Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Bài thu hoạch “học tập và làm theo tấm gương đạo đức hồ chí minh” ở đảng bộ xã bình định bắc huyện thăng bình tỉnh quảng nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.35 KB, 20 trang )

 Bài thu hoạch

GVHD: Nguyễn Văn Lĩnh

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Ý nghĩa và tầm quan trọng của việc vận dụng tư tưởng đạo đức
Hồ Chí Minh trong xây dựng đạo đức cạch mạng cho đội ngủ cán bộ, Đảng
viên.
Trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại lời di huấn dặn dò về
Đảng, và vấn đề đạo đức cách mạng: "Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi
đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, phải thật sự
cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch,
phải xứng đáng là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân". Cả cuộc đời
của mình, Người đã tự thực hiện một cách hoàn chỉnh, trọn vẹn những tư tưởng
và khát vọng đạo đức cách mạng; Người vừa là nhà lý luận đạo đức cách mạng,
vừa là một tấm gương đạo đức trong sáng gần gũi và độc đáo nhất.
Về đạo đức cách mạng, Hồ Chí Minh nói: "Đạo đức đó không phải là
đạo đức thủ cựu, nó là đạo đức mới. Đạo đức vĩ đại, nó không vì danh vọng
của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người". Và
theo cách diễn đạt bình dị của Người: Đạo đức như gốc của cây, ngọn nguồn
của sông suối, sức mạnh của con người, sức có mạnh mới gánh được nặng, và
đi được xa. Ngay trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Đảng ta
tiến hành sự nghiệp vĩ đại giải phóng và thống nhất đất nước, Người đã khái
quát và cảnh báo: "Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là
vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi
người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không còn trong sáng nữa, nếu sa vào
chủ nghĩa cá nhân". Người cũng thường xuyên nhấn mạnh: "Đảng phải là đạo
đức, là văn minh", cán bộ, đảng viên có đạo đức cách mạng phải vừa hồng vừa
chuyên, hội tụ đủ đức tài, đức là gốc, phải có sự trung với nước, và hiếu với
dân.
Tư tưởng và tấm gương đạo đức cách mạng trong sáng của Hồ Chí Minh


là tài sản tinh thần vô giá của Đảng và dân tộc ta. Nghiên cứu, học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là niềm vinh dự, tự hào của mỗi cán bộ,
công chức đối với Bác kính yêu - một con người mà tư tưởng và tầm vóc vĩ đại
đã vượt qua mọi không gian và thời gian, trở thành một biểu tượng đẹp đẽ của
văn minh nhân loại: Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới.
2. Giới hạn của thu hoạch: Tổng kết quá trình “Học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” ở Đảng bộ xã Bình Định Bắc huyện Thăng
Bình tỉnh Quảng Nam từ năm 2007 – 2010.
3. Mục đích của thu hoạch:
Thu hoạch nêu lên một cách khái quát tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
cách mạng, sự cần thiết phải nâng cao nhiệm vụ rèn luyện đạo đức cách mạng
theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong cán bộ, đảng viên hiện nay.
HVTT: Nguyễn Đức Thái

Trang

1


 Bài thu hoạch

GVHD: Nguyễn Văn Lĩnh

Đánh giá thực trạng quá trình vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo
đức cách mạng trong nhiệm vụ xây dựng đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán
bộ, đảng viên tại Đảng bộ xã Bình Định Bắc.
Phân tích nguyên nhân và đề ra những giải pháp giúp cho Đảng bộ xã
Bình Định Bắc nâng cao hiệu quả trong công tác lãnh đạo xây dựng, rèn luyện
đạo đức cách mạng, góp phần xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh. Hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị của đơn vị trong giai đoạn hiện nay.

4. Cơ sở và phương pháp luận:
Thực hiện thu hoạch này lấy Chủ nghĩa Mác – Lênin; Tư tưởng Hồ Chí
Minh; Đường lối, chủ trương, Nghị quyết của Đảng làm cơ sở luận của thu
hoạch. Kết hợp với phương pháp tổng hợp, điều tra, thống kê, phân tích và dự
báo để hoàn thành đề tài.
5. Kết cấu của thu hoạch: Gồm 3 phần
- Phần mở đầu
- Phần nội dung:
+ Chương I: Khái quát nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về
đạo đức cách mạng.
+ Chương II: Thực tế việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong
xây dựng đạo đức cách mạng cho đội ngủ cán bộ Đảng viên của Đảng bộ xã
Bình Định Bắc từ năm 2007 – 2010.
+ Chương III: Các giải pháp đẩy mạnh về xây dựng đạo đức cách
mạng cho đội ngủ cán bộ, Đảng viên Đảng bộ xã Bình Định Bắc trong thời gian
đến.

HVTT: Nguyễn Đức Thái

Trang

2


 Bài thu hoạch

GVHD: Nguyễn Văn Lĩnh

PHẦN NỘI DUNG
Chương I: Khái quát nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về

đạo đức cách mạng.
I. Vị trí vai trò của đạo đức cách mạng:
1. Khái niệm đạo đức cách mạng:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng là hệ thống những quan
điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là
kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều
kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị tốt đẹp của dân tộc, tiếp
thu tinh hoa văn hóa của nhân loại. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, giải phóng con người về độc lập dân tộc, gắn liền với chủ nghĩa
xã hội, … Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta
giành thắng lợi là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta.
Hồ Chí Minh xây dựng nền đạo đức cách mạng với hai nội dung cơ bản
sau:
- Một là: Xây dựng hệ thống chuẩn mực của nền đạo đức mới. Tổng hợp
những đạo đức đó thành phẩm chất đạo đức của mỗi cá nhân, tập thể, …
- Hai là: Xây dựng những nguyên tắc trong việc tu dưỡng, rèn luyện đạo
đức mới.
Hai nội dung này nhằm mục đích phát triển con người một cách toàn
diện, hướng tới các giá trị cao đẹp: Chân – Thiện – Mỹ.
2. Vị trí vai trò của đạo đức cách mạng:
Theo Hồ Chí Minh, muốn thực hiện thành công sự nghiệp cách mạng xã
hội chủ nghĩa – cuộc cách mạng sâu sắc nhất, triệt để nhất, toàn diện nhất,
chúng ta phải đem hết tinh thần và lực lượng ra phấn đấu; phải tu dưỡng, rèn
luyện đạo đức cách mạng.
Hồ Chí Minh luôn luôn quan tâm đến vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức cách
mạng cho cán bộ, đảng viên. Một trong những bài giảng đầu tiên cho lớp thanh
niên trí thức yêu nước đầu tiên của Việt Nam từ những năm 1920 là bài giảng
về “tư cách của một người cách mạng”. Đến khi viết Di chúc, Người vẫn dành
một phần trang trọng để bàn về vấn đề đạo đức, yêu cầu mỗi đảng viên và cán
bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, Đảng phải quan tâm chăm lo

giáo dục đạo đức cách mạng cho đoàn viên và thanh niên, đào tạo họ thành
những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”.
Hồ Chí Minh xem xét đạo đức trên cả hai phương diện lý luận và thực
tiễn. Về mặt lý luận, Người để lại cho chúng ta một hệ thống quan điểm sâu sắc
và toàn diện về đạo đức. Về thực tiễn, Người luôn coi thực hành đạo đức là một
mặt không thể thiếu của cán bộ, đảng viên. Cũng như Lênin, Hồ Chí Minh đào
HVTT: Nguyễn Đức Thái

