mưu với UBND tỉnh tăng
cường chỉ đạo các ngành, các cấp trong công tác phối hợp, tổ chức thực hiện liên
quan lĩnh vực đất đai; Bổ sung kinh phí đo đạc để lập bản đồ chính quy, nhằm thực
hiện tốt công tác cấp GCNQSĐ; bổ sung thêm về biên chế, trang thiết bị cũng như
trụ sở làm việc cho các chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai trên địa bàn tỉnh;


UBND tỉnh cần thành lập tổ công tác liên ngành thường xuyên kiểm tra, đôn đốc
thực hiện để kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực
hiện các TTHC và sớm ban hành quy chế phối hợp giữa các sở, ngành liên quan
(Tài nguyên và Môi trường, Nội vụ, Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư, Tư pháp, cơ
quan thuế) và UBND cấp huyện, UBND cấp xã và các tổ chức, cá nhân có liên
quan trong việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn trong việc đăng ký,
cấp giấy chứng nhận theo các thủ tục hành chính về đất đai đảm bảo thông suốt,
tránh đùn đẩy trách nhiệm; đề nghị UBND tỉnh sớm phê duyệt đơn giá về đo đạc
bản đồ trên địa bàn tỉnh theo Thông tư 50/2013/TT-BTNMT ngày 27/12/2013 của
Bộ Tài nguyên và Môi trường về việc Ban hành Định mức kinh tế - kỹ thuật đo đạc
địa chính, đăng ký đất đai, tài sản gắn liền với đất, lập hồ sơ địa chính, cấp
GCNQSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất. Làm cơ sở xây
dựng cơ chế tài chính để Nhà nước đặt hàng thực hiện nhiệm vụ được giao theo
trình tự, thủ tục và trách nhiệm quy định của pháp luật; các cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền (UBND cấp huyện, cơ quan thanh tra các cấp) cần xem xét, xử lý, giải
quyết dứt điểm các hành vi vi phạm pháp luật đất đai, tình trạng tranh chấp, khiếu
nại về đất đai để công nhận quyền sử dụng đất theo Điều 22, 23 Nghị định số
43/2014/NĐ-CP của Chính phủ.



chương IV
Kết luận và Kiến nghị
1.Kết luận
Qua thực trạng việc đăng ký đất đai và cấp giấy chứng nhận của tỉnh Vĩnh
Phúc ta nhận thấy được công tác đăng ký đất đai còn phức tạp bao gồm cả nhưng
nguyên nhân khách quan cũng như nguyên nhân chủ quan dẫn đến công tác đăng
ký đất đai chưa được chú trọng và người dân vẫn còn thờ ơ với quyền lợi của mình
được hưởng khi đăng ký đất đai. xuất phát từ trình độ hiểu biết về pháp luật đất đai
người dân không đều, một số nơi, chủ sử dụng chưa nhiệt tình hợp tác với cán bộ
chuyên môn trong việc hoàn thiện hồ sơ đăng ký đất đai cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất. Hơn nữa, một bộ phận rất lớn người dân chưa hiểu biết đầy đủ
các quy định của pháp luật về nghĩa vụ đăng ký đất đai và cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất.
Số lượng hồ sơ đầu vào và tính chất phức tạp của các hồ sơ xin cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất. Dẫn đến những vướng mắc, bất cập hiện nay
trong công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ gia đình, cá
nhân không thể không kể đến yếu tố con người làm công tác này.
Các văn bản quy phạm pháp luật quản lý nhà nước về đất đai mới được ban
hành đã hướng dẫn chi tiết, cụ thể giúp cho công tác quản lý đất đai ngày càng có
hiệu quả.
Được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Hội đồng nhân dân tỉnh, ủy ban nhân
dân tỉnh đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo chuyên môn. Hàng năm tỉnh cũng bố
trí nguồn kinh phí tương đối lớn phục vụ cho công tác cấp giấy chứng nhận nói
chung và công tác lập hồ sơ địa chính giúp cho việc cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho các hộ gia đình và cá nhân được đẩy nhanh tiến độ, chất lượng được
nâng lên. Bên cạnh đó, tỉnh cũng chỉ đạo quyết liệt công tác cải cách thủ tục hành