Trang

3


 Bài thu hoạch

GVHD: Nguyễn Văn Lĩnh

tạo các chiến sĩ cách mạng không chỉ bằng chiến lược, sách lược mà còn bằng
chính tấm gương đạo đức trong sáng của mình.
Khi đánh giá vai trò của đạo đức cách mạng, Hồ Chí Minh coi đạo đức là
nền tảng của người cách mạng, cũng giống như gốc của cây, ngọn nguồn của
sông suối. Người viết: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có
nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách
mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh
đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người
là một công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự
mình đã hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc gì”. Người so sánh: “Làm cách
mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang,
nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp,
lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách

mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ
cách mạng vẻ vang”.
Đạo đức là gốc, là nền tảng vì liên quan tới Đảng cầm quyền. Hồ Chí
Minh trăn trở với nguy cơ của Đảng cầm quyền, đó là sự sai lầm về đường lối
và suy thoái về đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên. Đảng cầm quyền,
lãnh đạo toàn xã hội, lãnh đạo Nhà nước, nếu cán bộ, đảng viên của Đảng
không tu dưỡng về đạo đức cách mạng thì mặt trái của quyền lực có thể làm tha
hóa con người. Vì vậy, Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng phải “là đạo đức, là văn
minh”. Người thường nhắc lại ý của Lênin: Đảng Cộng sản phải tiêu biểu cho
trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và thời đại. Người nói, cán bộ, đảng
viên muốn cho dân tin, dân yêu, dân phục thì không phải “viết lên trán chữ
cộng sản là được quần chúng yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người
có tư cách đạo đức”.
Vai trò của đạo đức cách mạng còn thể hiện ở chỗ đó là thước đo lòng
cao thượng của con người. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, mỗi người có
công việc, tài năng, vị trí khác nhau, người làm việc to, người làm việc nhỏ,
nhưng ai giữ được đạo đức cách mạng đều là người cao thượng.
Có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn gian khổ, thất bại cũng
không lùi bước, chán nản…; khi gặp thuận lợi và thành công cũng vẫn giữ tinh
thần khiêm tốn, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”, không kèn cựa về mặt
hưởng thụ, không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, ...
Đạo đức là cái gốc của người cách mạng, nhưng phải nhận thức đức và
tài có mối quan hệ mật thiết với nhau. Có đức phải có tài, nếu không sẽ không
mang lại lợi ích gì mà còn có hại cho dân. Mặt khác, phải thấy trong đức có tài.
Tài càng lớn thì đức phải càng cao, vì đức – tài là nhằm phục vụ nhân dân và
đưa cách mạng đến thắng lợi.

HVTT: Nguyễn Đức Thái

Trang


4


 Bài thu hoạch

GVHD: Nguyễn Văn Lĩnh

II. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng:
1. Những phẩm chất đạo đức cần phải thường xuyên phấn đấu tu
dưỡng rèn luyện của mỗi người, trước hết là cán bộ, Đảng viên.
Đi sâu nghiên cứu di sản tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh, chúng ta thấy
Bác có những lời dặn dò về những chuẩn mực đạo đức cụ thể cho từng đối
tượng, từ cán bộ, đảng viên, nông dân, trí thức, công an, bộ đội, cho đến văn
nghệ sĩ, nhà báo, thanh niên, thiếu niên. Ở đây, chúng ta đi sâu nghiên cứu
những chuẩn mực của nền đạo đức cách mạng, mà Bác Hồ yêu cầu cán bộ,
đảng viên phải xây dựng:
1.1. Trung với nước, hiếu với dân:
Xét về mối quan hệ của đạo đức thì Bác Hồ đặt ưu tiên hàng đầu cho mối
quan hệ giữa dân với nước, giữa nhân dân với tổ quốc. Đây là mối quan hệ chi
phối tất cả các mối quan hệ khác. Chính vì vậy, Bác Hồ đặt phẩm chất trung với
nước, hiếu với dân là phẩm chất hàng đầu của người đảng viên. Trung hiếu là
khái niệm thuộc đạo đức truyền thống nhưng được Bác Hồ vận dụng theo quan
điểm mới phù hợp với hoàn cảnh mới của lịch sử.
Theo quan điểm Bác Hồ, “trung với nước, hiếu với dân” có mối quan hệ
gắn bó chặt chẽ với nhau. Vì “dân là dân của nước, nước là nước của dân”.
Nghĩa là nhân dân là chủ của đất nước. Còn theo quan điểm của đạo đức phong
kiến, coi nước là của vua, vua là người quyết định tất cả, còn dân chỉ có nhiệm
vụ làm tôi trung theo quan điểm “Quân xử thần tử thần bất tử bất trung” (Vua
xử tôi phải chết thì tôi phải chết, không tuân theo lệnh vua là tôi không trung

thành). Rõ ràng, quan điểm của Bác hoàn toàn khác hẳn với quan niệm của đạo
đức phong kiến. Bác Hồ chỉ rõ: “Trung là trung với tổ quốc, hiếu là hiếu với
nhân dân”. Và cũng chính Người là biểu tượng cao đẹp thể hiện phẩm chất này.
Suốt cuộc đời vì dân, vì nước. Đến khi chuẩn bị vĩnh biệt thế giới này Bác cũng
tính toán sao cho khỏi tốn kém thì giờ và tiền bạc của nhân dân đối với việc
riêng của mình. Bác khẳng định: “Bất kỳ bao giờ, bất kỳ ở đâu, tôi cũng chỉ
theo đuổi một mục đích là làm cho ích nước, lợi dân”.
Còn “hiếu với dân” được Bác cụ thể hóa bằng chủ trương “Đảng và
Chính phủ là đày tớ của nhân dân”, “chính quyền phải có trách nhiệm lo cho
dân: Làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho
dân có học hành”. Bác còn chỉ rõ: “Chính sách của Đảng và Chính phủ phải
hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính
phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt, Đảng và
chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng ta và Chính phủ có lỗi. Vì vậy, cán bộ
Đảng và chính quyền từ trên xuống dưới, đều phải hết sức quan tâm đến đời
sống của nhân dân”. Bác dạy rằng cán bộ các cấp đều là “công bộc của dân,
nghĩa là gánh vác việc chung cho dân”. Và “việc gì có lợi cho dân ta phải hết
sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”. Phẩm chất trung với nước,
hiếu với dân được coi là hạt nhân cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh.
HVTT: Nguyễn Đức Thái

Trang

5


 Bài thu hoạch

GVHD: Nguyễn Văn Lĩnh


1.2. Yêu thương và giúp đỡ con người, sống có tình có nghĩa:
Qua nghiên cứu, chúng ta thấy rằng Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát huy
truyền thống nhân ái, nhân nghĩa của dân tộc kết hợp với chủ nghĩa nhân văn
của nhân loại mà đỉnh cao là chủ nghĩa nhân văn cộng sản chủ nghĩa. Bác Hồ
đã xác định phẩm chất yêu thương, quý trọng con người là một trong những
phẩm chất, chuẩn mực đạo đức cách mạng cao đẹp nhất của người đảng viên.
Lòng yêu thương con người của Bác Hồ trước hết là dành cho đại đa số
nhân dân lao động, người nghèo khổ, bị áp bức, bóc lột trên hành tinh chúng ta.
Tình yêu thương con người của Bác thật bao la. Tình yêu thương con người đối
với đồng bào mình, Bác Hồ chỉ có một ham muốn duy nhất là: “Tôi chỉ có một
ham muốn duy nhất, ham muốn tột bật là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc
lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng
được học hành”. Đối với Bác Hồ, cả cuộc đời chỉ vì dân, vì nước không có gì
lớn lao và quý báu hơn dân với nước. Thương yêu dân tộc mình, thương yêu
con người. Bác từng nói: “Cả đời tôi chỉ có một mục đích là phấn đấu cho
quyền lợi của tổ quốc và hạnh phúc của quốc dân. Những khi tôi phải ẩn nấp
nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo, là vì mục đích
đó”.
Tấm lòng yêu thương con người của Bác Hồ còn được thể hiện rõ trong
quan hệ đồng chí, đồng đội, anh em. Nhưng đối với bản thân mình Bác đòi hỏi
phải nghiêm khắc, nhưng đối với bạn bè, đồng chí phải rộng rãi, đòi hỏi tất cả
mọi người phải có sự tôn trọng con người, tôn trọng lẫn nhau. Đối với cán bộ,
đảng viên, Bác dạy học chủ nghĩa Mác-Lênin là để thương yêu nhau hơn. Bác
nói: “Học chủ nghĩa Mác-Lênin là để sống với nhau cho có nghĩa, có tình”.
Đối với Bác chỉ có nâng con người lên, chứ không cho phép hạ thấp, vùi dập
con người xuống, dù cho họ có khuyết điểm, thiếu sót. Vì vậy, phải thực hiện tự
phê bình và phê bình nhằm nâng cao điểm tích cực, hạn chế những tiêu cực để
mỗi người, ngày càng tốt hơn, có ích hơn cho Đảng, cho đất nước. Và Bác
khuyên mọi người, trong tự phê bình phải thẳng thắn, chân thành để giúp đỡ lẫn
nhau cùng tiến bộ. Bác dạy “Ở đời ai cũng có chỗ tốt, chỗ xấu. Ta phải khéo

nâng cao chỗ tốt, khéo sửa chữa chỗ xấu cho họ”. Đối với Đảng, Bác đòi hỏi
“Đảng phải thương yêu cán bộ, nhưng thương yêu không phải vỗ về, nuông
chiều, thả mặc. Thương yêu là giúp cho họ học tập thêm, tiến bộ thêm”.
Tình thương yêu con người, thương yêu nhân dân của Bác càng thể hiện
rõ hơn trong Di chúc của Bác. Trong Di chúc, Bác căn dặn Đảng và Chính phủ
thực hiện công việc đầu tiên trong hàn gắn vết thương sau chiến tranh là “Đầu
tiên là công việc đối với con người”. Đầu tiên là đối với cán bộ, binh sỹ, dân
quân, du kích, thanh niên xung phong; đối với các liệt sĩ; với cha, mẹ, vợ, con
thương binh, liệt sĩ; với phụ nữ, nông dân…. cuối cùng là những nạn nhân của
chế độ cũ… Bác không bỏ xót đối tượng nào cả, thể hiện một tấm lòng thương
yêu đối với tất cả mọi người.
HVTT: Nguyễn Đức Thái

Trang

6


 Bài thu hoạch

GVHD: Nguyễn Văn Lĩnh

1.3. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư:
Đức tính “cần, kiệm, liêm, chính” theo Hồ Chí Minh là nền tảng của đời
sống mới, là phẩm chất hàng đầu của đạo đức cách mạng. Đây là những đức
tính mà bản thân mỗi cán bộ, đảng viên lấy đó để điều chỉnh, soi rọi, thực hiện
trong mọi hoạt động. Cần kiệm, liêm, chính - cũng là phẩm chất của đạo đức
truyền thống, nhưng được Bác Hồ đưa vào những nội dung theo yêu cầu mới,
khác cơ bản về đối tượng thực hiện. Trong chế độ phong kiến cũng nêu những
khái niệm cần, kiệm, liêm, chính, nhưng họ bắt nhân dân thực hiện để phục vụ

cho quyền lợi của họ, chứ giai cấp phong kiến không bao giờ thực hiện. Còn đối
với Bác Hồ, đề ra cần, kiệm, liêm, chính là bắt buộc cán bộ, đảng viên phải làm
gương thực hiện để nhân dân noi theo, đem lợi ích cho dân, cho nước.
Tháng 3-1947, do nhu cầu “kháng chiến, kiến quốc” Bác kêu gọi thi đua
xây dựng “đời sống mới là cần, kiệm, liêm, chính” và giải thích rất rõ, dễ hiểu.
Tháng 6-1949, để tiếp tục răn dạy cán bộ về đạo đức, Bác viết tác phẩm “Cần,
kiệm, liêm, chính”. Bác coi bốn đức tính “cần, kiệm, liêm, chính” là những đức
tính của người cán bộ cách mạng, như trời có bốn mùa, đất có bốn phương. Bác
viết:
“Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông.
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc.
Người có bốn đức: Cần, kiệm. liêm, chính.
Thiếu một mùa thì không thành trời.
Thiếu một phương thì không thành đất.
Thiếu một đức thì không thành người".
Sau đó, Bác còn viết bốn bài báo đăng trên báo Cứu quốc giải thích
rõ nội hàm bốn đức tính này.
+ Trước hết, nói về cần: “Cần - làm việc phải đến đúng giờ, chớ đến trễ
về sớm. Làm cho chóng, cho chu đáo. Việc ngày nào nên làm xong ngày ấy, chớ
để ngày mai. Phải nhớ rằng: Dân đã lấy tiền mồ hôi, nước mắt để trả lương
cho ta trong những thì giờ đó. Ai lười biếng tức là lừa gạt dân.” Bác yêu cầu
mọi người phải cần, cả nước phải cần, Bác viết:
“Người siêng năng thì mau tiến bộ.
Cả nhà siêng năng thì chắc ấm no.
Cả làng siêng năng thì làng phồn thịnh.
Cả nước siêng năng thì nước mạnh giàu.”
Tóm lại, cần là luôn luôn cố gắng, luôn luôn chăm chỉ, cả năm, cả đời.
Phải thấy rõ “lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh
phúc của mỗi chúng ta”. Nhưng không phải quá trớn, phải biết nuôi dưỡng tinh
HVTT: Nguyễn Đức Thái


Trang

7


 Bài thu hoạch

GVHD: Nguyễn Văn Lĩnh

thần và sức lực để làm việc cho lâu dài. Bác cho rằng “lười biếng là kẻ địch
của cần”, vì vậy, lười biếng cũng là kẻ địch của dân tộc.
+ Nói về Kiệm: Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ của dân,
của nước, của bản thân mình; tiết kiệm từ cái to, tới cái nhỏ. Kiệm là không xa
xỉ, không lãng phí, không bừa bãi.
Cần, kiệm là phẩm chất của mọi người lao động trong đời sống trong
công tác. Cần và kiệm phải đi đôi với nhau, như hai chân của con người.
Cần mà không Kiệm, “thì làm chừng nào xào chừng ấy” cũng như cái
thùng không có đáy, nước đổ vào chừng nào chảy ra hết chừng ấy, không lại
hoàn không.
Bác yêu cầu “phải lãnh đạo tổ chức, giáo dục nhân dân tăng gia sản
xuất và tiết kiệm”. Vì “dân đủ ăn, đủ mặt thì những chính sách của Đảng và
Chính phủ đưa ra sẽ đễ dàng thực hiện. Nếu dân đói, dốt, bệnh thì chính sách
của ta dù có hay mấy cũng không thực hiện được”.
Cho nên, Kiệm mà không Cần, thì không tăng thêm, không phát triển
được. Mà vật gì không tiến tức là thoái.
Nhưng tiết kiệm không phải là bủn xỉn, không phải “xem đồng tiền bằng
cái nống” gặp việc đáng làm cũng không làm, đáng tiêu cũng không tiêu. Tiết
kiệm không phải ép bộ đội, nhân dân nhịn ăn, nhịn mặc; nhưng khi không nên
tiêu xài thì một đồng xu cũng không nên tiêu. Khi có việc đáng làm, việc ích lợi