chính trong lĩnh vực cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, xây dựng mô hình

dịch vụ hành chính công trực tuyến.
Về tổ chức bộ máy: Văn phòng Đăng ký đất đai một cấp Vĩnh Phúc được
thành lập và đi vào hoạt động theo quyết định số 46/2014/QĐ-UBND ngày
20/10/2014 của UBND tỉnh Vĩnh Phúc trên cơ sở bàn giao nguyên trạng biên chế,
người lao động, cơ sở vật chất, trang thiết bị, phòng làm việc của Văn phòng Đăng
ký Quyền sử dụng đất cấp tỉnh (thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường) và Văn phòng
đăng ký quyền sử dụng đất cấp huyện (thuộc phòng Tài nguyên và Môi trường cấp
huyện) trước đây. Theo đó nhiều chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được chuyển về
Văn phòng đăng ký đất đai. Đặc biệt theo Điều 105 Luật Đất đai, Điều 37 Nghị
định số 43/2014/NĐ-CP thì thẩm quyền ký tất cả giấy chứng nhận khi cấp đổi, cấp
lại, cấp thực hiện các quyền của người sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân, cộng
đồng dân cư trước đây thuộc ủy ban nhân dân cấp huyện hiện nay đã được ủy ban
nhân dân tỉnh ủy quyền cho Sở Tài nguyên và Môi trường thực hiện. Quy định này
đảm bảo tính chuyên môn, hệ thống, đồng bộ, chuyên nghiệp hơn.

2.Kiến Nghị
Theo quy định của pháp luật nước ta, nhà nước là chủ sở hữu duy nhất đối
với đất đai nhưng không trực tiếp khai thác, sử dụng đất mà trao quyền này cho các
cơ quan, tổ chức, cá nhân, hộ gia đình. Chứng thư pháp lý xác lập mối quan hệ hợp
pháp giữa nhà nước và người sử dụng đất trong việc sử dụng đất là giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất. Vì vậy, đăng ký đất đai và cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất là một trong những nội dung quan trọng của công tác quản lý nhà nước về
đất đai đồng thời là quyền đầu tiên mà bất kỳ người sử dụng đất hợp pháp nào
cũng được hưởng, là cơ sở để họ được thực hiện các quyền và hưởng những lợi ích
hợp pháp mà nhà nước trao cho người sử dụng đất. Tiến độ và chất lượng cấp giấy


chứng nhận quyền sử dụng đất và đăng ký đất đai cũng là biểu hiện cho khả năng
của nhà nước trong việc quản lý tài sản đất đai của mình. Vì lẽ đó, cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất luôn được các cấp chính quyền nói chung trong đó có các

cấp chính quyền trong tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng đặc biệt quan tâm.
Thời gian qua, với những thay đổi có tính phù hợp với thực tiễn của hệ thống
văn bản về quản lý đất đai cũng như những nỗ lực của tỉnh Vĩnh Phúc, tiến độ và
chất lượng cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ gia đình, cá nhân
trên địa bàn đã được đẩy nhanh và mang lại nhiều lợi ích thiết thực về các mặt kinh
tế, chính trị, trật tự xã hội cho không chỉ những người sử dụng đất mà còn cho
chính quyền địa phương. Bên cạnh đó còn tồn tại nhiều vướng mắc, bất cập mà
xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Nhóm nghiên cứu trên cơ sở hệ thống
hóa các quan điểm, chính sách pháp luật của nhà nước đã tiến hành khảo sát và
phân tích thực trạng vấn đề này, từ đó đưa ra một số các giải pháp phù hợp với địa
phương với mong muốn nâng cao hơn nữa chất lượng cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất cho các hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn tỉnh thời gian tới.



×