cho đồng bào, cho tổ quốc, thì bao nhiêu công, tốn bao nhiêu của, cũng vui
lòng. Như thế mới là kiệm. Việc đáng tiêu mà không tiêu là bủn xỉn, chứ không
phải là kiệm. Tiết kiệm phải kiên quyết không xa xỉ. Việc đáng làm trong một
giờ mà kéo dài hai, ba giờ là xa xỉ. Cán bộ, đảng viên ăn sang, mặc đẹp trong
lúc đồng bào còn nghèo, thiếu cơm, thiếu áo là xa xỉ. Vì vậy, xa xỉ là có tội với
tổ quốc, với đồng bào.
+ Nói về “liêm”, Bác viết: “Những người ở các công sở từ làng cho đến
Chính phủ trung ương đều tìm dịp phát tài, hoặc xoay tiền của Chính phủ hoặc
khoét đục của nhân dân. Đến khi lộ ra, bị phạt thì mất hết cả danh giá mà của
phi nghĩa đó cũng không được hưởng. Vậy những người trong công sở phải lấy
liêm làm đầu”.
“Liêm là trong sạch, không tham lam, luôn tôn trọng, giữ gìn của công
và của dân, không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của nhà nước, của nhân
dân, không tham địa vị, không tham tiền tài, không tham tâng bốc mình”.
Trong các bài viết khác, Bác viết: “Chữ liêm phải đi đôi với chữ kiệm,
cũng như chữ kiệm phải đi đôi với chữ cần. Có liệm mới liêm được”. Và Bác
dẫn lời Khổng Tử nói: “Người mà không liêm, không bằng súc vật”. Cụ Mạnh
Tử nói: “Ai cũng tham lợi thì nước sẽ nguy”.
+ Nói về chính, Bác viết: “Một người phải cần, kiệm, nhưng còn phải
chính mới là người hoàn toàn. Trên quả đất có hàng muôn triệu người sống, số
HVTT: Nguyễn Đức Thái

Trang

8


 Bài thu hoạch

GVHD: Nguyễn Văn Lĩnh


người ấy có thể chia thành hai hạng: Người thiện và người ác. Trong xã hội,
tuy có trăm công, nghìn việc, song, những công việc ấy có thể chia làm hai thứ:
việc chính và việc tà”.
Làm việc chính, là người thiện.
Làm việc tà, là người ác.
Siêng năng (cần), tiết kiệm (kiệm), trong sạch (liêm), chính là thiện; còn
lười biếng, xa xỉ, tham lam là ác, là tà.
Bác còn dặn: “Mình là người làm việc cần phải có công tâm, công đức.
Chớ đem của công dùng vào việc tư. Chớ đem người tư làm việc công. Việc gì
cũng phải công minh, chính trực, không nên vì tư ân, tư huệ hay tư thù, tư oán.
Mình có quyền dùng người thì phải dùng những người có tài năng, làm được
việc. Chớ vì bà con, bầu bạn mà bố họ vào chức nọ, chức kia. Chớ vì sợ mất
lòng mà dìm những kẻ có tài hơn mình. Phải trung thành với Chính phủ, với
đồng bào. Chớ lên mặt làm quan cách mạng”.
Chính còn có nghĩa là ngay thẳng, không tà, là đúng đắn, chính trực. Đối
với mình không tự cao, tự đại; đối với người không nịnh trên, khinh dưới,
không dối trá, lừa lọc, luôn giữ thái độ chân thành khiêm tốn, đoàn kết. Đối với
việc thì để công lên trên lên trước việc tư. Được giao nhiệm vụ gì quyết làm cho
kỳ được “việc thiện dù nhỏ mấy cũng làm, việc ác thì dù nhỏ mấy cũng phải
tránh”. Theo Bác Hồ thì, cần, kiệm, liêm, chính là những đức tính không thể
thiếu đối với cán bộ, đảng viên. Bởi vì “cán bộ các cơ quan, đoàn thể; cấp cao
thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương
tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút”. “Những người trong các công sở
đều có nhiều hoặc ít quyền hành. Nếu không giữ được cần, kiệm, liêm, chính thì
dễ trở nên tai hại, biến thành sâu mọt của dân”. Cần, kiệm, liêm, chính là
thước đo văn minh, tiến bộ của một dân tộc. “Một dân tộc biết cần, kiệm, liêm,
chính là một dân tộc văn minh, tiến bộ”.
Người cán bộ giữ được cần, kiệm, liêm, chính là người chí công, vô tư là
chính tâm, thân dân - là người có ý thức phục vụ nhân dân, đặt lợi ích của nhân

dân, của tổ quốc, của Đảng lên trên hết.
+ Chí công vô tư là ham làm những việc ích quốc, lợi dân, không ham
địa vị, không màng công danh, vinh hoa phú quý; “phải lo trước thiên hạ, vui
sau thiên hạ” (tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc).
Thực hành chí công vô tư là nêu cao chủ nghĩa tập thể, nâng cao đạo đức
cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân chỉ biết đến mình,
muốn “mọi người vì mình”. Nó là giặc nội xâm, còn nguy hiểm hơn cả giặc
ngoại xâm.
Hồ Chí Minh viết: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm
qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay vẫn được mọi

HVTT: Nguyễn Đức Thái

Trang

9


 Bài thu hoạch

GVHD: Nguyễn Văn Lĩnh

người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ
nghĩa cá nhân”. Người cũng phân biệt lợi ích cá nhân và chủ nghĩa cá nhân.
Chí công vô tư là tính tốt có thể gồm 5 điều: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm.
Bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là để người
cách mạng vững vàng qua mọi thử thách: “Giàu sang không quyến rũ, nghèo
khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục”.
1.4. Tinh thần quốc tế cộng sản:
Chủ nghĩa quốc tế là một trong những phẩm chất quan trọng nhất của đạo

đức cộng sản chủ nghĩa. Nó được bắt nguồn từ bản chất của giai cấp công nhân.
Nội dung của chủ nghĩa quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất rộng lớn
và sâu sắc. Đó là sự tôn trọng, hiểu biết, thương yêu và đoàn kết với giai cấp vô
sản toàn thế giới, với tất cả các dân tộc và nhân dân các nước, với những người
tiến bộ trên toàn cầu, chống lại mọi sự chia rẽ, hằn thù, bất bình đẳng và phân
biệt chủng tộc; chống chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, sô vanh, chủ nghĩa bành
trướng, bá quyền.
Người khẳng định: “Bốn phương vô sản đều là anh em”; giúp bạn là tự
giúp mình; thắng lợi của mình cũng là thắng lợi của nhân dân thế giới.
Người đã góp phần to lớn, tạo ra một kiểu quan hệ quốc tế mới: đối thoại
thay cho đối đầu, kiến tạo một nền văn hoá hoà bình cho nhân loại.
2. Các nguyên tắc cơ bản trong xây dựng đạo đức cách mạng:
2.1. Tu dương đạo đức bền bỉ, suốt đời chủ yếu trong thực tiễn cách
mạng:
Một nền đạo đức mới chỉ có thể xây dựng được trên cơ sở sự tự giác tu
dưỡng đạo đức của mỗi người.
Theo Hồ Chí Minh, đã là người thi ai cũng có chỗ hay, chỗ dỡ, chỗ tốt,
chỗ xấu, ai cũng có thiện, có ác trong mình. Vấn đề là dám nhìn thẳng vào
mình, thấy rõ cái hay, cái tốt, cái thiện để phát huy, thấy cái xấu, cái dỡ để mà
quyết tâm khắc phục, không tự lừ dối, huyễn hoặc.
Đối với mỗi người, việc tu dưỡng đạo đức phải thực hiện trong mọi hoạt
động thực tiễn, trong mọi quan hệ xã hội, phải chăm lo tu dưỡng đạo đức như
việc rửa mặt hàng ngày. Phải làm kiên trì, bền bỉ, suốt đời. Bởi vì: “Đạo đức
cách mạng không phải trên trời sa xuống, nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ
hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng
càng luyện càng trong”.
2.2. Nói đi đôi với làm, nêu gương đạo đức mới:
+ Nói đi đôi với làm được Hồ Chí Minh coi là nguyên tắc quan trọng bậc
nhất trong xây dựng một nền đạo đức mới.
Đối với mỗi người, lời nói phải đi đôi với việc làm thì mới đem lại hiệu

quả thiết thực cho chính bản thân và có tác dụng đối với người khác.
HVTT: Nguyễn Đức Thái
Trang 10


 Bài thu hoạch

GVHD: Nguyễn Văn Lĩnh

Nếu nói nhiều, làm ít, nói mà không làm, hơn nữa nói một đằng, làm một
nẻo thì chỉ đem lại hiệu quả phản tác dụng mà thôi. Nói mà không làm gọi là
đạo đức giả.
+ Nêu gương đạo đức là một nét đẹp trong truyền thống phương đông,
Hồ Chí Minh khẳng định: “Nói chung thì các dân tộc phương Đông giàu tình
cảm, và đối với họ một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài tuyên
truyền”. Nói đi đôi với làm phải gắn với nêu gương, Hồ Chí Minh cho rằng,
trong việc xây dựng một nền tản đạo đức mới, đạo đức cách mạng phải đặc biệt
chú trọng đạo làm gương. “Lấy gương người tốt việc tốt để hằng ngày giáo dục
lẫn nhau là một cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách
mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới”. Phải luôn chú ý, phát hiện,
xây dựng những điển hình người tốt, việc tốt trong mọi lĩnh vực của đời sống.
Nêu gương về đạo đức phải diễn ra mọi lúc mọi nơi. Trong gia đình, đó
là tấm gương của bố mẹ đối với con cái, của anh chị đối với các em, của ông bà
đối với con cháu; Trong nhà trương, đó là tấm gương của thầy cô đối với học
sinh; Trong tổ chức, tập thể là tấm gương của người lãnh đạo, của cấp trên đối
với cấp dưới; Trong xã hội, là tấm gương của người này đối với người kia, của
thế hệ trước đối với thế hệ sau,…
2.3. Xây dựng nền đạo đức mới phải luôn đấu tranh với những hiện
tượng phi đạo đức, nhất là chống chủ nghĩa cá nhân:
Nghĩa là đồng thời với việc giáo dục, xây dựng, rèn luyện đạo đức cách

mạng phải đi đôi với đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chống những hành vi
phi đạo đức.
Xây dựng đạo đức mới là phải giáo dục những phẩm chất, những chuẩn
mực đạo đức mới cho con người Việt Nam trong thời đại mới theo tư tưởng Hồ
Chí Minh, từ gia đình, nhà trường, đến xã hội. Phải khơi dậy ý thức đạo đức
lành mạnh ở mọi người. Bên cạnh đó, phải không ngừng chống lại những cái
xấu, cái sai, cái vô đạo đức. Xây đi đôi với chống, muốn chống phải xây, chống
nhằm mục đích xây.
Để xây và chống có kết quả phải tạo thành phong trào quần chúng rộng
rãi đấu tranh cho sự trong sạch, lành mạnh về đạo đức, phải kiên quyết loại trừ
chủ nghĩa cá nhân.

HVTT: Nguyễn Đức Thái

Trang 11


 Bài thu hoạch

GVHD: Nguyễn Văn Lĩnh

Chương III. Thực tế việc vận dụng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
trong xây dựng đạo đức cách mạng của cán bộ, Đảng viên Đảng bộ xã Bình
Định Bắc từ năm 2007 - 2010.
I. Khái quát chung về Đảng bộ xã Bình Định Bắc.
1. Đặc điểm về loại hình hệ thống tổ chức hoạt động của Đảng bộ xã
Bình Định Bắc.
Đảng bộ xã Bình Định Bắc được chia tách năm 2007 từ Đảng bộ xã Bình
Định (cũ), cách trung tâm Huyện Thăng Bình 10Km về hướng tây theo đường
Quốc lộ 14E, là căn cứ địa cách mạng của hai cuộc kháng chiến chống Pháp và

chống Mỹ gắn với tên là Phật Viện Đồng Dương, được công nhận là di sản văn
hóa cấp Quốc gia năm 2010.
Sau khi chia tách Đảng bộ và nhân dân xã nhà gặp không ít khó khăn,
thách thức, là một xã thuần nông sản xuất nông nghiệp chủ yếu dựa hoàn toàn
vào nước trời là chính (Diện tích đất tự nhiên 1.456 ha, trong đó diện tích canh
tác 421 ha; dân số 1.271 hộ với 5260 khẩu), đời sống nhân dân vất vả trăm bề.
Trước tình hình đó, Đảng bộ đã lãnh đạo nhân dân vận dụng đúng đắn đường
lối của Đảng, tranh thủ sự đầu tư và quan tâm của cấp trên, phát huy tinh thần
tự chủ, linh hoạt, năng động, tự lực tự cường vượt qua khó khăn, thách thức.
Xây dựng mối quan hệ đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Đảng bộ và nhân dân
xã Bình Định Bắc đã và đang phát huy mạnh mẽ mọi tiềm năng, thế mạnh của
địa phương, tiếp tục xây dựng quê hương trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh.
Về vị trí đại lý:
+ Phía Đông giáp với xã Bình Quý huyện Thăng Bình.
+ Phía Nam giáp với xã Bình Định Nam huyện Thăng Bình.
+ Phía Tây giáp với xã Bình Trị huyện Thăng Bình.
+ Phía Bắc giáp với huyện Quế Sơn.
Hiện nay Đảng bộ có 10 chi bộ trực thuộc. Trong đó có: 05 chi bộ Thôn,
03 chi bộ Trường, 01 chi bộ cơ quan và 01 chi bộ Quân Sự. Tổng số Đảng viên
trong Đảng bộ là 98.
Đại hội Đảng bộ xã Bình Định Bắc khóa XIII diễn ra ngày 08 – 09 tháng
6 năm 2010 đã bầu ra Ban chấp hành Đảng bộ gồm 12 đồng chí. Ban chấp hành
đã họp phiên họp đầu tiên và bầu ra Ban thường vụ gồm có 03 đồng chí:
1. Đ/c: Nguyễn Thanh Phong

- Bí thư Đảng bộ

2. Đ/c: Trương Văn Việt


- Phó bí thư – Chủ tịch UBND

3. Đ/c: Trà Tấn Túc

- Phó bí thư thường trực.

HVTT: Nguyễn Đức Thái

Trang 12


 Bài thu hoạch

GVHD: Nguyễn Văn Lĩnh

2. Trình độ của đội ngủ cán bộ, Đảng viên:
Trong những năm qua, song song với việc tập trung lãnh đạo phát triển
kinh tế - văn hóa – xã hôi, Đảng bộ xã luôn luôn coi trọng công tác quy hoạch,
đào tạo, bồi dưỡng đội ngủ cán bộ, Đảng viên. Trình độ hiện nay của Đảng viên
trong Đảng bộ như sau:
Chuyên môn, nghiệp vụ

Lý luận chính trị

Phổ
thông

TC




ĐH

SC

TC

CC

A

B

A

B

Số
lượng

66

31

28

23

98


25

01

37

22

37

22

Tỉ lệ
%

67,3

TT

Ngoại ngữ

Tin học

31,6 28,6 23,5 100 25,5 1,02 37,8 22,5 37,8 22,5

II. Quá trình vận dụng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong việc xây
dựng đạo đức cách mạng cho đội ngủ cán bộ, Đảng viên Đảng bộ xã Bình
Định Bắc.
1. Các căn cứ:

- Chỉ thị số 06-CT/BCT ngày 07 tháng 11 năm 2006 của Bộ chính trị về
cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
- Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 BCH TW Đảng Khoá X .
- Chỉ Thị 10-CT/TW ngày 30-3-2007 của Ban Bí thư về nâng cao chất
lượng sinh hoạt chi bộ.
- Hướng dẫn số 25-HD/BCĐ ngày 04/12/2009 của Ban chỉ đạo 06 tỉnh uỷ
Quảng Nam, và Hướng dẫn số 03-HD/BCĐ ngày 24/12/2009 của Ban chỉ đạo
06 Huyện Thăng Bình.
Các Nghị quyết, chương trình hành động, các văn bản hướng dẫn của
Trung ương, Tĩnh, Huyện.
2. Quá trình tổ chức triển khai thực hiện:
2.1. Về tổ chức:
Sau khi nhận được chỉ thị 06 của TW và kế hoạch triển khai học tập trong
cán bộ, Đảng viên, công chức và nhân dân của BCĐ 06 Huyện Thăng Bình,
Đảng uỷ xã Bình Định Bắc đã nghiên cứu quán triệt, các chi uỷ - chi bộ tổ chức
lấy ý kiến nhân dân tham gia cho cán bộ Đảng viên (Kể cả Đảng viên, cán bộ
các cơ quan đơn vị đang cư trú trên địa bàn). Từ đó đã tạo được được sự chuyển
biến mạnh mẽ về ý thức tự tu dưỡng, rèn luyện và làm theo tấm gương đạo đức
HVTT: Nguyễn Đức Thái

Trang 13


 Bài thu hoạch

GVHD: Nguyễn Văn Lĩnh

Hồ Chí Minh, đặc biệt là trong cán bộ, Đảng viên, công chức, viên chức đã
nâng cao được nhận thức về bài học. Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch
chủ nghĩa cá nhân, thực hiện: Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, đẩy lùi sự

suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống và các tệ nạn xã hội.
Hằng năm (2007-2010) Đảng bộ đã tổ chức cho toàn Đảng bộ học tập tư
tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Qua đó Cuộc vận động không những
tác dụng trên chuyển biến về nhận thức trong lĩnh vực hành vi đạo đức mà còn
tác dụng toàn diện, thúc đẩy sự nghiệp phát triển của xã nhà đi nhanh hơn, theo
hướng văn minh, hiện đại.
Bên cạnh đó, tháng 6 năm 2007 Đảng bộ đã tổ chức hội thi kể chuyện về
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh được đông đảo cán bộ, Đảng viên, Viên chức
và nhân dân tham gia.
2.2. Về cá nhân cán bộ, Đảng viên:
Cuộc vận động đã tạo ra được sự chuyển biến về nhiều mặt, từng Cán bộ,
Đảng viên, Công chức và người dân phải nhận thức sâu sắc hơn về tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh, coi việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh là một trong những biện pháp quan trọng góp phần đẩy lùi sự suy thoái về
chính trị, đạo đức lối sống trong Cán bộ, Đảng viên, Công chức, Viên chức và
toàn dân. Đây là biện pháp tốt nhất nâng cao năng lực lãnh đạo sức chiến đấu
của Đảng, xây dựng bản lĩnh và nhân cách cho từng người, góp phần xây dựng
nền tảng đạo đức xã hội ngày càng vững chắc và có tác dụng giáo dục sâu xa
đến mọi thế hệ.
Qua nghiên cứu học tập các yêu cầu đề ra về tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh trong Cán bộ, Đảng viên, Công chức đã có sự chuyển biến bước đầu về
nhận thức tư tưởng, về ý thức rèn luyện đạo đức, lối sống. Đa số cán bộ, Đảng
viên nhận thức rõ đựợc tầm quan trọng của việc học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh, từ đó từng cán bộ, Đảng viên áp dụng vào công việc cụ
thể của mình.
III. Kết quả vận dụng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong việc xây
dựng đạo đức cách mạng cho đội ngủ cán bộ, Đảng viên Đảng bộ xã Bình
Định Bắc.
Cùng với việc triển khai các chuyên đề về tấm gương đạo đức Hồ Chí
minh, BCĐ 06 của xã đã xây dựng kế hoạch và tổ chức hội thi kể chuyện về

“Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Hội thi kể chuyện về “Tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh” còn là một hình thức tuyên truyền có hiệu quả về đạo đức
của người dân, góp phần làm toả sáng nhân cách Hồ Chí Minh để mọi người
làm theo.
Hội thi kể chuyện về “Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” được tiến hành
trong tháng 6/2007 gồm có 5/6 chi bộ tham gia; với 5 thí sinh và có gần 100
Cán bộ, Đảng viên, Công chức, Viên chức đến nghe và cổ vũ cho hội thi.
HVTT: Nguyễn Đức Thái

Trang 14


 Bài thu hoạch

GVHD: Nguyễn Văn Lĩnh

Kết thúc hội thi, BTC hội thi đã trao một giải nhất, một giải nhì, một giải
ba và hai giải khuyến khích.
Giải nhất: Cô Nguyễn Thị Mai - Giáo Viên Trường THCS Nguyễn Duy
Hiệu.
Và một số gương điển hình tiên tiến như:
Đ/c: Lưu Ba - Bí thư chi bộ thôn Xuân Thái Đông
Đ/c: Trương Văn Việt

- Bí thư chi bộ cơ quan

* Kết quả lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị, công tác xây dựng
Đảng trong thời gian qua:
- Về kinh tế: Có những bước chuyển biến tích cực, tỉ lệ hộ nghèo giảm
từ 48% năm 2007 xuống 27% năm 2010.

Công tác xây dựng cơ bản trong 4 năm đã xây dựng mới 9 km giao
thông, 26 km bê tông giao thông nông thôn, cấp phối 1 km đá dăm, hoàn thành
chợ Bình Định Bắc với tổng kinh phí 800 triệu đồng.
- Văn hoá xã hội: Tiếp tục thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết
xây dựng đời sống văn hoa sở khu dân cư”, gắn với việc xây dựng thôn văn
hoá, gia đình văn hoá, hiện nay tỉ lệ đạt gia đình văn hoá 85% tăng 18% so với
năm 2007.
- An ninh - Quốc phòng: Tình hình an ninh chính trị được giữ vững,
TTAT xã hội cơ bản được ổn định. Trong 4 năm có xảy ra 1 số vụ mang tính
chất nghiêm trọng nhưng đã được giải quyết kịp thời, dứt điểm.
Công tác quân sự địa phương luôn được chú trọng, công tác khám tuyển
quân hằng năm luôn đạt và vượt chỉ tiêu.
- Công tác xây dựng củng cố chính quyền: Luôn được chú trọng, chất
lượng hoạt động của cả hệ thống chính trị được nâng lên, công tác cải cách thủ
tục hành chính được duy trì thường xuyên, đảm bảo giải quyết kịp thời các đơn
thư tố cáo, khiếu nại của nhân dân.
- Hoạt động của Mặt trận các đoàn thể: Luôn được củng cố và đi vào
hoạt động có hiệu quả, chất lượng sinh hoạt được nâng lên, từng đoàn thể đã
xây dựng quy chế làm việc, xây dựng chương trình hành động và cụ thể hoá
thực hiện.
- Công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng: Thường xuyên được chú trọng,
luôn được quan tâm chất lượng hoạt động của cả hệ thống chính trị. Toàn thể
cán bộ cơ quan xã đảm bảo giờ giấc làm việc có hiệu quả, nhất là bộ phận “Một
cửa” bộ phận tiếp nhận và hoàn trả hồ sơ, công tác giải quyết các thủ tục hành
chính cho nhân dân kể cả ngày thứ 7 được kịp thời nhanh gọn, những việc cần
phải xem xét chờ giải quyết đều có phiếu hẹn đảm bảo thời gian và đúng luật
định.
HVTT: Nguyễn Đức Thái

Trang 15



 Bài thu hoạch

GVHD: Nguyễn Văn Lĩnh

IV. Nhận xét Chung:
1. Những Thành công:
Kịp thời tổ chức các hội nghị triển khai, học tập các Nghị quyết, kết luận
Ban Chấp Hành TW Đảng khoá X, xây dựng chương trình hành động về việc
thực hiện các Nghị quyết.
Từ khi triển khai Chỉ thị 10-CT/TW ngày 30-3-2007 của Ban Bí thư về
nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, hầu hết các chi bộ đều duy trì tốt nền nếp
sinh hoạt định kì, tỷ lệ đảng viên tham gia sinh hoạt tăng lên, hằng năm tỉ lệ
đảng viên tham gian sinh hoạt chi, đảng bộ là trên 90%. Các chi bộ đã xây dựng
và thực hiện quy chế làm việc của cấp ủy - chi bộ, quy định lịch sinh hoạt Chi
bộ định kỳ là 27 hằng tháng, lập và quản lý sổ ghi chép biên bản sinh hoạt chi
bộ.
Trước khi sinh hoạt định kì (hoặc chuyên đề), cấp uỷ Chi bộ hoặc bí thư
chi bộ đều tổ họp hoặc hội ý, dự kiến các nội dung sinh hoạt, bám sát sự chỉ đạo
của cấp ủy cấp trên và những nhiệm vụ cụ thể trong tháng của chi bộ. Nội dung
họp được chuẩn bị kỹ, có ghi vào sổ biên bản họp cấp ủy hoặc sổ tay của bí thư
chi bộ. Nội dung sinh hoạt bảo đảm tính lãnh đạo, tính giáo dục, tính chiến đấu
và thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ, đề cao ý thức kỷ luật,
tinh thần tự phê bình và phê bình.
Nhiều chi bộ thực hiện sinh hoạt theo chuyên đề về triển khai thực hiện
các cuộc vận động như (Xây dựng chỉnh đốn đảng, Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh...), chương trình hành động thực hiện nghị quyết
của cấp trên, phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo… qua đó, nâng cao chất
lượng sinh hoạt chi bộ. Một số chi bộ có cách làm khoa học trong việc lập, quản

lý danh sách đảng viên của chi bộ; quản lý thu, chi đảng phí, đảng viên ghi chép
nội dung sinh hoạt chi bộ điển hình như Chi bộ Cơ Quan, Quân Sự, Trần Cao
Vân, Nguyễn Duy Hiệu, …
Công tác kiểm tra thường xuyên được chú trọng, hoạt động kiểm tra được
tiến hành công khai, dân chủ thống nhất từ trong cấp ủy đến từng đảng viên.
Kết luận dựa trên những chứng cứ rõ ràng, không áp đặt. Kết quả xử lý được
thông báo cụ thể, rộng rãi, không vì lý do nào đó mà chỉ thông báo nội bộ,
thường xuyên kết hợp kiểm tra Đảng với thanh tra Nhà nước, thanh tra các đoàn
thể nhân dân.
2. Những hạn chế:
Bên cạnh những kết quả đạt được vẫn tồn tại một số mặt hạn chế, khuyết
điểm:
HVTT: Nguyễn Đức Thái

Trang 16


 Bài thu hoạch

GVHD: Nguyễn Văn Lĩnh

Một số chi uỷ - chi bộ chưa tập trung chỉ đạo, quán triệt sâu sắc mục đích
yêu cầu, ý nghĩa và tầm quan trọng của cuộc vận động, chưa bám sát sự chỉ đạo
của Đảng uỷ và các văn bản hướng dẫn của cấp trên để đưa vào chi bộ mình
những nội dung sinh hoạt và học tập theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Việc lấy ý kiến quần chúng góp ý cho Cán bộ, Đảng viên chưa đầy đủ,
thiếu tính thống nhất, còn nặng tính thủ tục hành chính.
Một số chi bộ tỷ lệ Đảng viên tham gia học tập chưa cao, chưa thấy hết ý
nghĩa của cuộc vận động cần phải duy trì lâu dài và là trách nhiệm, nhiệm vụ
thường xuyên của cán bộ, Đảng viên là phải học tập tu dưỡng đạo đức suốt đời.

Tác phong, giờ giấc làm việc của cán bộ có chuyển biến, nhưng vẫn còn
hạn chế dẫn đến hiệu quả hoàn thành công việc chưa cao, chưa có chuyển biến
thật sự trong hành động.
Công tác tuyên truyền các Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 BCH TW Đảng
khoá X sâu rộng đến mọi tầng lớp nhân dân trong thời gian qua chưa đồng bộ,
chưa thường xuyên, tuy có sự chuyển biến tích cực song chưa đảm bảo yêu cầu
đề ra.
Việc định kỳ hằng tháng, hằng quý cấp uỷ nghe báo cáo tình hình kiểm
tra, giám sát của chi bộ về thực hiện chương trình hành động 06-CTr/ĐU chưa
được thường xuyên, chưa đầu tư thích đáng cho công tác kiểm tra, giám sát.
Đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra kiêm nhiệm nhiều viêc nên việc
triển khai thực hiện nhiệm vụ ở địa phương còn bất cập.
Một số cấp ủy viên chi bộ năng lực còn han chế, ít được tiếp cân thông
tin, việc lưu trử hồ sơ, sổ sách còn nhiều hạn chế, thiếu khoa học.
V. Nguyên nhân của thành công và hạn chế:
1. Nguyên nhân ưu điểm:
Có sự tập trung lãnh đạo, chỉ đạo của cấp trên mà trực tiếp là BCĐ 06 của
Huyện Thăng Bình.
Sự đồng tình hưởng ứng tích cực của toàn thể Cán bộ, Đảng viên, Công
chức, Viên chức và quần chúng nhân dân, nên hầu hết Cán bộ, Đảng viên, Công
chức, Viên chức đều tập trung học tập nghiêm túc và có diễn biến thật sự trong
hành động.
Nhận thức đầy đủ và thực hiện tốt chương trình, kế hoạch của Đảng ủy
đề ra nên đã góp phần thực hiện tốt các mục tiêu, chỉ tiêu kinh tế - xã hội, xây
dựng Đảng bộ vững mạnh đảm bảo ổn định tình hình an ninh chính trị, trật tự
an toàn xã hội ở địa phương trong thời gian qua.
Công tác tuyên truyền vân động xã hôi luôn được duy trì và tăng cường,
nội dung hình thức tuyên truyền đa dạng, việc tổ chức thực hiện chương trình
hành động của Đảng uỷ kịp thời.
HVTT: Nguyễn Đức Thái


Trang 17


 Bài thu hoạch

GVHD: Nguyễn Văn Lĩnh

2. Nguyên nhân hạn chế, tồn tại:
Công tác truyền thông, giáo dục còn chung chung, chưa chuyên sâu từng
lĩnh vực, chưa rộng khắp đến các đối tượng cụ thể.
Vẫn còn một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân chưa nhận thức sâu
sắt tầm quan trọng của Nghị quyết và chương trình hành động thực hiện Nghị
quyết Đảng.
Một số cấp ủy viên chi bộ năng lực còn hạn chế, ít được tiếp cận thông
tin nên việc tiếp thu kiến thức, chỉ đạo, triển khai, tổ chức thực hiện các Nghị
quyết còn hạn chế, nên việc lưu trử hồ sơ, sổ sách còn nhiều bất cập, thiếu khoa
học.
VI. Những bài học kinh nghiệm rút ra trong quá trình vận dụng:
Sinh hoạt chi bộ có tầm quan trọng đặc biệt. Nếu coi toàn Đảng là một cơ
thể sống thì trong đó chi bộ là tế bào cấu thành tổ chức Đảng, sinh hoạt chi bộ
thường xuyên là “quá trình trao đổi chất trong mỗi tế bào, là dấu hiệu của sự
sống”. Do vậy hễ nơi nào, lúc nào mà sinh hoạt chi bộ bị lỏng lẻo, rời rạc
không có nội dung chính trị tư tưởng cụ thể, thiết thực, thì nơi đó, lúc đó đã bắt
đầu có nguy cơ đi chệch hướng đường lối chính sách của Đảng, hạ thấp vai trò
tiên phong, gương mẫu của đảng viên, làm cho kỉ luật của Đảng bị buông lỏng.
Để nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, cần tiếp tục nghiên cứu quán
triệt Chỉ thị 10-CT/TW và hướng dẫn của Trung ương gắn với kế hoạch của
từng Chi bộ cho phù hợp, sát tình hình thực tiễn. Các cấp ủy đảng trong lãnh
đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện phải thể hiện quyết tâm cao, coi trọng kiểm tra,

đôn đốc, hướng dẫn thực hiện; giữ vững các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng,
sinh hoạt cấp ủy, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ và các chế
độ sinh hoạt đảng theo Điều lệ Đảng; phát huy dân chủ, đề cao ý thức tổ chức
kỷ luật, tinh thần tự phê bình và phê bình. Chăm lo, củng cố, kiện toàn cấp
ủy đủ số lượng và nâng cao chất lượng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cấp ủy viên,
bí thư chi bộ nắm chắc các nguyên tắc trong sinh hoạt đảng và kỹ năng xử lý
tình huống; gắn nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ với thực hiện Cuộc vận
động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Phát huy vai trò
giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân đối với hoạt động chi bộ.

HVTT: Nguyễn Đức Thái

Trang 18


 Bài thu hoạch

GVHD: Nguyễn Văn Lĩnh

Chương III: các giải pháp đẩy mạnh về xây dựng đạo đức cách mạng
cho đội ngủ cán bộ, Đảng viên Đảng bộ xã Bình Định Bắc:
I. Các giải pháp của Đảng bộ xã Bình Định Bắc:
Mỗi Cán bộ, Đảng viên, Công chức, Viên chức phải xây dựng các tiêu chí
cụ thể như: Niềm nở với dân, gương mẫu trong lối sống, tiết kiệm trong chi
tiêu, tạo điều kiện để gần dân, ghi nhận và giải quyết thoả đáng những ý kiến
thắc mắc của dân; Đặc biệt là bản thân phải luôn luôn gương mẫu để dân noi
theo.
Phải tạo ra mặt chuyển biến mạnh thực sự, đưa cuộc vận động vào chiều
sâu, bằng các việc làm cụ thể, trọng tâm, tiếp theo các bài học từ Hồ Chí Minh
một cách nghiêm túc. Áp dụng sáng tạo, hiệu quả, không máy móc, cầu toàn,

nhưng phát triển một cách lôgích, khoa học.
Gắn cuộc vận động với những việc làm cụ thể, nâng cao trách nhiệm của
BCĐ, cấp uỷ và cá nhân. Lời nói phải đi đôi với việc làm, kịp thời biểu dương
những gương người tốt, việc tốt, uốn nắng những sai sót lịch lạc, rút kinh
nghiệm để giúp những cá nhân và đơn vị chậm tiến, biểu dương khen thưởng
kịp thời những cá nhân và đơn vị có thành tích xứng đáng.
II. Các giải pháp của người làm thu hoạch:
1. Phải coi trọng nhiệm vụ giáo dục cho cán bộ, đảng viên về đạo đức,
phẩm chất, lối sống.
2. Tăng cường vai trò, hiệu lực của kỷ luật Đảng và pháp luật của Nhà
nước, tập trung chỉ đạo đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí có hiệu
quả.
3. Tiếp tục đẩy mạnh Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nhất là
Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh".
4. Cần tăng cường tuyên truyền, học tập những tấm gương về đạo đức
cách mạng, xây dựng, bồi đắp cái tốt, cái đúng trong hành vi đạo đức, biểu
dương người tốt, việc tốt, lên án cái xấu, cái ác một cách cụ thể.
5. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát Đảng nhằm phát hiện những
sai phạm về thực hiện nhiệm vụ, về đạo đức lối sống của mỗi cán bộ, Đảng viên
để kịp thời uốn nắn, tạo sự chuyển biến tích cực trong đội ngủ cán bộ, Đảng
viên.
6. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
7. Nâng cao phẩm chất trí tuệ của Đảng, xây dựng, hoàn thiện đường lối
đổi mới, đề ra các chủ trương, giải pháp phù hợp cho giai đoạn phát triển mới.
8. Quan tâm đến công tác xây dựng Đảng, thực sự coi xây dựng Đảng lả nhiệm vụ
then chốt ở tất cả các cấp, các ngành.

HVTT: Nguyễn Đức Thái

Trang 19



 Bài thu hoạch

GVHD: Nguyễn Văn Lĩnh

PHẦN KẾT LUẬN
Trong thời kỳ phát triển mới hiện nay của cách mạng Việt Nam, Đảng ta
đã xác định: Phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt, xây
dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho văn hoá
trở thành nền tảng tinh thần của xã hội. Bất cứ một lĩnh vực nào của đời sống xã
hội, bất cứ một hoạt động nào của tổ chức và cá nhân một người, đạo đức cũng
thể hiện vai trò quan trọng của nó.
Qua 4 năm thực hiện cuộc vận động “học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh” đã tạo nên sự chuyển biến tích cực về nhận thức và hành
động của mỗi cán bộ, Đảng viên và nhân dân trong toàn xã. Qua đó các chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước được mọi tầng
lớp nhân dân đồng tình hưởng ứng, kế hoạch phát triển kinh tế - văn hóa – xã
hội, an ninh quốc phòng ở địa phương hằng năm đều đạt và vượt chỉ tiêu đề ra.
Sự chuyển biến tích cực hơn nữa là sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, thực
hiện tốt quy chế tập trung dân chủ ở cơ sở, công tác phê bình và tự phê bình
được phát huy.
Cuộc vận động “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”
đã làm cho mỗi cán bộ, Đảng viên trong Đảng bộ xã thật sự thấm nhuần đạo
đức cách mạng, đạo đức Hồ Chí Minh, từ đó mỗi cán bộ, Đảng viên trong Đảng
bộ tự hoàn thiện mình và luôn hoàn thành nhiệm vụ, không ngừng học hỏi,
quyết tâm suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp của Đảng, cho cách mạng, ra sức
làm việc, giữ vững kỷ luật Đảng. Đặt lợi ích của Đảng và nhân dân lên trên, lên
trước lợi ích của mình, hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, vì
Đảng quên thân vì dân phục vụ, góp phần xây dựng Đảng bộ xã trong sạch

vững mạnh.
Là một cán bộ, Đảng viên Đảng cọng sản Việt Nam, đặc biệt là Đảng
viên trẻ, được học tập cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức
của Bác, bản thân tôi luôn ý thức được trách nhiệm của mình. Là cán bộ, Đảng
viên tôi luôn luôn trao dồi đạo đức cách mạng, không ngừng phấn đấu, học hỏi
nâng cao trình độ, năng lực, phẩm chất, gương mẫu, sáng tạo, … sống có tình
có nghĩa, nói đi đôi với làm, chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, đặc biệt là hết
lòng hết sức phụng sự tổ quốc, phục vụ nhân dân.

 

HVTT: Nguyễn Đức Thái

Trang 20



×